Kinh Pháp Bảo Đàn - Tào Khê Nguyên Bản giảng ký

18/03/2020 | Lượt xem: 4

YẾU CHỈ TÀO KHÊ

 

     Anh thấy chăng!

           Từ trước An Tâm chẳng thể tìm,

           Tiếp theo Tánh Tội bặt nghĩ xem,

           Cho đến Bồ-đề không có cội,

           Không chữ và thêm chẳng có tên.

     Rồi kìa!

           Tám tháng ở chùa không ai dạy,

           Bỗng vào thất Tổ được truyền y,

           Kim Cang Bát Nhã chưa từng học,

           “Đâu ngờ” la lớn ngộ cái gì?

 

           Thế rồi! Đêm vắng vội qua sông,

           Hơn chục năm dài ẩn biệt tăm,

           Bỗng nhiên! Gió phướn bày tung tích,

           Vàng ngói rõ ràng không thể lầm.

     Lạ thay!

           Mù chữ thế nhưng chữ chẳng mù,

           Nói pháp suốt qua chữ nghĩa ngu,

           Bao nhiêu văn tự nào che được,

           Một tánh sáng tròn Tổ Tổ thu.

 

           Tào Khê một giọt thuần chảy khắp,

           Giọt giọt chỉ là một giọt thôi,

           Ai bảo kia đây còn có khác,

           Cửa Tổ với anh đóng kín rồi!

     Hay thay!

           Tổ ấn thầm trao người khó lấy,

           Cố tìm để lấy, lấy rỗng suông,

           Bởi thế lo gì tranh được mất,

           Vô thường trong ấy vẫn thường luôn.

 

           Chớ đem tài giỏi phân chia đó,

           Bắt chước làm sao đến chỗ này,

           Dù ai học được không người sánh,

           Nhưng có học thì bị tuột ngay!

     Quả thật!

           Thừa này chính đấy thừa Tối thượng,

           Thẳng tắt ngay đây khỏi dài dòng,

           Ai còn chưa rõ thì xin hãy,

           Hỏi lấy chính mình thế là xong!

           Thế là xong!

     Chần chừ ba gậy tặng vào hông!

 

Thiền viện Trúc Lâm

Mùa An cư năm Kỷ Hợi 2019

Thích Thông Phương

  • 1. SƠ LƯỢC KINH PHÁP BẢO ĐÀN VÀ PHẦN LƯU TRUYỀN


    Kinh Pháp Bảo Đàn nói đủ là Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh, gọi tắt là Đàn Kinh, do Lục Tổ Huệ Năng (638-713, thế kỷ VII-VIII) thuyết giảng, đệ tử là Ngài Pháp Hải tập hợp và ghi lại thành sách. Theo thông thường, bài giảng của các vị Tổ được ghi lại gọi là “luận giảng” chứ không gọi là “kinh”, “kinh” là chỉ những lời dạy của đức Phật do đệ tử ghi lại. Đây là trân trọng đặc biệt đối với Pháp Bảo Đàn. Lục Tổ nói pháp lời lẽ rất giản dị nhưng ý nghĩa lại sâu xa.

    Lâu nay chúng ta thường học thường đọc bản phổ thông của kinh Pháp Bảo Đàn, hôm nay học ngay bản Tào Khê Nguyên Bản. Do Lục Tổ sống vào thời Đường, từ đó truyền đến nay trải qua thời gian lâu xa nên có rất nhiều bản, mỗi bản đều có tu chỉnh, sai biệt với nhau.

    Theo các vị sưu tầm thì Đàn Kinh có trên 10 bản:

        01. Bản Đôn Hoàng, là bản chép tay, được phát hiện ở động Đôn Hoàng, bản này là xưa nhất nhưng ngắn gọn và không có chia các phẩm mục. Tên bản này là Nam Tông Đốn Giáo Tối Thượng Đại Thừa Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư Ư Thiều Châu Đại Phạm Tự Thí Pháp Đàn Kinh. (tức là Nam Tông Đốn Giáo Tối Thượng Thừa, nói về pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, Kinh do Lục Tổ Huệ Năng Đại Sư nơi chùa Đại Phạm, Thiều Châu bố thí pháp)

        02. Bản Huệ Hân (năm 967)

        03. Bản Thiều Hồi (năm 1013)

        04. Lục Tổ Đại Sư Pháp Bảo Đàn Kinh Tào Khê Nguyên Bản, gọi tắt là Tào Khê Nguyên Bản (bản đang học).

        05. Bản Tồn Trung (năm 1116)

        06. Bản Bắc Tống (năm 1153)

        07. Bản Đại Thừa Tự và Bản Hưng Thánh Tự ở Nhật Bản

        08. Bản Đức Dị (năm 1290)

        09. Bản Tông Bảo (năm 1291). Do Hòa thượng Tông Bảo ở chùa Quang Hiếu, Quảng Châu, Ngài soạn, tu chỉnh, cải biên, đây là bản lưu thông rộng rãi, là bản thường học thường đọc lâu nay, gọi là bản phổ thông.

        10. Bản Minh Nam Tạng

    Trong bản Đôn Hoàng có một đoạn ghi: “Đàn Kinh này do Thượng tọa Pháp Hải biên tập. Khi tịch Thượng tọa giao lại người bạn đồng học là Ngài Đạo Xán, Ngài Đạo Xán qua đời giao cho đệ tử là Ngộ Chơn. Ngộ Chơn hiện giờ đang truyền thọ giáo pháp này ở chùa Pháp Hưng núi Tào Khê thuộc Lãnh Nam”. “Hiện giờ” là lúc đang chép quyển Đàn Kinh Đôn Hoàng, không phải hiện nay của chúng ta. 

    Ngài Pháp Hải (650-730) là đệ tử Lục Tổ, dự trong pháp hội của Tổ. Sư người quê ở Khúc Giang, Quảng Đông, họ Trương, tự là Văn Duẫn. Xuất gia ở chùa Hạc Lâm, sau đến gặp Lục Tổ hỏi về Tức Tâm Tức Phật mà được khai ngộ, rồi theo gần gũi với Tổ. Sau Sư đến trụ trì chùa bảo Trang Nghiêm ở Quảng Châu.

    Đàn Kinh bản Đôn Hoàng chỉ chia thành 57 đoạn. Bản Tông Bảo mà lâu nay mọi người thường đọc thì nhiều gần gấp đôi bản Đôn Hoàng, và có chia làm 10 phẩm:

        Phẩm 01: Hành Do

        Phẩm 02: Bát Nhã

        Phẩm 03: Nghi Vấn

        Phẩm 04: Định Huệ

        Phẩm 05: Tọa Thiền

        Phẩm 06: Sám Hối

        Phẩm 07: Cơ Duyên

        Phẩm 08: Đốn Tiệm

        Phẩm 09: Tuyên Chiếu

        Phẩm 10: Phó Chúc.

    Tào Khê Nguyên Bản thì khác tên phẩm, nhưng cũng chia thành 10 phẩm:

        Phẩm 01: Ngộ Pháp Truyền Y

        Phẩm 02: Thích Công Đức Tịnh Độ (giải thích về công đức Tịnh Độ)

        Phẩm 03: Định Huệ Nhất Thể

        Phẩm 04: Giáo Thọ Tọa Thiền (truyền dạy về tọa thiền)

        Phẩm 05: Truyền Hương Sám Hối

        Phẩm 06: Tham Thỉnh Cơ Duyên

        Phẩm 07: Nam Đốn Bắc Tiệm

        Phẩm 08: Đường Triều Trưng Chiếu

        Phẩm 09: Pháp Môn Đối Thị

        Phẩm 10: Phó Chúc Lưu Thông

    Kinh Pháp Bảo Đàn là bộ kinh rất quan trọng trong Thiền Tông. Giai đoạn đầu, khi truyền pháp phải truyền thêm bộ Đàn Kinh mới gọi là chính truyền. Trong từ điển Phật Quang nhận xét: “Thiền Tông đời Đường chẳng những đổi mới về Phật học mà còn khơi nguồn cho lý học đời Tống. Đức Lục Tổ là nhân vật then chốt trong cuộc chuyển biến lớn lao này. Vì thế Đàn Kinh là một tác phẩm vĩ đại chuyển xoay toàn bộ tư tưởng truyền thống”.

    Từ Lục Tổ, Thiền Tông Trung Hoa tiến tới một bước chuyển biến lớn lao, các nhà nghiên cứu gọi là Trung Quốc hóa. Tiếp sau Lục Tổ chuyển biến thành Ngũ gia, Thất tông. Ngũ gia (năm nhà): Lâm Tế, Tào Động, Pháp Nhãn, Quy Ngưỡng, Vân Môn; kể cả hai nhánh của tông Lâm Tế là phái Dương Kỳ và phái Hoàng Long thành ra bảy tông.

    ***

    Yếu chỉ Đàn Kinh nêu rõ tự tâm là Phật, ngộ là ngộ ngay tự tâm không ở nơi văn tự, thế nên lời thuyết pháp của Lục Tổ rất giản dị. Ngài xiển dương tinh thần đốn ngộ, kiến tánh thành Phật vượt qua thứ lớp, đó là tinh thần của Pháp Bảo Đàn Kinh.

    Trong kinh Pháp Bảo Đàn, có đoạn Lục Tổ nói: “Một niệm ngu là Bát-nhã dứt, một niệm trí là Bát-nhã sanh.” Ngay một niệm chứ không đâu xa hết. “Mê thì nghe trải qua nhiều kiếp, ngộ thì ắt khoảng sát-na.”Mê thì trải vô lượng kiếp, nhưng ngộ thì ngay trong khoảng sát-na tích tắc, gọi là vượt qua thứ lớp.

    Lục Tổ đề cao kinh Kim Cang Bát Nhã. Ngài chỉ ra ba môn đặc biệt của Pháp Bảo Đàn gọi là Tam Vô:

        - Lấy Vô Tướng làm thể

        - Lấy Vô Trụ làm gốc

        - Lấy Vô Niệm làm tông (tức tông chỉ)

    Lục Tổ là người không biết chữ, nhưng trí tuệ rất bén nhạy, nghe người khách tụng kinh Kim Cang liền tỏ ngộ, sáng tỏ được ý kinh. Trong khi những người biết chữ nhiều, đọc kinh Kim Cang không biết bao lần mà không tỏ ngộ. Chính vì vậy, ngôn từ thuyết pháp của Lục Tổ rất giản dị, không cầu kỳ, không văn chương bóng bẩy, không có tính cách học giả, nhưng nghĩa lý cao sâu, sáng sủa. Điều đó cũng ngầm đánh thức cho người học là không mắc kẹt trên chữ nghĩa văn tự. Ngài Thần Tú từng bảo với môn đồ: “Vị ấy được trí vô sư, ngộ sâu thượng thừa, ta chẳng bằng.” Ngài Thần Tú chữ nghĩa văn chương rất giỏi, nhưng Ngài cảm phục, chân tình nói Lục Tổ được cái trí vô sư, nên ngộ sâu thượng thừa mà không phải qua ngôn ngữ chữ nghĩa.

    Trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ cũng từng bảo: “Tôi ở chỗ Hòa thượng Nhẫn, vừa nghe ngay lời nói liền tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân nhưDo đó tôi đem giáo pháp này truyền ra khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề. Ngài vừa nghe là chóng tỏ ngộ, thấy được bản tánh chân như, tức không mắc kẹt nơi ngôn ngữ, thấy được ý vượt ngoài lời nói. Chính Ngài tỏ ngộ nhanh nên Ngài truyền ra giáo pháp đó để người học cũng chóng được ngộ Bồ-đề, tức truyền pháp đốn ngộ.

    Cũng trong Đàn Kinh có đoạn Tổ nói với cô ni Vô Tận Tạng:

    Người ni tên Vô Tận Tạng thường tụng kinh Đại Bát Niết Bàn, Lục Tổ nghe qua, vì cô ni giải nói nghĩa lý. Cô ni cầm quyển kinh hỏi chữ.

    Tổ bảo:

    - Chữ thì không biết, nghĩa xin mời hỏi.

    Cô ni nói:

    - Chữ còn không biết, sao có thể hiểu nghĩa?

    Tổ bảo:

    - Diệu lý của chư Phật chẳng quan hệ đến văn tự.

    Cô ni nghe qua kinh lạ, bảo với khắp hàng kỳ đức trong thôn rằng:

    - Đây là bậc tu sĩ có đạo, nên thỉnh cúng dường.

    Theo thường tình của thế gian, không biết chữ thì làm sao biết nghĩa, cho nên nhiều người thế gian hơi khinh thường người không biết chữ. Đây cũng để đánh thức cho mọi người không được xem thường, bởi diệu lý tức lý nhiệm mầu của chư Phật không dính dáng không nằm trên văn tự. Chúng ta học kinh Pháp Bảo Đàn cần phải hiểu sâu đến nghĩa chân thật mà không mắc kẹt trên văn tự chữ nghĩa, như vậy mới khéo hợp với ý Tổ, đó cũng chính là ý thiền, vì Thiền Tông là bất lập văn tự.   

     

     

  • 2. SƠ LƯỢC VỀ SỰ TÍCH LỤC TỔ HUỆ NĂNG (Theo phần ngoại ký về duyên khởi)


    Sư tên Huệ Năng, cha là Lư Hành Thao, mẹ họ Lý, sanh ra Sư vào đời Đường niên hiệu Trinh Quán thứ 12 (năm 638, thế kỷ VII), nhằm giờ Tý ngày mùng 8 tháng 2. Lúc ấy hào quang sáng chiếu thẳng lên bầu trời, mùi hương lạ đầy nhà. Sáng hôm sau có hai vị tăng lạ đến xin gặp người cha của Sư và nói với người cha:


    - Đứa bé vừa sanh đêm qua, chính vì đặt tên nên mới đến đây. Xin hãy đặt tên là Huệ Năng.

    Người cha hỏi:

    - Sao gọi là Huệ Năng?

    Hai vị tăng đáp:

    - Huệ là đem pháp ban cho chúng sanh, Năng là hay làm việc Phật, nên gọi là Huệ Năng.

    Nói xong, hai vị tăng liền đi ra cửa.

    Sư không uống sữa mẹ, ban đêm được thần nhân đem cam lồ rót cho. Năm 20 tuổi, nghe kinh được ngộ đạo, qua Hoàng Mai cầu ấn khả. Ngũ Tổ gặp thầm nhận, trao y pháp khiến nối tiếp Tổ vị làm Tổ thứ sáu, bấy giờ là niên hiệu Long Sóc năm đầu đời Đường (năm 661).

    Sau đó Sư trở về Nam ẩn náu 16 năm (có chỗ ghi 15 năm). Đến ngày mùng 8 tháng giêng năm đầu của niên hiệu Nghi Phụng (năm 676), gặp Pháp sư Ấn Tông gạn hỏi bàn về những nghĩa lý sâu xa, Ấn Tông khế ngộ ý chỉ của Sư. Ngày rằm tháng giêng, Ấn Tông họp cả bốn chúng làm lễ cạo tóc xuất gia cho Sư.

    Đến ngày mùng 8 tháng 2 lại nhóm họp các bậc danh đức để truyền trao giới Cụ túc, Luật sư Trí Quang ở Tây Kinh làm Thầy truyền giới (tức làm Hòa thượng truyền giới), Luật sư Tuệ Tĩnh ở Tô Châu làm Yết-ma, Luật sư Thông Ứng ở Kinh Châu làm Giáo thọ, Luật sư Kỳ-đa-la ở Trung Thiên Trúc làm Thầy thuyết giới, Luật sư Mật-đa ở Tây Trúc làm Chứng giới.

    Sư đến đây mới cạo tóc, thọ giới, rồi chỉ bày yếu chỉ của pháp cho bốn chúng gọi là pháp riêng truyền (pháp Thiền Tông gọi là pháp riêng truyền, truyền ngoài kinh điển, chữ nghĩa, tức là tâm truyền tâm).

    Mùa xuân năm kế, Sư từ giã chúng về chùa Bảo Lâm. Khi đó Pháp sư Ấn Tông cùng với những hàng tăng tục hơn cả ngàn người đồng đưa tiễn Sư đi thẳng về Tào Khê. Lúc đó có Luật sư Thông Ứng ở Kinh Châu cùng với mấy trăm người tu học đồng đi theo về nương ở với Sư.

    Sự ra đời của Lục Tổ có những điềm lạ khác thường. Ngài quả là nhục thân Bồ-tát, bậc Bồ-tát tái lai. Không biết chữ mà làm Tổ! Đây là trường hợp hy hữu, giờ không dễ tìm được người như vậy.

    Trong thời gian 16 năm ẩn náu với nhóm thợ săn, Ngài ăn rau bên thịt, tức luộc rau trong nồi thịt. Đến khi ra chùa Pháp Tánh gặp lúc Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Đại Niết Bàn, Tổ nghe hai vị tăng bàn luận về phướn động, gió động mới vì giải nói, nhân đó Pháp sư Ấn Tông gạn hỏi về nghĩa lý sâu xa, khế ngộ ý chỉ của Sư, rồi họp cả bốn chúng làm lễ cạo tóc xuất gia cho Sư. Như vậy khi Tổ được truyền y bát là còn cư sĩ, đó là sự đặc biệt. Sau đó Pháp sư Ấn Tông nhóm họp các bậc danh đức để truyền trao giới Cụ túc. Đến đây Ngài mới được thọ giới Cụ túc, chính thức trở thành bậc Tỳ-kheo xuất gia.

    Giới đàn mà Lục Tổ thọ được sấm ký từ trước.

    Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la, người Trung Thiên Trúc qua Trung Hoa vào triều Lưu Tống (triều Lưu Tống do Lưu Dụ thành lập, tồn tại khoảng 420-479, trước Triều Tống sau này). Ngài Cầu-na-bạt-đà-la tại đây dựng lập giới đàn này và dựng bia ghi sấm ký: “Sau này sẽ có vị nhục thân Bồ-tát thọ giới tại đây.”

    Một sấm ký khác:

    Năm đầu niên hiệu Thiên Giám đời Lương, tức vua Lương Võ Đế (năm 502), Ngài Tam Tạng Trí Dược từ nước Tây Trúc đi thuyền vượt biển đến đây, mang theo một cây Bồ-đề trồng bên cạnh giới đàn, khắc lời dự ký: “170 năm sau có nhục thân Bồ-tát ở dưới cây này diễn bày pháp thượng thừa độ vô lượng chúng, là vị pháp chủ chân truyền tâm ấn Phật.”

    Như vậy rõ ràng Lục Tổ không phải người thường, đây cũng là ý nghĩa để phát xuất kinh Pháp Bảo Đàn sau này. Lâu nay chúng ta nghe Pháp Bảo Đàn Kinh đôi khi không biết vì sao gọi như thế. Pháp Bảo Đàn Kinh, là từ nơi Giới đàn này diễn bày pháp bảo.

    Lục Tổ ở Giới đàn này cạo tóc, thọ giới, diễn bày pháp truyền tâm, đúng với lời sấm ký trước kia. Từ thời Ngài Tam Tạng Trí Dược là đầu năm Thiên Giám (năm 502), đến khi Lục Tổ thọ giới đàn này là đầu năm Nghi Phụng (năm 676), cách nhau khoảng 174 năm, Ngài Trí Dược dự ghi 170 năm, là gần tương xứng, hợp với lời huyền ký trước.

    Tổ từ chùa Pháp Tánh về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê (ngày nay là chùa Nam Hoa), Luật sư Thông Ứng ở bên Luật, do cảm kích Lục Tổ nên cùng với mấy trăm người đồng học theo về nương ở với Lục Tổ.

    Khi Lục Tổ về đến chùa Bảo Lâm Tào Khê, xem thấy phòng nhà ở đây chật hẹp không đủ chứa chúng, Ngài muốn mở rộng thêm nên đến gặp một người giàu trong làng tên Trần Á Tiên, Tổ nói:

    - Lão Tăng đến thí chủ mong cho một tọa cụ đất có được chăng?

    Trần Á Tiên hỏi:

    - Tọa cụ của Hòa thượng rộng bao nhiêu?

    Lục Tổ đưa tọa cụ ra, Trần Á Tiên thấy tọa cụ chỉ rộng vài tấc nên đồng ý cho đất.

    Nhưng khi Lục Tổ trải tọa cụ ra thì trùm cả Tào Khê, có bốn vị Thiên Vương hiện thân ngồi trấn bốn phương (do sự tích này, ngày nay ở chùa Nam Hoa có ngọn núi gọi là ngọn Thiên Vương). Trần Á Tiên biết Lục Tổ là bậc đạo đức rất lớn nên cảm phục nói:

    - Đã biết pháp lực của Hòa thượng rộng lớn, nhưng mộ phần của cao tổ tôi đều nằm trong đất này, ngày khác nếu có tạo tháp mong hãy giữ lại cho, ngoài ra tôi xin nguyện xả hết để mãi làm tự viện.

    Ông nói thêm:

    - Song đất này chính là đất sanh long bạch tượng lai mạch, chỉ có thể bình thiên mà không thể bình địa.

    Về sau, khi xây dựng chùa đều làm đúng lời ông.

    Bình thiên không bình địa nghĩa là bình trên trời không bình dưới đất. Khi xây cất thì ở chỗ cao nên làm thấp xuống, chỗ thấp nên nâng cao lên, chứ không san bằng hoặc đào khoét núi đá làm tổn thương những mạch núi.

    Thường Sư hay đi dạo chơi trong khu vực vườn chùa, những nơi nào thấy cảnh trí non nước tốt đẹp liền dừng lại nghỉ ngơi. Những nơi Lục Tổ dừng lại sau làm thành mười ba nơi Lan Nhã, thuộc về chùa (nay gọi là Hoa Quả Viện).

    Nguyên nơi đạo tràng Bảo Lâm, khi trước do Ngài Tam Tạng Trí Dược ở nước Tây Thiên Trúc, từ Nam Hải đi qua cửa Tào Khê, lấy tay vốc nước uống, cảm thấy thơm ngọt lạ thường, bèn bảo những môn đồ đi theo rằng:

    - Nước này không khác gì nước ở Tây Thiên, ở trên nguồn suối này hẳn là có nơi thắng địa đáng là nơi tu hành.

    Ngài lần theo dòng suối đi lên đến tận nguồn, nhìn khắp bốn phía thấy núi non xoay quanh, ngọn này liền với ngọn kia, Ngài khen:

    - Không khác gì núi Bảo Lâm ở Tây Thiên.

    Ngài xuống gặp dân chúng ở thôn Tào Hầu, nói rằng:

    - Hãy nên dựng một ngôi chùa ở núi này, 170 năm sau sẽ có Vô Thượng Pháp Bảo chuyển hóa ở nơi đây, người được đạo như rừng nên lấy tên là Bảo Lâm (rừng báu).

    Quan Mục Thiều Châu thuở ấy là Hầu Kính Trung đem lời của Ngài Trí Dược soạn biểu tâu lên vua (tức vua Lương Võ Đế, được gọi là vua Phật vì rất ủng hộ Phật pháp, cũng thường giảng kinh. Trong tư liệu ghi “có lần vua giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã được trời mưa hoa, mưa cam lồ”). Vua thuận theo lời xin, ban cho hiệu là Bảo Lâm, thành ngôi chùa Phật. Việc ấy khởi đầu từ năm Thiên Giám thứ ba triều Lương (năm 504).

    Trước chánh điện chùa có cái đầm lớn, có con rồng ẩn hiện quấy động cây rừng. Một hôm con rồng này hiện hình rất lớn làm sóng dậy ầm ầm, mây mù che mờ mịt, làm đồ chúng rất sợ. Lục Tổ quở to:

    - Ngươi chỉ giỏi hiện thân lớn mà chẳng hay hiện thân nhỏ, nếu là rồng thần thì phải hay biến hóa, từ nhỏ hiện lớn được, từ lớn cũng hiện nhỏ được.

    Ngài nói xong, rồng lặn mất, thoắt hiện thân nhỏ lại nhảy ra trước mặt đầm. Lục Tổ mở cái bát ra thách nó:

    - Ngươi có dám vào trong bát của Lão Tăng này không?

    Nó liền hăm hở bơi tới trước bát, Lục Tổ lấy cái bát úp lại, con rồng chẳng cựa quậy gì được nữa. Lục Tổ cầm bát trở về chùa, vì rồng nói pháp. Rồng lột xác đi để lại bộ xương dài bảy tấc (tấc Tàu), đầu, đuôi, sừng, chân đều đủ cả, vẫn để ở chùa, đến thời Nguyên bị thất lạc vì chiến tranh. Về sau, Lục Tổ cho đem đất đá lấp cái đầm đó.

    Cuộc đời của Lục Tổ Huệ Năng có những điểm đặc biệt vượt hơn những người thường. Dù rằng Ngài còn trẻ, ở nhà quê, là cư sĩ, lại không biết chữ, mà được truyền y bát làm Tổ cả một dòng Thiền lớn. Cho nên nhiều người không chấp nhận. Trong tư liệu ghi lại, ngay những hàng đệ tử môn đồ của Ngài Thần Tú cũng chê, nói: “Tổ sư miền Nam không biết chữ có gì là quý!”, nhưng Ngài Thần Tú nói: “Vị ấy được trí vô sư, lại được chính Ngũ Tổ truyền y bát, chuyện đó không phải tầm thường”. Ngài Thần Tú hiểu được nhưng đệ tử của Ngài không chấp nhận được.

    Cũng vì vậy, khi Lục Tổ tịch đã để lại nhục thân cho mọi người đầy đủ niềm tin. Nhục thân của Ngài đến nay vẫn còn, nếu không thì có lẽ ngày nay cũng còn nhiều người xuyên tạc.

    Đó là nói qua về nhân duyên của Lục Tổ từ khi ra đời cho đến khi về ở chùa Bảo Lâm tại Tào Khê.

    ***

     

     

  • 3. Phẩm 01 - NGỘ PHÁP TRUYỀN Y

     

    CHÁNH VĂN:

    Bấy giờ Đại sư đến chùa Bảo Lâm, Thích sử Thiều Châu là Vi Cừ cùng quan liêu vào núi thỉnh Sư ra tại giảng đường chùa Đại Phạm vì chúng mở bày duyên pháp nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

    Sư thăng tòa, Thích sử và quan liêu hơn 30 người, hàng học sĩ bên Nho hơn 30 người, hàng Tăng Ni và cư sĩ hơn 1000 người, đồng thời làm lễ nguyện nghe pháp yếu. Đại sư bảo chúng:

    - Này thiện tri thức! Hết thảy hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

    Đại sư im lặng giây lâu, bảo chúng:

    - Này thiện tri thức! Tự tánh Bồ-đề xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm này, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật. Này thiện tri thức! Hãy lắng nghe tóm tắt về nguồn gốc thân thế và việc đắc pháp của Huệ Năng. Cha của Năng quê quán tại Phạm Dương (Hà Bắc), bị giáng chức đày ra Lĩnh Nam, làm thường dân ở Tân Châu. Thân này chẳng may cha lại mất sớm, mẹ góa con côi, dời đến Nam Hải, gian khó nghèo khổ, thường ra phố bán củi. Một hôm có người khách mua củi bảo gánh đến tiệm của khách. Khách thu củi xong, Năng nhận tiền, rồi đi ra ngoài cửa, gặp một người khách tụng kinh “Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”, Năng vừa nghe qua lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, bèn hỏi người khách tụng kinh gì? Khách bảo: “Kinh Kim Cang”. Lại hỏi thêm: “Từ đâu đến mà trì kinh này?” Khách bảo: “Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu đến đây. Chùa ấy hiện do Ngũ Tổ Đại sư Nhẫn làm chủ giáo hóa, đệ tử Ngài có hơn ngàn người. Tôi đến trong đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư thường khuyên trong hàng tăng, tục, chỉ trì kinh Kim Cang tức tự thấy tánh, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật”.

    Năng nghe nói, nhờ có duyên từ đời trước, bèn được một người khách lấy mười lạng bạc cho Năng để giúp nuôi dưỡng mẹ già và bảo hãy qua Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ.

    Năng sắp đặt cho mẹ xong, liền từ giã ra đi, chẳng hơn ba mươi ngày thì tới Hoàng Mai, lễ Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi Năng:

    - Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì? 

    Năng đáp:

    - Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu, thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu cái gì khác.

    Tổ bảo:

    - Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ, làm sao kham làm Phật?

    Năng thưa:

    - Người tuy có Nam có Bắc, Phật tánh vốn không Nam Bắc. Thân mọi rợ này chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác!

    Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng thảy ở bên cạnh, mới bảo theo chúng làm việc. Tôi thưa:

    - Huệ Năng kính bạch Hòa thượng, đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?

    Tổ bảo:

    - Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ nói nữa, hãy xuống nhà sau đi!

    Huệ Năng lui xuống hậu viện. Có một hành giả sai Năng bửa củi, đạp chày giã gạo, hơn tám tháng. Một hôm Tổ chợt gặp Năng, bảo:

    - Ta nghĩ cái thấy của ngươi đáng dùng được, song e có kẻ xấu hại ngươi, mới chẳng cho ngươi nói, ngươi có biết chăng?

    Năng thưa:

    - Đệ tử cũng biết ý Thầy, chẳng dám đi đến nhà trên để cho người chẳng biết.

    Một hôm, Tổ gọi hết thảy trong hàng đệ tử đến bảo:

    - Ta nói cho các ông rõ, đời người, sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử. Nếu tự tánh đã mê, phước điền đâu thể cứu! Mỗi người trong các ông hãy đi tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y, pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu. Hãy gấp rút, nhanh đi, chẳng được chậm trễ! Nghĩ ngợi tức chẳng trúng dùng. Người thấy tánh cần ngay lời nói liền thấy. Nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy. 

    Chúng được sai bảo rồi, liền lui về lần lượt bảo nhau:

    - Mỗi người chúng ta chẳng cần lắng tâm dụng ý làm kệ đem trình Hòa thượng, đâu có ích gì! Thượng tọa Thần Tú hiện đang là thầy giáo thọ, chắc hẳn Ngài sẽ được, bọn ta có dối làm kệ tụng cũng uổng dụng tâm lực thôi.

    Mọi người nghe nói, thảy đều hết tưởng mong, đồng bảo: “Chúng ta sau này sẽ nương tựa với thầy Tú, đâu nhọc làm kệ cho mệt!”.

    Thần Tú suy nghĩ: “Mọi người chẳng trình kệ, vì ta là thầy giáo thọ của họ, ta cần phải làm kệ đem trình Hòa thượng. Nếu chẳng trình kệ, Hòa thượng làm sao biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta là cạn hay sâu. Ta trình kệ, ý trong đó vì cầu pháp là tốt, còn mong tìm làm Tổ là xấu, lại đồng với tâm phàm muốn đoạt ngôi Thánh kia đâu khác. Nếu ta chẳng trình kệ thì trọn chẳng được pháp. Rất khó! Rất khó!”.

    Trước nhà của Ngũ Tổ có hành lang ba gian, Tổ định mời quan Cung phụng Lư Trân vẽ tranh “Lăng Già biến tướng” và “Ngũ Tổ huyết mạch đồ” để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ xong, mấy lần muốn trình, vừa đi đến trước nhà trên, trong tâm hồi hộp, toàn thân xuất mồ hôi, toan trình mà chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày mà mười ba lần trình kệ chẳng được. Thần Tú bèn suy nghĩ: “Chi bằng chép ở phía dưới vách hành lang, tùy Hòa thượng có xem thấy, nếu chợt bảo là hay, ta bèn ra lễ bái, nói là của Tú làm; nếu nói chẳng kham thì uổng cho ta mấy năm ở trong núi chịu người lễ bái, trọn tu đạo gì?”.

    Đêm ấy, vào canh ba Sư chẳng cho ai biết, tự cầm đèn chép bài kệ nơi vách hành lang phía nam để tỏ bày chỗ thấy trong tâm.

    Bài kệ:

         Thân là cây Bồ-đề,

         Tâm như đài gương sáng.

         Luôn luôn siêng lau chùi,

         Chớ để dính bụi nhơ.

    Âm:

           Thân thị Bồ-đề thọ,

           Tâm như minh cảnh đài.

           Thời thời cần phất thức,

           Vật sử nhạ trần ai.

    Thần Tú viết bài kệ xong, liền trở về phòng, không ai biết. Sư lại suy nghĩ: “Sáng mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng, tức ta có duyên với pháp. Nếu như chẳng kham tự là ta mê mờ, nghiệp chướng đời trước sâu nặng, chẳng khế hợp được pháp, Thánh ý khó nghĩ lường”.

    Ở trong phòng, Sư cứ nghĩ tưởng, ngồi nằm chẳng yên, suốt tới canh năm.

    Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh. Sáng ngày, Tổ gọi quan Cung phụng họ Lư tới vẽ đồ tướng nơi vách hành lang phía nam. Tổ chợt thấy bài kệ ấy, bèn nói với quan Cung phụng:

    - Thôi, chẳng cần vẽ, thực nhọc ngài từ xa tới. Kinh nói: “Hễ cái gì có tướng đều là hư dối”, chỉ giữ lại bài kệ này cho người tụng trì, nương theo bài kệ này tu hành sẽ chẳng rơi vào đường ác, nương theo bài kệ này tu hành sẽ được lợi ích lớn.

    Tổ bảo môn nhân thắp hương lễ bái, trọn tụng bài kệ này tức sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều khen: “Hay quá!”.

    Canh ba, Tổ gọi Thần Tú vào phòng, hỏi:

    - Có phải ông làm bài kệ ấy chăng?

    Thần Tú thưa:

    - Quả thật con làm, chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?

    Tổ bảo:

    - Ông làm bài kệ này, chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa chưa vào trong cửa. Thấy hiểu như thế mà mong tìm Vô thượng Bồ-đề trọn không thể được. Vô thượng Bồ-đề cần ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, ở trong tất cả thời niệm niệm luôn tự thấy, muôn pháp không làm ngưng trệ. Một chân thì tất cả chân, muôn cảnh tự như như. Tâm như như tức là chân thật. Nếu thấy như thế tức là tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi về suy nghĩ một hai ngày, rồi làm một bài kệ khác đem đến đây cho ta xem. Nếu bài kệ của ông vào cửa được, ta sẽ trao phó y pháp cho ông.

    Thần Tú làm lễ rồi lui ra. Trải qua mấy ngày, Sư làm kệ chẳng xong. Trong tâm hồi hộp, tinh thần không yên, giống như trong mộng, đi ngồi chẳng vui.

    Thêm hai ngày nữa, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo, xướng tụng bài kệ ấy. Năng vừa nghe, liền biết bài kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được chỉ dạy mà đã sớm biết đại ý, liền hỏi chú bé:

    - Tụng đó là bài kệ gì?

    Chú bé đáp:

    - Ông mọi này, chẳng biết Đại sư bảo: “Đời người, sanh tử là việc lớn, muốn được có người để truyền trao y pháp, mới bảo môn nhân làm kệ đến trình cho Ngài xem, nếu ngộ đại ý tức sẽ trao y pháp, làm Tổ thứ sáu”. Thượng tọa Thần Tú đã chép bài kệ này nơi vách hành lang phía nam. Đại sư bảo mọi người đều đọc thuộc, nương bài kệ này tu hành sẽ khỏi rơi vào đường ác.

    Năng nói:

    - Tôi cũng cần tụng bài kệ này để kết duyên đời sau đồng sanh nơi đất Phật. Thượng nhân! Tôi tới đây đạp cối giã gạo hơn tám tháng rồi, chưa từng đi lên nhà trên. Mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ làm lễ.

    Chú bé dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ làm lễ. Năng nói:

    - Năng chẳng biết chữ, xin thượng nhân đọc dùm.

    Lúc đó, có quan Biệt giá ở Giang Châu là Trương Nhật Dụng liền đọc to lên. Năng nghe xong, bèn nói mình cũng có một bài kệ, mong quan Biệt giá chép dùm. Quan Biệt giá nói:

    - Người mọi, ông cũng làm kệ nữa à, việc ấy hiếm có.

    Năng nói với quan Biệt giá:

    - Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học. Người dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý trí, nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội.

    Quan Biệt giá nói:

    - Ông hãy đọc kệ, tôi chép cho ông. Nếu ông đắc pháp, phải độ tôi trước, chớ quên lời này nhé!

    Năng đọc kệ:

         Bồ-đề vốn không cội,

         Gương sáng chẳng phải đài.

         Xưa nay không một vật,

         Chỗ nào dính bụi đây!

    Âm:

         Bồ-đề bổn vô thọ,

         Minh cảnh diệc phi đài.

         Bản lai vô nhất vật,

         Hà sử nhạ trần ai!

    Chép bài kệ xong, đồ chúng thảy giật mình, ai nấy cũng hít hà, cùng bảo nhau: “Lạ thay! Chẳng được lấy tướng mạo mà đoán người. Đâu ngờ lâu nay đã sai khiến nhục thân Bồ-tát!”.

    Tổ thấy mọi người kinh lạ, sợ có kẻ làm hại Năng, bèn lấy giày chà hết bài kệ, bảo:

    - Cũng chưa thấy tánh.

    Mọi người dừng hết nghi ngờ.

    Ngày hôm sau, Tổ thầm đến nơi giã gạo gặp Năng lưng đeo đá giã gạo, Ngài nói:

    - Người cầu đạo vì pháp quên thân, phải như thế sao!

    Rồi hỏi:

    - Gạo trắng chưa?

    Năng thưa:

    - Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.

    Tổ lấy gậy gõ vào cối ba cái, rồi đi. Năng hiểu ý Tổ, trống canh ba liền đi vào thất. Tổ lấy cà-sa che chung quanh chẳng cho ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho nghe. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia), Huệ Năng ngay lời nói liền đại ngộ: “Tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh”, bèn kính bạch Tổ:

       Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!

       Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt!

       Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ!

       Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động!

       Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

    Tổ biết đã ngộ bản tánh, tức gọi Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.

    Canh ba đã nhận lĩnh Pháp, không ai biết, Tổ liền truyền đốn giáo và y bát, nói: “Ngươi là Tổ đời thứ sáu, hãy khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, truyền khắp mãi về sau, chớ để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ:

         Có tình đến gieo giống,

         Nhân đất quả lại sanh.

         Không tình đã không giống,

         Không tánh cũng không sanh.

    Âm:

         Hữu tình lai hạ chủng,

         Nhân địa quả hoàn sanh.

         Vô tình ký vô chủng,

         Vô tánh diệc vô sanh.

    Tổ nói thêm:

    - Xưa Đại sư Đạt-ma mới đến cõi này, người chưa tin biết, vì vậy mới truyền y này để làm chỗ y cứ cho người tin (tín thể). Pháp đời đời truyền thừa nhau ắt lấy tâm truyền tâm, đều khiến tự ngộ, tự hiểu. Từ xưa Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm. Y là đầu mối để tranh giành, hãy dừng nơi ngươi chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng sống như tơ mành. Ngươi hãy đi nhanh, e có người sẽ hại ngươi.

    Năng thưa:

    - Con sẽ đi đâu?

    Tổ bảo:

    - Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

    Huệ Năng vào canh ba nhận lãnh y bát rồi thưa:

    - Năng vốn là người vùng Lĩnh Nam, đã lâu chẳng biết rõ đường đi của núi này, làm sao ra được bến sông?

    Ngũ Tổ bảo:

    - Ngươi không phải lo, ta sẽ tự đưa ngươi đi.

    Tổ đưa đến trạm Cửu Giang. Bên trạm có một chiếc thuyền, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa:

    - Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo.

    Ngũ Tổ bảo:

    - Nên để ta độ ngươi.

    Huệ Năng thưa:

    - Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi thì tự độ. Tuy tên “độ” là một, mà chỗ dụng chẳng đồng. Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính. Được thầy trao pháp, nay đã được ngộ, chỉ nên tự tánh tự độ.

    Tổ bảo:

    - Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi mà được truyền rộng, ngươi đi ba năm ta sẽ qua đời. Nay ngươi hãy khéo đi, gắng sức về phương Nam, chẳng nên nói sớm, Phật pháp có nạn khởi.

    Năng từ giã Tổ, cất bước đi về phương Nam. Khoảng hai tháng thì đến ngọn Đại Dữu.

    Ngũ Tổ thì trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, chúng nghi mới đến thăm hỏi:

    - Hòa thượng có bệnh hoạn gì chăng?

    Tổ đáp:

    - Không có bệnh gì, chỉ y pháp đã về phương Nam rồi.

    Chúng hỏi:

    - Ai được truyền trao?

    Tổ bảo:

    - Năng thì được.

    Chúng mới biết. Có mấy trăm người đuổi theo sau muốn đoạt y bát. Một vị tăng tên là Trần Huệ Minh, trước kia là tướng quân tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, quyết lòng tìm kiếm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Năng. Năng bỏ y bát trên tảng đá, nói:

    - Y này là vật tiêu biểu để làm tin, có thể dùng sức để tranh sao?

    Năng liền ẩn vào bụi cỏ rậm. Huệ Minh chạy đến kéo y bát lên chẳng nhúc nhích, mới gọi to:

    - Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chẳng phải vì y đến.

    Năng bèn bước ra, ngồi trên tảng đá. Huệ Minh làm lễ, nói:

    - Mong hành giả vì tôi mà nói pháp.

    Huệ Năng bảo:

    - Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe!

    Im lặng giây lâu, Huệ Năng bảo Minh:

    - Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

    Huệ Minh ngay câu nói đại ngộ, lại hỏi thêm:

    - Ngoài lời mật, ý mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa chăng?

    Năng bảo:

    - Đã nói với ông tức chẳng phải mật. Nếu ông soi ngược trở lại thì mật ở bên ông.

    Minh nói:

    - Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai mà thật chưa tỉnh được mặt mày của chính mình. Nay được chỉ dạy, như người uống nước lạnh nóng tự biết. Giờ đây, hành giả chính là thầy của Huệ Minh vậy.

    Năng bảo:

    - Nếu ông như thế, tôi cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy, hãy khéo tự giữ gìn.

    Minh hỏi thêm:

    - Từ nay về sau, Huệ Minh sẽ đi đâu?

    Năng bảo:

    - Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.

    Huệ Minh kính lễ rồi từ giã.

    Huệ Minh trở xuống đến dưới núi, bảo với những người đuổi theo:

    - Đã trèo lên chót vót, trọn không thấy dấu vết gì, hãy tìm theo lối khác!

    Mọi người đều cho là phải. Về sau Huệ Minh đổi là Đạo Minh để tránh chữ trên của thầy.

    Sau đó Năng đến Tào Khê. Lại bị người ác đuổi tìm, bèn tránh nạn ở Tứ Hội, lẫn trong đám thợ săn, cả thảy 15 năm. Lúc đó, tùy nghi thuyết pháp cho thợ săn nghe. Thợ săn thường sai Năng giữ lưới, mỗi khi gặp con vật mắc lưới trọn đều thả hết. Đến giờ cơm thì lấy rau gởi luộc trong nồi thịt. Có ai hỏi thì đáp:

    - Chỉ ăn rau bên thịt.

    Một hôm Năng suy nghĩ: “Đã đến thời hoằng pháp, chẳng thể ẩn mãi”, bèn ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn. Lúc đó có gió thổi phướn động, một vị tăng bảo gió động, một vị bảo phướn động. Bàn mãi không thôi. Năng tiến lên nói:

    - Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm Ngài động.

    Cả chúng kinh hãi. Ấn Tông mời lên trên gạn hỏi nghĩa sâu xa. Thấy Năng lời lẽ giản dị mà lý lại xác đáng, không theo văn tự, Ấn Tông nói:

    - Hành giả nhất định chẳng phải người thường. Từ lâu đã nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?

    Năng nói:

    - Chẳng dám.

    Khi đó Ấn Tông làm lễ, xin đem y bát ra chỉ cho đại chúng xem. Ấn Tông hỏi thêm:

    - Hoàng Mai phó chúc truyền dạy thế nào?

    Năng đáp:

    - Không có gì truyền dạy, chỉ luận về kiến tánh, chẳng bàn thiền định, giải thoát.

    Ấn Tông hỏi:

    - Sao chẳng luận thiền định, giải thoát?

    Đáp:

    - Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai.

    Ấn Tông lại hỏi:

    - Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?

    Năng đáp:

    - Pháp sư giảng kinh Niết Bàn đã rõ Phật tánh là pháp chẳng hai của Phật pháp. Như Bồ-tát Cao Quý Đức Vương trong kinh Niết Bàn bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và nhất-xiển-đề... sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?”. Phật bảo: “Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường. Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai. Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai. Uẩn và giới, phàm phu thấy hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”.

    Ấn Tông nghe nói, vui mừng chắp tay thưa:

    - Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng.

    Sau đó Ấn Tông cạo tóc cho Năng, nguyện thờ làm thầy. Năng bèn ở dưới cội Bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn. Năng từ khi đắc pháp ở Đông Sơn, chịu hết mọi sự gian nan khổ nhọc, mạng như tơ mành. Hôm nay được cùng Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, xuất gia, tại gia đồng tụ hội nơi đây, phải đã có nhân duyên nhiều kiếp, cũng như trong đời quá khứ từng cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành, mới được cái nhân nghe pháp Đốn giáo như trên. Giáo là do bậc Thánh từ trước đã truyền, chẳng phải từ trí riêng của Huệ Năng. Nguyện cho người nghe giáo của bậc Thánh trước, khiến mỗi người được lòng thanh tịnh, nghe xong đều tự trừ hết nghi ngờ, giống như bậc Thánh đời trước không khác.

    ***

     

    Sư lại bảo chúng:

    - Này thiện tri thức! Trí Bồ-đề Bát-nhã, người đời vốn tự sẵn có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thấy tánh. Phải biết, người ngu người trí, Phật tánh vốn không sai khác, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, do đó có ngu, có trí. Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói.

    Này thiện tri thức! Người đời trọn ngày miệng niệm Bát-nhã mà chẳng biết tự tánh Bát-nhã. Giống như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì.

    Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, xứ này gọi là Đại Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn. Trí này cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.

    Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là Lớn. Tâm lượng rộng lớn giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông tròn, lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng không trên dưới, dài ngắn, cũng không mừng giận, không phải quấy, không lành dữ, không đầu đuôi. Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời vốn KHÔNG, không có một pháp có thể được, tự tánh chân không cũng lại như thế.

    Này thiện tri thức! Chớ nghe tôi nói “không”, liền chấp trước vào “không”. Bậc nhất là chớ chấp trước “không”. Nếu để cho tâm trống trơn, ngồi yên lặng, tức kẹt vào cái “không vô ký”.

    Này thiện tri thức! Thế giới hư không hay bao gồm muôn vật, hình sắc, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi sông, quả đất, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng bụi, người lành, người dữ, pháp dữ, pháp lành, thiên đường, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di thảy đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng lại hư thế.

    Này thiện tri thức! Tự tánh hay bao gồm muôn pháp là lớn. Muôn pháp ở trong tánh mọi người, nếu thấy tất cả người: dữ và lành trọn chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng đắm nhiễm, tâm như hư không, gọi đó là Lớn, nên nói là Ma-ha.

    Này thiện tri thức! Người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê để tâm trống trơn, ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho là Lớn. Một bọn người này chẳng thể nói với họ, vì là tà kiến.

    Này thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, trùm khắp pháp giới, dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ, tức là Bát-nhã.

    Này thiện tri thức! Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh mà sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý, gọi là chân tánh tự dụng. Một chân thì tất cả chân, Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ. Miệng chớ trọn ngày nói “không” mà trong tâm chẳng tu hạnh này. Giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi.

    Này thiện tri thức! Sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Đường dịch là trí tuệ. Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ, tức là hạnh Bát-nhã. Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt. Một niệm trí tức Bát-nhã sinh. Người đời ngu mê chẳng thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói “không”, mà chẳng biết “chân không”. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ. Nếu khởi hiểu như thế, tức gọi trí Bát-nhã.

    Sao gọi Ba-la-mật? Đây là tiếng Tây Quốc (Ấn Độ), Đường nói là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sinh diệt. Chấp trước cảnh thì sinh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức gọi là bờ này. Lìa cảnh thì không sinh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi bờ kia. Vì vậy gọi Ba-la-mật.

    Này thiện tri thức! Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng, có quấy. Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh. Người ngộ pháp này, là pháp Bát-nhã. Người tu hạnh này, là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng với Phật.

    Này thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.

    Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất (tôn quý hơn hết, trên hết, bậc nhất hơn hết), không trụ, không qua, không lại. Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra. Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ.

    Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây từ một Bát-nhã mà sinh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình. Dùng trí tuệ soi sáng, đối tất cả pháp chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh thành Phật đạo.

    Này thiện tri thức! Nếu người muốn vào pháp giới sâu xa và Bát-nhã tam-muội, cần tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã tức sẽ được thấy tánh. Phải biết, kinh này có công đức vô lượng vô biên mà trong kinh đã khen ngợi rành rõ, không gì có thể nói đủ hết.

    Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói; người tiểu căn, tiểu trí nghe đến thì tâm sanh chẳng tin. Tại sao? Ví như rồng to làm mưa xuống, thì ở cõi Diêm-phù-đề, thành ấp, xóm làng thảy đều bị trôi giạt, như trôi lá táo.

    Nếu mưa xuống biển cả thì chẳng thêm, chẳng bớt. Nếu người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa, nghe nói kinh Kim Cang thì tâm mở sáng tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát-nhã. Vì tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình, vô tình, thảy đều được tươi nhuần; trăm sông, mọi dòng chảy vào biển cả lại họp thành một thể. Trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế.

    Này thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo này, giống như cỏ cây gốc rễ nhỏ nếu như gặp mưa to thảy đều bị ngã rạp, chẳng thể lớn lên. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí Bát-nhã không sai khác gì với người đại trí, nhân đâu nghe pháp chẳng tự tỏ ngộ? Bởi do tà kiến chướng nặng, gốc rễ phiền não sâu dày, giống như mây to che phủ mặt trời, chẳng được gió thổi qua thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê thì thấy tu hành tìm Phật bên ngoài, chưa ngộ tự tánh tức là tiểu căn. Nếu người tỏ ngộ Đốn giáo, chẳng chấp tu bên ngoài, chỉ đối với tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng thể nhiễm tức là thấy tánh.

    Này thiện tri thức! Trong ngoài chẳng dừng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm chấp, thông suốt không ngăn ngại. Người hay tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác.

    Này thiện tri thức! Tất cả khế kinh và mọi thứ văn tự Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân nơi người mà đặt thành, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có. Cho nên biết, muôn pháp vốn từ nơi người mà dấy lên, tất cả kinh sách nhân nơi người mà có nói ra. Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân. Người ngu hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng, thì không khác gì với người trí.

    Này thiện tri thức! Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật. Cho nên biết, muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh thì đều thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”.

    Này thiện tri thức! Tôi ở chỗ Hòa thượng Nhẫn, vừa nghe liền ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như. Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra, khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề. Mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy bản tánh mình. Nếu tự chẳng ngộ, cần tìm bậc Đại thiện tri thức hiểu pháp Tối thượng thừa chỉ thẳng cho con đường chân chánh. Bậc thiện tri thức ấy có nhân duyên lớn, nghĩa là giáo hóa, dẫn dắt, khiến được thấy tánh, vì tất cả pháp lành nhân vị thiện tri thức mà hay phát khởi. Chư Phật ba đời, mười hai bộ kinh vốn tự có đủ trong tánh người. Chẳng thể tự ngộ, phải cầu bậc thiện tri thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu người tự ngộ thì chẳng nhờ tìm cầu bên ngoài. Nếu một bề chấp cho là phải cần vị thiện tri thức ấy mới mong được giải thoát, không có lẽ ấy. Tại sao? Trong tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo thì thiện tri thức bên ngoài dù có truyền dạy, trọn không thể cứu được. Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng, thì khoảng một sát-na vọng niệm đều dứt. Nếu nhận biết tự tánh thì một phen ngộ liền đến Phật địa.

    Này thiện tri thức! Trí tuệ soi xét, sáng suốt cả trong ngoài, nhận biết bản tâm mình. Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội. Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là vô niệm. Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ. Chỉ bản tâm thanh tịnh, sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến.

    Này thiện tri thức! Người ngộ pháp vô niệm thì trọn đều thông suốt muôn pháp. Người ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới chư Phật. Người ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.

    Này thiện tri thức! Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh, phát nguyện thọ trì như thờ Phật, nên trọn đời chẳng lui sụt, là nhất định sắp vào Thánh vị. Song cần truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu chánh pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến, đồng hạnh, ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không ích gì. Sợ rằng người ngu chẳng hiểu mà chê bai pháp này, thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật.

    Này thiện tri thức! Tôi có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người cần tụng lấy. Tại gia hay xuất gia, hãy nương bài tụng này tu hành, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời tôi, cũng không có ích gì. Hãy nghe tôi nói tụng:

         Thuyết thông và tâm thông,

         Như mặt trời trên không,

         Chỉ truyền pháp kiến tánh,

         Ra đời phá tà tông.

         Pháp tức không đốn tiệm,

         Mê ngộ có chậm mau,

         Chỉ môn kiến tánh này,

         Người ngu chẳng thể rành.

         Nói tuy có muôn thứ,

         Hợp lý trở về một,

         Trong nhà tối phiền não,

         Thường phải sanh trời tuệ.

         Tà đến phiền não tới,

         Chánh đến phiền não trừ,

         Chánh tà đều chẳng dụng,

         Thanh tịnh đến vô dư.

         Bồ-đề vốn tự tánh,

         Dấy tâm liền là vọng,

         Tâm tịnh ở trong vọng,

         Chỉ chánh, không ba chướng.

         Người đời nếu tu đạo,

         Tất cả trọn chẳng ngại,

         Thường tự thấy lỗi mình,

         Cùng đạo tức tương đương.

         Sắc loại tự có đạo,

         Đều chẳng não hại nhau,

         Lìa đạo riêng tìm đạo,

         Trọn đời chẳng thấy đạo.

         Lăng xăng qua một đời,

         Cuối cùng lại tự hận,

         Muốn được thấy chân đạo,

         Hành chánh tức là đạo.

         Nếu tự không đạo tâm,

         Hạnh tối chẳng thấy đạo,

         Nếu người thật tu đạo,

         Chẳng thấy lỗi thế gian.

         Nếu thấy lỗi người khác,

         Lỗi mình đến bên cạnh,

         Người lỗi ta chẳng lỗi,

         Ta chê, tự có lỗi.

         Chỉ tự bỏ tâm quấy,

         Phá tan hết phiền não,

         Yêu ghét chẳng bận lòng,

         Duỗi thẳng hai chân ngủ.

         Toan muốn giáo hóa người,

         Tự phải có phương tiện,

         Chớ để họ nghi ngờ,

         Tức là tự tánh hiện.

         Phật pháp ở trong đời,

         Chẳng lìa đời có giác.

         Lìa đời tìm Bồ-đề,

         Giống hệt tìm sừng thỏ.

         Chánh kiến gọi xuất thế,

         Tà kiến gọi thế gian,

         Chánh tà đều quét sạch,

         Tánh Bồ-đề sáng ngời.

         Tụng này là Đốn giáo,

         Cũng gọi đại pháp thuyền,

         Mê nghe trải nhiều kiếp,

         Ngộ ắt khoảng sát-na.

    Sư lại nói:

    - Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp Đốn giáo này, nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh, ngay lời nói thấy tánh thành Phật.

    Lúc ấy, Vi Sử quân cùng với quan liêu, đạo tục nghe những điều Sư nói thảy đều tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ và đều khen ngợi:

    - Lành thay, đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời!

     

    GIẢNG:

    Bấy giờ Đại sư (tức Lục Tổ) đến chùa Bảo Lâm. Thích (Thứ) sử Thiều Châu Vi Cừ, có chỗ ghi là Vi Cứ, cùng quan liêu vào núi thỉnh Sư ra ở tại nơi giảng đường chùa Đại Phạm, vì chúng mở bày duyên pháp, nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Sư thăng tòa, Thích sử và quan liêu hơn 30 người, hàng học sĩ bên Nho hơn 30 người, hàng Tăng Ni và cư sĩ cũng hơn 1000 người đồng thời làm lễ, nguyện nghe pháp yếu.

    Vì sao vào núi thỉnh? Khi Lục Tổ gặp Ngài Ấn Tông cạo tóc xuất gia, thọ giới ở chùa Pháp Tánh, Quảng Châu. Mùa xuân năm sau, Lục Tổ mới về chùa Bảo Lâm, Thiều Châu. Khi đó có Ngài Ấn Tông và tăng tục hơn ngàn người tiễn đưa. Chùa Bảo Lâm ở Thiều Châu do Ngài Tam Tạng Trí Dược khởi xướng xây dựng vào đời Lương. Chùa này ở trong núi, tại phủ Thiều Châu, tỉnh Quảng Đông, ban đầu tên Bảo Lâm, đến đời Đường Trung Tông đổi tên thành Trung Hưng Tự, sau đổi thành Quảng Quả Tự, Pháp Tuyền Tự, qua nhiều lần đổi tên, đến đời Tống lại đổi thành Nam Hoa Tự, Hoa Quả Tự, ngày nay gọi là chùa Nam Hoa hoặc Nam Hoa Thiền Tự.

    Lục Tổ ở nơi núi, Thích sử cùng với quan liêu ở trong thành nên vào núi thỉnh. Chùa Đại Phạm, theo bộ Quảng Đông Thông Chí tức là chùa Báo Ân Quang Hiếu ở Hà Tây huyện Khúc Giang phủ Thiều Châu. Đời Đường niên hiệu Khai Nguyên thứ hai (714) có vị tăng tên Tông Tích xây dựng, cũng gọi là chùa Đại Phạm. Nơi đây, Lục Tổ bắt đầu khai pháp giáo hóa tuyên dương pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Pháp hội này gồm có Thích sử Vi Cừ (vào thời Đường, Thích sử là người đứng đầu một châu), cùng quan liêu, Nho sĩ hơn 30 người, Tăng Ni, cư sĩ cộng lại hơn ngàn người, vậy là có tăng tục đầy đủ. Lục Tổ từ đây bắt đầu mở duyên pháp diễn bày pháp bảo.

    Đại sư bảo với chúng:

    - Này thiện tri thức! Hết thảy hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật.

    Khi chúng niệm xong. Đại sư im lặng giây lâu, bảo chúng:

    - Này thiện tri thức! Tự tánh Bồ-đề xưa nay thanh tịnh, chỉ dùng tâm này thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật.

    Mở đầu trước khi nói pháp, Ngài bảo mọi người hãy lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, cho thấy Tổ rất đề cao tinh thần Bát-nhã nhất là kinh Kim Cang, bởi Tổ tỏ ngộ từ kinh Kim Cang.

    Mở đầu, Lục Tổ Đại sư chỉ thẳng con đường đốn ngộ. Ngài nhấn mạnh tự tánh Bồ-đề xưa nay là thanh tịnh chỉ dùng tâm này thẳng ngay đây thành Phật, không phải tìm đâu xa. Đó là đánh thức mọi người phải tỏ ngộ lại tự tánh Bồ-đề, xưa nay vốn tự thanh tịnh, không phải tìm bên ngoài, cũng không phải làm cho thanh tịnh. Chúng ta tu không phải làm cho tâm thanh tịnh, tâm vốn tự thanh tịnh, tu là gạn lọc những lầm mê, phiền não, gạn lọc những cái hư vọng rồi thì tự tánh Bồ-đề hiển bày. Cho nên về sau trong bài kệ của Ngài có câu: “Xưa nay không một vật, Chỗ nào dính bụi đây!”. Làm chúng sanh cũng ngay đây, mà thành Phật cũng ngay đây, đó là tinh thần Đốn giáo. Làm Phật thì ngay đó là hiển nhiên, nhưng làm chúng sanh cũng ngay đó là vì sao? Không phải làm chúng sanh ngay tự tánh Bồ-đề mà do mê tự tánh Bồ-đề nên làm chúng sanh. Ngộ trở lại tự tánh Bồ-đề thì chuyển chúng sanh làm Phật, rất nhanh chóng, không phải qua thứ lớp nên gọi là Đốn ngộ hay Đốn giáo.

    Thành Phật không phải thành ở trong kinh điển, không phải ở trong phân tích chữ nghĩa, cũng không phải thành ở cõi nào khác mà thành ở trong tự tánh Bồ-đề ngay trong tự tâm của chúng ta. Thiền Tông xiển dương “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự” là như vậy, không phải Thiền Tông chê bai phá bỏ kinh điển, mà vì muốn người thấy rõ lẽ thật. Bởi người học Phật lâu đôi khi mắc kẹt trên kinh điển chữ nghĩa, chỉ học trên chữ nghĩa nên không thấy Phật. Nói Phật, giải thích Phật rất hay, hỏi Phật là gì thì giải thích rất lưu loát, nhưng Phật ở đâu lại không thấy, chỉ thấy Phật trên chữ nghĩa.

    Lục Tổ chỉ thẳng ngay trong tự tánh Bồ-đề, sáng tỏ điều đó thì thấy Phật ngay, thành Phật cũng là thành ngay chỗ đó, không phải thành trong chữ nghĩa. Rời ngoài tâm cầu Phật là không thấy được Phật thật. Vậy thì ngộ trở lại tự tánh thanh tịnh của tâm là yếu chỉ. Tổ nói giản dị nhưng rất thiết thực.

    Nhưng Tâm này ở đâu? Nói ngộ rõ tự tánh Bồ-đề ở ngay nơi tự tâm, nói vậy cũng chỉ là chữ nghĩa. Chỗ này là chỗ phải thực hành thật sự để sáng tỏ được tâm này ở đâu? Tại sao nhiều người không tỏ ngộ được?

    Vậy hiện mọi người đang sống đây là đang sống với cái gì? Nếu nói ở ngay nơi mọi người, tại sao mọi người không tỏ ngộ? Đó là chỗ người học phải thấu tỏ chứ không thể hời hợt.

    Thế nên ngay khi mở đầu, Lục Tổ bảo mọi người: “Tất cả phải nên lắng lòng niệm Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật”, để không còn tạp niệm, mới thấy ngay trong “cái tâm đó”; còn suy nghĩ lăng xăng thì đâu thấy được gì!

    Học Pháp Bảo Đàn cần phải học sâu vào “trong đó”, học đến “trong đó” thì giải tỏa được tất cả những tranh cãi chữ nghĩa. Hiện nay có nhiều tranh cãi chữ nghĩa, còn nói kinh Pháp Bảo Đàn không phải Lục Tổ nói. Nếu thấu được chỗ này thì những chuyện kia không dính dáng gì, chỉ là chữ nghĩa. Quan trọng là chúng ta phải thấu được lẽ thật, làm Phật làm Tổ là ở chỗ này, không phải trên chữ nghĩa kia. Đó là muốn nhắc cho tất cả khéo học cho kỹ. Tiếp đến Ngài nói:

    Này thiện tri thức! Hãy lắng nghe tóm tắt về nguồn gốc thân thế và việc đắc pháp của Huệ Năng. Cha của Năng quê quán tại Phạm Dương (Hà Bắc), bị giáng chức đày ra Lĩnh Nam làm thường dân ở Tân Châu, thân này chẳng may cha lại mất sớm, mẹ góa con côi dời đến Nam Hải gian khó nghèo khổ thường ra phố bán củi.

    Lục Tổ thuật lại thân thế của Ngài và việc đắc pháp cho mọi người biết, nếu Ngài không thuật lại chắc không ai biết. Quê quán của cha Ngài ở Phạm Dương (tên một quận thời Đường, hiện nay thuộc tỉnh Hà Bắc). Ông làm quan, vào khoảng giữa niên hiệu Võ Đức đời Đường ông có tội, bị giáng chức, lưu đày ra vùng Lĩnh Nam làm thường dân ở Tân Châu, Lục Tổ được sanh ra ở đây.

    Lĩnh Nam là vùng xa xôi, thuộc về vùng phía nam của Ngũ Lĩnh. Trước kia vùng này thuộc đất Việt nhưng thời này bị Bắc thuộc thời Đường, cho nên Việt Nam có bộ Lĩnh Nam Chích Quái. Gần đây có những nhà nghiên cứu cho rằng Lục Tổ là người Việt, tức sinh trên đất Việt, nhưng quê cha của Ngài ở Hà Bắc, Trung Hoa. Tân Châu hiện nay thuộc huyện Tân Hương cách phía nam phủ Triệu Khánh khoảng 130 dặm. Do cha mất sớm, mẹ con Ngài dời đến Nam Hải sinh sống, Nam Hải xưa cũng là một quận nay đổi thành huyện thuộc tỉnh Quảng Đông. Như vậy Lục Tổ được sinh ra ở vùng xa xôi phía nam Trung Hoa, dành cho những người có tội bị lưu đày, đây là vùng sơn lam chướng khí. Khi cha mất, Ngài cùng mẹ đến Nam Hải, rồi lên rừng đốn củi mang ra phố bán lấy tiền nuôi mẹ.

    Một hôm có người khách mua củi bảo gánh đến tiệm của khách, khách thu củi xong, Năng nhận tiền rồi đi ra ngoài cửa, gặp một người khách tụng kinh Kim Cang đến đoạn: “Nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Năng vừa nghe qua lời kinh, tâm liền tỏ ngộ, bèn hỏi người khách:

    - Tụng kinh gì?

    Khách bảo:

    - Kinh Kim Cang.

    Lại hỏi thêm:

    - Từ đâu đến mà trì kinh này?

    Khách bảo:

    - Tôi từ chùa Đông Thiền, huyện Hoàng Mai, Kỳ Châu đến đây. Chùa ấy hiện do Ngũ Tổ Đại sư Nhẫn làm chủ giáo hóa, đệ tử của Ngài có hơn 1000 người. Tôi đến trong đó lễ bái, nghe nhận kinh này. Đại sư thường khuyên trong hàng tăng tục, chỉ trì kinh Kim Cang tức tự thấy tánh, thẳng ngay đây tỏ ngộ thành Phật.

    Đây là nhân duyên ban đầu của Ngài, nghe kinh Kim Cang được sáng tỏ đạo lý, tỏ ngộ ý kinh. Nhân đem củi đến tiệm của người khách, khách nhận xong, Ngài nhận tiền đi ra cửa, nghe người khách tụng kinh. Đây do Lục Tổ thuật lại nên Ngài xưng là Năng chứ không nói là tôi hay thầy. Đoạn kinh Kim Cang đầy đủ là: “Chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia.” Đây Ngài nghe đến đoạn: “Nên không chỗ trụ mà sanh tâm kia” liền mở sáng.

    Đó là trí vô sư không thầy mà tự phát. Một anh tiều phu nhà quê ở vùng xa xôi, vùng mà người Trung Hoa ngày xưa khinh miệt. Cho nên đoạn sau Ngũ Tổ gọi Ngài nguyên chữ Hán là Cát Lão (chỉ cho những người dân tộc thiểu số, sống còn hoang sơ, gọi như vậy có tính cách hơi khinh thường). Ngài lại không biết chữ, nhưng nghe qua đoạn kinh liền tỏ ngộ, hiểu được ý kinh, rõ ràng không người dạy mà tự sáng. Cho thấy tâm tánh của Lục Tổ rất bén nhạy, cũng để nói lên chân nghĩa của Phật pháp không nằm trong chữ nghĩa, bởi Lục Tổ đâu biết chữ nghĩa mà nghe liền tỏ ngộ.

    Điểm này cảnh tỉnh cho những người học Phật lâu không nên có cái thấy xem thường người mới học. Đôi khi người mới học có chủng duyên sâu dày với Phật pháp, tuy chúng ta thấy mới nhưng họ đã từng huân sâu nên tu tiến nhanh hơn chúng ta, cũng như Lục Tổ đây.

    Lục Tổ nghe kinh tỏ ngộ, Ngài hỏi thăm người khách, biết được đạo tràng của Ngũ Tổ đã truyền dạy kinh Kim Cang. Chùa của Ngũ Tổ gọi là chùa Đông Thiền ở Hoàng Mai, Kỳ Châu. Kỳ Châu là dịch theo văn Hán Việt. Đúng theo văn phạm tiếng Việt gọi là châu Kỳ, chữ “châu” là tên hành chánh địa phương như là tỉnh, quận, huyện, đây là một châu tên Kỳ. Châu Kỳ cách 180 dặm về phía đông của phủ Hoàng Châu, tỉnh Hồ Bắc. Chùa Đông Thiền cách huyện Hoàng Mai về hướng Tây Nam khoảng một dặm. Đây cũng là nơi Ngũ Tổ truyền y bát cho Lục Tổ về sau.

    Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, tiền thân là Tài Tùng đạo giả ở núi Phá Đầu (tức đạo giả già trồng tùng ở núi Phá Đầu). Một hôm, Tổ Đạo Tín đi viếng núi Song Phong gặp một vị sư già trồng tùng, thời nhân gọi là Tài Tùng đạo giả. Vị sư ấy hỏi Tổ rằng:

    - Đạo Pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được chăng?

    Tổ đáp:

    - Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng hóa kịp. Nếu có sanh trở lại được thì ta cũng nán chờ.

    Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Hoàng Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:

    - Nhà cô ở gần hay xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng?

    Cô đáp:

    - Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền, mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.

    Ông bảo:

    - Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?

    Cô đáp:

    - Riêng tôi thì bằng lòng.

    Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch.

    Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, làm ô nhục gia phong, quyết định đuổi cô đi. Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.

    Đến ngày, cô sinh ra một đứa con trai xinh xắn, nhưng vì sự kỳ dị không chồng có con, nên cô đành đem thả xuống sông.

    Sáng ngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo Tín, đối đáp một cách phi thường, được Tổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng Nhẫn. Hoằng Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa Tổ Đạo Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn để truyền pháp. Theo đây, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tùng Đạo giả.

    Tứ Tổ Đạo Tín vốn ở núi Phá Đầu cũng là núi Song Phong. Ngũ Tổ ở ngọn núi Phùng Mậu, cách không xa về phía đông của núi Song Phong. Người đương thời gọi thiền pháp của Ngũ Tổ là pháp môn Đông Sơn.

    Lục Tổ nghe người khách thuật lại từ nơi đạo tràng của Ngũ Tổ mà nhận được kinh Kim Cang, chính Ngũ Tổ cũng thường khuyên tăng tục trì tụng kinh này, đó là con đường kiến tánh thành Phật. Ngài nói thêm:

    Năng nghe nói, nhờ có duyên từ đời trước, bèn được một người khách lấy mười lạng bạc cho Năng để giúp nuôi dưỡng mẹ già và bảo hãy qua Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ. Năng sắp đặt cho mẹ xong liền từ giã ra đi, chẳng hơn 30 ngày thì tới Hoàng Mai lễ Ngũ Tổ.

    Lục Tổ nghe nói về Ngũ Tổ, do có duyên thầy trò đời trước nên có ý muốn đến, nhưng vì còn mẹ già đâu thể bỏ đi. Người khách thấy vậy, phát tâm ủng hộ cho mười lạng bạc, khuyên lấy tiền này nuôi dưỡng mẹ già, nên đến Hoàng Mai gặp Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Người khách này không biết thuộc hạng nào? Có phải Bồ-tát hiện thân hay không mà ngay đó phát tâm quá mạnh mẽ, cho mười lạng bạc, khuyên đến nơi Ngũ Tổ?

    Lục Tổ y theo, nhận số bạc về sắp đặt cho bà mẹ, xin phép bà rồi đi đến lễ Ngũ Tổ. Tâm cầu pháp của Ngài rất mạnh mẽ. Từ đó về sau không nghe thuật lại về bà mẹ nữa.

    Ngũ Tổ hỏi Năng:

    - Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì?

    Năng đáp:

    - Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy, chỉ cầu làm Phật, chẳng cầu gì khác.

    Tổ bảo:

    - Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ, làm sao kham làm Phật?

    Năng thưa:

    - Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Thân mọi rợ này tuy chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác.

    Ngũ Tổ còn muốn nói thêm, nhưng thấy đồ chúng thảy ở bên cạnh, mới bảo theo chúng làm việc, tôi lại thưa:

    - Huệ Năng kính bạch Hòa thượng! Đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?

    Tổ bảo:

    - Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ có nói nữa, hãy xuống nhà sau đi!

    Huệ Năng lui xuống hậu viện, có một hành giả sai Năng bửa củi, đạp chày giã gạo hơn tám tháng.

    Đây là đoạn Lục Tổ gặp Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi: “Ông là người phương nào? Muốn cầu vật gì?” Đó là để thăm dò. Lục Tổ nói thẳng: “Đệ tử là người dân thường ở Tân Châu thuộc Lĩnh Nam, từ xa đến đây lễ thầy chỉ cầu làm Phật chẳng cầu gì khác”. Cho thấy căn tánh sâu dày của Ngài, nói thẳng vào việc chánh yếu chứ không quanh co. Người đến chùa học Phật thường cầu học này học kia, còn đây Ngài nói thẳng đến cầu làm Phật chứ không cầu gì khác. Một tiều phu nhà quê, mới ngoài hai mươi tuổi, đến gặp vị Hòa thượng lớn mà nói mạnh mẽ như vậy.

    Ngũ Tổ gạn lại lần nữa: “Ông là người Lĩnh Nam, lại là mọi rợ thì làm sao kham làm Phật?” Nếu như chúng ta nghe lời này thì tự ái bỏ về, mới đến học đạo mà người thầy nói một câu có vẻ quá khinh miệt! Nhưng Ngũ Tổ không phải khinh miệt, mà là gạn hỏi xem căn tánh Lục Tổ thế nào? Đây là đánh thẳng vào bản ngã, nếu ngay đó tự ái bỏ về có lẽ khỏi làm Tổ.

    Lục Tổ thưa rõ: “Người tuy có Nam Bắc, Phật tánh vốn không có Nam Bắc. Thân mọi rợ này tuy chẳng đồng với Hòa thượng, song Phật tánh đâu có gì sai khác. Chúng ta đọc nhiều nên nghe quen tai, không thấy lạ lắm. Nếu đặt hoàn cảnh ngay trong hiện tại này thì mới thấy đây là việc phi thường chứ không phải tầm thường. Hơn nữa thời xưa không giống thời nay, thời nay do tiếp xúc nhiều nên đến chùa gặp Hòa thượng lớn là thường. Thời xưa thì việc này không bình thường. Ngũ Tổ lại là vị Tổ của cả một dòng Thiền. Lục Tổ khi này chỉ là một anh tiều phu trẻ ở vùng quê xa xôi, bị người xem là người mọi, lại không biết chữ. Vậy mà khi gặp một vị Hòa thượng Tổ như vậy, không rụt rè, sợ sệt, đầy đủ lòng tự tin, nói một cách thẳng thắn mạnh mẽ, giống như ngang nhau.

    Đó là điểm đặc biệt, để thấy rằng trong tự tâm Lục Tổ có cái thấy sáng tỏ, đầy đủ lòng tự tin, không mắc kẹt trong thân phận này. Ngũ Tổ nghe qua, biết được phần nào căn tánh của Lục Tổ, nhưng thấy bên cạnh có nhiều người, sợ đồ chúng đố kỵ, không tốt cho Lục Tổ. Vì thế Ngũ Tổ bảo Lục Tổ theo chúng làm việc, đừng nói nhiều, sợ mọi người chung quanh biết rồi đố kỵ.

    Lục Tổ thưa thêm: “Huệ Năng kính bạch Hòa thượng! Đệ tử tự tâm thường sanh trí tuệ, chẳng lìa tự tánh tức là phước điền, chưa biết Hòa thượng bảo làm việc gì?” Lời nói xác quyết, chắc chắn đầy đủ niềm tự tin, trí tuệ là nơi tự tâm thường có, sẵn trong tự tâm chứ không cầu bên ngoài, phước điền cũng ngay nơi tự tánh, không lìa tự tánh cầu phước điền bên ngoài.

    Ngũ Tổ bảo: “Gã mọi này căn tánh rất lanh lợi, ngươi chớ có nói nữa, hãy xuống nhà sau làm việc”. Ngài sợ nói thêm thì nhiều người biết, gây hại cho Lục Tổ. Đây cũng không có gì lạ, tuy ở trong chùa, nhưng đều là phàm phu, chưa phải thánh, nên phải phòng ngừa tâm chúng sanh. Ngũ Tổ sáng suốt nên phòng ngừa trước, mà quả thật sau này khi Ngũ Tổ truyền y, đồ chúng đã rượt đuổi theo Lục Tổ để lấy y. Ngài Huệ Năng xuống hậu viện, một hành giả sai bửa củi, giã gạo, làm những việc tầm thường, giống như giúp việc trong chúng, trải qua hơn tám tháng.

    Một hôm Tổ chợt gặp Năng bảo:

    - Ta nghĩ cái thấy của ngươi đáng dùng được, song e có kẻ xấu hại ngươi mới chẳng cho ngươi nói, ngươi có biết chăng?

    Năng thưa:

    - Đệ tử cũng biết ý thầy, chẳng dám đi đến nhà trên, để cho người chẳng biết.

    Ngũ Tổ nhân lúc không ai để ý, xuống hậu viện gặp riêng Lục Tổ, Ngũ Tổ ý nói: “Ta cũng thấy, cũng biết ngươi có cái thấy dùng được, hôm trước không cho ngươi nói vì sợ những người xấu hại ngươi, không phải ta chê bai hay xua đuổi ngươi”. Lục Tổ thưa: “Con cũng biết ý thầy như vậy, nên lâu nay con không dám lên nhà trên để mọi người không để ý”. Thấy rằng thầy trò rất hiểu nhau.

    Một hôm Tổ gọi hết thảy hàng đệ tử đến bảo:

    - Ta nói cho các ông rõ: Đời người sanh tử là việc lớn, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử, nếu tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu. Mỗi người trong các ông hãy đi, tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu. Hãy gấp rút nhanh đi, chẳng được chậm trễ, hễ nghĩ ngợi tức chẳng trúng, người thấy tánh thì cần ngay lời nói liền thấy, nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy.

    Bấy giờ, Ngũ Tổ bảo mọi người trình kệ để truyền y bát làm Tổ kế thừa. Ngũ Tổ rất khéo, biết Lục Tổ đáng được truyền, nhưng phải có duyên sự, cũng để trong chúng biết được người đáng hay không đáng. Ngũ Tổ nhóm họp chúng, Ngài nhắc rõ đời người sanh tử là việc lớn, cần giải quyết ưu tiên hàng đầu.

    Thường thì mọi người thấy sanh tử không phải việc lớn, mà việc lớn là tạo sự nghiệp, được danh dự, được chức vụ, theo thế gian thì có được những sự nghiệp mới là việc lớn. Với cái nhìn của Tổ chính sanh tử mới là việc lớn của đời người, làm thế nào để giải quyết được việc lớn sanh tử này mới là trọng yếu, nhất là đối với những người tu Phật. Mọi việc trên thế gian đều tạm thời phụ thuộc vào thân này, thân này chết rồi thì thôi, đâu có gì mà nói việc lớn. Còn việc lớn sanh tử nếu chưa giải quyết xong là còn tiếp tục sanh tử, là cái khổ lớn, cho nên đó mới là việc lớn trong đời người.

    Ngay như người tu ở chùa, nhiều khi cũng chưa thấy sanh tử là việc lớn, chỉ thấy việc này việc nọ là việc lớn, đó là chưa thấy hết. Nên Ngũ Tổ nhắc: “Các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền, chẳng cầu ra khỏi biển khổ sanh tử” tức lo cầu phước điền, làm cho có phước mà không cầu ra khỏi sanh tử. Người tu ngày nay cũng vậy, ít có người cầu ra khỏi sanh tử, phần nhiều người đều cầu được phước để sanh trở lại tốt hơn hoặc sanh lên cõi trời.

    Ngũ Tổ nhắc, quan trọng là cần phải sáng tỏ trở lại tự tánh để ra khỏi sanh tử “Nếu tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu. Mỗi người trong các ông hãy đi, tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát-nhã nơi bản tâm chính mình, rồi tự làm một bài kệ đem đến trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý, ta sẽ trao y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu”. Tự tánh mà mê thì có phước cũng không cứu được. Mỗi người cần phải soi sáng lại nơi chính mình, nhận lấy trí tuệ nơi bản tâm chính mình, đó mới là chỗ thấy chân thật chứ không phải suy nghĩ, tưởng tượng. Đôi khi học lâu nên huân chứa trong tàng thức, cũng có thể suy nghĩ làm kệ, nhưng suy nghĩ thì chưa phải thật, cũng do kiến thức vay mượn của người. Ngũ Tổ bảo phải từ trong trí tuệ chân thật nơi bản tâm chính mình, từ đó phát ra mới là cái thật.

    Ngài nói: “Nghĩ ngợi tức chẳng trúng, người thấy tánh thì cần ngay lời nói liền thấy, nếu người như thế, khi múa đao ra trận cũng thấy”. Thật sự thấy tánh thì ngay lời nói liền thấy, tức vượt qua ngôn ngữ, không cần phải suy nghĩ. Như vậy mới thật thấy, còn suy nghĩ là đã qua trung gian. Nếu thấy tánh, dù múa đao ra trận cũng thấy, ở trong cảnh nghịch, cảnh bức bách cũng vẫn thấy chứ không mất. Đôi khi chúng ta suy nghĩ rồi hiểu, nhưng gặp chuyện bức bách thì quên mất, gặp chuyện nổi sân thì càng mê, như vậy là chưa phải thật thấy.

    Chúng được sai bảo liền lui về, lần lượt bảo với nhau:

    - Mỗi người chúng ta chẳng cần lắng tâm dụng ý làm kệ trình Hòa thượng, đâu có ích gì! Thượng tọa Thần Tú hiện đang là thầy giáo thọ, chắc hẳn Ngài sẽ được, bọn ta có dối làm kệ cũng uổng dụng tâm lực thôi.

    Mọi người nghe nói thảy đều hết tưởng mong, đồng bảo:

    - Chúng ta sau này sẽ nương tựa với thầy Tú, đâu nhọc làm kệ cho mệt!

    Trong chúng đều an phận, chấp nhận nương tựa với người khác, không có tâm tin tưởng để vươn lên. Rốt cuộc không ai làm kệ.

    Thần Tú suy nghĩ: “Mỗi người chẳng trình kệ vì ta là thầy giáo thọ của họ. Ta cần phải làm kệ đem trình Hòa thượng, nếu chẳng trình kệ thì Hòa thượng làm sao biết chỗ thấy hiểu trong tâm ta là cạn hay sâu. Ta trình kệ ý trong đó cầu pháp là tốt, còn mong tìm làm Tổ là xấu, lại đồng với tâm phàm mà muốn đoạt ngôi Thánh kia đâu khác. Nếu ta chẳng trình kệ thì trọn chẳng được. Rất khó! Rất khó!”.

    Ngài Thần Tú ở vào cái thế “chẳng đặng đừng”, mọi người không ai chịu làm kệ, tất cả đều giao phó cho Ngài. Ngài lại nghĩ, trình kệ ý trong đó nếu vì cầu pháp thì tốt, nếu trình kệ để muốn làm Tổ thì không tốt. Như vậy tâm Ngài cũng rất tốt.

    Trước nhà Ngũ Tổ có hành lang ba gian, Tổ định mời quan Cung phụng Lư Trân vẽ tranh “Lăng Già Biến Tướng” và “Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ” để lưu truyền cúng dường. Thần Tú làm kệ xong, mấy lần muốn trình, vừa đi đến trước nhà trên thì trong tâm hồi hộp, toàn thân xuất mồ hôi, toan trình mà chẳng được. Trước sau trải qua bốn ngày, mười ba lần trình kệ chẳng được, Thần Tú bèn suy nghĩ “Chi bằng chép ở phía dưới vách hành lang, tùy Hòa thượng có xem thấy, nếu chợt bảo là hay thì ta liền ra lễ bái, nói là của Tú làm. Còn nếu nói chẳng kham thì uổng cho ta mấy năm ở trong núi chịu người lễ bái, trọn tu cái đạo gì?”.

    Quan Cung phụng là quan chuyên về văn học, nghệ thuật. Tranh Lăng Già Biến Tướng là vẽ cảnh tượng Đức Phật thuyết pháp trên hội Lăng Già. Ngũ Tổ Huyết Mạch Đồ là vẽ năm vị Tổ từ Tổ Bồ-đề-đạt-ma đến Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, những sự truyền thừa kế tục, những ý chỉ sâu xa trong truyền pháp.

    Ngài Thần Tú làm kệ xong, trải qua bốn ngày, mười ba lần đến trình kệ mà trình không xong. Để thấy rằng tâm trạng của Ngài còn do dự, chưa đủ tự tin nên sợ, trong lòng chưa tin bài kệ hợp ý Ngũ Tổ, ngay đó đủ thấy chưa vào cửa Tổ. Trong khi Lục Tổ lúc mới đến gặp Ngũ Tổ đã nói mạnh mẽ, không do dự. Cuối cùng, Ngài nghĩ ra cách lén viết bài kệ lên vách, đây gọi là trình khéo.

    Đêm ấy vào canh ba, Sư chẳng cho ai biết, tự cầm đèn chép bài kệ nơi vách hành lang phía nam để tỏ bày chỗ thấy trong tâm.

    Bài kệ:

         Thân là cây Bồ-đề,

         Tâm như đài gương sáng.

         Luôn luôn siêng lau chùi,

         Chớ để dính bụi nhơ.

    Âm:

         Thân thị Bồ-đề thọ,

         Tâm như minh cảnh đài.

         Thời thời cần phất thức,

         Vật sử nhạ trần ai.

    Thần Tú viết bài kệ xong liền trở về phòng không ai biết, Sư lại suy nghĩ: “Sáng mai Ngũ Tổ thấy bài kệ mà vui mừng tức là ta có duyên với pháp, nếu như chẳng kham thì tự là ta mê mờ, nghiệp chướng đời trước sâu nặng chẳng khế hợp được pháp, thánh ý khó nghĩ lường”. Ở trong phòng, Sư cứ nghĩ tưởng ngồi nằm chẳng yên suốt tới canh năm.

    Giữa đêm khuya, Ngài Thần Tú cầm đèn chép bài kệ trên vách hành lang. Chép kệ xong, Ngài về phòng suy nghĩ mãi ngủ không được, thức luôn tới sáng, rõ ràng là chưa vào cửa.

    Tổ đã biết Thần Tú chưa được vào cửa, chẳng thấy tự tánh. Sáng ngày, Tổ gọi quan Cung phụng họ Lư tới vẽ Đồ Tướng nơi vách hành lang phía nam, Tổ chợt thấy bài kệ, bèn nói với quan Cung phụng:

    - Thôi chẳng cần vẽ, thật là nhọc Ngài từ xa tới. Trong kinh có nói: “Hễ cái gì có tướng đều là hư dối”, chỉ giữ lại bài kệ này cho người tụng trì, nương theo bài kệ này tu hành sẽ chẳng rơi vào đường ác, nương theo bài kệ này tu hành sẽ được lợi ích lớn.

    Tổ bảo môn nhân thắp hương lễ bái trọn tụng bài kệ này tức sẽ được thấy tánh. Môn nhân tụng kệ đều khen hay.

    Sáng ra, Ngũ Tổ dẫn quan Cung phụng đến vách hành lang để vẽ bức tranh thì thấy bài kệ này. Ngài Thần Tú đoán ý cũng hay. Ngũ Tổ khéo léo chuyển lại, không vẽ tranh nữa mà bảo chúng kính lễ bài kệ này, nương theo đây tu hành. Mọi người nghe Ngũ Tổ bảo thắp hương kính lễ bài kệ cũng bèn khen theo. Mới thấy tâm chúng ở đây không có tự tin nơi chính mình, nương tựa vào bên ngoài, nghe người lớn khen thì khen theo, nếu nghe người lớn chê cũng chê theo, không có cái nhận định của chính mình mà bị lệ thuộc nơi người khác, nhất là người lớn có uy tín.

    Ngũ Tổ lại rất khéo, nếu ngay đó Ngài chê thì mất hay, chính vì Ngài khen nên ai cũng kính lễ, vì vậy mới khơi dậy Lục Tổ lộ bày ý bài kệ của Lục Tổ.

    Đến canh ba, Tổ mới gọi Thần Tú vào phòng hỏi:

    - Có phải ông làm bài kệ ấy chăng?

    Thần Tú thưa:

    - Quả thật con làm, nhưng chẳng dám vọng cầu ngôi Tổ, chỉ mong Hòa thượng từ bi xem đệ tử có chút ít trí tuệ chăng?

    Tổ bảo:

    - Ông làm bài kệ này chưa thấy bản tánh, chỉ đến ngoài cửa, chưa vào trong cửa, thấy hiểu như thế mà mong tìm Vô thượng Bồ-đề trọn không thể được. Vô thượng Bồ-đề cần ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt, trong tất cả thời niệm niệm luôn tự thấy, muôn pháp không làm ngưng trệ, một chân thì tất cả chân, muôn cảnh tự như như. Tâm như như tức là chân thật, nếu thấy như thế tức là tự tánh Vô thượng Bồ-đề. Ông hãy đi, về suy nghĩ một hai ngày rồi làm một bài kệ khác đem đến đây cho ta xem. Nếu bài kệ của ông vào cửa được, ta sẽ trao phó y bát cho ông.

    Thần Tú làm lễ rồi lui ra, trải qua mấy ngày, Sư làm kệ chẳng xong, trong tâm hồi hộp, tinh thần không yên, giống như trong mộng đi ngồi chẳng vui.

    Ngũ Tổ cũng khéo léo đợi đến tối gọi Ngài Thần Tú vào nói riêng chứ không chê ngoài chúng e làm Ngài mất mặt.

    Tổ còn chỉ rõ Vô thượng Bồ-đề là cần phải ngay lời nói nhận biết bản tâm mình, thấy bản tánh mình chẳng sanh chẳng diệt không qua suy nghĩ phân biệt. Đã thấy thì lúc nào cũng thấy, ở chỗ nào cũng thấy, không có gì nghi ngờ, do dự. Tổ bảo Ngài Thần Tú về suy nghĩ kỹ rồi làm bài kệ khác đem đến trình.

    Bởi cái thấy của chúng ta đã thật thì nhìn ra cái gì cũng thật, cũng như cái thấy của chúng ta sáng thì nhìn cái gì cũng sáng. Pháp không có lỗi, lỗi tại mắt chúng ta không sáng nên thấy các pháp có ngại, nếu mắt chúng ta thật sáng rồi nhìn ra đâu có gì ngại, mỗi mỗi đều tự sáng. Thấy tột như vậy đâu còn nghi ngờ, không nghi ngờ tức không do dự, vậy mới thật vào cửa. Còn do dự là biết còn ở ngoài chưa vào cửa.

    Đây cũng là kinh nghiệm nhắc cho tất cả nhất là trong nhà Thiền, khi thấy đến chỗ chân thật không bắt chước được, cái thấy của ai thì người ấy dùng. Nếu không phải thật thấy thì bị lộ ra ngay, người thật thấy nói ra thì người mắt sáng liền nhận biết. Người không thật thấy, dù cố nói hay nói khéo, nhưng đã không phải thật thì cũng lộ ra lời nói vay mượn, hoặc thuộc ý thức suy nghĩ.

    Hai ngày sau, có một chú bé đi qua chỗ giã gạo mới xướng tụng bài kệ ấy. Năng vừa nghe liền biết bài kệ này chưa thấy bản tánh, dù chưa được chỉ dạy mà đã sớm biết đại ý, liền hỏi chú bé:

    - Tụng đó là kệ gì?

    Chú bé đáp:

    - Ông mọi này chẳng biết, Đại sư bảo đời người sanh tử là việc lớn, muốn truyền trao y pháp mới bảo môn nhân làm kệ đến trình cho Ngài xem, nếu người ngộ được đại ý sẽ trao y pháp làm Tổ thứ sáu. Thượng tọa Thần Tú đã chép bày kệ này nơi vách hành lang phía nam. Đại sư bảo mọi người đều học thuộc, nương bài kệ này tu hành khỏi rơi vào đường ác.

    Năng nói:

    - Tôi cũng cần tụng bài kệ này để kết duyên đời sau đồng sanh nơi đất Phật. Thượng nhân! Tôi tới đây đạp cối giã gạo hơn tám tháng chưa từng đi lên nhà trên, mong thượng nhân dẫn tôi đến trước bài kệ làm lễ.

    Chính vì Ngũ Tổ bảo mọi người thắp hương đảnh lễ bài kệ này và y theo đó tu hành, cho nên mới có cơ duyên truyền đến chỗ Ngài Huệ Năng qua chú bé này.

    Ở đây Ngài Huệ Năng khiêm tốn gọi chú bé là thượng nhân, nhưng chú bé cũng có ý khinh thường, gọi Ngài là ông mọi này. Tuy nhiên, Lục Tổ không tự ái, Ngài nhờ dẫn lên chỗ bài kệ. Cho thấy Lục Tổ khi ấy chỉ lo làm việc ở nhà sau, không biết những sinh hoạt ở trong chùa nên không biết bài kệ đó ở chỗ nào.

    Chú bé dẫn Huệ Năng đến trước bài kệ làm lễ rồi nói:

    - Năng chẳng biết chữ, xin thượng nhân đọc dùm.

    Lúc đó có quan Biệt giá ở Giang Châu tên Trương Nhật Dụng liền đọc to lên, Năng nghe xong bèn nói mình cũng có một bài kệ mong quan Biệt giá chép dùm. Quan Biệt giá nói:

    - Người mọi, ông cũng làm kệ nữa à? Việc ấy hiếm có!

    Năng nói với quan Biệt giá:

    - Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học, người ở dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý chí. Nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội.

    Khi Lục Tổ được dẫn lên chỗ bài kệ, Ngài nói rõ là không biết chữ nên nhờ đọc dùm. Bởi cha Ngài mất sớm, phải lên rừng đốn củi bán nuôi mẹ thì đâu có thời gian học, lại ở vùng quê nên không biết chữ. Khi đó, quan Biệt giá ở Giang Châu tên Trương Nhật Dụng mới đọc to lên.

    Ngài Huệ Năng nghe xong, liền nói Ngài cũng có bài kệ, nhờ quan chép dùm.

    Quan Biệt giá này cũng có ý khinh thường, nói: “Người mọi, ông cũng có bài kệ nữa à?”. Cho nên Ngài Huệ Năng nhắc ông: “Người muốn học Vô thượng Bồ-đề chẳng thể khinh kẻ mới học, người ở dưới thấp lại có trí bậc trên cao, người bậc trên cao lại chôn vùi ý chí. Nếu khinh người tức có vô lượng vô biên tội”.

    Đây là kinh nghiệm để nhắc nhở cho những người học đạo phải biết. Chúng ta học đạo, nếu nhìn theo tinh thần của trong Đại thừa hay trong Thiền Tông thì tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nên không ai đáng khinh. Thân tướng bên ngoài do nghiệp riêng của mỗi người, nhưng cái thật bên trong thì không ai thua ai, không ai kém ai nên không dám khinh ai, đó là ngừa bệnh cũng là ngừa lỗi.

    Quan Biệt giá nói:

    - Ông hãy đọc kệ, tôi chép cho ông. Nếu ông đắc pháp phải độ tôi trước, chớ có quên lời này.

    Năng mới đọc kệ:

         Bồ-đề vốn không cội,

         Gương sáng chẳng phải đài.

         Xưa nay không một vật,

         Chỗ nào dính bụi đây.

    Âm:

         Bồ-đề bổn vô thọ,

         Minh cảnh diệc phi đài.

         Bản lai vô nhất vật,

         Hà xứ nhạ trần ai.

    Chép bài kệ xong, đồ chúng thảy giật mình, ai nấy đều hít hà cùng bảo nhau:

    - Lạ thay! Chẳng được lấy tướng mạo mà đoán người, đâu ngờ lâu nay đã sai khiến nhục thân Bồ-tát.

    Tổ thấy mọi người kinh lạ, sợ có kẻ làm hại Năng, bèn lấy giày chà hết bài kệ bảo:

    - Cũng chưa thấy tánh!

    Mọi người dừng hết nghi ngờ.

    Quan Biệt giá trước còn khinh Ngài Huệ Năng, khi được cảnh tỉnh, ông thấy ngay lỗi của mình nên lời nói khiêm tốn trở lại, cũng là người đáng quý.

    Khi đó Ngài Huệ Năng đọc bài kệ, đối lại bài kệ của Ngài Thần Tú.

    Kệ của Ngài Thần Tú:

         Thân là cây Bồ-đề.

         Tâm như đài gương sáng.

         Luôn luôn siêng lau chùi,

         Chớ để dính bụi nhơ.

    Kệ của Ngài Huệ Năng:

         Bồ-đề vốn không cội,

         Gương sáng chẳng phải đài.

         Xưa nay không một vật,

         Chỗ nào dính bụi đây.

    Nói Bồ-đề nhưng đó cũng chỉ là cái tên, tạm mượn dùng để gợi ý, chứ Bồ-đề chân thật vốn không có hình tướng thì đâu có cây, đâu có cội. Bồ-đề chân thật là tâm giác ngộ. Gương sáng là tự sáng, đâu phải sáng ở cái đài. Trong chỗ chân thật đó thì xưa nay vốn không một vật, không dính gì trong đó, vậy chỗ nào bụi dính được, đúng là thấy sâu trong tự tánh.

    Bài kệ của Ngài Thần Tú cũng hay, nhưng còn ở trên công phu tu hành, gạn lọc từ từ, thường xuyên lau chùi mới hết bụi nhơ. Còn Ngài Huệ Năng thấy thẳng xưa nay không một vật, bụi không chỗ dính thì lau chùi cái gì!

    Bài kệ được chép xong, trong đồ chúng đều giật mình, ngạc nhiên, hít hà khen hay. Ngũ Tổ thấy mọi người giật mình kinh lạ, sợ có người đố kỵ, tức là sợ có người suy nghĩ nếu Ngũ Tổ truyền Tổ vị cho Ngài Huệ Năng, ông cư sĩ mới hơn hai mươi tuổi, ở nhà quê gọi là người mọi, đến đây mới ít tháng mà làm Tổ, trong khi ta ở đây mấy năm rồi, nghĩ vậy thì dễ ganh tỵ, rồi tìm cách hại Ngài. Do đó Ngũ Tổ lấy giày chà bài kệ nói: “Bài kệ này cũng chưa thấy tánh”. Mọi người nghe theo, hết nghi ngờ, cũng đồng ý là chưa thấy tánh, thành ra đều lầm, chính vì vậy mà không ai để ý đến Lục Tổ nữa.

    Vậy là nghe Tổ khen thì khen theo, Tổ chê cũng chê theo, không có nhận định của chính mình. Chúng ta học đạo phải sáng suốt, phải có trí tuệ, có nhận định rõ ràng, xem xét sự việc có hợp lý, đúng với đạo lý hay không! Không phải nghe thầy khen thì khen theo, nghe thầy chê thì chê theo.

    Trong bản Đôn Hoàng, Lục Tổ đọc hai bài kệ.

    Bài kệ thứ nhất:

        Bồ-đề vốn không cây,

        Gương sáng cũng không đài.

        Phật tánh thường thanh tịnh,

        Chỗ nào có bụi nhơ.

    Bài kệ thứ hai:

        Tâm đó cây Bồ-đề,

        Thân là đài gương sáng.

        Gương sáng vốn thanh tịnh,

        Chỗ nào dính bụi nhơ.

    Âm:

        Bồ-đề bổn vô thọ,

        Minh cảnh diệc vô đài.

        Phật tánh thường thanh tịnh,

        Hà xứ hữu trần ai.

                     ***

        Tâm thị Bồ-đề thọ,

        Thân vi minh cảnh đài.

        Minh cảnh bổn thanh tịnh,

        Hà xứ nhiễm trần ai.

    Cũng nói lên ý nghĩa là Phật tánh thường thanh tịnh, không bụi nhơ nào có thể dính được.

    Hôm sau, Tổ thầm đến nơi giã gạo, gặp Năng lưng đeo đá giã gạo. Ngài nói:

    - Người cầu đạo vì pháp quên thân đến thế sao?

    Rồi hỏi:

    - Gạo trắng chưa?

    Năng thưa:

    - Gạo trắng đã lâu, chỉ còn thiếu cái sàng.

    Tổ lấy gậy gõ vào cối ba cái rồi đi. Năng hiểu ý Tổ, trống canh ba liền đi vào thất, Tổ lấy cà-sa che chung quanh chẳng cho ai thấy, vì nói kinh Kim Cang, đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” (tức là nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia), Huệ Năng ngay lời nói liền đại ngộ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, bèn kính bạch Tổ:

         Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh!

         Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt!

         Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ!

         Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động!

         Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp!

    Tổ biết đã ngộ bản tánh, tức gọi Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật.

    Đây là đoạn kế tiếp, hôm sau Ngũ Tổ thầm đến nơi giã gạo gặp riêng Ngài Huệ Năng, thấy Ngài lúc đó lưng đeo đá đang giã gạo. Vì thân Ngài ốm gầy, không đủ nặng để cất cái chày, phải mang đá thêm cho đủ nặng để khi đạp thì cái chày mới cất lên được, thật khổ nhọc như vậy. Ngũ Tổ cũng có cảm mới nói rằng “Người cầu đạo vì pháp mà quên thân mình đến vậy hay sao?” tức phải chịu khổ nhọc vậy hay sao?

    Đây muốn nhắc người cầu pháp hay cầu đạo, không nên quá trọng thân mà quên pháp, nên vì pháp quên thân. Người không khéo thì trọng thân mà quên pháp, nếu vậy không đạt đạo được.

    Nhân đó Ngũ Tổ hỏi “Gạo trắng chưa?” Đây là mượn chuyện gạo để ngầm chỉ nơi tâm, hỏi đến tâm, tức hỏi tâm ông thật có tinh thuần hay chưa?

    Ngài Huệ Năng thưa: “Gạo trắng đã lâu, nhưng chỉ còn thiếu cái sàng”. Tức chỉ chờ ấn chứng nữa là xong, không cần thêm gì khác. Tâm Ngài đã sẵn sàng.

    Ngũ Tổ mới lấy cây gậy gõ vào cối ba cái rồi đi. Nếu là mọi người thấy việc đó thì cho là bình thường, không thấy gì khác. Nhưng với Ngài Huệ Năng, khi này tâm đã sáng nên rất bén nhạy, thấy vậy là hiểu ý Ngũ Tổ thầm bảo canh ba hãy đến thất, nên trống đổ canh ba, Ngài vào thất của Ngũ Tổ.

    Ngũ Tổ lấy cà-sa che chung quanh thất để không ai thấy, rồi nói kinh Kim Cang cho Ngài Huệ Năng nghe, lúc này chỉ có hai thầy trò. Đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” tức nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Câu này nói đầy đủ là “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Nghĩa là không trụ nơi sắc mà sanh tâm, không trụ nơi thanh hương, vị, xúc, pháp mà sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Tức là không trụ nơi sáu trần, không bám vào bất cứ nơi đâu, thì chính ngay đó là gì?

    Nếu tâm chúng ta cũng được vậy thì bảo đảm ngộ đạo. Tâm không trụ vào trần thì đâu có trần nào che mờ được, ngay đó là sáng tỏ. Nay tâm chúng ta trụ đủ thứ nên không sáng được. Chúng ta chỉ cần khéo tu ngay đó là xong, tâm không trụ vào bất cứ một cái gì, thì có cái gì che ngại mà không sáng!

    Ngài Huệ Năng nghe đến đó liền đại ngộ, ngộ cái gì? Ngộ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, nơi tự tánh đã đầy đủ, đó gọi là thấy tánh, thấy đến tột nơi tự tánh, không có pháp nào ngoài tự tánh riêng có.

    Ngài Huệ Năng căn tánh thật bén nhạy sáng tỏ, trước giờ chưa nghe giảng kinh, hơn tám tháng ở dưới nhà sau giã gạo, không được lên trên nghe giảng. Khi ấy lần đầu nghe Ngũ Tổ giảng liền tỏ ngộ.

    Ở trước, khi gánh củi đến nhà khách, nghe người khách tụng kinh Kim Cang cũng có chỗ sáng tỏ, Ngài chỉ nói sáng tỏ mà không nói sáng tỏ thế nào. Đến đây, Ngài nói rõ ngộ được tự tánh, thấy rõ tất cả muôn pháp chẳng lìa tự tánh, mới kính bạch với Tổ, thốt lên năm câu đâu ngờ:

        - Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh, tự tánh đã sẵn thanh tịnh, không phải tu để làm cho nó thanh tịnh.

        - Đâu ngờ tự tánh vốn chẳng sanh diệt, xưa nay tự tánh không sanh diệt cũng không phải làm cho nó thành không sanh diệt.

        - Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ, trong đó tự đầy đủ, không phải được thêm gì nữa.

        - Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động, tự tánh sẵn lặng lẽ, không lay động được, không phải làm cho nó lặng lẽ nữa. Vậy thì không phải bỏ động cầu tịnh. Chúng ta thường tu là trừ cái động để được cái tịnh, thì cái tịnh đó chưa phải thật, tức cái tịnh này là đối với cái động kia, khi hết tịnh thì nó động lại. Tự tánh tịnh là không gì có thể làm cho nó động được.

        - Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp, không có pháp nào ngoài tự tánh riêng có, vậy đâu còn cầu cái gì khác.

    Ngài bộc lộ chỗ thấy ngoài sức suy nghĩ, ngoài sức tưởng tượng, nên nói “đâu ngờ”, bất chợt sáng tỏ ra! Chính đó mới là thật ngộ, còn suy nghĩ là chưa phải.

    Đây là Ngài xác quyết chỗ thấy trực tiếp, không qua trung gian của tình thức suy nghĩ. Chúng ta ngày nay có nhiều người cũng đã đọc kinh Pháp Bảo Đàn, đọc đến đây cũng có hiểu, nhưng ngộ thì chưa ngộ, vì sao? Tức là chưa thấy trực tiếp như Ngài Huệ Năng mà còn qua cái tưởng, qua tâm suy nghĩ, nói là hiểu chứ chưa phải thật hiểu. Đa số người học Phật lầm chỗ này rất nhiều, học được một ít rồi thấy như đã hiểu, tưởng ta hiểu, nhưng sự thật chưa phải thật hiểu. Cái hiểu đó là lượm lấy, lượm lấy cái hiểu của Phật của Tổ làm cái hiểu của ta, cho là ta hiểu, sự thật thì chưa phải cái thật hiểu của chính mình.

    Trong kinh, Phật gọi cái hiểu biết đó là tưởng tri chứ chưa phải thắng tri. Thắng tri là cái biết thù thắng. Còn tưởng tri là cái biết thuộc về tưởng, chưa phải là chân tri, chưa phải là cái thật biết của chính mình; tức là cái biết còn qua trung gian ý thức. Thế nên tuy hiểu nhưng vẫn chưa vào được cửa Tổ, còn ở ngoài cửa Tổ. Phải có sự tu tập, thực hành, một phen “À, đâu ngờ!” như Ngài Huệ Năng thì mới cảm thông được chỗ này.

    Đến đây Ngũ Tổ biết Ngài Huệ Năng đã ngộ được bản tánh, tức thấy tánh rồi, đạp được trên đất Phật, đáng là bậc Trượng Phu đầy đủ dũng khí để vượt lên trên đường giác ngộ, cũng là bậc Thiên Nhân Sư tức là bậc thầy của Trời người, là bậc giác ngộ thật sự.

    Như vậy, trước kia Tổ Bồ-đề Đạt-ma truyền kinh Lăng Già, đến Ngũ Tổ chú trọng kinh Kim Cang, Ngài thường giảng kinh Kim Cang. Ngài Huệ Năng lại nghe kinh thì đại ngộ. Như vậy đúng với tinh thần Thiền Giáo đồng hành. Kinh và Thiền không ngăn ngại nhau, không phải trọng Thiền mà phá bỏ Kinh. Hòa thượng Tôn sư ngày nay cũng ứng dụng tinh thần này.

    Canh ba, đã nhận lãnh pháp, không ai biết. Tổ liền truyền đốn giáo và y bát rồi nói:

    - Ngươi là Tổ đời thứ sáu, hãy khéo tự giữ gìn, rộng độ chúng sanh, truyền khắp mãi về sau chớ để đoạn dứt. Hãy nghe ta nói kệ:

         Có tình đến gieo giống,

         Nhân đất quả lại sanh.

         Không tình đã không giống,

         Không tánh cũng không sanh.

    Âm:

         Hữu tình lai hạ chủng,

         Nhân địa quả hoàn sanh.

         Vô tình ký vô chủng,

         Vô tánh diệc vô sanh.

    Bài kệ này trong bản kinh khác có sai biệt chút ít.

    Khi ấy, Lục Tổ vẫn còn cư sĩ, lại còn rất trẻ, chưa đến ba mươi tuổi, vậy mà được truyền y bát kế thừa Tổ vị, đó là một trường hợp đặc biệt! Phải nói rằng Ngũ Tổ cũng rất đặc biệt, dám đem cả một dòng Thiền truyền cho một anh cư sĩ trẻ, ít ai biết đến, chỉ hơn tám tháng ở nhà sau giã gạo, không có tiếng tăm, lại không biết chữ.

    Chính vì sự đặc biệt của hai vị Tổ nên sự truyền trao cũng phải đặc biệt, vì nhiều người không thể chấp nhận được việc này, không tin nổi. Vì không tin nổi thì sẽ gây hại Lục Tổ, nên phải thầm truyền không cho người khác biết. Đó là trường hợp đặc biệt, do hoàn cảnh chứ không có gì bí mật. Về sau có người mượn cớ này, bày ra cách truyền tâm ấn đặc biệt, truyền trong bí mật, thật không phải.

    Thiền sư Pháp Hội đến hỏi Mã Tổ:

    - Thế nào là ý Tổ sư từ Tây sang? (tức ý Tổ Bồ-đề Đạt-ma từ Ấn Độ sang)

    Mã Tổ bảo:

    - Ông hãy nói nhỏ nhỏ, lại gần đây ta nói nhỏ cho ông nghe.

    Ngài Pháp Hội đến gần, Mã Tổ cho một tát tai, bảo:

    - Chẳng thể cho người thứ ba biết, ông hãy đi, ngày mai đến.

    Hôm sau, Ngài Pháp Hội một mình đi vào pháp đường thưa với Mã Tổ:

    - Giờ thỉnh Hòa thượng nói!

    Mã Tổ bảo:

    - Ông hãy đi, đợi Lão Tăng thượng đường hãy ra hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh.

    Ngay đó Ngài Pháp Hội bỗng nhiên tỉnh ngộ, Ngài liền thưa:

    - Lễ tạ đại chúng chứng minh.

    Việc này rõ ràng, đâu có giấu giếm gì. Bảo đừng cho người thứ ba biết tức chỉ thầm biết, thầm nhận, đừng cho ý thức xen vào. Lẽ thật là như thế, là việc sẵn có nơi mọi người đều đầy đủ, không có bí mật gì. Tưởng có gì bí hiểm, đó là chỗ lầm lẫn của người. Nên Sư thưa: “Lễ tạ đại chúng chứng minh”.

    Ở đây, cốt là thầy trò tâm tâm thầm hợp với nhau, chủ yếu là chỗ đó, gọi là truyền pháp. Ấn tâm là chỗ đó, điều này vượt ngoài ngôn ngữ, ngôn ngữ không thể đến, cho nên gọi là thầm hiểu thầm nhận.

    Ngũ Tổ sau khi truyền y pháp thì nói kệ:

         Có tình đến gieo giống,

         Nhân đất quả lại sanh.

         Không tình đã không giống,

         Không tánh cũng không sanh.

    Bài kệ này cô đọng nên có nhiều cách hiểu, mỗi người tùy theo trình độ hiểu theo một cách.

    Có tình (hữu tình) cũng có nghĩa là hữu tình chúng sanh, là có tình thức, có nhận biết, có tâm. Có tình thức, đến gieo giống giác ngộ, cũng như có đất, gieo giống thì kết quả sẽ được thành tựu. Còn loài không tình tức loài vô tình như cây đá thì không có giống nên không gieo được, như không có căn tánh thì không sanh kết quả được.

    Bài kệ cũng có ý nghĩa nữa, người có tình tức là có tâm, có đủ niềm tin, có căn tánh thích hợp. Có tình như vậy, đến gieo giống nhân đó thì quả giác sẽ thành tựu, nảy mầm sẽ kết thành quả. Ngược lại, người không có tình tức là không có tâm tin nhận, không gieo trồng căn lành với pháp, vậy là thiếu căn tánh thì kết quả bất thành.

    Thế nên nói pháp phải biết căn cơ thích hợp mới được lợi ích lớn, không phải đụng đâu nói đó. Nhất là Thiền, gọi là Thiền đốn ngộ mà đụng đâu nói đó là nguy hiểm. Đi đâu, gặp người nào cũng nói Thiền tối thượng thừa, Thiền Tổ sư thì không có kết quả gì, đâu phải ai cũng nghe được, phải biết như vậy. Nhưng cũng có thể nói ngược lại, người có duyên lành nghe được pháp lành này mà có lòng tin, không sợ, không có nghi là đã có trồng sâu căn lành, thì càng củng cố niềm tin thêm để tiến bước.

    Về sau, Lục Tổ cũng từng dặn dò hàng môn nhân: “Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh (là đồng chỗ thấy, đồng hạnh nguyện, chỗ tu hành), phát nguyện thọ trì như thờ Phật (tức có lòng kính nhận), nên trọn đời chẳng lui sụt, nhất định sắp vào Thánh vị. Song, cần phải truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến đồng hạnh ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, vì sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không có ích gì. Sợ rằng người nghe chẳng hiểu mà chê bai pháp này thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật”.

    Lục Tổ dặn rõ, người phải đồng kiến đồng hạnh, nghĩa là có tâm tin nhận thích hợp thì truyền họ mới liền nhận. Người ở pháp khác không đủ lòng tin, nói ra họ nghe rồi sẽ chê bai không tin, sẽ đoạn mất hạt giống Phật, nên không nói thì hay hơn.

    Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa loại bỏ những người này. Không có lòng tin thì như vô tình nhưng khi họ phát khởi lòng tin thì có tình vì họ đều có tâm, có tâm thì họ cũng có thể phát khởi lòng tin trở lại. Khi đó, họ cũng có thể nhận lấy pháp này chứ không phải hoàn toàn như cây đá. Người truyền pháp phải có cái nhìn thấu đáo như vậy.

    Ngũ Tổ nói thêm:

    - Xưa, Đại sư Đạt-ma mới đến cõi này, người chưa tin biết, vì vậy mới truyền y này để làm chỗ y cứ cho người tin. Còn pháp, đời đời truyền thừa nhau ắt lấy tâm truyền tâm đều khiến tự ngộ, tự hiểu. Từ xưa, Phật Phật chỉ truyền bản thể, thầy thầy thầm trao bản tâm, y là đầu mối để tranh giành, hãy dừng nơi ngươi chớ truyền nữa. Nếu truyền y này thì mạng sống như tơ mành. Ngươi hãy đi nhanh, e có người sẽ hại ngươi.

    Nói về truyền y, Ngũ Tổ nói y chỉ là chỗ y cứ, là phương tiện để người có thêm lòng tin, làm Tổ không phải ở cái y. Còn pháp, là lấy tâm truyền tâm khiến người tự ngộ, tự hiểu. Chính chỗ tâm truyền mới là chỗ trọng yếu, đừng có lầm mà lo đi tranh giành cái y!

    Bởi hoàn cảnh thời Tổ Bồ-đề Đạt-ma sang Trung Hoa truyền pháp. Thứ nhất, Tổ là người Ấn Độ, người được pháp là Tổ Huệ Khả - người Trung Hoa, thế nên khi truyền pháp phải có y làm tin để người biết đây là được Tổ truyền trao. Thứ hai, thời gian đầu ít người biết, có khi các Ngài sống trong rừng, trong núi, thầy trò thầm truyền cho nhau, người ngoài ít biết, nên phải có y đó để làm tin. Về sau nhiều người biết, không cần y người cũng biết ai được truyền pháp.

    Nên đến đây, Ngũ Tổ bảo dừng việc truyền y, chỉ truyền pháp, quan trọng chỗ tâm tâm truyền nhau. Nhưng bản thể hay bản tâm đó có hình tướng gì mà truyền? Tuy nói truyền trao nhưng đó cũng là lối nói phương tiện, không phải có cái gì để truyền trao, cũng không có cái gì được mà nhận. Chỉ tâm thầy với tâm đệ tử khế hợp nhau gọi là truyền, không phải thầy có gì đem cho đệ tử.

    Hơn nữa, chỗ tâm truyền vốn không có hình tướng gì nên không ai giành giật được. Thế nên không sợ bắt chước, không sợ học lóm, nếu bắt chước học lóm thì biết ngay là thứ giả vì đâu thấy được chỗ đó. Tất cả nắm vững, hiểu được mấu chốt đó. Nhưng người vì còn mê, không biết, nghe truyền y bát được làm Tổ thì tưởng làm Tổ ở cái y cái bát cho nên giành nhau y bát, chính đó là mê lầm, khổ nạn.

    Năng thưa:

    - Con sẽ đi đâu?

    Tổ bảo:

    - Gặp Hoài thì dừng, gặp Hội thì ẩn.

     Huệ Năng vào canh ba nhận lãnh y bát rồi thưa:

    - Năng vốn là người vùng Lĩnh Nam, đã lâu chẳng biết rõ đường đi của núi này, làm sao ra được bến sông?

    Ngũ Tổ bảo:

    - Ngươi không phải lo, ta sẽ tự đưa ngươi đi.

    Cái khó nữa, khi Lục Tổ nhận y bát, Ngài không biết phải đi đâu, và chỉ ở nhà sau giã gạo mấy tháng không đi đâu, nên giờ không biết đường đi ra khỏi núi, nên thưa: “Con là người vùng Lĩnh Nam, không biết rõ đường ra núi này thì làm sao ra được bến sông”. Ngũ Tổ bảo: “Ngươi không phải lo, ta sẽ đưa ngươi đi”. Mới thấy chân tình của Ngũ Tổ, tình cảnh của thầy trò lúc này thật cảm động.

    Tổ đưa đến trạm Cửu Giang, bên trạm có chiếc thuyền, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo. Huệ Năng thưa:

    - Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo.

    Ngũ Tổ bảo:

    - Nên để ta độ ngươi.

    Huệ Năng thưa:

    - Khi mê thì thầy độ, ngộ rồi tự độ! Tuy cái tên độ là một mà chỗ dụng chẳng đồng. Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính, được thầy trao pháp, nay đã được ngộ chỉ nên tự tánh tự độ.

    Tổ bảo:

    - Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi mà được truyền rộng. Ngươi đi ba năm ta sẽ qua đời. Nay ngươi hãy khéo đi, gắng sức về phương Nam, chẳng nên nói sớm, Phật pháp có nạn khởi.

    Năng từ giã Tổ, cất bước đi về phương Nam, khoảng hai tháng thì đến ngọn Đại Dữu.

    Ngay trong đêm, Ngũ Tổ đưa Lục Tổ đến trạm Cửu Giang. Cửu Giang hiện nay là huyện Cửu Giang, tỉnh Giang Tây, bên bờ sông lớn. Trạm là nơi chuyển tiếp để truyền văn thư, ngày xưa dùng ngựa làm phương tiện đưa tin, đưa thư từ nơi này đến nơi kia. Khi đưa đến trạm, có thuyền sẵn bên bờ sông, Ngũ Tổ cầm chèo tự chèo, Lục Tổ nói: “Thỉnh Hòa thượng ngồi, đệ tử nên chèo”. Ngũ Tổ bảo: “Nên để ta độ ngươi”. Chữ độ đây có hai nghĩa: Độ là đưa qua sông, mà Độ cũng có nghĩa là cứu độ, độ thoát. Lục Tổ nhân đó mới thưa: “Khi mê nhờ thầy độ, ngộ rồi thì tự độ”. Độ này không có nghĩa đưa qua sông mà có nghĩa cứu độ.

    Cho nên Lục Tổ nói: “Tuy tên độ là một mà chỗ dụng chẳng đồng, Huệ Năng sanh ở vùng biên địa xa xôi, giọng nói chẳng chính”. Ngài sanh ở vùng biên địa xa xôi, chữ Hán gọi là “Cát lạo”, chỉ cho người chưa có khai hóa, nói năng không chính, chữ độ nói lệch ra thành cứu độ. Mượn việc qua sông để nói lên chỗ sống nơi chính mình, không lệ thuộc bên ngoài, từ nơi tự tâm sáng tỏ mà bộc lộ ra. Tự tánh tự độ, là không ỷ lại, nương tựa bên ngoài, có đủ lòng tự tin nơi chính mình.

    Ngũ Tổ nghe khẩu khí như vậy thì vui mừng, biết rằng gặp được bậc pháp khí có lợi ích lớn cho Phật pháp sau này. nên bảo: “Đúng thế! Đúng thế! Về sau Phật pháp sẽ do ngươi được truyền rộng”.

    Ngũ Tổ cũng dặn dò thêm là không được nói pháp sớm vì Ngài biết trước sẽ có nạn, có nhiều người hại. Mới thấy rằng cái thấy của Ngũ Tổ rất sáng suốt, thấy cả tương lai, Ngài còn dự báo sau khi Lục Tổ đi, ba năm sau Ngài sẽ tịch.

    Sau đó, Lục Tổ một mình đi về phương Nam, lúc này đi đơn độc một mình. Khoảng hai tháng đến ngọn Đại Dữu. Ngọn núi này, cũng gọi là ngọn Thai Lãnh là một trong Ngũ Lãnh. Chính nơi đây xảy ra chuyện giành y.

    Ngũ Tổ trở về, mấy ngày chẳng thượng đường, chúng mới nghi đến thăm hỏi:

    - Hòa thượng có bệnh hoạn gì chăng?

    Tổ bảo:

    - Không có bệnh gì, chỉ y pháp đã về phương Nam rồi!

    Chúng hỏi:

    - Ai được truyền trao?

    Tổ bảo:

    - Năng thì được.

    Bấy giờ, chúng mới biết chuyện.

    Ngũ Tổ lại nói khéo, không nói dối mà nói lời hai nghĩa, nói: “Năng thì được”. Nghĩa là người có khả năng thì được, nhưng cũng chỉ cho Lục Tổ tên Năng. Nhưng sau đó chúng cũng biết (nghe Ngũ Tổ nói vậy, lại thấy Huệ Năng vắng bất ngờ nên biết được). Đoạn này có thể do người sau nghe kể lại nên thêm vào, vì khi đó Lục Tổ đã âm thầm một mình đi lánh nạn.

    Mấy trăm người đuổi theo sau muốn đoạt y bát. Một vị tăng tên Trần Huệ Minh, trước kia là tướng quân tứ phẩm, tánh hạnh thô tháo, quyết lòng tìm kiếm, chạy trước mọi người, đuổi kịp Năng. Năng bỏ y bát trên tảng đá rồi nói:

    - Y này là vật tiêu biểu để làm tin, có thể dùng sức để tranh sao?

    Năng liền ẩn vào bụi cỏ rậm, Huệ Minh chạy đến kéo y bát lên chẳng nhúc nhích, mới gọi to:

    - Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp mà đến, chẳng phải vì y mà đến.

    Năng bèn bước ra ngồi trên tảng đá, Huệ Minh làm lễ, nói:

    - Mong hành giả vì tôi mà nói pháp.

    Huệ Năng bảo:

    - Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe.

    Im lặng giây lâu, Huệ Năng bảo Minh:

    - Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?

    Huệ Minh ngay câu nói liền đại ngộ, rồi hỏi thêm:

    - Ngoài lời mật, ý mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa chăng?

    Năng bảo:

    - Đã nói với ông thì tức là chẳng phải mật, nếu ông xoay ngược trở lại thì mật ở bên ông.

    Minh mới nói:

    - Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai mà thật chưa tỉnh được mặt mày của chính mình. Nay được chỉ dạy, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Giờ đây hành giả chính là thầy của Huệ Minh vậy.

    Năng bảo:

    - Nếu ông như thế thì tôi cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy, hãy khéo tự giữ gìn.

    Minh hỏi thêm:

    - Từ nay về sau Huệ Minh sẽ đi đâu?

    Năng bảo:

    - Gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở.

    Huệ Minh kính lễ rồi từ giã. Huệ Minh trở xuống, đến dưới núi, bảo với những người đuổi theo:

    - Đã trèo lên chót vót, trọn không thấy dấu vết gì, thôi hãy tìm theo lối khác.

    Mọi người đều cho là phải. Về sau, Huệ Minh đổi tên là Đạo Minh để tránh chữ trên của tên thầy.

    Đúng như lời dự đoán của Ngũ Tổ, sau đó có mấy trăm người đuổi theo muốn đoạt y bát lại. Cho thấy rằng, tuy những vị này ở với Ngũ Tổ, học với Ngũ Tổ, tu với Ngũ Tổ nhưng chưa đủ lòng tin với Tổ, chỉ nghĩ theo cái nghĩ của mình, tức là nghĩ theo cái “ta vô minh” này. Cho nên không chấp nhận được việc làm của Ngũ Tổ, cùng nhau rượt theo đoạt y bát lại chứ không chịu thuận theo.

    Những vị này nghĩ rằng, đáng lẽ Tổ truyền y bát cho Ngài Thần Tú thì đâu có chuyện gì, không biết Tổ nghĩ sao mà truyền y bát cho ông cư sĩ? Thành ra không chấp nhận được, rõ ràng chưa đủ lòng tin với Ngũ Tổ. Nếu đủ lòng tin thì biết Ngũ Tổ truyền là có ý của Ngũ Tổ, Ngài truyền cho người đáng được truyền, vậy đâu có chuyện gì.

    Trong đó, có vị tăng tên Trần Huệ Minh trước khi đi tu là vị tướng võ nên có sức mạnh, chạy trước mọi người, đuổi kịp Lục Tổ. Lục Tổ để y bát trên đá rồi ẩn vào bụi cỏ rậm. Trần Huệ Minh chạy đến thấy y bát, kéo y bát lên không nhúc nhích. Chuyện này ngoài sức hiểu tầm thường, cũng ngoài cái sức hiểu của khoa học, y bát đâu thể nặng đến nỗi kéo không lên. Bây giờ nhiều người ỷ lại vào khoa học, nhưng khoa học cũng có giới hạn, có những cái khoa học không biết tới, nhưng khoa học không biết tới không phải là không có.

    Huệ Minh biết rằng có sức mạnh đặc biệt nào đó ngoài sức tưởng tượng của con người. Ngay đó, ông chuyển ý trở lại, từ tâm ác muốn đoạt y bát, liền chuyển lại thành tâm thiện cầu pháp. Ông cũng còn có chủng tử tốt lành, ngay đó chuyển liền. Cũng để cho chúng ta thấy rằng, niệm thiện niệm ác cũng không cố định, không phải sẵn có trong tự tánh. Do đó chúng ta tu không phải quá mặc cảm, không phải quá sợ, người khéo liền chuyển niệm ác thành niệm thiện.

    Huệ Minh gọi: “Hành giả! Hành giả! Tôi vì pháp đến, không phải vì y đến”. Gọi là hành giả vì Lục Tổ khi ấy chưa cạo tóc, còn hình thức cư sĩ. Lục Tổ mới bước ra, ngồi trên tảng đá. Huệ Minh đến làm lễ. Một ông tăng mà dám lễ ông cư sĩ, cho thấy rằng bấy giờ ông thực sự chuyển ý, đầy đủ lòng kính trọng, chân thành cầu pháp, vì pháp mà đến.

    Lục Tổ bảo: “Ông đã vì pháp mà đến, hãy dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, tôi sẽ nói cho ông nghe”. Đây là chỗ trọng yếu, cũng là bài học cho chúng ta học khi nghe pháp, học pháp. Trước khi nói pháp, Lục Tổ gạn lại để ông thật sự tĩnh tâm, không nghĩ ngợi lăng xăng, phải dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm. Nghĩa là muốn nghe pháp thì sao? Phải chuyên tâm, nhất ý, sẵn sàng để đón nhận, vậy mới nghe nhận được chỗ sâu xa của pháp. Tâm còn nghĩ lăng xăng thì làm sao nhận được pháp! Đó là kinh nghiệm cho người học pháp.

    Lục Tổ im lặng giây lâu cho ông lắng lòng chú tâm trở lại, rồi bảo: “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay của Thượng tọa Minh?”. Ngay câu đó, ông đại ngộ. Theo pháp sư Diễn Bồi, trong nguyên bản không có câu “Huệ Minh ngay câu nói liền đại ngộ”. Câu này do người sau thêm vào cho đủ nghĩa, hoặc câu này là lời chú thích về sau được nhập vào chánh văn, nguyên bản không có câu này.

    Đây chính là tâm truyền tâm. Chỉ câu nói nhẹ mà ngay đó Huệ Minh đại ngộ. Bởi trước khi nói, Lục Tổ bảo ông phải dứt bặt các duyên, chớ sanh một niệm, ngay đó mới nhận được. Thường thường người học chỉ chú ý chỗ “chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác”. Mà quên mất chỗ trọng tâm là “Chính khi ấy, cái gì là mặt mày xưa nay?”. Cái đó vượt qua cả thiện ác. Đó là đem tâm truyền tâm. “Chính khi ấy”, “ngay chỗ đó”, ông thấy được tâm ông như vậy thì ông thấy được tâm tôi như vậy, khế hợp nhau. Điều quan trọng là tâm trò phải thật sự sẵn sàng, nếu thật đã sẵn sàng thì ngay đó liền bật ra, tâm trò khế hợp với tâm thầy! Chỗ này, ngôn ngữ không thể nói đến được, gọi là tâm truyền tâm.

    Khi tỏ ngộ rồi, Ngài Huệ Minh hỏi thêm: “Ngoài ý mật, lời mật từ trước đến đây, còn có ý mật nào nữa hay không?” Ông nghĩ còn có bí mật nào nữa. Lục Tổ bảo rõ, đã nói với ông thì đâu còn mật! Nếu nói ra thì hết mật rồi. Nhưng chủ yếu là ông khéo soi trở lại nơi chính mình thì cái mật ở ngay chính ông, tức ngay đó ông sẽ tự mình thầm nhận lấy. Mới thấy rằng còn tình mê thì thấy giống như có gì bí mật, Tổ không nói ra hết. Khi tâm sáng rồi, ngộ rồi thì thấy rõ ràng, đơn giản, không có gì xa xôi.

    Ngài Huệ Minh tự bày chỗ hiểu của mình, giống như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Mình nhận ra tự mình biết, khó nói cho người. Chỗ đó, ngôn ngữ không diễn bày hết được, ai đến thì tự biết. Thế nên chỗ này không bắt chước được, học giả không thể học đến. Phải là hành giả, thực hành mới thể nghiệm được, chứng nghiệm được trong đó.

    Ngài Huệ Minh cảm kích, xin nhận Lục Tổ làm thầy. Lục Tổ khéo léo, khiêm tốn nói “Ông cùng tôi thờ Ngũ Tổ làm thầy”. Huệ Minh đi xuống núi, đánh lạc hướng những người chạy đuổi theo, Lục Tổ thoát nạn.

    Về sau, Huệ Minh đổi tên là Đạo Minh, tránh chữ Huệ trùng tên của Lục Tổ là Huệ Năng, Ngài kính trọng Lục Tổ như kính trọng thầy. Rồi ông qua ở nơi đài Bố Thủy tại Lô Sơn, ở đây trải qua ba năm, ông đi đến trụ ở Mông Sơn thuộc Viên Châu, đúng như Lục Tổ dự ký “gặp Viên thì dừng, gặp Mông thì ở”.

    Đến đây, Lục Tổ thoát nạn bị người rượt đuổi theo giành y bát lại. Nhưng sau này Ngài cũng còn bị những người ác tìm theo hại nên phải ẩn tiếp 15 năm nữa.

    Trong Tổ Đường Tập có đoạn ghi:

    Ông Vi Trung Thừa (ông quan có học thiền), một hôm ông hỏi Ngài Ngưỡng Sơn:

    - Ngũ Tổ vì sao lại phân phó y bát cho Huệ Năng mà chẳng phân phó cho Thần Tú? Sau khi đã phân phó, vì sao Huệ Minh lại từ nơi Ngũ Tổ đuổi theo đến ngọn Đại Dữu đoạt y bát kia? Rồi có ý gì chẳng được y mà quay về? Tôi từng hỏi chư Tăng trong thành, nhưng mỗi người nói mỗi khác, tôi thường nghi về việc này. Hòa thượng kế thừa có thầy, mong giải thích cho.

    Tức ngay thời của Ngài Ngưỡng Sơn, việc này mỗi người giải thích có sai biệt. Ông Vi Trung Thừa nghe vậy thắc mắc, đem ra hỏi Ngài Ngưỡng Sơn.

    Ngài Ngưỡng Sơn đáp:

    - Đây là việc trong tông môn. Tôi từng ở chỗ tiên sư (chỗ Ngài Quy Sơn) có nghe nói: “Lúc ấy dưới Ngũ Tổ có 700 Tăng, Ngũ Tổ sắp thiên hóa (sắp tịch), Ngài muốn tìm người để truyền pháp và phân phó y bát. Trong chúng có vị Thượng tọa tên Thần Tú làm bài kệ trình Ngũ Tổ (bài kệ có chút ít sai biệt):

        Thân là cây Bồ-đề,

        Tâm như đài gương sáng.

        Luôn luôn siêng lau chùi,

        Chớ để có bụi bặm.

    Sau đó, ở trong chỗ giã gạo, Lư hành giả (Ngài Huệ Năng họ Lư, khi ấy còn để tóc, chưa phải người xuất gia nên gọi Lư hành giả) nghe bài kệ này, bèn làm bài kệ trình lên Ngũ Tổ:

        Bồ-đề vốn không cội,

        Gương sáng chẳng phải đài.

        Xưa nay không một vật,

        Chỗ nào có bụi bặm?

    Ngũ Tổ thấy bài kệ này, đồng thời Ngài cũng không nói gì. Đến trong đêm, Ngũ Tổ bảo một đồng tử đến chỗ giã gạo gọi hành giả đến (lâu nay trong kinh Pháp Bảo Đàn nói Ngũ Tổ tự đến chỗ giã gạo). Hành giả đi theo đồng tử đến chỗ Ngũ Tổ, Ngũ Tổ sau đó đuổi đồng tử đi, bèn đổi tên Lư hành giả là Huệ Năng (trong đây nói lúc này mới đổi tên thành Huệ Năng), trao y bát, truyền cho là Tổ đời thứ sáu. Ngũ Tổ nói với hành giả:

    - Tú ở ngoài cửa, còn Năng thì được vào cửa, được ngồi mặc áo, về sau tự xem. Hai mươi năm chớ hoằng truyền giáo của ta, sẽ có nạn khởi. Sau khi qua khỏi thời gian này hãy khéo dẫn dạy cho người mê.

    Huệ Năng hỏi:

    - Phải đi nơi nào để tránh nạn?

    Ngũ Tổ bảo:

    - Gặp Hoài thì ẩn, gặp Hội thì tránh, đổi họ, đổi tên tức sẽ được an ổn.

    Hành giả đã được phó chúc y bát, ngay nửa đêm liền ra đi hướng về Lãnh Nam. Sau năm ngày, Ngũ Tổ nhóm chúng bảo:

    - Trong đây không có Phật pháp! (ngầm chỉ đã truyền pháp cho Lục Tổ)

    Chúng Tăng hỏi Ngũ Tổ:

    - Y bát phân phó cho người nào?

    Ngũ Tổ bảo:

    - Năng thì được.

    Chúng Tăng bàn bạc với nhau về hành giả ở chỗ giã gạo (hành giả chỗ giã gạo đã vắng mặt, lại được đồng tử tiết lộ là Ngũ Tổ bảo dẫn hành giả lên phòng). Chúng Tăng biết Lư hành giả đem y bát về Lãnh Nam, chúng Tăng đuổi theo. Trong đó có vị tăng vốn từ quan là tướng quân tam phẩm tên Trần Huệ Minh đi vào đạo, vượt cả trong đêm đuổi theo đến ngọn Đại Dữu. Hành giả biết có người đuổi đến, bèn để y bát lại, vào trong rừng ngồi trên tảng đá để tránh. (ngày nay ở núi này còn viên đá tránh nạn gọi là Tỵ Nạn Thạch)

    Huệ Minh đi lên ngọn núi, thấy y bát, tiến tới lấy tay kéo lên nhưng y bát không nhúc nhích, ông tự biết mình sức còn mỏng (đức còn mỏng). Ông đổi ý, bèn vào núi tìm hành giả. Trên núi cao, trong rừng, gặp hành giả ngồi trên tảng đá. Hành giả từ xa thấy Huệ Minh tới, mới bảo:

    - Tổ của tôi phân phó y bát, tôi rất mực từ chối chẳng nhận, nhưng Tổ truyền. Tôi tuy đã đem đi nhưng hãy còn ở trên ngọn núi, Thượng tọa muốn cần thì xin mời hãy lấy đem đi!

    Huệ Minh đáp:

    - Tôi chẳng phải vì y bát đến mà vì pháp đến. Chẳng biết hành giả khi rời Ngũ Tổ có ý mật, lời mật gì, mong nói cho tôi được nghe!

    Hành giả thấy ông tha thiết cầu nên bảo:

    - Ông hãy ngồi ngay ngắn trên tảng đá, lặng hết những nghĩ ngợi.

    Rồi bảo:

    - Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác! Chính khi chẳng sanh nghĩ ngợi như thế, hãy trả lại mặt mày của Thượng tọa Minh xưa nay xem!

    Huệ Minh hỏi thêm:

    - Từ trước, ý mật tức cái này phải chăng? Hay riêng còn có ý chỉ?

    Hành giả bảo:

    - Tôi hiện nay đã nói rõ cho ông rồi thì đã thành chẳng mật. Nếu ông tự nhận được mặt mày chính mình thì cái mật tức ở bên ông.

    Huệ Minh nói với hành giả:

    - Ngài ở bên thân Hòa thượng tại Hoàng Mai, ý chỉ lại thế nào?

    Hành giả bảo:

    - Hòa thượng xem tôi đối với kệ của Thượng tọa Tú liền biết ý vào cửa của tôi, liền ấn khả cho Huệ Năng mà bảo: “Tú ở ngoài cửa, còn Năng được vào cửa, được ngồi mặc áo về sau tự xem. Y, bát này từ trước đến nay trao truyền rất cần phải được người. Tôi nay trao cho ngươi, hãy gắng sức đem đi. Hai mươi năm chớ có hoằng truyền giáo của tôi, sẽ có nạn khởi. Sau khi qua khỏi thời gian này rồi, hãy khéo dẫn dạy cho người mê”. Huệ Năng hỏi: “Sẽ ở nơi nào có thể tránh nạn?”. Ngũ Tổ bảo: “Gặp Hoài thì ẩn, gặp Hội thì trốn. Đổi họ đổi tên sẽ được an ổn”.

    Huệ Minh nói:

    - Bấy giờ Huệ Minh tuy ở Hoàng Mai được cạo tóc, mà thật chẳng rõ biết mặt mày của Thiền Tông, nay nhờ được chỉ cho chỗ vào, như người uống nước, lạnh nóng tự biết. Từ nay về sau, hành giả tức là thầy của Huệ Minh, giờ đây xin đổi hiệu là Đạo Minh.

    Hành giả nói:

    - Ông nếu như thế, tôi cũng như thế, cùng ông đồng thờ Hoàng Mai làm thầy chẳng khác, hãy khéo tự giữ gìn.

    Đạo Minh thưa:

    - Hòa thượng hãy đi nhanh về phương Nam, ở phía sau có rất nhiều người đuổi theo Hòa thượng, đợi Đạo Minh tạm chỉ cho họ quay lại. Nay xin kính lễ từ giã Hòa thượng, sẽ đi về phương Bắc.

    Đạo Minh ở trên núi chia tay xong, bèn tiến bước đi về phương Bắc. Đến Kiền Châu, quả nhiên ông gặp hơn 50 vị tăng đuổi đến tìm Lư hành giả. Đạo Minh nói với họ:

    - Tôi ở trên ngọn Đại Dữu thuộc trấn Hoài Hóa năm sáu ngày đợi xem, tìm hỏi những nơi trọng yếu qua lại, đều chẳng thấy bóng dáng người này đi qua.

    Mọi người lại đi về phương Bắc tìm kiếm, và nói: “Người ấy đã đeo đá giã gạo, lưng có bị tổn thương, trên đường đi e cũng gặp khó khăn”.

    Sau khi chia tay với mọi người, Đạo Minh một mình đi qua Bố Thủy Đài ở Lô Sơn. Trải qua ba năm, lại trở về Mông Sơn tu hành. Sau này có đồ đệ, thảy đều chỉ dạy đến Lĩnh Nam lễ bái chỗ Lục Tổ. Đến nay, linh tháp ở Mông Sơn vẫn còn.

    ***

    Sau đó, Năng đến Tào Khê lại bị người ác đuổi tìm, bèn tránh nạn ở Tứ Hội, lẫn ở trong đám thợ săn cả thảy 15 năm. Lúc đó, tùy nghi thuyết pháp cho thợ săn nghe. Thợ săn thường sai Năng giữ lưới, mỗi khi gặp con vật mắc lưới trọn đều thả hết. Đến giờ cơm thì lấy rau gởi luộc trong nồi thịt, có ai hỏi thì đáp:

    - Chỉ ăn rau bên thịt.

    Khi Ngài Huệ Minh xuống núi đánh lạc hướng nhóm người đuổi theo, Lục Tổ đi đến Tào Khê, lại bị một số người ác đuổi tìm nên phải ẩn tránh nơi huyện Tứ Hội (thuộc tỉnh Quảng Đông). Lúc này, Ngài sống chung trong nhóm thợ săn để không ai chú ý đến. Ngài cũng phương tiện thuyết pháp cho họ, thợ săn sai Ngài giữ lưới, Ngài thả hết những con vật mắc lưới, ăn uống cũng phải tùy phương tiện, tức ăn rau bên thịt. Đây là trường hợp bất đắc dĩ, tùy duyên nhưng không vướng mắc. Thời gian này là thời gian ẩn náu lánh nạn bặt tin tức ở bên ngoài.

    Một hôm, Năng mới suy nghĩ: “Đã đến thời hoằng pháp, chẳng thể ẩn mãi”, bèn ra chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu, gặp Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn. Lúc đó gió thổi phướn động, một vị tăng bảo:

    - Gió động.

    Một vị khác bảo:

    - Phướn động.

    Cứ bàn mãi không thôi. Năng tiến lên nói:

    - Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm của Ngài động.

    Cả chúng kinh hãi, Ấn Tông mời lên trên, gạn hỏi nghĩa sâu xa. Thấy Năng lời lẽ giản dị, lý lại xác đáng, không theo văn tự, Ấn Tông nói:

    - Hành giả nhất định chẳng phải người thường. Từ lâu đã nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?

    Năng nói:

    - Chẳng dám!

    Khi đó Ấn Tông làm lễ, xin đem y bát ra chỉ cho đại chúng xem.

    Qua thời gian lánh nạn ẩn náu, Tổ thấy thời cơ hoằng pháp đã đến bèn đi ra, đến chùa Pháp Tánh ở Quảng Châu. Lúc này gặp Pháp sư Ấn Tông đang giảng kinh Niết Bàn, rồi có câu chuyện gió động và phướn động, nhân đó mà lộ tung tích.

    Ngài Ấn Tông ở huyện Ngô thuộc Giang Tô. Khoảng năm đầu niên hiệu Hàm Hanh đời Đường, Sư đến kinh sư, được sắc ở chùa Đại Kính Ái nhưng Sư cố từ chối. Sư đến Kỳ Châu gặp Tổ Hoằng Nhẫn, sau đó đến ở chùa Pháp Tánh trong thành Quảng Châu.

    Khi này, Pháp sư Ấn Tông giảng kinh Niết Bàn, trong hội giảng kinh nên bên ngoài có treo phướn. Nhân gió thổi, lá phướn bay phất phới. Hai vị tăng tranh luận, một vị bảo phướn động, một vị bảo gió động. Cứ thế, tranh luận không ra lẽ, bởi vì sao? Cả hai vị tăng đều chỉ thấy một bên.

    Lục Tổ khi đó còn hình thức cư sĩ, thấy hai vị tăng luận mãi không ra lẽ nên xin đóng góp ý kiến. Ngài nói: “Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, chính tâm của Ngài động”. Chỉ câu nói đơn giản như thế thốt ra mà mọi người có mặt khi đó đều kinh ngạc vì thấy câu trả lời đặc biệt, chí lý. Không ngờ một ông cư sĩ nói ra lời đạo lý hay như thế, nên vào thuật lại với Ngài Ấn Tông. Ngài Ấn Tông mời lên phía trên tức tỏ vẻ trân trọng, gạn hỏi những ý nghĩa sâu xa của Phật pháp. Lục Tổ đối đáp lời lẽ xác đáng, nhưng bình dị, không kẹt về hình thức chữ nghĩa. Ngài Ấn Tông biết vị này có chỗ sáng tỏ từ nội tâm nói ra. Bởi Ngài Ấn Tông cũng đã từng gặp Ngũ Tổ, cho nên nghĩ rằng đây phải là người trong cửa Tổ mới được vậy, mà lâu nay nghe nói y bát về phương Nam, có lẽ là vị này. Ngài nghi như vậy nên gạn hỏi: “Hành giả nhất định không phải người thường, từ lâu nghe y pháp của Hoàng Mai về phương Nam, phải là hành giả chăng?” Lục Tổ bảo: “Chẳng dám!”, nghĩa là ngầm nhận, nói lời khiêm tốn.

    Vì sao chỉ có một câu nói đơn giản “chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, tâm nhân giả động” mà làm mọi người kinh ngạc, rồi Ngài Ấn Tông cũng thấy được mới mời lên.

    Nói theo nhà Thiền thì hai vị tăng này quên mình theo vật, duyên theo tướng bên ngoài, theo tướng gió, theo tướng phướn, tức duyên theo trần, rồi mất mình lúc nào không hay. Phải thấy được lỗi đó, chỉ thấy một bên hoặc gió hoặc phướn mà quên mất chính mình, cứ bàn luận theo trần. Nhưng gió, phướn có biết động không? Nó là vật vô tri, đâu có biết động biết tịnh, nói nó động thì nó không cãi, nói nó tịnh nó cũng không cãi. Nếu thấy trở lại tâm thì hết tranh luận. Nói cho rõ, động là ở nơi tâm. Do không thấy được cái gốc nên tranh mãi. Người nói được như vậy, thấy được ý sâu xa trong đó thì đâu phải tầm thường.

    Tuy nhiên, người ngày nay đọc kinh Pháp Bảo Đàn nhiều, rồi theo đó mà cũng nói là tâm ông động, nhưng nói đó chỉ là nói theo, bắt chước theo Lục Tổ nói lại chứ chưa phải thật sự chính mình thấy như vậy. Chỗ này, nhiều người vẫn còn mắc kẹt. Học kinh Pháp Bảo Đàn rồi nói cho hay nhưng cũng thuộc về kiến giải suông.

    Như câu chuyện ni sư tên Diệu Tín là đệ tử Thiền sư Ngưỡng Sơn - Huệ Tịch. Nhân vị tri khách trong viện nghỉ việc, Ngài Ngưỡng Sơn sai ni sư Diệu Tín đảm trách tri khách để tiếp đãi khách. Một hôm, có 17 vị tăng hành cước từ Tứ Xuyên đến viện định gặp Thiền sư Ngưỡng Sơn hỏi đạo, nhưng chưa được gặp. Về chiều có thời gian rảnh, những vị tăng hành cước thảo luận về Phật pháp, nói một lúc, lại nói đến chuyện gió động phướn động. Nhưng luận mãi không ra lý, trở thành tranh cãi ồn ào.

    Ni sư Diệu Tín nghe vậy, liền lớn tiếng quở:

    - Mười bảy vị ở ngoài cửa, sáng mai ra đi phải tính tiền phòng cho tôi rõ ràng.

    Những vị tăng hành cước thấy ni sư nói có vẻ nghiêm túc, im lặng nhìn nhau, chưa biết phải làm thế nào. Ni Diệu Tín nói tiếp:

    - Các vị chẳng cần phải tranh cãi nữa, các vị hãy đến trước tôi, tôi sẽ vì nói.

    Mười bảy vị tăng đến trước ni Diệu Tín. Ni sư nói:

    - Đã chẳng phải là gió động, cũng chẳng phải là phướn động thì đâu thể cho là tâm động!

    Cả mười bảy vị tăng nghe qua chợt sáng tỏ ý này, tâm cởi mở, cùng nhau bàn:

    - Không cần phải đợi gặp Thiền sư Ngưỡng Sơn thượng đường khai pháp để hỏi gì nữa.

    Ngày sau, họ bèn cáo biệt ra đi.

    Những vị tăng này dùng thời gian rảnh rang bàn Phật pháp cũng là hay, có nhiều vị rảnh rang chỉ bàn chuyện tạp nhạp. Ngài Quy Sơn từng quở: “Tụm đầu bàn nói lăng xăng, toàn những chuyện tạp nhạp thế gian”. Ở đây, đề tài bàn luận về việc phướn động gió động nhưng giải quyết không xong.

    Ni sư Diệu Tín đánh thức trở lại, gợi ý cho những vị tăng đi sâu vào vấn đề: Đã chẳng thành gió động, chẳng thành phướn động, vậy tâm nhân đâu mà động! Tâm động phải có cảnh động, cảnh không động làm sao tâm động được! Ni sư này sáng tỏ được chính mình không phải bắt chước nói theo, vậy mới là thật thấy, không phải theo lời mà sanh hiểu.

    Ngày nay, nhiều người nghe rồi bắt chước nói: Chẳng phải gió động, chẳng phải phướn động, mà tâm động. Nói như vậy nhưng không thật sự hiểu, không thấy được ý đó; chỉ nói theo một chiều tâm động mà không có cái thấy của chính mình, tức là gió không thành động, phướn không thành động, tâm bám vào chỗ nào để thành động. Thấy sâu đến như vậy mới thấy thấu vấn đề.

    Trước, Lục Tổ vì cảnh tỉnh cho hai vị tăng nên nói do tâm động. Chúng ta phải thấy sâu vấn đề một cách đầy đủ chứ không phải bắt chước nói theo. Học thiền là không phải nhái lại, không phải nhai đi nhai lại lời đó mãi, gọi là chạy theo đuôi, mà phải tự mình mở sáng chỗ thấy chân thật nơi chính mình. Đó là bài học để ngăn ngừa người sau bắt chước nói theo.

    Ấn Tông hỏi thêm:

    - Hoàng Mai phó chúc, truyền dạy thế nào?

    Năng đáp:

    - Không có gì truyền dạy, chỉ luận về kiến tánh, chẳng bàn thiền định giải thoát.

    Ấn Tông hỏi:

    - Sao chẳng luận thiền định giải thoát?

    Năng đáp:

    - Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai.

    Ấn Tông lại hỏi thêm:

    - Thế nào Phật pháp là pháp chẳng hai?

    Năng đáp:

    - Pháp sư giảng kinh Niết Bàn thì đã rõ Phật tánh là pháp chẳng hai của Phật pháp. Như Bồ-tát Cao Quý Đức Vương ở trong kinh Niết Bàn bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và Nhất-xiển-đề sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?”. Phật bảo: “Thiện căn có hai: Một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai. Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai. Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”.

    Ấn Tông nghe nói, vui mừng chắp tay thưa:

     - Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng.

    Ngài Ấn Tông hỏi về phó chúc, truyền dạy của Ngũ Tổ, Lục Tổ đáp không có truyền dạy gì khác, chỉ luận về kiến tánh, không bàn thiền định giải thoát. Người mới nghe qua sẽ thấy lạ, nên Ngài Ấn Tông hỏi: “Sao chẳng luận thiền định giải thoát?”. Lục Tổ đáp rõ: “Vì đó là pháp có hai, chẳng phải Phật pháp, Phật pháp là pháp chẳng hai”. Chỗ này ý sâu xa hơn, Lục Tổ trả lời thẳng thắn, không theo chữ nghĩa, không theo sự học bên ngoài.

    Theo bên ngoài thì nói về thiền định, giải thoát. Lục Tổ ở đây nói thẳng không có pháp từ bên ngoài để được, chỉ nói kiến tánh, đánh thức cho người sáng tỏ trở lại tự tánh chính mình. Không bàn về thiền định giải thoát, không đi theo kiến giải phân biệt trên chữ nghĩa. Bàn thiền định giải thoát cũng là bàn trên chữ nghĩa, không thật sự giải thoát.

    Tổ nói rõ thiền định giải thoát cũng là pháp có hai, mà có hai tức pháp phân biệt đối đãi. Đây là thiền định, kia là trí tuệ, đây đối với kia, đó là pháp đối đãi, là pháp phương tiện, chưa phải Phật pháp thật. Phật pháp thật phải vượt qua phân biệt đối đãi, nên nói là pháp chẳng hai.

    Chẳng hai thì lấy gì phân biệt? Đây Lục Tổ dẫn kinh Niết Bàn. Tại sao Lục Tổ không biết chữ mà biết dẫn kinh Niết Bàn?

    Trong một đoạn về nhân duyên, có dẫn: Khi Tổ tránh nạn ở chỗ bà ni Vô Tận Tạng, bà tụng kinh Niết Bàn. Tổ nghe qua liền biết được diệu nghĩa, vì bà ni giải nói. Bà ni cầm quyển kinh hỏi chữ.

    Tổ bảo:

    - Chữ thì không biết, nghĩa tức mời hỏi.

    Bà nói:

    - Chữ còn không biết, sao có thể hiểu nghĩa?

    Tổ nói:

    - Diệu lý của chư Phật không nằm trong chữ nghĩa.

    Rồi bà ni đọc kinh, Tổ nghe rồi giải thích nghĩa.

    Do vậy, Tổ biết mà dẫn kinh Niết Bàn.

    Bồ-tát Cao Quý Đức Vương bạch Phật: “Người phạm bốn giới trọng, tạo tội ngũ nghịch và Nhất-xiển-đề sẽ đoạn thiện căn Phật tánh chăng?” Giới trọng là giới nặng như sát sanh, trộm cướp v.v... Tội ngũ nghịch là tội cực ác, giết cha, giết mẹ v.v... Nhất-xiển-đề là người đánh mất thiện căn, không tin nhân quả, bài bác nhân quả. Bồ-tát hỏi những người này có đoạn mất thiện căn Phật tánh hay không?

    Phật không nói có hay không có, Ngài nói rõ: “Thiện căn có hai, một là thường, hai là vô thường. Còn Phật tánh chẳng phải thường, chẳng phải vô thường, thế nên chẳng đoạn, đó gọi là chẳng hai”. Phật tánh không nằm trong đối đãi của thường, vô thường thì làm sao đoạn?

    Một là thiện, hai là chẳng thiện, Phật tánh chẳng phải thiện, chẳng phải chẳng thiện, đó gọi là chẳng hai”. Thiện, bất thiện là hai, tức đối đãi nhau, còn Phật tánh vượt qua thiện ác.

    “Uẩn và giới phàm phu thấy là hai, người trí rõ suốt tánh nó không hai, tánh không hai tức là Phật tánh”. Uẩn là ngũ uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Giới là 18 giới: sắc, thanh, hương, vị xúc, pháp; nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức. Nếu nhìn theo cái thấy phân biệt thì 18 giới khác với ngũ uẩn, tức là có hai. Nhưng có hai là do nhìn trên hình tướng, phân biệt trên tướng nên có sai biệt. Thấy hai tức có sanh diệt, đó là cái thấy phàm phu.

    Người trí thấy suốt, uẩn hay giới đều là tánh không, không có thật tánh, tức không rời ngoài thể giác riêng có, cho nên thấu suốt uẩn và giới vốn không có hai thể, không có hai tánh, đó là trở về Phật tánh không hai, không bị uẩn giới làm che ngại. Ngộ được Phật tánh thì suốt qua cả uẩn và giới, tức lìa cái thấy phân biệt đối đãi hai bên. Chúng ta còn bị ngại bởi thấy có hai, thấy có hai thì không thấy Phật tánh.

    Trong Thiền Tông, các Thiền sư thường phá cái chấp suy nghĩ phân biệt, đối đãi hai bên. Nếu muốn gạn xem người thật ngộ hay không, Thiền sư thường đưa ra cái bẫy hai bên. Người mắc kẹt hai bên thì biết chưa phải thật ngộ.

    Thí dụ hỏi cái này phải hay không phải? Trả lời phải, không phải đều rơi vào hai bên, phải cũng không được mà không phải cũng không được. Như Ngài Địa Tạng - Quế Sâm gạn Ngài Pháp Nhãn - Văn Ích.

    Ngài Quế Sâm hỏi:

    - Bình thường Thượng tọa nói: “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”, vậy phiến đá dưới sân này, là ở trong tâm hay ở ngoài tâm?

    Ngài Văn Ích thưa:

    - Ở trong tâm.

    Ngài Quế Sâm bảo:

    - Người hành khước mắc cớ gì lại để phiến đá trên đầu tâm?

    Ngài Văn Ích không có lời để đáp.

    Ngài Quế Sâm dẫn trong luận Duy Thức nói “tam giới duy tâm”, hoặc Triệu Luận của Ngài Tăng Triệu nói: “Trời đất cùng ta đồng nguồn”. Như vậy, trời đất cùng ta đồng nguồn, tam giới cũng đều là duy tâm không ngoài tâm mà riêng có, vậy thì tảng đá hay bình hoa này là ở trong tâm hay ngoài tâm? Đây là cái bẫy trong-ngoài.

    Ngài Văn Ích nói: “Trong tâm”. Ngay đó rơi bẫy, tức là mắc kẹt trong-ngoài. Nếu thấy vượt qua cả trong-ngoài mới là thật thấy.

    Thế nên Lục Tổ nói Phật pháp là chẳng hai, còn thấy có hai chưa phải là Phật pháp thật. Nếu có, đó là Phật pháp gì? Phật pháp chữ nghĩa, Phật pháp trên văn tự. Ngài Ấn Tông nghe đến đây, liền chắp tay tán thán: “Tôi giảng kinh giống như ngói gạch, Ngài luận nghĩa ví tợ vàng ròng”.

    Sau đó, Ấn Tông cạo tóc cho Năng, nguyện thờ làm thầy. Năng bèn ở dưới cội Bồ-đề khai pháp môn Đông Sơn.

    Đến đây Lục Tổ mới cạo tóc, thọ giới làm Tăng, đầy đủ hình nghi của một người xuất gia. Trước giờ vẫn còn hình thức của người cư sĩ, nên gọi là hành giả. Phần cạo tóc xuất gia và thọ giới, như phần nhân duyên ở trước đã nói: Lễ xuất gia cạo tóc vào ngày rằm tháng giêng năm Bính Tý (676). Lễ truyền giới Cụ túc vào ngày mùng 8 tháng 2 cùng năm, Luật sư Trí Quang ở Tây Kinh làm thầy truyền giới. Giới đàn này cũng đặc biệt, do Ngài Tam Tạng Cầu-na-bạt-đà-la sáng lập vào thời Lưu Tống (khoảng 420-497). Khi lập giới đàn này, Ngài Cầu-na-bạt-đà-la có dự ký “Sau này có nhục thân Bồ-tát được trao giới ở đây”. Việc Lục Tổ thọ giới ở đây đã được dự ký vài trăm năm trước.

    Nơi đây có cội Bồ-đề do Ngài Tam Tạng Trí Dược thời Tiêu Lương (502) từ Tây Trúc đem sang trồng. Ngài cũng dự ký “Khoảng 170 năm sau sẽ có nhục thân Bồ-tát ở dưới cây này diễn bày pháp Thượng thừa độ vô lượng chúng”. Hiện nay phía sau chùa Quang Hiếu ở Quảng Châu còn tháp thờ tóc của Lục Tổ. Phía sau tháp tóc vẫn còn di tích cây Bồ-đề.

    Tư liệu khác có ghi: “Vào năm Gia Khánh thứ hai (1797), vào đêm 25 tháng 6 có trận bão lớn thổi ngã cây Bồ-đề. Ông Trung thừa Trần Đại Văn sai người bồi đắp giữ lại, nhưng trải qua hơn một năm thì khô héo (Vậy cây Bồ-đề chính gốc ở đó đã chết). Vị tăng trong chùa là Kiều Am và Ly Tướng đồng đến chùa Nam Hoa thỉnh một nhánh nhỏ đem về trồng lại trên nền đất cũ” (cây Bồ-đề ngày nay là cây được trồng lại). Lục Tổ ở cội Bồ-đề này khai diễn pháp môn Đông Sơn của Ngũ Tổ để truyền dạy cho người. Từ đây, Tổ mới ra giáo hóa. Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn và Tứ Tổ Đạo Tín đều ở Đông Sơn, nên gọi là pháp môn Đông Sơn.

    Về sau, Lục Tổ từ chùa Pháp Tánh đi về chùa Bảo Lâm ở Tào Khê. Khi Lục Tổ từ chùa Pháp Tánh đi về chùa Bảo Lâm, có chỗ ghi thêm: “Lục Tổ từng trụ qua nơi chùa Pháp Tuyền, chùa Quảng Quả một thời gian ngắn, sau mới đến trụ ở chùa Bảo Lâm”.

    Năng từ khi đắc pháp ở Đông Sơn, chịu hết mọi sự gian nan khổ nhọc, mạng như tơ mành. Hôm nay được cùng Sử quân, quan liêu, Tăng Ni, xuất gia, tại gia đồng tụ hội nơi đây, phải đã có nhân duyên nhiều kiếp, cũng như trong đời quá khứ từng cúng dường chư Phật, đồng gieo trồng căn lành, mới được cái nhân nghe pháp Đốn giáo như trên. Giáo là do bậc Thánh từ trước đã truyền, chẳng phải từ trí riêng của Huệ Năng. Nguyện cho người nghe giáo của bậc Thánh trước, khiến mỗi người được lòng thanh tịnh, nghe xong đều tự trừ hết nghi ngờ, giống như bậc Thánh đời trước không khác.

    Lục Tổ nói với tất cả hội chúng trong chùa Đại Phạm. Tổ nhớ lại thời gian từ khi đắc pháp ở Ngũ Tổ, được truyền y bát, cho đến khi cạo tóc xuất gia, được gặp gỡ tứ chúng truyền bá Phật pháp, trải qua biết bao nhiêu gian nan, khổ nhọc, hiểm nguy, mạng như tơ mành, bị người đuổi theo hại, bị phóng hỏa, có lúc phải lánh nạn, cái chết cận kề, nhưng rồi Tổ cũng vượt qua tất cả. Tổ nói hôm nay được cùng tất cả tụ hội ở đạo tràng này là do nhờ có duyên lành nhiều đời với nhau được trồng căn lành với chư Phật, cho nên được nghe pháp Đốn giáo này. Pháp Đốn giáo là giáo lý chỉ thẳng tắt cho người được chóng giác ngộ. Đây không phải chuyện tầm thường, dễ dàng, nói như vậy để tất cả vững niềm tin tiến tu.

    Đồng thời Lục Tổ cũng nói rõ, pháp này vốn từ chư Thánh từ trước truyền lại chứ không phải là ý riêng Ngài, không phải tự Ngài đặt ra, mọi người không phải nghi ngờ. Tổ cũng mong tất cả biết được những nhân duyên đó, rồi hết lòng lắng nghe và tin nhận để cùng cảm thông với chư Thánh từ trước. Nói vậy nhằm nhắc cho tất cả phải hết lòng chú tâm lắng nghe kỹ.

    Sư lại bảo chúng:

    - Này thiện tri thức! Trí Bồ-đề Bát-nhã, người đời vốn tự sẵn có, chỉ vì tâm mê chẳng thể tự ngộ, phải nhờ bậc đại thiện tri thức chỉ dẫn cho thấy tánh. Phải biết, người ngu người trí, Phật tánh vốn không sai khác, chỉ vì mê ngộ chẳng đồng, do đó có ngu, có trí. Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông mà nói.

    Đây là phần rất trọng yếu trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ giảng về Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, con đường chư Tổ đang đi và đang chỉ dạy cho mọi người. Chúng ta tu quan trọng phải mở sáng trí Bát-nhã.

    Lục Tổ dạy khác hơn những người thường dạy. Thứ nhất, Tổ không biết chữ, nên Ngài dạy không nặng về chữ nghĩa. Thứ hai, Tổ đã tỏ ngộ tự tánh rõ ràng, những điều Ngài nói là từ chỗ chứng ngộ của Ngài, từ tâm sáng suốt của Ngài, không phải nói trên văn tự hoặc suy luận phân tích chữ nghĩa. Thế nên chỗ Ngài nói ra rất đặc biệt, dễ đi vào tâm người.

    Bồ-đề là giác, Bát-nhã là trí tuệ. Nói trí Bồ-đề Bát-nhã để cho mọi người phân biệt không lầm với trí tuệ thông thường của người thế gian. Bát-nhã cũng là trí tuệ, nhưng nói trí tuệ thì người dễ lầm. Người thế gian thông minh cũng nói là trí tuệ, nhưng trí tuệ đó không phải Bát-nhã. Cho nên nói rõ trí Bồ-đề Bát-nhã, tức trí tuệ giác ngộ.

    Tổ nói rõ: “Trí Bồ-đề Bát-nhã người đời vốn tự sẵn có”. Không phải cầu bên ngoài, cũng không phải do tu hành mới được. Trí Bồ-đề cũng không phải từ nơi chữ nghĩa phân tích mà thành. Chính vì vậy, Lục Tổ không biết chữ vẫn tỏ ngộ. Đó là chỗ đặc biệt Ngài muốn nhắc cho tất cả.

    Trí này có sẵn ở đâu? Ở ngay trong tự tâm của mỗi người chứ không thể tìm đâu khác. Vì người đời tự mê, có mà không nhận biết thành ra có cũng như không, không dùng được, do đó phải chạy đi tìm thầy cầu chỉ dạy cho. Nhưng muốn cầu vị thầy chỉ cho chúng ta thấy được thì vị thầy cũng phải thấy, phải tự Ngài sáng tỏ mới chỉ rõ cho chúng ta được. Thầy chưa sáng mà chỉ cho chúng ta thì cũng đoán mò với nhau thôi. Thầy đã sáng, chính từ cái sáng đó chỉ dạy thì trực tiếp hơn. Cho nên phải là bậc thầy đã thấy tánh chỉ dạy mới đúng chỗ, xác thực, giúp người tự nhận lại, tự thấy tánh sáng suốt sẵn có nơi chính mình, không phải chỉ quanh co trên chữ nghĩa khiến người lầm thêm. Một lời của bậc thầy đã sáng nói ra, người nghe đỡ tốn công mười hoặc hai mươi năm. Thay vì chúng ta mày mò mãi trong mười hay hai mươi năm, vị thầy đã trải qua mấy mươi năm đó rồi chỉ lại thì chúng ta đỡ tốn công rất nhiều.

    Tánh sáng suốt sẵn có hay gọi là Phật tánh đó vốn không hai, không phân ngu-trí, người ngu người trí Phật tánh cũng đồng như nhau, không có đây kia sai khác, chỉ vì người ngu lầm mê không nhận ra, người trí khéo biết nhận ra, khác ở chỗ đó. Nếu người ngu nhận ra thì hết ngu thành trí, tức cái ngu đó cũng là tạm thời. Như vậy, người đã tỏ ngộ cái thấy như nhau, thông cảm nhau, trong nhà Thiền gọi là thầy trò tâm tâm in nhau, ấn nhau, không hai không khác. Nói đây để tất cả hiểu, không bị cái tên mê-ngộ, ngu-trí làm ngăn cách.

    Tổ nói: “Nay tôi sẽ nói pháp Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, khiến cho các ông mỗi người nhận được trí tuệ. Hãy hết lòng lắng nghe, tôi sẽ vì các ông nói”. Trước khi giảng về Bát-nhã, Lục Tổ nhắc trước mỗi người phải tự soi lại chính mình để nhận ra trí tánh sáng suốt sẵn có, đó mới gọi là thật học. Chưa được như vậy thì dù sự học cao siêu đến mấy cũng gọi là tương tợ học, chưa phải thật học. Nói “không ngoài tâm mà riêng có” là như vậy.

    Ngài Hy Thiên - Thạch Đầu đến học với Lục Tổ cũng là lúc Tổ sắp tịch. Khi Lục Tổ tịch, Ngài vẫn chưa tỏ ngộ, sau đó đến tham vấn với Ngài Thanh Nguyên - Hành Tư là đệ tử nối pháp của Lục Tổ.

    Thiền sư Hành Tư hỏi:

    - Ông từ phương nào đến?

    Hy Thiên thưa:

    - Từ Tào Khê đến (từ nơi Lục Tổ).

    Ngài Hành Tư hỏi:

    - Đem được cái gì đến?

    Sư thưa:

    - Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất.

    Ngài Hành Tư gạn lại:

    - Nếu thế ấy, sao chẳng dùng đi, đến Tào Khê làm gì?

    Hy Thiên thưa:

    - Nếu không đến Tào Khê thì đâu biết chẳng mất.

    Câu hỏi: “Đem được cái gì đến?” là ngầm dò xem ông này có sáng hay không? Có thấy tánh hay chưa? Người bình thường sẽ nói đem được cái y, cái bát hay vật gì đó. Nhưng Thiền sư không hỏi chuyện đó. Ngài Hy Thiên thầm hiểu được nên thưa: “Khi chưa đến Tào Khê cũng chẳng mất”.

    Nhiều người học lâu cũng nhớ, hoặc người ý thức lanh lợi cũng nói được câu này. Như mọi người học ở đây, ghi nhớ lại, khi nói chuyện với nhau cũng nói được. Cho nên Ngài Hành Tư gạn lại sâu hơn: “Nếu thế ấy, sao chẳng dùng đi, đến Tào Khê làm gì?” Ông biết không đến Tào Khê cũng chẳng mất thì đến Tào Khê làm gì? Người học lóm, thiền ở trên miệng có lẽ nói theo kiểu này. Bởi nó sẵn có, không đến Tào Khê cũng chẳng mất thì đến làm gì cho mất công, đó là thiền bắn bổng. Ở đây, Ngài Hy Thiên thưa rõ: “Nếu không đến Tào Khê thì đâu biết chẳng mất”. Tuy nó sẵn, không mất, nhưng nếu không đến Tào Khê để được Lục Tổ khai thị thì đâu biết được, nhờ thầy chỉ cho mới biết. Nhưng không phải nhờ thầy mới có được, mà thầy chỉ cho biết cái của chính mình vốn sẵn có vậy thôi. Rất đầy đủ ý nghĩa, có sự có lý. Cho thấy, đến tham học với thiện tri thức là để nhận ra cái chẳng mất nơi mình chứ không phải có thêm cái gì khác. Lục Tổ dạy tiếp:

    Này thiện tri thức! Người đời trọn ngày miệng niệm Bát-nhã mà chẳng biết tự tánh Bát-nhã. Giống như nói ăn mà chẳng no, miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì.

    Tổ chỉ rõ ra và cũng để quở trách người chỉ tu Bát-nhã trên miệng. Bát-nhã không ở nơi miệng niệm, miệng niệm mà tâm chẳng sáng thì chẳng biết Bát-nhã thật nơi chính mình, chỉ thấy văn tự chữ nghĩa. Ngày nay, nhiều người niệm Bát-nhã như thế, niệm mãi mà không thấy Bát-nhã.

    Cho nên Ngài nói: “Giống như nói ăn mà chẳng no”. Như người kể toa thuốc, khen vị thuốc này tốt, vị thuốc này trị được bệnh, là số một, nhưng không chịu uống thuốc thì vẫn bệnh. Đó là bệnh của đa số người học Phật ngày nay. Tổ bảo: “Miệng chỉ nói “không”, muôn kiếp chẳng được thấy tánh, trọn không có ích gì”. Bát-nhã nói là “Không”, miệng lặp lại mãi chữ “Không”, giống như chúng ta tụng Tâm Kinh: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không”, mà tâm thấy “có”, do đó miệng nói Bát-nhã nhưng tâm vẫn thường mê, đó là cái lầm của người học Phật. Lục Tổ muốn thức tỉnh trở lại là phải đi vào thực tế, đi vào thực hành chứ không phải chỉ ở trên miệng.

    Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tiếng Phạn, xứ này gọi là Đại Trí Tuệ Đáo Bỉ Ngạn. Trí này cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm. Miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện. Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính là Phật, lìa tánh không riêng có Phật.

    Trước, Tổ nói qua về chữ nghĩa: “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật dịch là đại trí tuệ đáo bỉ ngạn”. Nói theo chữ nghĩa, đây là trí tuệ rộng lớn đạt đến bờ kia. Song trí tuệ gì là trí tuệ lớn? Giải thích theo chữ nghĩa liền mắc kẹt, vì trí tuệ có lớn có nhỏ thì không phải Bát-nhã. Vậy, tại sao nói trí tuệ lớn? Do đó, Lục Tổ chỉ rõ: “Trí này, cần tâm thực hành chẳng ở miệng niệm, miệng niệm mà tâm chẳng hành thì như huyễn, như hóa, như sương, như điện”. Phải ứng dụng nơi tâm, soi sáng những lầm mê để thật sự sáng suốt, khế hợp với chỗ miệng niệm.

    “Miệng niệm tâm hành thì tâm và miệng ứng hợp nhau, bản tánh chính mình là Phật, lìa tánh không riêng có Phật”. Miệng niệm mà tâm cũng hành để khế hợp. Tâm và miệng khế hợp nhau mới có sáng tỏ bản tánh, mới thật Bát-nhã. Chúng ta thường nói Bát-nhã, nhưng chữ “Bát-nhã” không dính dấp đến trí tuệ này, trí tuệ này không nằm trên cái tên đó. Tên “Bát-nhã” đâu có sáng, đâu có biết gì, nhưng người ta thường mắc kẹt trên cái tên, phân tích trên đó. Sự thật, trí tuệ Bát-nhã không nằm trên lời giải thích. Bát-nhã chân thật ở ngay nơi tự tâm, chẳng lìa tự tánh của người, phải ngay nơi tự tánh của mình tự sáng tỏ. Tổ giải thích:

    Sao gọi là Ma-ha? Ma-ha là Lớn. Tâm lượng rộng lớn giống như hư không, không có bờ mé, cũng không vuông tròn, lớn nhỏ, cũng chẳng phải xanh, vàng, đỏ, trắng, cũng không trên dưới, dài ngắn, cũng không mừng giận, không phải quấy, không lành dữ, không đầu đuôi. Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời vốn “Không”, không có một pháp có thể được, tự tánh chân không cũng lại như thế.

    Ma-ha Lớn là như vậy! Không phải lớn theo kiểu “lớn-nhỏ”. Lớn ở đây chính là tâm lượng rộng lớn không có bờ mé, không có gì so sánh được nên tạm gọi “lớn”, không phải theo kiểu lớn-nhỏ đối đãi. Tức vượt ngoài mọi hình tướng đối đãi phân biệt, thức tình không thể suy nghĩ đến được. Cho đến thấy suốt “Bao nhiêu cõi nước của chư Phật trọn đồng hư không”. Không có gì chướng ngại, không có gì dính mắc, không có một tướng thật để mắc kẹt, thấy suốt tất cả. Tức ngoài tâm không thấy riêng có một pháp thật để thành ngăn ngại. Vậy mới đúng là “Lớn”, cho nên cái “Lớn” này không có ranh giới để so sánh đây-kia.

    Chữ nghĩa làm sao ghi được cái “Lớn” này? Dù cho những máy điện tử hay siêu điện tử cũng không ghi được cái “Lớn” này. Cho nên, dù phân tích từ kiếp này qua kiếp khác cũng không thể thấy được cái “Lớn” này. Muốn thấy được cái “Lớn” này phải tâm ngộ. Tâm ngộ mới thấy được, không thể phân tích, không thể ỷ lại vào máy móc điện tử khoa học, do đó Tổ nói phải tâm thực hành. Ngài nói nó vượt ngoài cả tướng lớn-nhỏ, vuông-tròn, dài-ngắn, cho đến bao nhiêu cõi nước của chư Phật cũng thấy trọn đồng hư không. Diệu tánh của người đời cũng vốn “Không” như vậy, quả là Lớn không thể nghĩ bàn.

    Này thiện tri thức! Chớ nghe tôi nói “Không”, liền chấp trước vào “Không”. Bậc nhất là chớ chấp trước “Không”. Nếu để cho tâm trống trơn, ngồi yên lặng, tức kẹt vào cái “không vô ký”.

    Đây là chỗ nhiều người học Bát-nhã vướng phải. Nghe nói Bát-nhã nói về tánh Không, cái gì cũng Không, không thật rồi chấp vào cái Không. Ngồi thiền thì buông hết cho nó không, nhưng buông hết cũng không thấy nó không mà nó ngủ. Buông một lúc, nó ngủ gục hoặc rơi vào vô ký. Buông hết mà không sáng suốt, còn Bát-nhã là sáng suốt, trí tuệ!

    Tổ ngăn ngừa, không cho người chấp trên chữ nghĩa. Đừng nghe nói rộng lớn như hư không rồi chấp vào chữ “Không”, ngồi yên lặng để tâm trống trơn cho đó là cái “Không” rộng lớn của Bát-nhã, đó là lầm, là tưởng tượng. Tức rơi vào bỏ “có” lấy “không”, là cái không đối đãi, cái không của thức tình phân biệt, không phải cái “Không chân thật” của Bát-nhã. Tổ nói đó là kẹt vào cái không vô ký, cái không lờ mờ, thiếu sáng suốt.

    Này thiện tri thức! Thế giới hư không hay bao gồm muôn vật, hình sắc, mặt trời, mặt trăng, các vì sao, núi sông, quả đất, suối nguồn, khe rạch, cỏ cây, rừng bụi, người lành, người dữ, pháp dữ, pháp lành, thiên đường, địa ngục, tất cả biển lớn, các núi Tu-di thảy đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng lại như thế.

    Này thiện tri thức! Tự tánh hay bao gồm muôn pháp là lớn. Muôn pháp ở trong tánh mọi người, nếu thấy tất cả người: dữ và lành trọn chẳng lấy chẳng bỏ, cũng chẳng đắm nhiễm, tâm như hư không, gọi đó là Lớn, nên nói là Ma-ha.

    Tổ giải thích Ma-ha là như vậy. Trước, Tổ thí dụ thế giới hư không bao gồm tất cả muôn vật hình sắc: Mặt trời, mặt trăng, rừng bụi, cho đến người lành, người dữ, cũng đều ở trong hư không. Tánh Không của người đời cũng vậy, bao gồm tất cả, không có gì ra ngoài nó, Lớn là như vậy. Không có gì ra ngoài tự tánh mà riêng có thì có gì để lấy-bỏ. Lấy cái gì và bỏ cái gì! Nếu quán đến chỗ đó thì đâu có gì để mê. Sở dĩ thấy có lấy có bỏ là sao? Vì thấy ngoài tâm có pháp thật, mới có lấy đem vào hoặc bỏ ra. Thấy không có gì ngoài tâm riêng có thì lấy để vào đâu? Bỏ đi đâu? Cho nên sạch được niệm lấy-bỏ.

    Không còn có tâm lấy-bỏ thì tâm mới thật sự thênh thang rộng lớn, không có gì dính nhiễm, hay nói ngược lại, không dính nhiễm cái gì, Tâm mới thênh thang rộng lớn. Còn có dính nhiễm thì hết Lớn, vừa dính nhiễm là có giới hạn, dính cái gì thì giới hạn cái đó, đâu còn rộng lớn. Nghĩa Rộng Lớn là phải thấy thấu như vậy, người học trên chữ nghĩa không thể thấy được hết. Nghĩa Lớn của Bát-nhã như thế thì làm sao bàn luận đến được, bàn đến suốt kiếp cũng không đến được, chỉ có tâm ngộ mới thấy được.

    Này thiện tri thức! Người mê miệng nói, người trí tâm hành. Lại có người mê để tâm trống trơn, ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho là Lớn. Một bọn người này chẳng thể nói với họ, vì là tà kiến.

    Nên nhớ kỹ: “Người mê miệng nói, người trí tâm hành”. Người trí phải thực hành nơi tâm, không chỉ hành nơi miệng. Người mê chỉ nói ngoài miệng nên không sáng tỏ được nghĩa thật. Do đó, nghe nói “Lớn” thì tưởng để tâm trống trơn thành không, gọi là ngồi yên lặng, trăm điều chẳng nghĩ, tự cho đó là Lớn, Lục Tổ quở là tà kiến. Đây Tổ ngăn ngừa những người chấp vào chữ nghĩa thành đi lệch ra ngoài, trái với nghĩa chân thật.

    Này thiện tri thức! Tâm lượng rộng lớn, trùm khắp pháp giới, dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả. Tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ, tức là Bát-nhã.

    Tổ nói rõ về Tâm Lượng Rộng Lớn, nó trùm khắp pháp giới, không bỏ sót cái gì, nhưng không mê cái gì, đó mới thật Bát-nhã. Còn bỏ hết không nghĩ gì nhưng mê mờ thì không phải. Người tu thiền thường có cái lầm, lâu nay sống với vọng tưởng, sống với cái động nhiều nên khi ngồi thiền thì muốn tịnh, muốn buông hết cho yên thành ra nghiêng về một chiều. Đúng với tinh thần của Lục Tổ là phải Định Tuệ đồng đẳng.

    Ngồi thiền không có trí tuệ sáng, dù có đạt được định thì cũng là si định, tức không rốt ráo, không giải quyết được vấn đề sanh tử. Muốn giải quyết vấn đề sanh tử phải có trí tuệ, chính trí tuệ mới nhổ gốc sanh tử. Thiền Tông gọi là Tối thượng thừa thiền, cho đến pháp Đại thừa hay pháp Thiền Nguyên thủy, các vị tu hành có chứng ngộ, các Ngài đều luôn ngăn ngừa người sau như thế.

    Một Thiền sư Thái Lan nói: “Hiểm họa của định”. Định nhưng hiểm họa, định mà không sáng suốt, không có trí tuệ. Định đúng là khi tâm không bị vọng tưởng lăng xăng quấy rối, tâm được tạm yên, dùng cái tâm định đó để quán chiếu, như vậy mới phá được vô minh phiền não, phá được sanh tử. Định như đá đè cỏ, chỉ tạm dừng. Trí tuệ mới nhổ được gốc. Tu phải hiểu rõ như vậy, đừng mắc kẹt một bên.

    Tổ nói rõ: “Dùng tức rõ ràng rành rẽ, ứng dụng liền biết tất cả, tất cả tức một, một tức tất cả, đi đến tự do, tâm thể không ngưng trệ”. Dùng thì biết hết rõ ràng tất cả, không lầm mê, không dính vào gì cả. Đúng tinh thần kinh Kim Cang gọi là vô trụ, biết tất cả mà không trụ vào cái gì hết thì tâm thênh thang rộng lớn. Còn có trụ tức có dính, dính tức có giới hạn. Được vậy, mới rõ được tâm thể tự do, không ngưng trệ ở một hình tướng nào, tức nghĩa Lớn của Bát-nhã. Tổ nói thêm:

    Này thiện tri thức! Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh mà sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý, gọi là chân tánh tự dụng. Một chân thì tất cả chân, Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ. Miệng chớ trọn ngày nói không mà trong tâm chẳng tu hạnh này. Giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi.

    Ngài nhắc phải nên nhớ rõ: “Tất cả trí Bát-nhã đều từ tự tánh sinh, chẳng từ ngoài vào, chớ lầm dụng ý”. Cầu bên ngoài là lầm. Tuy nhiên, chúng ta học nên khéo để không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Nói trí Bát-nhã đều từ tự tánh sanh, hiểu theo chữ nghĩa dễ mắc kẹt, nghe nói “sanh” rồi hiểu theo chữ “sanh”, nếu có sanh phải có diệt, có sanh có diệt thì không phải chân Bát-nhã. Vậy hiểu sao đây? Chữ “sanh” ở đây, phải hiểu theo nhà Thiền đạt ý quên lời, hiểu theo ý chứ không hiểu theo lời. Sanh ở đây là trí Bát-nhã từ nơi tự tánh hiển bày ra chứ không thể tìm ở đâu khác để được, cho nên “gọi là chân tánh tự dụng”. Từ nơi chân tánh ứng dụng ra chứ không có “được”. Thấy có “được” tức từ bên ngoài vào, có được thì có mất. Thế nên Bát-nhã gọi là không trí không đắc, từ tự tánh hiện, đâu phải từ bên ngoài vào mà được. Người thường quen sống theo tình mê, làm gì cũng muốn có được, không được gì thì không muốn làm. Nhưng có được thì có mất, thuộc về cái tạm thời, cái có sanh diệt. Phải hiểu được ý đó, chớ lầm theo chữ nghĩa.

    Ngài bảo: “Một chân thì tất cả chân, tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ”. Cái gì là một chân? Tức là một tâm. Tâm đã chân thì nhìn ra cái gì cũng chân thật, không có gì lầm, nên nói một chân thì tất cả chân là vậy. Nói rộng ra, tâm chánh nhìn ra cái gì cũng chánh, tâm sáng nhìn ra cái gì cũng sáng, hoặc tâm giác nhìn ra cái gì cũng giác. Trong kinh nói: “Tình với vô tình đồng thành chủng trí” tức tình và vô tình đều thành Phật đạo. Người thường nghe câu này cũng rất khó hiểu, đôi khi lại hiểu lầm, nói cỏ cây cũng thành Phật. Cỏ cây làm sao thành Phật? Nhưng hiểu được ý này thì sáng tỏ. Tâm đã giác hoàn toàn rồi, nhìn ra cái gì cũng đều ở trong ánh sáng giác ngộ, đều là Phật, nên thấy cỏ cây cũng là Phật chứ không phải cỏ cây thành Phật. Hiểu rõ ràng vậy thì hết nghi.

    Cho nên tu hành cần trang nghiêm tự tâm, chớ có một bề lo trang nghiêm ở bên ngoài. Kinh Kim Cang gọi là: “Trang nghiêm tịnh độ, tức chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm”. Trang nghiêm tịnh độ không phải chỉ lo làm đẹp cõi nước, trang hoàng đất đai, nhà cửa mà quan trọng phải trang nghiêm tự tâm, tâm trang nghiêm thì bên ngoài mới trang nghiêm theo. Nếu chỉ lo trang nghiêm bên ngoài mà tâm không trang nghiêm thì cũng không thấy sạch sẽ. Ví như chúng ta ở nhà lầu năm sao, nhưng tâm tham, sân, si còn đầy đủ thì cũng không sạch sẽ. Vào đó thấy toàn phiền não, đâu có trang nghiêm. Thế nên Tổ nói rõ một chân thì tất cả đều chân, tâm chân thật nhìn ra thấy cái gì cũng chân thật, sáng suốt, không lầm.

    “Tâm chứa đựng việc lớn, chẳng đi theo lối nhỏ”. Chúng ta phải nhìn cho thấu đến chỗ chân thật, chỗ rộng lớn, vượt ngoài tình mê, không suy nghĩ theo lối thường tình để kẹt trong cái phân biệt có giới hạn.

    “Miệng chớ trọn ngày nói Không, trong tâm chẳng tu hạnh này, giống hệt người thường mà tự xưng là vua, trọn không thể được, chẳng phải đệ tử của tôi”. Mỗi ngày nói Ma-ha nhưng không thấy Ma-ha, mà thấy ma thật, vì chỉ nói suông ngoài miệng. Niệm Ma-ha mà tâm so sánh đây kia, ganh ghét, ích kỷ, hẹp hòi thì không thể thấy Ma-ha, không thấy nghĩa của Lớn. Lại còn trên chữ nghĩa chê-khen, hơn-thua thì càng đi xa, càng không thấy Ma-ha mà thấy ma sự. Đây là chỗ cần phải sáng suốt để thấy chính xác trở lại. Chỉ một chữ Ma-ha theo Lục Tổ nếu người hiểu rõ, là đủ tu rồi. Kế giải về Bát-nhã:

    Này thiện tri thức! Sao gọi là Bát-nhã? Bát-nhã, Đường dịch là trí tuệ. Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ, tức là hạnh Bát-nhã. Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt. Một niệm trí tức Bát-nhã sinh. Người đời ngu mê chẳng thấy Bát-nhã, miệng nói Bát-nhã mà trong tâm thường ngu. Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không, mà chẳng biết chân không. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ. Nếu khởi hiểu như thế, tức gọi trí Bát-nhã.

    Bát-nhã, dịch là trí tuệ, nhưng “cái gì là trí tuệ”, đó mới là quan trọng, không thể nói suông. Trí tuệ này không nằm trên cái tên đó, trí tuệ này không có trong cái tên “Bát-nhã”. Ngài nói rõ: “Trong tất cả chỗ, tất cả thời, niệm niệm chẳng ngu, thường hành trí tuệ tức là hạnh Bát-nhã”. Người thường nói về Bát-nhã, phân tích về Bát-nhã, đôi khi giải từ trang này qua trang kia, nhưng xếp sách lại thì không thấy Bát-nhã đâu, chỉ thấy sách vở, đó là cái lầm của người học Bát-nhã. Phải là trong tất cả chỗ, tất cả thời, mỗi niệm mỗi niệm sáng suốt chẳng ngu mê, tức là luôn luôn sống được với trí tuệ thật sự, đó mới gọi là hạnh Bát-nhã chân thật, mới là Bát-nhã hiện bày.

    “Một niệm ngu tức Bát-nhã dứt, một niệm trí tức Bát-nhã sinh”. Nếu một niệm ngu mê, ngay đó mất Bát-nhã. Dù cố giải Bát-nhã nhưng nếu ngay đó một niệm mê thì cũng mất Bát-nhã. Bát-nhã vốn ở trong tâm người mà thấy được chứ không phải ở trên miệng nói, không phải ở trên giấy mực chữ nghĩa. Miệng nói hay, nói lưu loát về Bát-nhã, nhưng tâm còn mê thì vẫn không thấy Bát-nhã, lẽ thật là như vậy. Dù cho nói: “Tôi tu Bát-nhã, cái gì cũng Không”, nhưng trong tâm lại thấy có, thấy gì cũng dính mắc, thì “Không” đó chỉ có tên mà không có nghĩa, Không ở trên miệng. Học Phật chúng ta phải hiểu kỹ chỗ này!

    Lại nói: “Thường tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không mà chẳng biết chân không. Bát-nhã không hình tướng, chính đó là tâm trí tuệ, nếu khởi hiểu như thế tức gọi là trí Bát-nhã”. Tự nói ta tu Bát-nhã, niệm niệm nói Không mà chẳng biết chân không thì rõ ràng chỉ là Bát-nhã ở trên miệng. Học Bát-nhã phải quay lại ngay tự tâm, bởi nó là tâm trí tuệ. Mở sáng tự tâm mới là thật học, Bát-nhã đó mới phá được phiền não, vô minh. Bát-nhã trên chữ nghĩa, sách vở thì không phá được vô minh, đôi khi còn thêm nữa, bởi học nhiều rồi thấy ta hiểu nhiều hơn người kia, đó là vô minh, cái ngã sanh. Thế nên phải thấy nơi tự tâm!

    Sao gọi Ba-la-mật? Đây là tiếng Tây Quốc (Ấn Độ), Đường nói là đáo bỉ ngạn, giải nghĩa là lìa sinh diệt. Chấp trước cảnh thì sinh diệt khởi, như nước dậy sóng mòi, tức gọi là bờ này. Lìa cảnh thì không sinh diệt, như nước thường trôi chảy, tức gọi bờ kia. Vì vậy gọi Ba-la-mật.

    Lục Tổ giải về Ba-la-mật cũng có chỗ đặc biệt. Thường thì giải Ba-la-mật tức là đến bờ kia. Nhưng bờ nào là bờ này? Bờ nào là bờ kia? Giải thích theo chữ nghĩa thì bờ này sanh tử, bờ kia Niết-bàn. Lìa bờ sanh tử này đến bờ Niết-bàn kia, nhưng còn thấy có bờ này bờ kia thì sao? Thì đâu còn là Bát-nhã. Giải theo chữ nghĩa là kẹt liền.

    Đây  Lục Tổ nói, bờ kia tức là lìa sanh diệt, chứ không nói bờ này bờ kia. Lìa sanh diệt là sao? Tâm chấp trước cảnh thì sanh diệt khởi, tức bờ này, “Như nước dậy sóng mòi”. Nước đang yên tịnh mà dậy sóng gọi là bờ này. Ngay đó, tâm lìa cảnh, tức không có sanh diệt, đó là bờ kia, “Như nước thường trôi chảy”.

    Như vậy, bờ này bờ kia cách bao nhiêu? Cũng chỉ ở nơi Tâm, Tâm dính cảnh là bờ này, Tâm lìa cảnh là bờ kia, ngay “Một Tâm” chứ không đâu khác. Như nước dậy sóng hay nước thường trôi chảy thì cũng chỉ là nước. Tức gợi ý cho người nhớ trở lại tự tâm của mình. Quên mất tự tâm, chạy theo cảnh, chấp vào cảnh thì đi vào sanh diệt, tức là bờ này, bờ sanh diệt. Nhớ trở lại tự tâm, lìa cảnh, tâm không dính theo cảnh, tức tâm không sanh, tâm không sanh thì đâu có diệt, không sanh không diệt thì Niết-bàn rồi, đó là bờ kia. Ý nghĩa rất sáng tỏ, rõ ràng. Thế nên, rốt ráo chỉ “Một Tâm” chứ không có bờ nào khác. Chúng ta phải khéo đạt ý quên lời. Nếu theo chữ nghĩa, thấy có bờ này bờ kia là thuộc về tâm sanh diệt, tức vẫn còn y nguyên ở bờ này, không thấy Bát-nhã.

    Như vậy, ngay cái tên Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật, Lục Tổ đã dạy chúng ta tu hành rất thực tế, rất sáng tỏ để sống trở lại với tâm trí tuệ sáng suốt sẵn có nơi mình, không cần tìm cầu trên chữ nghĩa, ở đâu khác. Ngay cái tên Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật đã đủ cho chúng ta tu suốt đời. Gọi là “Trí Tuệ Rộng Lớn Đến Bờ Kia”, nếu chúng ta chỉ dùng tâm sanh diệt thấy trên chữ nghĩa, phân tích, phân biệt theo duyên theo cảnh, thì trí tuệ Lớn ở chỗ nào? Ngay đó bị giới hạn tối mò rồi, còn trí tuệ lớn gì nữa!

    Này thiện tri thức! Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng, có quấy. Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh. Người ngộ pháp này, là pháp Bát-nhã. Người tu hạnh này, là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành thì tự thân đồng với Phật.

    Lục Tổ nhắc kỹ lại: “Người mê miệng niệm, ngay khi niệm có vọng có quấy”. Người mê chỉ niệm ở ngoài miệng, trong tâm không thực hành theo, không dùng Bát-nhã để soi sáng, do đó tuy niệm Bát-nhã nhưng lại nghĩ lăng xăng, nghĩ vọng nghĩ quấy, nghĩ tưởng điên đảo, thành ra niệm Bát-nhã mà không có Bát-nhã. Niệm Bát-nhã làu làu nhưng trong tâm nghĩ tưởng chuyện này chuyện kia, đôi khi miệng niệm Bát-nhã mà tâm đi chợ, hoặc suy nghĩ buồn phiền hờn trách người này người kia, tính toán này nọ. Niệm Bát-nhã với tâm không thanh tịnh, chỉ thấy là vọng là quấy, làm sao thấy Bát-nhã!

    “Nếu niệm niệm thực hành, đó gọi là chân tánh”. Niệm niệm thực hành tức ứng dụng Bát-nhã thật sự, tâm luôn luôn soi sáng mới hiện bày tánh thật, đây gọi là chân tánh. Ngày nay, nhiều người niệm Bát-nhã theo kiểu niệm ngoài miệng mà tâm không hành, nên niệm Bát-nhã nhiều mà phiền não mãi. Nếu thực hành thì giảm bớt phiền não, vì thấy Bát-nhã thì đâu thấy phiền não. Còn thấy phiền não thì không thấy Bát-nhã.

    “Người ngộ pháp này là pháp Bát-nhã, người tu hạnh này là hạnh Bát-nhã. Chẳng tu tức phàm, một niệm tu hành tự thân đồng với Phật”. Chẳng tu hạnh Bát-nhã tức sống trong mê, là phàm phu. Một niệm tu hành là chuyển mê thành giác, có trí tuệ, sáng suốt, tức có đủ nhân thành Phật, thầm hợp với Phật, nên gọi là tự thân đồng với Phật. Bởi Phật thành Phật là ở ngay nơi tâm giác ngộ chứ không phải thành ở nơi nào khác, không thành ở cõi này cõi kia. Hiểu vậy chúng ta thấy Phật gần gũi, không hiểu như thế thì thấy xa xôi. Nghe nói Phật thành Phật dưới cội Bồ-đề, hoặc thành ở cõi Phật, đó là hiểu theo chữ nghĩa. Ngồi ngay cội Bồ-đề mà tâm không giác ngộ có thành Phật không? Chính tâm giác ngộ mới là gốc. Đây là nhắc để ngăn ngừa người niệm Bát-nhã, niệm suông ngoài miệng.

    Này thiện tri thức! Phàm phu tức Phật, phiền não tức Bồ-đề, niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật; niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề.

    Mê-ngộ hay phiền não - Bồ-đề không có đâu xa, chỉ ngay nơi một niệm. Nghĩa là phàm phu và Phật hay phiền não và Bồ-đề trên dụng thấy có khác nhưng thể vốn không hai. Phật cũng từ nơi phàm phu mà thành, phàm phu tu hành giác ngộ thành Phật, thì cũng không phải ai khác vào trong đó thành. Cũng vậy, mê Bồ-đề thì vọng tưởng phiền não, giác phiền não thì thành Bồ-đề, không có hai cái thể riêng khác.

    “Niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật”. Ngay một niệm! Niệm tuy có khác, niệm trước niệm sau dường như có trước, có sau, nhưng thể của niệm vẫn không hai. Thế nên, người tỏ ngộ không thấy riêng có được gì khác. Trong nhà Thiền, các vị tỏ ngộ gọi là vô sở đắc, tức không thấy có được.

    Trong hội Ngài Quy Tông, một đêm có vị tăng tỏ ngộ, la to:

    - Tôi ngộ rồi! Tôi ngộ rồi!

    Sáng ngày sau, Ngài Quy Tông gọi vị tăng ra hỏi:

     - Ông nói ngộ là ngộ cái gì?

    Tăng đáp:

    - Sư cô là người nữ.

    Ngộ sư cô là người nữ, không được cái gì khác, giống như đây nói niệm trước mê tức phàm phu, niệm sau ngộ tức Phật. Thể niệm không hai nhưng dụng có khác, do mê nên mang tên phàm phu, do ngộ nên mang tên giác, là Phật.

    Mê-ngộ cũng ngay nơi tâm, phiền não - Bồ-đề cũng ngay nơi tâm, cho nên niệm trước dính cảnh tức phiền não, niệm sau lìa cảnh tức Bồ-đề. Vậy, con đường trở về ở ngay trước mắt chúng ta, không ở đâu xa. Khởi niệm là dính cảnh, có tham, sân, có lấy bỏ thì có phiền não. Ngay nơi niệm dính cảnh, chúng ta thức tỉnh trở lại thì sáng suốt là Bồ-đề, giải thoát, cũng ngay một niệm.

    Như vậy, ngay một niệm dính cảnh liền tỉnh trở lại, tức chuyển phiền não thành Bồ-đề trong chớp mắt, nhưng đó chỉ là Bồ-đề trong chớp mắt. Quan trọng phải giữ cho niệm niệm được liên tục, không dính trở lại mới thường sống trong Bồ-đề. Nếu không, mới Bồ-đề trong chớp mắt rồi phiền não trở lại, mê trở lại.

    Nhớ kỹ, “phàm phu” và “Phật” hay “phiền não” và “Bồ-đề” cũng chỉ là những cái tên, nó không có tánh thật, không cố định. Thế nên, đừng lầm chấp trên cái tên rồi vướng mắc. Tên “phàm phu”, tên “Phật” không có tự tánh, tùy theo tâm mà chuyển.

    Cũng như câu chuyện vị tăng Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ giành y bát. Đuổi theo giành y bát tức mê, nhưng vừa được Lục Tổ khai thị liền ngộ, mê-ngộ chỉ trong chớp mắt. Vậy thì, mê-ngộ chỉ cách trên danh từ, nơi tự tâm vẫn là không hai, đâu có ai khác chạy vào đó, thay vào đó. Chúng ta hiểu vậy để thấy được tinh thần của Lục Tổ chỉ dạy, gọi là tinh thần Đốn giáo, chóng tỏ ngộ trở lại ngay nơi chính mình, ngay nơi một niệm, ngay nơi tự tâm, không phải tìm đâu khác.

    Này thiện tri thức! Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất, không trụ, không qua, không lại. Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra. Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ.

    Lục Tổ tán thán: “Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật là tối tôn, tối thượng, tối đệ nhất”. Không có gì hơn. Chúng ta mới nghe chưa thấy hết được ý nghĩa, nhưng nghiệm kỹ, học rõ, hiểu sâu thì thấy quả là như vậy. Bởi thành Phật cũng từ nơi Bát-nhã thì đâu có gì hơn. Người tu hành không thể thiếu Bát-nhã, có trí tuệ này mới có thể phá tan phiền não, chấp trước, mê lầm, mới phá vỡ được bản ngã lâu đời lâu kiếp. Thiếu Bát-nhã thì không thể phá vỡ, nhất là bản ngã lâu đời lâu kiếp là cái tình chấp sâu xa, cột trói chúng sanh trong vòng sanh tử luân hồi.

    Trong Tâm Kinh nói rõ: “Khi hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, Bồ-tát Quán Tự Tại soi thấy năm uẩn đều Không liền vượt qua hết thảy khổ ách”. Thực hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, tức không phải thực hành trên miệng mà thực hành ngay trong tâm. Luôn dùng Bát-nhã quán chiếu đến khi thuần thục, giống như chính mình là Bát-nhã, mới thấy được năm uẩn đều Không. Chỉ niệm trên miệng thì không thể thấy năm uẩn đều Không, phải một lòng niệm mới thấy năm uẩn đều Không, tức phá được bản ngã liền qua hết thảy khổ ách. Sở dĩ có khổ vì có ta, không ta thì ai khổ? Bao nhiêu tình chấp khi gặp Bát-nhã phải vỡ tan hết. Do đó, người tu hành phải một lòng kính trọng, phụng trì Bát-nhã không thể xem thường.

    Trí Bát nhã này: “Không trụ, không qua, không lại”. Nghĩa là tất cả không trụ, không dính mắc, tự tại đi qua tất cả, không có gì chướng ngại, vượt ngoài sanh tử, không qua lại nữa. “Chư Phật ba đời từ trong đó mà hiện ra”. Chư Phật cũng từ trong trí Bát-nhã mà thành Phật, phá vỡ phiền não mê lầm. Không phải Phật thành Phật ở các tướng tốt, mà thành từ trong Bát-nhã.

    “Chính dùng Trí Tuệ Lớn mà phá tan phiền não, trần lao nơi năm uẩn. Tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo, biến ba độc làm giới-định-tuệ”. Chúng sanh chấp chặt nơi năm uẩn nên chứa đầy phiền não, trần lao, do đó che mờ tánh giác. Trí Bát-nhã soi đến, các thứ phiền não trần lao phải tan hết, không chỗ bám, năm uẩn thành trống rỗng, không còn che mờ. Năm uẩn còn gọi là năm ấm. Uẩn là chứa nhóm, chứa nhóm những phiền não; Ấm là che mờ, che đậy. Năm uẩn trống rỗng là không còn che mờ, không còn chứa nhóm thì tánh giác hiện ra. Cho nên tu hành như thế nhất định sẽ thành Phật đạo không nghi ngờ, biến ba độc tham-sân-si làm thành giới-định-tuệ. Tức hóa giải ba độc, độc không còn hại nữa, thành giải thoát, tự tại, sống trong an lành. Người thực hành đúng trí Bát-nhã có công năng lớn lao như vậy. Do đó, Lục Tổ tán thán để tất cả thấy được ý nghĩa giá trị của Bát-nhã.

    Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây từ một Bát-nhã mà sinh tám muôn bốn ngàn trí tuệ. Tại sao? Vì người đời có tám muôn bốn ngàn trần lao, nếu không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh. Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình. Dùng trí tuệ soi sáng, đối tất cả pháp chẳng lấy, chẳng bỏ, tức là thấy tánh thành Phật đạo.

    Thường sống trong trí tuệ thì trái với trần lao. Tám muôn bốn ngàn là chỉ số lớn, số tượng trưng. Một trần lao chuyển thành một trí tuệ. Nếu thiếu trí tuệ thì trần lao hiện, tức là mê. Có trí tuệ thì trần lao mất, tức là giác. Tám muôn bốn ngàn trần lao chuyển thành tám muôn bốn ngàn trí tuệ, tức thường sống trong trí tuệ mà không có trần lao, đó là thường giác, sống không mất mình, không lìa tự tánh. Nếu tâm thường có trí tuệ thì làm mọi việc đều sáng tỏ, làm trong trí tuệ tức thấy Phật. Ngược lại, tâm chứa trần lao vừa khởi niệm là thấy chúng sanh. Thế nên, không trần lao thì trí tuệ thường hiện, chẳng lìa tự tánh.

    “Người ngộ pháp này tức là không niệm, không nhớ nghĩ, không dính mắc, chẳng khởi dối trá, dụng ngay tánh chân như của chính mình, dùng trí tuệ soi sáng, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ tức là thấy tánh thành Phật đạo”. Người ngộ được pháp này thường tự thấy tánh sáng suốt, dụng ngay tánh chân như, từ chân như khởi dụng, không khởi gì khác, vừa động niệm là trái với cái thật.

    Thiền sư Sư Nhan đến tham vấn Ngài Nham Đầu. Sư hỏi:

    - Thế nào là lý bản thường?

    Ngài Nham Đầu đáp:

    - Động.

    Sư thưa:

    - Khi động thế nào?

    Ngài Nham Đầu bảo:

    - Chẳng phải lý bản thường.

    Lý bản thường là lý thường sẵn vậy, khởi niệm tức động, động thì trái với bản thường. Nên đây nói người ngộ pháp này là không niệm, không nhớ nghĩ, không thêm cái gì khác, cũng không dính mắc, gọi là người vô trụ. Vì Bát-nhã là vượt qua tất cả, cũng không có gì so sánh, nên vừa khởi niệm so sánh là trái với Bát-nhã. Người học Bát-nhã đôi khi sợ vì nghe cái gì cũng Không. Nhưng Không ở đây không phải là diệt hết không có tất cả, mà tất cả đều không dính mắc, đầy đủ trí tuệ, công đức sáng ngời. Cũng chẳng khởi dối trá, có ánh sáng Bát-nhã thấy đúng như thật các pháp, không có bóng tối xen vào thì đâu có dối trá. Dùng ngay tánh chân như chính mình, từ tánh chân thật dùng ra tất cả đều chân thật, không hư dối. Sống được với tánh chân thật, đem cái thật sống với nhau thì thiên hạ thái bình. Hiện tại, mọi người đem cái vọng sống với nhau nên sanh đủ thứ chuyện rắc rối. Bởi buồn thương giận ghét đều ở trong cái vọng, trong cái thật đâu có những thứ đó. Bởi vậy, cần tu Bát-nhã để đem Bát-nhã vào cuộc sống, đó là rất trọng yếu.

    “Dùng trí tuệ soi sáng, đối với tất cả pháp chẳng lấy chẳng bỏ tức là thấy tánh thành Phật đạo”. Chúng ta thấy các pháp là thật, ta cũng thật nên có lấy có bỏ, mà có lấy bỏ thì có phiền não. Ở đây, sáng tỏ các pháp đều tánh Không, không thật, thì không còn lầm theo nó, tức là không bị các pháp chuyển, mà ngược lại chuyển các pháp, đó mới thật sự làm chủ trở lại. Thấy tánh thành Phật đạo là thành ngay trong tự tánh, không phải thành ở đâu khác.

    Này thiện tri thức! Nếu người muốn vào pháp giới sâu xa và Bát-nhã tam-muội, cần tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã tức sẽ được thấy tánh. Phải biết, kinh này có công đức vô lượng vô biên mà trong kinh đã khen ngợi rành rõ, không gì có thể nói đủ hết.

    Lục Tổ tán thán Bát-nhã và kinh Kim Cang. Vào pháp giới sâu xa tức là chứng ngộ chân tánh (tánh chân thật) không thể nghĩ bàn. Bát-nhã tam-muội, nói theo chữ nghĩa là chánh định Bát-nhã, ngầm chỉ Bát-nhã cứu cánh hay thực tướng Bát-nhã, không phải Bát-nhã văn tự. Người muốn vào chỗ thật chứng rõ ràng phải tu hạnh Bát-nhã, trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã.

    Tu hạnh Bát-nhã là thường dùng trí tuệ soi sáng các pháp, thấy rõ các pháp đều không có thật tánh để không mê lầm theo nó, không trụ, không dính mắc, tức tâm thường sáng. Trì tụng kinh Kim Cang Bát Nhã sẽ thấy tánh, nhưng vì sao có người thường trì kinh Kim Cang Bát Nhã mà không thấy tánh? Chúng ta cần hiểu đúng về kinh Kim Cang Bát Nhã, không phải hiểu theo nghĩa quyển kinh để trên bàn, trì tụng quyển kinh để trên bàn không thể thấy tánh. Kinh Kim Cang Bát Nhã ngầm chỉ trí tuệ kim cang, trì tụng tức thường sống với trí tuệ kim cang, phá tan những tình chấp mê lầm, không dính mắc các cảnh các pháp, luôn giữ gìn như vậy sẽ thấy tánh không nghi.

    Lục Tổ kế thừa Ngũ Tổ nên Ngài cũng khuyên người trì tụng kinh Kim Cang. Bởi kinh Kim Cang là bộ kinh phá chấp rất mạnh mẽ, phá chấp tam tâm tứ tướng, là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm vị lai, tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng thọ giả, phá cái thấy chấp có thuyết pháp, cho đến trang nghiêm tịnh độ. Phá sạch, không cho chúng ta bám vào cái gì, phá cả cái chấp phước đức của Bồ-tát, “làm phước đức còn thấy có phước đức thì không phải Bồ-tát thật”.

    Trong kinh Kim Cang, Đức Phật tán thán công đức của kinh này: “Nếu có người hay thọ trì, đọc tụng, rộng vì người nói, Như Lai hẳn biết người ấy, hẳn thấy người ấy đều được thành tựu công đức chẳng thể lường, chẳng thể cân, chẳng có bờ mé, chẳng nghĩ bàn”. Công đức không tính kể, vì công đức này là công đức của tự tánh, vượt hơn tất cả những công đức hữu vi, không thể dùng tâm phân biệt so sánh mà đến được.

    Pháp môn này là Tối thượng thừa, vì người đại trí mà nói, vì người thượng căn mà nói; người tiểu căn, tiểu trí nghe đến thì tâm sanh chẳng tin. Tại sao? Ví như rồng to làm mưa xuống, thì ở cõi Diêm-phù-đề, thành ấp, xóm làng thảy đều bị trôi giạt, như trôi lá táo. Nếu mưa xuống biển cả thì chẳng thêm, chẳng bớt. Nếu người Đại thừa hoặc người Tối thượng thừa, nghe nói kinh Kim Cang thì tâm mở sáng tỏ ngộ nên biết bản tánh tự có trí Bát-nhã.

    Lục Tổ xác định rõ: “Pháp môn này là pháp môn Tối thượng thừa”. Tức vượt hơn các thừa, nên Ngài nhắc, người nghe pháp này cần phải mở tâm rộng lớn tương xứng chứ đừng dùng cái tâm nhỏ hẹp so đo nghe nhận. “Nếu người đại thừa hoặc người tối thượng thừa nghe nói kinh Kim Cang tâm mở sáng, tỏ ngộ, biết bản tánh tự có trí Bát-nhã”.

    Người có căn tánh đại thừa nghe kinh Kim Cang liền thấy vui thích, tâm mở sáng, tin biết nơi bản tánh tự có trí Bát-nhã, tức trí Bát-nhã tự có nơi chính mình chứ không phải tìm bên ngoài, đúng với tinh thần Thiền Tông, đó mới thật Bát-nhã. Bát-nhã học được từ kinh điển, từ bên ngoài là phương tiện Bát-nhã, chưa phải chân thật Bát-nhã. Học Bát-nhã phải học thấu đến như thế mới là thật học.

    Vì tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự. Ví như nước mưa, chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây, hữu tình, vô tình, thảy đều được tươi nhuần; trăm sông, mọi dòng chảy vào biển cả lại họp thành một thể. Trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế.

    Ngài nói rõ: “Tự dụng trí tuệ thường soi sáng nên chẳng nhờ văn tự”. Dùng trí tuệ nơi tự tánh của chính mình thường soi sáng mà không nhờ văn tự, không kẹt nơi văn tự, như vậy mới thật trí. Trí tuệ nhờ văn tự đến khi hết văn tự sẽ mất, do học mà được thì có lúc sẽ quên. Lục Tổ không biết chữ vẫn tỏ ngộ, rõ ràng không nhờ văn tự. Mỗi người phải soi trở lại nơi chính mình để phát huy trí tuệ của tự tánh, đừng mắc kẹt nơi văn tự chữ nghĩa, mắc kẹt nơi văn tự chữ nghĩa thì không thấy được cái thật.

    “Ví như nước mưa chẳng từ trời có, vốn là rồng hay dấy lên, khiến cho tất cả chúng sanh, tất cả cỏ cây hữu tình vô tình thảy đều được tươi nhuần, trăm sông mọi dòng chảy vào biển cả hợp thành một thể, trí Bát-nhã nơi tự tánh của chúng sanh cũng lại như thế”. Chúng sanh tự có sẵn trí tuệ chân thật, không phải nương từ bên ngoài, khi ngộ được lẽ thật thấy đồng một thể khế hợp như nhau. Ngược lại, chúng ta vì còn sống trong tâm chúng sanh, thấy theo cái ngã riêng biệt nên cách biệt nhau.

    Này thiện tri thức! Người tiểu căn nghe pháp Đốn giáo này, giống như cỏ cây gốc rễ nhỏ nếu như gặp mưa to thảy đều bị ngã rạp, chẳng thể lớn lên. Người tiểu căn cũng lại như thế, vốn có trí Bát-nhã không sai khác gì với người đại trí, nhân đâu nghe pháp chẳng tự tỏ ngộ? Bởi do tà kiến chướng nặng, gốc rễ phiền não sâu dày giống như mây to che phủ mặt trời, chẳng được gió thổi qua thì ánh sáng mặt trời chẳng hiện. Trí Bát-nhã cũng không có lớn nhỏ, vì tất cả chúng sanh tự tâm mê ngộ chẳng đồng. Tâm mê thì thấy tu hành tìm Phật bên ngoài, chưa ngộ tự tánh tức là tiểu căn. Nếu người tỏ ngộ Đốn giáo, chẳng chấp tu bên ngoài, chỉ đối với tự tâm thường khởi chánh kiến, phiền não trần lao thường chẳng thể nhiễm tức là thấy tánh.

    Người mê chấp theo tà kiến, tu hành hướng ra bên ngoài tìm cầu. Ngày nay, đa số người học đạo cũng hướng bên ngoài tìm cầu, ít ai tìm trở lại nơi chính mình, thành ra bị che mờ trí Bát-nhã. Có sẵn mà không tin, lại tin bên ngoài thì làm sao ngộ được! Thế nên tạm đặt tên là tiểu căn, nhưng cũng có trí Bát-nhã như người đại trí chỉ vì chưa tin nhận thôi.

    Nếu người tỏ ngộ trở lại, không chấp tu bên ngoài, thường khởi chánh kiến nơi tự tâm, tức tự tin nơi tâm mình sẵn có trí Bát-nhã sáng suốt, trí đó, phiền não trần lao không thể nhiễm. Sáng tỏ được lẽ thật như thế thì thấy tánh, đổi lại thành đại trí, mất tên tiểu căn, chuyển tên tiểu thành đại.

    Nói tiểu căn, đại căn hay đại trí cũng là cái tên tạm đặt, không nên mắc kẹt trên cái tên mà thành ngăn ngại. Người không khéo mắc kẹt trên cái tên rồi phiền não, chê khen với nhau: “tôi đại anh tiểu” thành ra càng thêm ngăn cách. Chúng ta biết lớn-nhỏ chỉ là cái tên tạm thời đặt ra, trí Bát-nhã vốn không lớn-nhỏ, đem cái tưởng lớn-nhỏ mà hiểu Bát-nhã thì trái với Bát-nhã.

    Trong Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn của Thiền sư Huệ Hải, có người đến hỏi Sư:

     - Bát-nhã lớn chăng?

    Sư đáp:

    - Lớn.

    Người hỏi:

    - Lớn bằng chừng nào?

    Sư đáp:

    - Không có ngằn mé.

    Người hỏi:

    - Bát-nhã nhỏ chăng?

    Sư đáp:

    - Nhỏ.

    Người hỏi:

    - Nhỏ bằng chừng nào?

    Sư đáp:

    - Xem chẳng thấy!

    Người hỏi:

    - Chỗ nào là Bát-nhã?

    Sư đáp:

    - Chỗ nào chẳng phải Bát-nhã!

    Vậy là hết tướng lớn-nhỏ, nói lớn-nhỏ là tạm nói. Nhưng người thường mắc kẹt nơi cái tên, nghe nói lớn thì tưởng lớn, nói nhỏ thì tưởng nhỏ, bị cái tưởng gạt. Bát-nhã không thuộc lớn-nhỏ, còn kẹt cái thấy lớn-nhỏ là chưa rõ được Bát-nhã.

    Rõ được như vậy thì chỗ nào chẳng phải Bát-nhã! Có ở chỗ này, không có ở chỗ kia thì không phải Bát-nhã. Rõ được Bát-nhã, nhìn khắp nơi đều là Bát-nhã, không vướng mắc, nhìn chỗ nào cũng sáng suốt không mê lầm. Đây là chỗ người nghe đôi khi hiểu lầm, nghe nói nhìn chỗ nào cũng là Bát-nhã thì nghĩ tất cả đều là Bát-nhã, bàn ghế hay cây cỏ cũng là Bát-nhã. Trong nhà Thiền có câu: “Rỡ rỡ hoa vàng đều là Bát-nhã”. Như vậy hoa cũng là Bát-nhã, đó là hiểu lầm theo cái tưởng, bị văn tự gạt. Đúng theo đây, nói rằng chỗ nào cũng Bát-nhã là khi tâm đã sáng thì nhìn hoa, nhìn cây, nhìn cảnh vật, nhìn ra tất cả đều thấy sáng tỏ, không lầm mê, chứ không phải cái hoa, cái cây là Bát-nhã, phải hiểu rõ ràng, không lẫn lộn.

    Này thiện tri thức! Trong ngoài chẳng dừng trụ, đến đi tự do, hay trừ tâm chấp, thông suốt không ngăn ngại. Người hay tu hạnh này thì cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác.

    Tu khế hợp với kinh Bát Nhã là phải xả trừ tâm chấp trước, nên nói trong ngoài không dừng trụ, trong tâm ngoài cảnh đều không dính mắc, đúng với tinh thần của Lục Tổ ngộ kinh Kim Cang: “Chẳng nên trụ sắc sanh tâm, chẳng nên trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không có chỗ trụ mà sanh tâm kia”. Không trụ vào cái gì cả, xả trừ tất cả tâm chấp trước, không dính kẹt, không ở một chỗ thì lúc nào cũng sáng suốt. Không dính vào cái gì thì đâu có gì che mờ.

    Chúng ta bởi có trụ, dừng trụ vào cái gì đó thì bị cái đó làm ngăn ngại, ngay đó che lấp Bát-nhã cho nên không sáng. Tâm không dừng trụ thì luôn sáng tỏ, tâm thênh thang rộng lớn đi qua tất cả, không gì ngăn ngại. Rõ được chỗ này là thông được kinh Kim Cang, nên đây nói: “Người hay tu hạnh này cùng với kinh Bát Nhã vốn không sai khác”.

    Này thiện tri thức! Tất cả khế kinh và mọi thứ văn tự Đại thừa, Tiểu thừa, mười hai bộ kinh đều nhân nơi người mà đặt thành, nhân tánh trí tuệ mới hay dựng lập. Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có. Cho nên biết, muôn pháp vốn từ nơi người mà dấy lên, tất cả kinh sách nhân nơi người mà có nói ra. Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân. Người ngu hỏi với người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng, thì không khác gì với người trí.

    Tất cả kinh điển đều nhân nơi người mà lập thành, do có người mê nên Phật mới nói pháp để độ người hết mê. Pháp nhân nơi người mà có. “Vì nếu không có người đời thì tất cả muôn pháp vốn tự chẳng có”. Không có người mê thì Phật nói pháp làm gì? Nói pháp là nói với chúng ta, nhưng chúng ta lại đi tìm pháp ở đâu khác, là trái với ý Phật, đó là lầm.

    Muôn pháp không rời ngoài nơi người mà riêng có, không phải tìm cầu bên ngoài. Nhưng người có căn cơ chẳng đồng nên pháp có sai biệt. Người thích này, người thích kia, người có căn cơ lớn, người có căn cơ nhỏ v.v... Thế nên Phật thuyết pháp nhiều thứ sai biệt. Tùy theo người, nhân nơi người mà pháp có sai biệt. Pháp sai biệt do nơi người, không phải ở nơi pháp. Nhưng người lại mắc kẹt nơi pháp, học pháp rồi chấp theo pháp thành ngại, đâu biết rằng gốc ở nơi người.

    Bởi người có ngu có trí nên mới tạm lập có tiểu có đại, không phải pháp có tiểu có đại. Hiểu vậy thì ngu hay trí, tiểu hay đại cũng không cố định. Nên nói: “Bởi trong người kia có ngu, có trí, ngu là tiểu nhân, trí là đại nhân, người ngu hỏi nơi người trí, người trí nói pháp cho người ngu nghe, người ngu chợt tỏ ngộ, tâm mở sáng thì không khác gì với người trí”. Hiểu như vậy, chúng ta cởi mở rất nhiều, không kẹt trên cái tên, có bị nói ngu cũng không quá buồn, tạm ngu thôi. Vì nếu người ngu thưa hỏi với người trí, người trí chỉ bày khiến tỏ ngộ thì không còn tên “ngu”, chuyển thành “trí”.

    Và hiểu vậy, chúng ta không tự khinh mình, cũng không dám khinh người. Bởi người kia tuy hiện giờ chưa sáng tỏ nhưng gốc của họ cũng có đầy đủ trí Bát-nhã, nếu gặp duyên khơi dậy trí Bát-nhã họ sẽ sáng tỏ, đôi khi sáng trước chúng ta, thành ra đâu dám khinh ai. Học đạo, chúng ta thấy rõ điều đó, có người tu thời gian lâu mà chưa sáng tỏ, có người mới vô tu chưa lâu lại sáng tỏ trước, nên không ai dám khinh ai. Mọi người đều vốn sẵn có trí thể Bát-nhã như nhau, chẳng qua là người đã phát hiện trước và người chưa phát hiện nên khác nhau, nếu đồng phát hiện thì thấy như nhau. Trên lý thật không sai khác. Đó là đem lại niềm tin cho mọi người tự tin vươn lên chứ không chấp nhận ngu mê mãi, đó cũng chính là nghĩa tánh Không của Bát-nhã. Ngu cũng tánh Không, trí cũng tánh Không, cho nên ngu mới chuyển thành trí, vì là tánh Không nên nó không có tánh cố định, khi hiểu ra thì ngu thành trí. Trí cũng vậy, có trí mà không biết thì ngu. Quán sâu chỗ này sẽ có chỗ sáng tỏ rõ ràng, hiểu rõ Bát-nhã một cách thực tế.

    Này thiện tri thức! Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật. Cho nên biết, muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh thì đều thành Phật đạo”. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”.

     “Chẳng ngộ tức Phật là chúng sanh, khi một niệm ngộ thì chúng sanh là Phật”. Phật và chúng sanh chỉ cách nhau ở một niệm mê với ngộ. Phật và chúng sanh chỉ là hai cái tên tạm đặt. Không ngoài chúng sanh riêng có Phật hay ngoài Phật riêng có chúng sanh vì thể vốn không hai. Thấy thể không hai, đó là thấy tánh. Vậy không phải tìm Phật ở đâu khác, muốn thấy Phật phải thấy ngay trong chúng sanh.

    Cái gì chẳng ngộ? Cái gì ngộ? Chỉ là tâm. Chính Tâm mới biết chẳng ngộ, cũng chính Tâm mới biết ngộ, không ngoài tâm riêng có. Lục Tổ dạy: “Cho nên biết muôn pháp trọn ở nơi tự tâm, sao chẳng ở trong tự tâm mà chóng thấy bản tánh chân như”. Cần yếu là sáng tỏ trở lại nơi tự tâm, ngay trong tự tâm chóng thấy bản tánh chân thật bất động. Không cần tìm đâu khác, chìa khóa ngay nơi chính mình, muốn mở thì mở, không chịu mở thì làm chúng sanh mãi.

    Vị tăng tên Huệ Siêu đến hỏi Thiền sư Tịnh Tuệ:

    - Thế nào là Phật?

    Thiền sư Tịnh Tuệ bảo:

    - Ông là Huệ Siêu.

    Ngay đó, Huệ Siêu sáng tỏ.

    Thiền sư Tịnh Tuệ không giải thích Phật là thế này thế kia, chỉ bảo: “Ông là Huệ Siêu” thì biết ngay, cái gì là Phật! Thẳng tắt không phải dài dòng.

    Lục Tổ dẫn kinh Bồ Tát Giới nói rằng: “Bản nguyên tự tánh của ta là thanh tịnh, nếu nhận biết tự tâm, thấy tánh đều thành Phật đạo”. Bản nguyên tự tánh, tức tự tánh sẵn có nơi chính mình, vốn tự thanh tịnh, không phải làm cho thanh tịnh nữa. Do chúng ta mê không thấy được, vọng khởi lăng xăng thành che lấp đi. Khéo nhận trở lại thì sẵn đủ, chính chỗ đó là chỗ thành Phật chứ không đâu khác. Thành Phật là thành ngay nơi tự tâm, nhưng là tâm sẵn có thanh tịnh chứ không phải tâm vọng tưởng lăng xăng.

    Tổ dẫn thêm kinh Tịnh Danh tức kinh Duy Ma Cật: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”. Bản tâm cũng sẵn nơi chính mình, khi tỉnh ngộ thì ngay đó bỗng nhiên rỗng suốt liền trở lại “được” bản tâm, không phải tìm bản tâm ở đâu khác. Đó gọi là Đốn giáo, rất nhanh chóng. Nói “được” là tạm nói chứ không được cái gì khác, chỉ trở lại cái sẵn có nơi mình, chính là con đường thẳng tắt.

    Tổ đi trước, đã có kinh nghiệm thấy rõ rồi chỉ dạy cho tất cả. Chúng ta nắm vững yếu chỉ này, tu tập theo sẽ bớt tốn công rất nhiều. Chạy quanh co rốt cuộc cũng trở về cái sẵn có, giờ đi thẳng vào đây sẽ bớt tốn công.

    Này thiện tri thức! Tôi ở chỗ Hòa thượng Nhẫn, vừa nghe liền ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như. Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra, khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề.

    Lục Tổ dẫn lại ngay bản thân của Ngài lúc ở nơi Ngũ Tổ: “vừa nghe thì ngay lời nói tỏ ngộ, chóng thấy bản tánh chân như”. Tức không kẹt nơi lời nói, mà ngay lời nói nhận lại bản tánh nơi chính mình.

    Đa số người học đạo nghe pháp lâu mà không tỏ ngộ bởi duyên theo lời nói rồi phân tích, chạy theo tiếng nên không thấy được để trở lại với chính mình. Nghe như vậy là “pháp duyên” chứ chưa phải “pháp thật”, pháp thật ở ngay nơi chính mình. Cần yếu phải đạt ý quên lời, tức phải nhận được ý ngoài lời nói. Lục Tổ rất bén nhạy, nghe liền nhận được bản tánh chân như nơi chính mình. Chóng thấy tức ngay đó liền thấy. Nói lên rằng nó có sẵn, không cần trải qua thứ lớp.

    Ngài nói: “Do đó tôi đem giáo pháp này truyền ra khiến cho người học đạo chóng ngộ Bồ-đề”. Tổ đã thấy được nên đem lẽ thật đó giúp cho mọi người cũng chóng thấy trở lại như Tổ. Những điều Ngài nói ra xuất phát từ kinh nghiệm chân thật của tự thân, không phải do suy luận mà nói, cũng không phải nghe người khác nói rồi nói lại. Đã trực tiếp từ chỗ chứng nghiệm nói ra, nên có sức sống rất lớn cho người học, để bảo chứng cho tất cả đầy đủ lòng tin.

    Mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy bản tánh mình. Nếu tự chẳng ngộ, cần tìm bậc Đại thiện tri thức hiểu pháp Tối thượng thừa chỉ thẳng cho con đường chân chánh. Bậc thiện tri thức ấy có nhân duyên lớn, nghĩa là giáo hóa, dẫn dắt, khiến được thấy tánh, vì tất cả pháp lành nhân vị thiện tri thức mà hay phát khởi. Chư Phật ba đời, mười hai bộ kinh vốn tự có đủ trong tánh người. Chẳng thể tự ngộ, phải cầu bậc thiện tri thức chỉ bày cho mới thấy. Nếu người tự ngộ thì chẳng nhờ tìm cầu bên ngoài. Nếu một bề chấp cho là phải cần vị thiện tri thức ấy mới mong được giải thoát, không có lẽ ấy.

    Đây Lục Tổ chỉ dạy, mỗi người hãy tự xét rõ tâm mình, thấy trở lại bản tánh mình, đó là chủ yếu, ngoài tâm này không thêm gì khác. Nhưng nếu tự mình chẳng ngộ, cần phải tìm bậc đại thiện tri thức chỉ cho con đường vào. Đại thiện tri thức là người đã thấy rõ con đường chân thật Tối thượng thừa này mới có thể chỉ rõ ràng, chính xác.

    Sao gọi là Tối thượng thừa? Vì không còn gì trên nữa, đây là lẽ thật rốt ráo không có gì che giấu, không còn gì khác. Tìm gặp được bậc thiện tri thức này là nhân duyên rất lớn nên phải trân trọng, chớ xem thường mà bỏ qua. Bởi tuy việc lớn này là cái tự nơi mỗi người chính mình sẵn có, nhưng vì còn mê không nhận ra, bị vọng tưởng điên đảo che, do đó phải nhờ thiện tri thức là những bậc đi trước thấy trước chỉ cho chúng ta để đi thẳng vào chỗ chân thật, thì còn gì quý bằng!

    Tổ dạy, tất cả kinh điển có đủ trong tánh người, không phải tìm đâu xa. Phật ngộ trở lại tự tánh, Ngài sống trọn vẹn, hết những mê lầm, từ trong đó Ngài nói ra. Chúng ta cũng vậy, ngộ trở lại tự tánh thì trong đó phát ra đầy đủ, không thiếu.

    Như vậy, chưa tỏ ngộ thì cần phải nhờ thiện tri thức chỉ cho để sáng tỏ trở lại việc lớn của chính mình, tuy nhiên không phải một bề ỷ lại vị thiện tri thức bên ngoài, cốt yếu phải tự ngộ. Thiện tri thức bên ngoài không thể đem cái ngộ đến, chỉ giúp khiến chúng ta tự ngộ, nên nói: “Nếu một bề chấp phải cần có thiện tri thức ấy mới mong giải thoát thì không có lẽ ấy”. Ngài Nam Viện từng khai thị: “Dưới gậy vô sanh nhẫn, gặp cơ chẳng thấy thầy”. Gặp cơ chẳng thấy thầy tức là đã tự khế hợp được thì vượt qua ông thầy, không còn mắc kẹt nơi thầy. Nói vậy không có nghĩa là bác bỏ thầy, mà nhờ thầy chỉ dạy rồi phải tự mình sáng lên vượt qua ông thầy ở bên ngoài.

    Tại sao? Trong tự tâm có tri thức tự ngộ, nếu khởi tà mê, vọng niệm điên đảo thì thiện tri thức bên ngoài dù có truyền dạy, trọn không thể cứu được. Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng, thì khoảng một sát-na vọng niệm đều dứt. Nếu nhận biết tự tánh thì một phen ngộ liền đến Phật địa.

    Lục Tổ giải thích rõ, nơi mỗi người đều có tri thức tự ngộ không thiếu. Nhưng nếu khởi tâm điên đảo tà mê mãi thì dù có thiện tri thức bên ngoài tận tâm truyền dạy cũng không cứu được. Quan trọng là phải biết dẹp những tà mê trong tâm thì thiện tri thức bên ngoài chỉ ra mới nhận được, mới sáng được. Giống như chúng ta dọn sẵn cõi lòng cho trống sạch thì thiện tri thức chỉ cho liền nhận rõ, trong tâm để đầy rác mãi thì dù thiện tri thức bên ngoài chỉ cho cái thật nhưng chúng ta đâu nhận được.

    “Nếu phát khởi trí Bát-nhã chánh chân soi sáng thì khoảng ngay một sát-na vọng niệm đều dứt”. Nếu có trí Bát-nhã chánh chân soi sáng thì vọng niệm không chỗ bám. Vọng niệm khởi được là do thiếu Bát-nhã soi sáng, vì vọng niệm thích nghi với bóng tối, tức vô minh. Bát-nhã là ánh sáng, nên có Bát-nhã thì vọng niệm phải mất, phải tan. Cho nên chúng ta tu tập cần phải có trí tuệ.

    Trong nhà Thiền thường có câu: “Chẳng sợ vọng khởi, chỉ sợ giác chậm”. Giác tức là trí, có trí, biết được nó thì nó hết, không chỗ bám. Thiếu giác, vọng liền có chỗ nương; có ánh sáng giác ngộ, vọng hết chỗ nương.

    “Nếu nhận biết tự tánh một phen ngộ liền đến Phật địa”. Biết được tự tánh tức là đạp lên đất Phật, chỗ thấy cùng với Phật không khác, không phải tìm thêm cái gì khác, là đầy đủ chánh nhân thành Phật.

    Này thiện tri thức! Trí tuệ soi xét, sáng suốt cả trong ngoài, nhận biết bản tâm mình. Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát. Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội. Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm. Sao gọi là vô niệm? Nếu thấy tất cả pháp, tâm chẳng nhiễm trước, đó là vô niệm. Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ. Chỉ bản tâm thanh tịnh, sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ, tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm. Nếu trăm vật chẳng nghĩ, sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến.

    Tinh thần tu tập theo Lục Tổ chỉ dạy là phải nhận biết bản tâm, muốn nhận biết bản tâm phải dùng trí tuệ để nhận biết. Trí tuệ nhận biết bản tâm phải thấu suốt cả trong ngoài. Trong là căn ngoài là trần, hay trong là tâm ngoài là pháp, không mắc kẹt trong ngoài thì soi suốt mới nhận rõ bản tâm, kẹt nơi căn vướng nơi trần liền bị che mờ.

    “Nếu nhận biết bản tâm tức vốn giải thoát”. Tự tâm vốn giải thoát, vì mê mới tự trói mình vào trần, nói trói chỉ là “vọng trói”. Ví như chúng ta thấy thỏi vàng liền khởi tâm phân biệt thấy vàng là quý rồi tham luyến, là tự mình trói vào nó. Nếu tỏ ngộ trở lại, biết vàng chỉ là kim loại, là vật vô tri, không có tâm tham luyến, ngay đó là tự giải thoát.

    “Nếu được giải thoát tức là Bát-nhã tam-muội, Bát-nhã tam-muội tức là vô niệm”. Bát-nhã tam-muội ở ngay nơi tự tâm, không phải ở trong chữ nghĩa. Phân tích Bát-nhã tam-muội là thế này thế kia gì đó là chữ nghĩa, chính ngay nơi tự tâm mới là Bát-nhã tam-muội chân thật. Bát-nhã tam-muội cũng tức là vô niệm. Nhưng vô niệm ở đây không phải là diệt niệm không cho nghĩ gì cả, mà chính thấy tất cả pháp nhưng tâm không nhiễm trước, không dính mắc. Như Sơ Tổ Trúc Lâm dạy: “Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”.

    “Dụng tức khắp tất cả chỗ, cũng chẳng dính tất cả chỗ, chỉ bản tâm thanh tịnh sẽ khiến sáu thức ra sáu cửa, ở trong sáu trần, không dính mắc, không lẫn lộn, đến đi tự do, ứng dụng thông suốt không ngưng trệ tức là Bát-nhã tam-muội, tự tại giải thoát gọi là hạnh vô niệm”. Phải học thấu suốt chỗ vô niệm này, không khéo thành pháp trói kẹt một bên. Đây là tâm đối với tất cả pháp không nhiễm trước, không dính mắc, không trụ vào chỗ nào. Biết khắp hết không phải không biết, nhưng biết khắp mà không dính mắc, tức biết tất cả mà lìa tất cả nên đều vô ngại. Không dính thì đâu có ngại, chúng ta ngại là do bị dính. Cho nên không cấm chúng ta biết mà chỉ đừng dính, bởi tâm có dính có trụ liền đó có ngăn có ngại.

    Sáu thức tuy đi ra sáu cửa (tức sáu căn), mắt thấy cũng biết, tai nghe cũng biết, có biết có phân biệt là ở trong sáu trần nhưng không lẫn lộn với sáu trần, tức là không dính với sáu trần nên tự do tự tại, ngay đó là chuyển thức thành trí, đều thành diệu dụng. Tu không phải bỏ cái gì, mà chuyển thành diệu dụng. Chúng ta vì dính mắc nên bị quở: “Sống theo thức tình, phân biệt yêu ghét hơn thua rồi sanh khởi phiền não”.

    Như vậy không phải phá bỏ cái biết. Biết tất cả những trần cảnh bên ngoài mà không bị trần cảnh làm mê, không dính với trần cảnh nên không ngưng trệ, đây cũng chính là tinh thần vô trụ. Chánh định Bát-nhã là như thế. Tức là đối với sáu trần không bị mê, không dính, không loạn là chánh định. Và chánh định này sáng suốt có trí tuệ, nên gọi là chánh định Bát-nhã. Đây là chân nghĩa vô niệm mà Lục Tổ chỉ dạy, không đồng với vô niệm của người hiểu lầm một bên là dứt không cho niệm, không cho nghĩ.

    “Nếu trăm vật chẳng nghĩ sẽ khiến cho niệm dứt bặt tức là pháp trói, gọi là biên kiến”. Chẳng cho nghĩ gì, niệm dứt bặt, tức bị pháp trói, không được tự tại. Còn biết tất cả nhưng không dính, là cái biết tự tại, không nghiêng một bên nên không rơi vào biên kiến.

    Có vị tăng đến tham vấn Hòa thượng Mễ Hồ, trên đường đi gặp bà già. Vị tăng hỏi bà:

    - Bà có quyến thuộc chăng?

    Bà đáp:

    - Có.

    Vị tăng hỏi:

    - Ở chỗ nào?

    Bà đáp:

    - Sơn hà đại địa, hoặc cỏ hoặc cây đều là quyến thuộc của tôi.

    Vị tăng hỏi:

    - Bà đã từng làm sư cô chăng?

    Bà không đáp mà hỏi lại:

    - Thầy thấy cái gì?

    Vị tăng đáp:

    - Là người thế tục.

    Bà nói:

    - Thầy đâu chẳng phải là tăng.

    Vị tăng nói:

    - Bà chớ có lẫn lộn Phật pháp.

    Bà liền nói:

    - Tôi chẳng làm lẫn lộn Phật pháp.

    Vị tăng nói:

    - Bà thế ấy thì đâu không lộn Phật pháp.

    Bà nói:

    - Thầy là nam tôi là nữ, lẫn lộn chỗ nào?

    Bà già này tuy sống ngoài thế tục nhưng đã tham thiền nhiều năm, tâm đã sáng tỏ, có chỗ thấy rất rõ ràng. Sơn hà đại địa, cỏ cây đều là quyến thuộc của bà, tức không có gì tách rời riêng có, không bỏ một pháp. Tuy nhiên không phải nói vậy là cái thấy lộn xộn, không rõ ràng. Tăng tục, nam nữ, bà thấy rõ ràng, không lẫn lộn, không có mê trong đó. Không phải nghe nói tu đến rốt ráo là phải đạt đến vô phân biệt trí của Ngài Văn-thù-sư-lợi, rồi nghĩ vô phân biệt là không biết nam nữ, hiểu vậy là lầm. Phải hiểu kỹ, vô phân biệt mà là trí, tức nam biết nam, nữ biết nữ, tăng biết tăng, tục biết tục nhưng không lẫn lộn, không lầm mê trong đó, biết rõ mà không mê, đó mới là trí tuệ khế hợp với đạo. Lục Tổ dạy rất kỹ, rất rõ ràng.

    Này thiện tri thức! Người ngộ pháp vô niệm thì trọn đều thông suốt muôn pháp. Người ngộ pháp vô niệm thì thấy cảnh giới chư Phật. Người ngộ pháp vô niệm thì đến địa vị Phật.

    Ngài nhấn mạnh, ngộ pháp vô niệm thì thông suốt muôn pháp. Bởi vì sao? Vì không còn bị dính nhiễm, không bị pháp làm mê nên thông suốt tất cả. Chúng ta thấy có dính nên không thông suốt. Ngộ pháp vô niệm như thế thì thấy cảnh giới Phật đến địa vị Phật không nghi ngờ. Tức chính đó là nhân để thành Phật, gọi là chánh nhân thành Phật. Không thể đem tâm phàm phu, nghĩ ngợi lung tung theo tình mê mà khế hợp với Phật được, phải vượt lên những niệm kia-đây đối đãi.

    Này thiện tri thức! Đời sau có người nhận được pháp của tôi, hãy đem pháp môn Đốn giáo này đối với người đồng kiến, đồng hạnh, phát nguyện thọ trì như thờ Phật, nên trọn đời chẳng lui sụt, là nhất định sắp vào Thánh vị. Song cần truyền trao theo từ trước đến nay là thầm truyền trao phó, chẳng được ẩn giấu chánh pháp ấy. Nếu người chẳng đồng kiến, đồng hạnh, ở trong pháp khác thì chẳng truyền trao, sẽ làm tổn đến người trước kia, rốt ráo không ích gì. Sợ rằng người ngu chẳng hiểu mà chê bai pháp này, thì trăm kiếp ngàn đời đoạn dứt hạt giống Phật.

    Pháp này là pháp Đốn giáo, chỉ thẳng đến lẽ thật cứu cánh. Thế nên, với người đồng kiến đồng hạnh cùng nhau phát nguyện thọ trì, mới chỉ lại, mới thầm nhận với nhau. Nếu được khế hợp, tin nhận, thọ trì giống như thờ Phật, tức hết lòng trân trọng, cung kính, trọn đời không lui sụt, thì bảo đảm nhất định sắp vào Thánh vị, không còn nghi ngờ. Tức được tâm tin chắc, tâm kiên cố, không còn thối chuyển.

    Nhưng pháp này phải thầm truyền trao phó là sao? Tức là tâm tâm thầm khế hợp với nhau, vượt ngoài ngôn ngữ chữ nghĩa, không phải trao trên chữ nghĩa, không phải phô trương hình thức bên ngoài. Đúng như vậy mới là chân thật chỉ nhau. Lẽ thật này không phải của riêng ai nên không được che giấu. Nếu có tâm che giấu thì chưa phải là người thật ngộ, tức thấy còn có ngã. Nếu người không đồng kiến đồng hạnh, ở trong pháp khác tức không đủ lòng tin, mà truyền trao, sợ rằng họ sanh tâm chê bai sẽ đoạn dứt hạt giống Phật. Như vậy, người nghe mà có lòng tin là đã trồng căn lành sâu dày.

    Này thiện tri thức! Tôi có một bài tụng Vô Tướng, mỗi người cần tụng lấy. Tại gia hay xuất gia, hãy nương bài tụng này tu hành, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời tôi, cũng không có ích gì. Hãy nghe tôi nói tụng:

    Lục Tổ nói bài tụng Vô Tướng cho mọi người nhớ, ứng dụng tu hành, đây là chung cho cả hàng tại gia và xuất gia. Ngài nhắc phải nương đây tu hành mới đúng ý của Ngài, nếu chẳng tự tu, chỉ ghi nhớ lời nói thì không ích gì. Quan trọng là phải hiểu, rồi ứng dụng để thực hành.

         Thuyết thông và tâm thông,

         Như mặt trời trên không,

         Chỉ truyền pháp kiến tánh,

         Ra đời phá tà tông.

    Nhiều người nghe nói Thiền Tông là giáo ngoại biệt truyền nên nghĩ tu thiền không cần giáo, là nghiêng chấp một bên, không thông. Lục Tổ dạy, cần phải thuyết thông, tâm cũng thông. Thuyết thông là thông giáo, nói năng không kẹt trên ngôn ngữ văn tự, không bị chữ nghĩa làm ngại. Tâm thông là sáng được tâm, thấu được cội nguồn chân thật. Vậy thì giáo cũng thông, tâm cũng thông. Khi nói, khéo dùng phương tiện ngôn ngữ nói ra từ chỗ tâm sáng, nên lời nói thấu lý, không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Người tâm thông khi giảng kinh sẽ giảng thấu đáo những lý sâu xa, không vướng mắc chữ nghĩa, người nghe sẽ nghe được sâu hơn.

    Đường lối của Lục Tổ là truyền pháp kiến tánh, chỉ cho người nhận ra bản tánh chân thật nơi chính mình, chỉ thẳng lẽ thật chứ không quanh co dài dòng. Đem pháp này ra đời để phá các tà tông, tức những tông chỉ còn nghiêng lệch bên này bên kia, trái với nghĩa thật kiến tánh.

         Pháp tức không đốn tiệm,

         Mê ngộ có chậm mau,

         Chỉ môn kiến tánh này,

         Người ngu chẳng thể rành.

    Người không khéo sanh tâm cho ta tu theo pháp thượng thừa, pháp đốn giáo, còn người tu theo pháp tiệm, là kém hơn ta. Chính tâm đó là không tốt, nên Lục Tổ dạy pháp không có đốn tiệm, đừng có phân biệt. Bởi tùy theo căn cơ của người mà có chậm có mau, không phải ở nơi pháp. Người ngộ được pháp thấy như nhau, chớ đem tâm phân biệt chậm mau gán cho pháp mà thành ngại.

    Môn kiến tánh này chỉ thẳng bản tánh chân thật xưa nay vốn không sanh diệt nơi tự tâm của mỗi người. Đây là pháp chân thật rốt ráo, vượt ngoài tình thức phân biệt hiểu biết đối đãi. Người ngu sống trong tâm sanh diệt, đem tình thức phân biệt của người mê để hiểu pháp này thì không thể hiểu được, đôi khi hiểu lệch lạc rồi thành chê bai, xuyên tạc. Không phải pháp không cho người hiểu, do người còn dùng tâm mê nên tự che ngại. Pháp vẫn bình đẳng. Nếu vượt qua tâm phân biệt này thì tự thầm hiểu, nhận ra rõ ràng nơi chính mình có đầy đủ không thiếu. Đây cũng để ngăn ngừa người học không thể đem tâm phân biệt theo tình mê để hiểu đến pháp này, đó là lầm.

         Nói tuy có muôn thứ,

         Hợp lý trở về một,

         Trong nhà tối phiền não,

         Thường phải sanh trời tuệ.

    Nói ra tuy có muôn thứ, đó là do dùng phương tiện ngôn ngữ để nói theo căn cơ của mỗi người, thế nên lời nói có sai biệt, có đốn tiệm, có pháp này pháp nọ. Cũng như Phật nói pháp có tám mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng hợp lý thì trở về chỉ một chứ không hai.

    Pháp chân thật vượt ngoài lời nói. Có sai biệt, có nhiều thứ là chưa phải pháp thật, người học cần nhận rõ để không lầm. Đây nhắc cho người học chớ chấp theo những thứ sai biệt mà bỏ quên lý thật không hai. Tuy nhiên, nói “Hợp lý trở về một” nhưng đến chỗ rốt ráo cái “một” cũng phải quên. Bởi một đối với nhiều, còn vướng nơi một cũng còn dính mắc, còn ngại, quên luôn “một” thì cái thấy khi ấy mới tự tại, thấy một cũng được, thấy nhiều cũng được, thấy suốt tất cả.

    Lục Tổ lại nhắc chúng ta chớ sống theo phiền não, nếu ở trong nhà tối phiền não thì phải thường khởi sanh mặt trời trí tuệ để soi sáng. Có trí tuệ soi sáng tức phiền não không có chỗ bám, bởi có trí tuệ thì không có phiền não, ngược lại, có phiền não thì không có trí tuệ.

    Như vậy phiền não và trí tuệ vốn không có hai “thể”, thấu rõ chỗ này liền hiểu được nghĩa “phiền não tức Bồ-đề”. Không có cái thể riêng của phiền não, cái thể riêng của Bồ-đề. Bồ-đề là trí giác, giác phiền não tức là Bồ-đề, còn mê Bồ-đề tức là phiền não.

         Tà đến phiền não tới,

         Chánh đến phiền não trừ,

         Chánh tà đều chẳng dụng,

         Thanh tịnh đến Vô dư.

    Tâm chứa tà tức trái với lý thật, là vọng tưởng điên đảo, nên chứa nó là mời phiền não đến. Tâm chứa chánh thì phiền não tự trừ, tâm không khởi vọng tưởng thì phiền não không chỗ sanh. Người khéo biết tu phải sáng suốt nhận rõ, không lầm chỗ này.

    Trước, thấy “tà-chánh” để biết mà không theo “tà”, trở về “chánh”, giữ tâm chánh để tà không đến, thì phiền não không có chỗ sanh. Tiến lên bước nữa, đến cuối cùng phải vượt qua cả tà và chánh mới thật thanh tịnh, vô sanh. Bởi còn thấy có chánh có tà là còn trong phương tiện đối đãi, dùng chánh để đối với tà, nếu tà hết chánh cũng không còn dùng, nên buông cả chánh. Không thêm niệm tà-chánh, chỉ còn một tâm thanh tịnh là đến Vô dư Niết-bàn, đến đó liền hợp với tâm Tổ.

         Bồ-đề vốn tự tánh,

         Dấy tâm liền là vọng,

         Tâm tịnh ở trong vọng,

         Chỉ chánh, không ba chướng.

    Bồ-đề chân thật vốn ngay tự tánh của chính mình, không phải tìm bên ngoài, vừa khởi tâm tìm Bồ-đề là thành vọng. Kinh Duy Ma Cật:

    Tôn giả Xá-lợi-phất hỏi thiên nữ:

    - Cô đến bao lâu nữa thì được Vô thượng Bồ-đề?

    Thiên nữ đáp:

    - Như Ngài Xá-lợi-phất trở lại làm phàm phu, tôi mới có thể thành Vô thượng Bồ-đề.

    Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

    - Tôi làm phàm phu, điều đó không thể có.

    Thiên nữ nói:

    - Tôi được Vô thượng Bồ-đề cũng không thể có. Bởi vì sao? Bồ-đề không có chỗ trụ, thế nên không có được.

    Tôn giả Xá-lợi-phất nói:

    - Hiện tại chư Phật được Vô thượng Bồ-đề, đã được và sẽ được, nhiều như số cát sông Hằng, đều gọi đó là gì? (Hiện tại có vô lượng chư Phật đã chứng Bồ-đề, quá khứ có vô lượng chư Phật đã chứng Bồ-đề, vị lai sẽ có vô lượng chư Phật chứng Bồ-đề, vậy là sao?)

    Thiên nữ nói:

    - Đều do văn tự thế tục nói có ba đời, chẳng thể bảo Bồ-đề có quá khứ, hiện tại, vị lai.

    Do văn tự thế tục tạm nói có quá khứ chư Phật đã được, hiện tại chư Phật đang được, vị lai chư Phật sẽ được. Đó là phương tiện văn tự, Bồ-đề chân thật không có quá khứ, hiện tại, vị lai. Bởi Bồ-đề còn có quá khứ, hiện tại, vị lai là Bồ-đề sanh diệt. Đây ngầm chỉ Bồ-đề chân thật vốn ở nơi tự tánh xưa nay, nên không thật thấy có được, ở nơi tự tánh thì còn được gì nữa! Ở trong đó mà dấy tâm lên có một cái Bồ-đề nữa liền là vọng, trái với Bồ-đề.

    Tâm tịnh ngay trong vọng, không ngoài vọng riêng có. Tức ngay trong vọng mà lìa vọng, vọng không có chỗ bám thì tự lặng. Chỉ cần tâm chánh trở lại, không lầm theo vọng là vượt qua ba chướng, thông suốt tự tại (ba chướng tức phiền não chướng, nghiệp chướng, báo chướng), vì ba chướng cũng từ tâm sanh, phiền não cũng từ tâm sanh. Nhà Thiền có câu: “Phiền não nhân tâm mà có, nếu tâm không thì phiền não ở chỗ nào?” Do tâm khởi vọng mới có phiền não, nếu tâm Không thì phiền não bám vào đâu? Cho nên phiền não cũng từ tâm sanh, rồi có tạo nghiệp, mà thành chướng.

    Tâm chánh thì chuyển ba chướng, hết chướng liền tự tại vô ngại. Từ tâm thành chướng, cũng từ tâm thành giải thoát, không cần tìm đâu xa. Nên nhà Thiền gọi là Tâm Tông, nhấn mạnh nơi tự tâm, đi thẳng vào cái gốc, chính xác.

         Người đời nếu tu đạo,

         Tất cả trọn chẳng ngại.

         Thường tự thấy lỗi mình,

         Cùng đạo tức tương đương.

    Người khéo biết tu hành đúng theo chánh đạo thì không có gì chướng ngại, bởi chướng ngại là ở nơi tâm chúng ta chứ không phải bên ngoài, do không khéo tu, tâm chấp trước, vướng mắc thành có ngại. Người không biết, theo cái tưởng chấp cho rằng bên ngoài làm ngại, đổ thừa do chướng duyên làm khó tu. Sự thật thì duyên không có chướng, tự ta chướng rồi đổ cho duyên chướng thành ra tu mãi vẫn không hết ngại.

    Như người thường đổ thừa duyên nơi này ngại rồi đi nơi khác, nhưng nơi khác cũng có cái ngại khác, mỗi nơi đều có cái ngại riêng. Tâm chưa thông ở nơi nào cũng ngại. Người không biết cứ đổ thừa bên ngoài làm ngại, chỉ lo trừ bên ngoài không trừ bên trong, trừ mãi cũng không hết, bởi đó là trừ ngọn. Ví như chặt cây, chặt ngọn này thì ngọn khác mọc lên, chỉ cần đào gốc thì hết chỗ để mọc.

    Lại khéo biết tu thì thường phải tự thấy trở lại lỗi nơi mình, thấy trở lại chính mình, rõ được chính mình tức cùng đạo tương đương. Đây cũng chính là tinh thần Phản Quan Tự Kỷ trong nhà Thiền, Soi Lại Chính Mình là quan trọng. Buông các duyên mà soi sáng lại chính mình, khi chính mình sáng thì nhìn ra tất cả đều sáng, tâm sáng nhìn cái gì cũng sáng. Tu hành đúng như thế sẽ ít thấy phiền não, vì phiền não vừa khởi lên là thấy, liền trừ, thành ra phiền não đâu có nhiều, ít phiền não thì ít xa với đạo. Ngược lại, lỗi mình không thấy mà chỉ thấy lỗi người thành đi xa với đạo.

         Sắc loại tự có đạo,

         Đều chẳng não hại nhau,

         Lìa đạo riêng tìm đạo,

         Trọn đời chẳng thấy đạo.

    Sắc loại chỉ cho tất cả chúng sanh trong các loài. Ngay trong mỗi chúng sanh vốn tự có đạo, không phải tìm bên ngoài, ý này nhắc chúng ta soi lại chính mình. Nghĩa là mỗi chúng sanh đều có đủ tánh giác, là có đạo, đạo đó chân thật. Đã có đạo như nhau nên không não hại nhau cũng không ngăn cách nhau.

    Nếu sống trở về với tánh giác thì không ai làm não hại ai, không ai chướng với ai, vì tánh giác đâu có chướng. Sở dĩ có não hại, có ngăn cách nhau là do quên mất đạo chân thật nơi mình mà chấp vào cái ngã hư dối. Luôn nhớ cái ngã này thì làm sao thấy đạo được! Thấy ta là cái này, người là cái kia, có ta có người thành ngăn cách. Nếu nhìn trên tánh giác thì đều như nhau, cho nên giây phút ngộ đạo là giây phút vắng bóng cái ngã này. Chúng ta tu tập phải nắm vững yếu chỉ này để tu hành sẽ không đi lạc.

    Nơi chính mình vốn tự có đạo, cho nên tu hành muốn thấy đạo thì phải soi lại chính mình. Trái lại, hướng ra ngoài tìm thì trọn đời cũng không thấy đạo. Nếu có thấy thì đạo đó là đạo ở trong kinh điển, trong sách vở, chữ nghĩa. Nhưng đạo đó có giúp chúng ta hết phiền não, có giúp chúng ta giải thoát không? Không thể được. Chính đạo ngay trong tự tâm mới giúp chúng ta hết phiền não, giúp chúng ta giải thoát. Tìm ngay trong tự tâm mới là đạo chân thật, đó là nghĩa thiết thực.

         Lăng xăng qua một đời,

         Cuối cùng lại tự hận,

         Muốn được thấy chân đạo,

         Hành chánh tức là đạo.

    Chạy ra bên ngoài lăng xăng tìm mãi, nhọc nhằn phí cả cuộc đời rốt cuộc rồi tự hận không có được gì. Đó gọi là bỏ của báu trong nhà chạy tìm ngói gạch bên ngoài. Ngói gạch thì không dùng được nên dù có được rồi cũng phải bỏ. Phải lấy của báu ngay trong nhà đem ra dùng mới có lợi ích thiết thực.

    Cho nên muốn thấy được đạo chân thật, phải ngay nơi hạnh, thực hành cho chánh. Hành chánh tức chánh trở lại tâm của chúng ta, tâm chánh thì hợp đạo. Tâm không chánh dù tìm mãi cũng không thấy đạo. Tâm chánh là buông đi những niệm tà vạy, buông tâm nghiêng lệch bên này bên kia, tâm chạy đuổi tìm bên ngoài, buông những tâm niệm đó thì chánh lại tâm chúng ta. Theo những tâm niệm đó là theo tâm tà vạy là tâm nghiêng lệch, yêu người này, ghét người kia, dẫn chúng ta đi lệch ra ngoài, làm sao thấy được!

         Nếu tự không đạo tâm,

         Hạnh tối chẳng thấy đạo,

         Nếu người thật tu đạo,

         Chẳng thấy lỗi thế gian.

    Tự mình không đạo tâm tức là quên tâm đạo của chính mình, không tin nhận tâm là đạo rồi hành theo hạnh tối, làm sao thấy được đạo! Hạnh tối tức thiếu trí tuệ, sống theo tình mê, trái bỏ tâm đạo. Vậy là tự mình trái bỏ chính mình, sống với vô minh.

    Người thật biết tu hành theo chánh đạo chẳng thấy lỗi của thế gian, không thấy ra bên ngoài. Nếu chỉ thấy ra bên ngoài, tâm lo nhìn lỗi thế gian, thấy lỗi người này người nọ rồi theo đó mà chê khen càng sanh thêm phiền não, đâu thể thấy đạo. Thế nên Lục Tổ nhắc kỹ:

         Nếu thấy lỗi người khác,

         Lỗi mình đến bên cạnh,

         Người lỗi ta chẳng lỗi,

         Ta chê, tự có lỗi.

    Thấy lỗi người khác tưởng mình hay, nhưng không ngờ mình đã có lỗi. Lỗi căn bản là lỗi quên mình, thêm nữa là lỗi xen vào việc người. Lỗi của người không liên hệ đến ta, ta vốn trong sạch thanh tịnh, nhưng khi nhìn thấy lỗi của người liền sanh tâm chê bai, hoặc chỉ trích thì ngay đó tự chuốc lấy lỗi. Thấy đau chưa? Lỗi của người, không dính đến ta, vậy mà ta lại nhảy vào đó cho dính theo. Người làm lỗi là phần của người, tại sao ta xen vào để mang lấy vạ, mang lỗi vào mình? Đó là cái lầm mê của chúng sanh!

    Người thế gian nếu không học đạo, dễ mắc phải bệnh này. Nhờ học đạo, Đức Phật hoặc chư Tổ đem trí tuệ chỉ cho chúng ta sống theo con đường trí tuệ, mới thấy được những cái mê lầm đó. Thế gian có khi thấy nhiều lỗi của người khác rồi còn tự hào. Tự hào ta là người sành đời, ai có lỗi thì ta đều biết, không ai qua mắt ta. Nhưng như vậy là lỗi càng thêm nặng mà không hay biết. Lỗi nặng ở chỗ lớn thêm cái ngã, tức lớn thêm vô minh.

    Mới thấy Lục Tổ chỉ dạy rất chí thiết “Người lỗi ta chẳng lỗi, Ta chê tự có lỗi”. Luôn nhớ vậy thì sống ngăn ngừa lỗi lầm, sống ít phiền não.

         Chỉ tự bỏ tâm quấy,

         Phá tan hết phiền não,

         Yêu ghét chẳng bận lòng,

         Duỗi thẳng hai chân ngủ.

    Người khéo biết tu hành thường soi lại chính mình để tự bỏ đi những tâm quấy, là tâm lỗi lầm của chúng ta, những tâm tà vạy. Không khởi theo, không bám theo nó, đồng thời phá tan hết những phiền não nơi ta, được vậy mới quý. Ngược lại, chỉ thấy lỗi người trong khi lỗi ta lại mê. Việc người thì sáng nhưng việc mình lại mù quáng, từ đó mà lỗi sanh thêm lỗi. Thế nên chúng ta tu hành phải đi ngược chiều của thế gian.

    Không bận lòng yêu-ghét thì duỗi thẳng chân ngủ, thật là khỏe! Chúng ta khởi yêu, khởi ghét làm sao ngủ yên? Bởi có yêu-ghét là có thiên lệch theo bản ngã, thuận theo ta thì yêu, nghịch theo ta thì ghét. Lấy cái tôi làm trung tâm để thành yêu-ghét. Ví như người đó quấy nhưng vuốt theo ta thì ta cũng yêu người đó, như vậy không phải thiên lệch sao? Thiên lệch theo bản ngã, thì không còn trong sáng. Từ đó có lấy-bỏ, có kia-đây, ngay đó là trái với tâm đạo.

    Kiểm lại xem, người đời chỉ vì yêu-ghét mà gây ra biết bao sóng gió cuộc đời, tạo ra biết bao khổ đau trên thế gian, càng sống xa với đạo. Tu hành là phải sáng suốt để chuyển cái nhìn trở lại, nhìn đúng thấy đúng rồi làm đúng, cho nên quan trọng là chuyển cái nhìn.

         Toan muốn giáo hóa người,

         Tự phải có phương tiện,

         Chớ để họ nghi ngờ,

         Tức là tự tánh hiện.

    Đây là nói về tinh thần lợi tha. Lục Tổ dạy muốn giáo hóa người thì tự mình phải có phương tiện, có những cách thức khéo léo để thích hợp với họ chứ không thể nói lý suông. Dù hiểu hay, nhưng nói lý mãi mà không hợp với người thì cũng không độ được. Thí dụ như chúng ta hiểu lý thiền cao, nhưng với người mới học đạo mà đem lý thiền cao nói thì họ không thể nghe. Nên phải có phương tiện để khế hợp với họ, họ nghe hiểu mới là khéo là hay. Cho nên giáo hóa không phải là phô bày cái hiểu biết của ta, mà biết cách dùng Phật pháp cho khế hợp với căn cơ, không cố chấp một chiều.

    Phải có phương tiện khéo khiến cho họ thầm hợp, họ không có nghi ngờ, không do dự thì tự tánh mới hiện, mới sáng tỏ. Đây là giúp cho họ tự tin nhận trở lại nơi chính mình. Nhưng không phải bảo người làm mà chính mình lại không làm, chúng ta phải làm trước để xác quyết cho người có đủ lòng tin không nghi ngờ, như vậy người mới làm theo, mới sáng tỏ.

         Phật pháp ở trong đời,

         Chẳng lìa đời có giác.

         Lìa đời tìm Bồ-đề,

         Giống hệt tìm sừng thỏ.

    Phật pháp ở ngay trong thế gian này, không phải lìa thế gian mà tìm giác ngộ. Bỏ thế gian mà tìm giác ngộ thì giác ngộ cái gì? Bởi thế gian có lầm mê nên mới có giác ngộ cái lầm mê đó. Như thế gian vô thường mà chúng ta tưởng thường, đó là mê, thấy rõ trở lại, đó là giác. Hoặc thế gian là khổ mà chúng ta tưởng vui, tham luyến theo đó, là mê. Giác ngộ trở lại cũng ngay nơi khổ đó mà giác, không phải tìm cái gì khác, tìm ở đâu xa xôi. Người không biết, nghĩ rằng giác ngộ phải tìm ở trong chùa, nghĩ trong chùa mới có giác ngộ, mà quên rằng giác ngộ không phải ở chùa, nếu vào chùa mà sanh phiền não mãi cũng không thể giác ngộ. Giác ngộ là ngay nơi phiền não, ngay thế gian lầm mê này. Hiểu vậy mới thấy Phật pháp ở khắp nơi, không riêng ở chỗ nào.

    Trong nhà Thiền, có một vị ni tên Duy Cửu, tức Không Thất Đạo Nhân, tham thiền ngộ đạo. Bà cất nhà tắm ở Bảo Ninh. Để nhắc nhở, cảnh tỉnh mọi người khi vào nhà tắm, bên ngoài cửa phòng tắm, bà treo một tấm bảng đề:

        “Một vật cũng không, rửa cái gì?

        Mảy trần nếu có, từ đâu khởi?

        Nói lấy một câu Tử Huyền,

        Mới có thể đồng vào tắm.

        Cổ Linh chỉ biết kì lưng,

        Khai sĩ đâu từng sáng tâm.

        Muốn chứng quả Ly Cấu địa,

        Phải toàn thân toát mồ hôi.

        Trọn nói nước hay rửa bụi,

        Đâu biết nước cũng là bụi.

        Dù cho nước-bụi chóng trừ,

        Đến đây cũng phải rửa hết”.

    Nghĩa là lý thật xưa nay vốn “không một vật” thì rửa là rửa cái gì? Rồi bụi tức là trần, trần từ đâu khởi? Chỉ là vọng khởi. Vậy thì tắm là tắm cái gì?

    Tử Huyền chỉ cho Quách Tượng, ông có biện tài vô ngại, tức phải nói một câu thông suốt mới được vào tắm.

    Cổ Linh tức Cổ Linh - Thần Tán. Trước, Sư tu ở chùa quê với thầy Bổn sư. Sau khi tham học với Tổ Bá Trượng được ngộ đạo, Sư về lại chùa ở quê hầu thầy.

    Một hôm, Sư hầu thầy Bổn sư tắm, khi kì lưng thầy, Sư nói:

    - Điện Phật này đẹp mà không có Thánh!

    Thầy Bổn sư xoay đầu ngó lại, Sư nói tiếp:

    - Tuy không Thánh nhưng vẫn thường phóng hào quang!

    “Điện Phật này đẹp mà không có Thánh”. Tức nói thầy chưa ngộ. “Xoay đầu ngó lại” là trong đó còn có cái gì rồi, nên “thường phóng hào quang”. Nhà Thiền gọi sáu căn thường phóng hào quang. Khi xoay đầu ngó lại, ngay đó sáng tỏ là phóng hào quang. Đây nói “Cổ Linh chỉ biết kì lưng”, là nhắc cho người cần tự mình khéo thấy.

    Khai sĩ tức nói đến Ngài Bạt-đà-bà-la và mười sáu vị Khai sĩ đồng bạn. Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn: “Khi chư Tăng tắm gội, con theo thứ lớp vào nhà tắm, bỗng ngộ được chân tánh của nước, đã chẳng rửa bụi, cũng chẳng rửa thân, trong khoảng giữa yên lặng, được không có gì. Do cái túc tập chẳng quên, cho đến hôm nay theo Phật xuất gia, mới thành được quả Vô học. Đức Phật ấy gọi tên con là Bạt-đà-bà-la do phát minh được diệu tánh của xúc trần mà thành bậc Phật tử trụ”. Những vị Khai sĩ vào nhà tắm, khi dội nước tắm thì tỏ ngộ ngay nơi xúc trần. Nhưng đây nói: “Khai sĩ đâu từng sáng tâm”. Chuyện đó của Ngài nhưng ai biết! Đó là muốn nhắc phải soi lại chính mình, làm sao mà thấy biết được những vị Khai sĩ đó sáng tâm!

    “Ly Cấu địa” là địa thứ hai trong thập địa, Ly Cấu là không còn nhơ nhớp. Chứng được chỗ không còn nhơ nhớp, toàn thân phải toát mồ hôi mới được, không thể nói lý suông.

    “Trọn nói nước hay rửa bụi, Đâu biết nước cũng là bụi”. Thường chúng ta tắm, dùng nước để rửa bợn nhơ bụi bặm. Chữ Hán trần cũng có nghĩa là bụi. Nước là sắc trần. Vậy tắm là đem trần rửa trần, tức đem bụi rửa bụi làm sao rửa sạch hết được! Cho nên hôm nay tắm, ngày mai lại phải tắm tiếp, bởi chỉ rửa tạm, không thể rửa sạch.

    Nên bà nói: “Trọn nói nước hay rửa bụi, Đâu biết nước cũng là bụi. Dù cho nước-bụi chóng trừ, Đến đây cũng phải rửa hết”. Đến chỗ rốt ráo, nước và bụi trừ sạch, rồi cũng phải quên luôn cái trừ mới là thật rửa, rửa đến tột cùng. Rửa được vậy thì thấy được Pháp thân. Vậy ngay trong nhà tắm cũng có Phật pháp, nên Lục Tổ nói “Phật pháp tại thế gian”, đó là lẽ thật. Người tâm sáng thấy đâu đâu cũng là Phật pháp, người tâm chưa sáng đôi khi Phật pháp lại thấy thành tà pháp hoặc thấy không phải Phật pháp.

    Thí dụ ngồi thiền là Phật pháp, nhưng nếu tâm không thanh tịnh, không khéo tu, đang ngồi thiền mà nghe tiếng nói chuyện ồn ào liền khởi phiền não. Khi ấy, ngồi thiền không còn là Phật pháp. Thế nên, tâm chánh thì không phải Phật pháp cũng thấy thành Phật pháp, tâm không chánh thì Phật pháp lại thấy không phải Phật pháp, có khi chê bai Phật pháp. Người tâm không chánh, đôi khi tìm những lỗi trong kinh điển rồi chỉ trích, vậy có phải thành tà pháp không? Người tâm chánh, trong nhà tắm đâu phải là kinh điển mà cũng thấy thành Phật pháp. Phải thấy rõ chỗ này, hiểu cho chín chắn thì việc tu của chúng ta sẽ thông suốt, ít có chướng ngại.

    Hãy nhớ, Phật pháp ở ngay tại thế gian, không lìa thế gian mà tìm giác ngộ được. Bởi giác ngộ là giác ngộ những mê lầm ở thế gian, giác ngộ những phiền não. Có phiền não mới có Bồ-đề, không phiền não thì Bồ-đề với cái gì? Giác cái gì? Cho nên, lìa đời tìm Bồ-đề hay tìm giác ngộ giống như tìm sừng thỏ.

         Chánh kiến gọi xuất thế,

         Tà kiến gọi thế gian,

         Chánh tà đều quét sạch,

         Tánh Bồ-đề sáng ngời.

    Chánh kiến là thấy đúng như thật, đúng với chánh pháp, vượt ra khỏi cái thấy lầm mê điên đảo của thế gian tức xuất thế. Tu hành xuất thế thì chánh kiến rất trọng yếu, trong Bát chánh đạo mở đầu là Chánh kiến, trong Thiền Tông thì Lục Tổ dạy kiến tánh. Có thấy đúng mới nghĩ đúng, nói đúng, làm đúng, sống đúng. Ngay buổi đầu phải thấy, nhận định đúng đắn, chính xác, sáng tỏ thì đường tu được thông suốt. Chưa có cái thấy đúng đắn, khi tu gặp những việc hơi khó khăn, hơi chướng thì dễ do dự, dễ sanh tâm khác.

    Tà kiến là thấy theo chiều lầm mê, điên đảo, che mất trí tuệ sáng suốt, nên chìm theo thế gian, đóng bít con đường xuất thế.

    Nói chánh nói tà cũng là đối đãi hai bên, là phương tiện đối với người mê mà nói, tạm nói đây là chánh đối với tà để chúng ta không lầm theo tà, trở về chánh. Tiến thêm bước nữa, phải sạch hết cái thấy hai bên chánh tà, bởi còn có chánh tức còn có tà. Chánh là chánh với tà, không có tà thì chánh với gì? Chính chúng ta quên tánh sáng suốt rồi khởi niệm tà, nên giờ mới khởi niệm chánh để bỏ niệm tà. Khi không còn niệm tà thì chánh cũng quên. Thế nên, còn “chánh-tà” là còn trong phân biệt đối đãi, còn dấu vết của tình mê. Phải sạch hết niệm chánh-tà, tâm mới rỗng rang sáng suốt, tánh Bồ-đề hiện tiền, bởi tánh Bồ-đề vốn sáng ngời thì đâu có chánh-tà trong đó.

         Tụng này là Đốn giáo,

         Cũng gọi đại pháp thuyền,

         Mê nghe trải nhiều kiếp,

         Ngộ ắt khoảng sát-na.

    Lục Tổ chỉ rõ đây là pháp Đốn giáo, chỉ thẳng con đường giác ngộ nhanh chóng, vượt qua những thứ lớp phân biệt, cũng là thuyền đại pháp đưa người đến bờ giác ngộ thành Phật, gọi là “Kiến tánh thành Phật”. Bởi đây là pháp rộng lớn, người muốn nghe được pháp này cũng phải mở tâm rộng lớn để đón nhận. Nếu chấp theo tâm ý nhỏ hẹp làm sao nghe nhận được, là tự làm chướng ngại mình, bỏ mất cái lớn lao.

    “Mê nghe trải nhiều kiếp, ngộ ắt khoảng sát-na.” Là nói theo tinh thần Đốn giáo. Bởi tánh giác hay tánh Bồ-đề vốn sẵn sáng suốt nơi chính mình, do chúng ta quên nó mới theo những tình mê trải qua nhiều kiếp, khi ngộ thì ngay đó đầy đủ.

    Đó là bài Tụng Vô Tướng, Lục Tổ vừa nhắc người xuất gia cũng nhắc người tại gia.

    Sư lại nói:

    - Nay ở chùa Đại Phạm nói pháp Đốn giáo này, nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh, ngay lời nói thấy tánh thành Phật.

    Lúc ấy, Vi Sử quân cùng với quan liêu, đạo tục nghe những điều Sư nói thảy đều tỉnh ngộ, đồng thời làm lễ và đều khen ngợi:

    - Lành thay, đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời!

    Lục Tổ nói pháp này tại chùa Đại Phạm, xác định rõ đây là pháp Đốn giáo, mở rộng tinh thần lợi tha nên “Nguyện khắp cho pháp giới chúng sanh ngay lời nói đều được thấy tánh thành Phật”. Ngay lời nguyện đó là ngầm nhắc cho tất cả nghe pháp này phải ngay lời nói liền thấy tánh, tức không kẹt trên ngôn ngữ. Học pháp này là học pháp thấy tánh thành Phật, do đó phải học thẳng vào lẽ thật để thấy được tự tánh chính mình chứ không phải học trên ngôn ngữ, chữ nghĩa. Cho nên một phen ngộ là vượt qua cả nhiều kiếp lầm mê.

    Học được như vậy, thì lúc nào cũng thấy mới. Người học trên ngôn ngữ chữ nghĩa nghe giảng lại lần thứ hai là thấy chán, thấy tôi đã học qua rồi, đến lần thứ ba hết muốn học, bởi chỉ nhớ đến chữ nghĩa, bao nhiêu chữ nghĩa đó trước nghe rồi, giờ nghe lại nên thấy chán. Người học thẳng vào trong tự tánh thì lúc nào cũng thấy mới mẻ, mỗi lần nghe mỗi lần mới. Chính chỗ này là chỗ chúng ta cần phải học.

    Có người nói những bài pháp đó đã cũ rồi, từ Đức Phật truyền đến nay đã trên hai mươi lăm thế kỹ, lâu quá thành cũ. Sự thật thì pháp có cũ không? Cũ là do gì? Do tâm chúng ta cũ chứ pháp không có cũ, tâm chúng ta nghĩ tưởng theo danh từ chữ nghĩa nên thấy cũ, chính cái cũ đó mà nghe thành cũ. Người có tâm thiết tha tu hành, nghe được pháp, sống đúng với pháp, thể nhập trong đó liền đạt được trí tuệ sáng suốt, thâm nhập được pháp, là chứng đạo, giống như thời Đức Phật, đâu có cũ. Thế nên, từ Đức Phật dạy cho đến ngày nay và mãi về sau pháp vẫn luôn mới, phải nên thấy rõ như thế để không lầm.

    Chúng ta thường đổ thừa hiện nay thời mạt pháp, khó tu khó chứng đạo, tu cầm chừng cũng được rồi. Tâm niệm đó làm chúng ta dễ buông lung. Sự thật pháp không có mạt, mạt là do người. Pháp có mạt là pháp phương tiện bên ngoài. Pháp chân thật thì trước Phật, ngay thời Phật hay sau Phật thì pháp vẫn là pháp, người ngộ được cũng dứt phiền não được giải thoát, vậy thì đâu có mạt. Nhất là trong nhà Thiền, thấy được pháp tánh chân thật thì lúc nào cũng sáng ngời.

    Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật nói Đức Phật vẫn thường ở núi Linh Thứu thuyết pháp, nhưng người mê không biết cho là Ngài nhập Niết-bàn. Người mở Tri kiến Phật thấy Phật vẫn thuyết pháp, vẫn luôn hiện hữu, tức là thấy Pháp. Trong kinh Nguyên Thủy, Phật nói: “Ai thấy Pháp là thấy Như Lai, ai thấy Như Lai là thấy Pháp”. Hiểu vậy thì sự học hiểu của chúng ta đi sâu, không dừng trên chữ nghĩa.

    Lục Tổ là bậc đại ngộ, đây là những lời từ tâm sáng tỏ nói ra, nên những lời chỉ dạy không mắc kẹt trên chữ nghĩa. Cho nên, Vi Sử quân và mọi người nghe được những điều trước giờ chưa từng nghe, không ngờ Phật pháp thực tế, gần gũi như thế. Mọi người rất vui mừng, tán thán: “Lành thay! Đâu ngờ Lĩnh Nam có Phật ra đời”. Bởi khi ấy Lục Tổ ở vùng Lĩnh Nam. Nếu mỗi người chúng ta cảm sâu được những lời Lục Tổ dạy thì cũng thấy như vậy.

    Chính vì Lục Tổ là người không biết chữ mà ngộ đạo nên Ngài giảng nói rất bình thường chân thật, không có văn chương bóng bẩy hay văn chương bác học. Tuy lời lẽ giản dị nhưng nghĩa lý sâu xa, sáng tỏ, thế nên ai nghe cũng được. Chúng ta cũng phải học điều đó, không phải lúc nào cũng lệ thuộc vào văn chương. Đôi khi cũng dùng văn chương bóng bẩy để độ tầng lớp trí thức, nhưng không phải mắc kẹt trong đó mãi. Khi nói về lẽ thật trong mỗi người cũng nói ngay văn chương bình dân cho mọi người đều nghe đều thấu, nhưng phải có nghĩa lý sâu xa, lột tả được đạo lý chân thật. Muốn được vậy, chính mình phải thật sự sống trong đó, tâm phải sáng, lời nói từ kinh nghiệm trong nội tâm, bằng sức sống chân thật, người nghe mới cảm sâu được. Thế nên, học, nghe, hiểu rồi phải thực hành mới cảm sâu được!

    ***

  • 4. Phẩm 02 - GIẢI THÍCH CÔNG ĐỨC TỊNH ĐỘ

    CHÁNH VĂN:

    Ngày kế, Vi Thích sử sắm sửa đại hội trai cúng dường Sư. Trai xong, Thích sử thỉnh Sư thăng tòa, ông cùng với quan liêu, tín chúng thành kính lễ bái, thưa hỏi:

    - Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp thật không thể nghĩ bàn. Nay có chút nghi, mong Ngài đại từ bi giải thích cho.

    Sư bảo:

    - Có nghi hãy hỏi, tôi sẽ nói cho nghe.

    Vi Công thưa:

    - Pháp do Hòa thượng nói có phải là tông chỉ của Đại sư Đạt-ma chăng?

    Sư đáp:

    - Phải.

    Ông thưa:

    - Đệ tử nghe Ngài Đạt-ma khi mới đến giáo hóa vua Lương Võ Đế, vua hỏi: “Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng, bố thí, sắm trai, cúng dường, có công đức gì?”. Ngài Đạt-ma đáp: “Thật không công đức”. Đệ tử chưa thông suốt lý này, mong Hòa thượng nói cho.

    Sư bảo:

    - Thật không công đức, chớ nghi ngờ lời của bậc Tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, chẳng biết chánh pháp. Cất chùa, độ Tăng, bố thí, sắm trai gọi là cầu phước, chẳng thể đem phước cho là công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, chẳng ở tu phước.

    Sư lại nói:

    - Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, chân thật diệu dụng, gọi là công đức. Bên trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài thực hành lễ kính là đức. Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức Pháp thân, chỉ nương theo đây làm, đó là công đức chân thật. Nếu người tu công đức, tâm chẳng khinh ai, thường sống cung kính hết thảy. Tâm thường khinh người, chẳng đoạn dứt ngô ngã, tức tự không công. Tự tánh hư dối chẳng thật, tức tự không đức. Vì ngô ngã tự đại thì thường khinh tất cả.

    Này thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm thực hành bình đẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức.

    Này thiện tri thức! Công đức cần thấy trong tự tánh, chẳng phải từ bố thí cúng dường mà cầu. Do đó, công đức và phước đức riêng khác. Võ Đế chẳng biết lý thật, chẳng phải Tổ sư ta có lỗi.

    Thích sử hỏi thêm:

    - Đệ tử thường thấy tăng, tục niệm Phật A Di Đà, nguyện sanh Tây phương, xin Hòa thượng nói rõ có được sanh cõi kia chăng? Mong Ngài phá nghi cho.

    Sư bảo:

    - Sử quân hãy khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ nói cho. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương để dẫn hóa, kinh văn rõ ràng, cách đây chẳng xa. Nếu luận về tướng để nói thì số dặm có mười muôn tám ngàn. Tức mười điều ác, tám điều tà trong thân, đó là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì bậc thượng trí. Người thì có hai hạng, pháp không có hai thứ. Mê ngộ có khác mà thấy có chậm mau. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ thì tự tịnh tâm mình. Do đó Phật nói: “Tùy tâm mình tịnh tức cõi Phật tịnh”.

    Này Sử quân! Người phương Đông chỉ tâm thanh tịnh tức không có tội. Còn tuy người phương Tây mà tâm chẳng tịnh cũng có tội. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh phương Tây, người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh cõi nào? Người phàm ngu chẳng rõ tự tánh, chẳng biết Tịnh độ trong thân, nguyện Đông nguyện Tây, người ngộ thì ở đâu cũng một thứ. Do đó Phật nói: “Tùy ở chỗ nào cũng hằng an vui”.

    Sử quân tâm địa chỉ không điều bất thiện thì Tây phương cách đây chẳng xa. Nếu ôm lòng bất thiện thì niệm Phật vãng sanh cũng khó đến.

    Nay khuyên thiện tri thức, trước trừ mười điều ác tức đi được mười muôn. Sau trừ tám điều tà, bèn qua tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường thực hành ngay thẳng thì đến như khảy tay liền thấy Đức Di Đà.

    Sử quân chỉ thực hành mười điều thiện, đâu cần nguyện vãng sanh. Chẳng đoạn tâm mười điều ác, Phật nào đến đón! Nếu ngộ đốn pháp vô sanh, thì thấy cõi Tây phương chỉ trong sát-na. Chẳng ngộ mà niệm Phật cầu sanh thì đường xa, thế nào đến được! Huệ Năng sẽ vì mọi người dời cõi Tây phương đến đây trong khoảng sát-na liền thấy ngay trước mắt, mọi người muốn thấy chăng?

    Mọi người đều đảnh lễ, thưa:

    - Nếu ngay đây liền thấy, đâu cần nguyện vãng sanh. Mong Hòa thượng từ bi hiện cõi Tây phương khiến cho khắp đều thấy được.

    Sư bảo:

    - Đại chúng! Người đời, sắc thân chính mình là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm. Tánh ở thì vua còn, tánh đi thì vua không. Tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà làm, chớ hướng ngoài thân mà cầu. Tự tánh mê tức chúng sanh. Tự tánh giác tức Phật. Từ bi là Quán Âm, hỷ xả là Thế Chí, hay thanh tịnh (năng tịnh) là Thích Ca, ngay thẳng (bình trực) là Di Đà. Nhân ngã là Tu-di, tâm tà là nước biển, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư dối là quỷ thần, trần lao là cá rùa, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.

    Này thiện tri thức! Thường thực hành mười điều thiện, liền được đến thiên đường. Trừ nhân ngã thì Tu-di lật. Bỏ tâm tà thì nước biển cạn. Phiền não không thì sóng mòi dứt. Độc hại hết thì cá rồng bặt. Trên đất tự tâm, giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, bên ngoài chiếu soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá tan sáu cõi trời Dục. Tự tánh chiếu soi bên trong thì ba độc liền trừ, những tội địa ngục v.v... một lúc tiêu dứt. Trong ngoài sáng suốt, chẳng khác Tây phương. Chẳng tu theo trên đây, thế nào đến được cõi kia!

    Đại chúng nghe Sư nói, rõ ràng thấy tánh, thảy đều lễ bái, đồng khen:

    - Lành thay!

    Và nói to:

    - Nguyện khắp pháp giới chúng sanh người nghe đồng thời ngộ hiểu!

    Sư bảo:

    - Này thiện tri thức! Nếu muốn tu hành thì ở nhà cũng được, chẳng do ở chùa. Ở nhà mà hay thực hành, như người phương Đông tâm thiện. Ở chùa mà chẳng tu, như người phương Tây có tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh, chính là tự tánh Tây phương.

    Vi Công lại hỏi thêm:

    - Ở nhà tu hành thế nào, mong Ngài chỉ dạy cho!

    Sư bảo:

    - Tôi sẽ vì đại chúng làm bài kệ Vô Tướng, chỉ nương theo bài tụng này tu hành, là luôn luôn đồng ở một chỗ với tôi không khác. Nếu chẳng tu theo đây, thì cạo tóc xuất gia có ích gì với đạo!

    Tụng rằng:

        Tâm bằng đâu cần giữ giới,

        Hạnh thẳng nào phải tu thiền.

        Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ,

        Nghĩa thì trên dưới thương nhau.

        Nhượng thì trên dưới hòa thuận,

        Nhẫn thì mọi ác không ồn.

        Nếu hay dùi cây ra lửa,

        Bùn lầy quyết mọc sen hồng.

        Đắng miệng chính là thuốc hay,

        Trái tai hẳn đó lời thẳng.

        Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,

        Giữ xấu trong tâm chẳng hiền.

        Hằng ngày thường hành lợi ích,

        Thành đạo chẳng do thí tiền.

        Bồ-đề chỉ nhằm tâm tìm,

        Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.

        Nghe nói nương đây tu hành,

        Thiên đường chỉ ngay trước mắt.

    Sư lại nói:

    - Này thiện tri thức! Hết thảy cần nương bài kệ tu hành, thấy được tự tánh, liền thành Phật đạo. Pháp chẳng đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, nếu ai có nghi ngờ hãy đến đó thưa hỏi.

    Bấy giờ, Thích sử, quan liêu, thiện nam, tín nữ trong hội đều được tỏ ngộ, tin nhận vâng làm.

     

    GIẢNG:

    Ngày kế, Vi Thích sử sắm sửa đại hội trai cúng dường Sư. Trai xong, Thích sử thỉnh Sư thăng tòa, ông cùng với quan liêu, tín chúng thành kính lễ bái, thưa hỏi:

    - Đệ tử nghe Hòa thượng thuyết pháp thật không thể nghĩ bàn. Nay có chút nghi, mong Ngài đại từ bi giải thích cho.

    Sư bảo:

    - Có nghi hãy hỏi, tôi sẽ nói cho nghe.

    Vi Công thưa:

    - Pháp do Hòa thượng nói có phải là tông chỉ của Đại sư Đạt-ma chăng?

    Sư đáp:

    - Phải.

    Ông thưa:

    - Đệ tử nghe Ngài Đạt-ma khi mới đến giáo hóa vua Lương Võ Đế, vua hỏi: “Trẫm một đời cất chùa, độ Tăng, bố thí, sắm trai, cúng dường, có công đức gì?”. Ngài Đạt-ma đáp: “Thật không công đức”. Đệ tử chưa thông suốt lý này, mong Hòa thượng nói cho.

    Qua ngày kế, Vi Thích sử lại thỉnh Lục Tổ cúng dường, sau khi thọ trai xong, ông thưa hỏi thêm về những điều còn nghi lâu nay. Việc ông nghi liên quan đến Tổ Bồ-đề Đạt-ma nên trước khi hỏi, ông thưa: “Pháp do Hòa Thượng nói có phải là tông chỉ của Đại sư Đạt-ma chăng?” Bởi nếu pháp của Lục Tổ dạy không thuộc về Tông chỉ của Ngài Đạt-ma thì đâu dính dáng gì. Sau khi Lục Tổ xác nhận: “Phải!”, ông mới thưa hỏi về việc vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Đạt-ma.

    Lương Võ Đế là ông vua Phật tử, rất mộ đạo. Vua từng giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã, đăng tòa thuyết pháp giống như vị tăng. Gặp Tổ Bồ-đề Đạt-ma, vua hỏi những việc mình đã làm như cất chùa, độ Tăng, bố thí, sắm trai cúng dường, những việc làm đó có công đức gì? Vua nghĩ làm vậy có công đức lớn, không ngờ Tổ Bồ-đề Đạt-ma đáp: “Thật không công đức”. Vua nghe vậy không hiểu được.

    Vi Thích sử cũng thắc mắc ý nghĩa đó, nếu chúng ta không học kỹ thì cũng nghi như thế.

    Sư bảo:

    - Thật không công đức, chớ nghi ngờ lời của bậc Tiên Thánh. Võ Đế tâm tà, chẳng biết chánh pháp. Cất chùa, độ Tăng, bố thí, sắm trai gọi là cầu phước, chẳng thể đem phước cho là công đức. Công đức là ở trong Pháp thân, chẳng ở tu phước.

    Lục Tổ dạy rõ, theo cái nhìn của Tổ Bồ-đề Đạt-ma thì những việc làm của vua Lương Võ Đế thuộc về những việc làm phước đức bên ngoài, chưa thể nói là công đức. Đức mà phải có công, không thuộc về việc làm bên ngoài, việc làm hữu vi, phước hữu lậu. Nếu chấp vào đó thì cũng ở trong cái sanh diệt, có phước đời sau hưởng phước, hết phước là rớt xuống lại, chưa phải thật công đức. Công đức cần phải thấy trở lại trong Pháp thân, không phải trên hình tướng tu phước bên ngoài, tức phải tu tập trong nội tâm. Đây không phải bác bỏ những việc làm đó, mà Tổ phá chấp cho vua Lương để vua tiến sâu thêm vào đạo.

    Sư lại nói:

    - Thấy tánh là công, bình đẳng là đức. Niệm niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, chân thật diệu dụng, gọi là công đức. Bên trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài thực hành lễ kính là đức. Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức. Chẳng lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ nương theo đây làm, đó là công đức chân thật. Nếu người tu công đức, tâm chẳng khinh ai, thường sống cung kính hết thảy. Tâm thường khinh người, chẳng đoạn dứt ngô ngã, tức tự không công. Tự tánh hư dối chẳng thật, tức tự không đức. Vì ngô ngã tự đại thì thường khinh tất cả.

    Này thiện tri thức! Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm thực hành bình đẳng là đức. Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức.

    Này thiện tri thức! Công đức cần thấy trong tự tánh, chẳng phải từ bố thí cúng dường mà cầu. Do đó, công đức và phước đức riêng khác. Võ Đế chẳng biết lý thật, chẳng phải Tổ sư ta có lỗi.

    Lục Tổ nói rõ: “Thấy tánh là công, bình đẳng là đức”. Công đức phải thực hành trong tự tâm mới được. Công này không phải tạo tác bên ngoài mà phải Soi Lại Chính Mình. Đức này không phải thấy bên ngoài mà phải thấy ngay nơi tâm bình đẳng, lìa phân biệt đây-kia, không nghiêng lệch. Công đức hiển bày nơi tự tánh, đâu thể tìm ở hình thức bên ngoài.

    “Niệm niệm không ngưng trệ, thường thấy bản tánh, chân thật diệu dụng gọi là công đức”. Tức niệm niệm đều thông suốt, không dính mắc, mà thường sáng tỏ, nhận thấy rõ ràng bản tánh không mê mờ, không lầm lẫn, từ đó mới có cái chân thật diệu dụng, làm tất cả mà tự tại giải thoát, không dính mắc. Công đức như thế mới thật là công đức vượt thoát khỏi thế gian, đáng tín ngưỡng, gọi là công đức chân thật.

    “Bên trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài thực thành lễ kính là đức”. Công đức này cũng không lìa tự tâm mà riêng có. “Tự tánh dựng lập muôn pháp là công, tâm thể lìa niệm là đức”. Tức không theo niệm sinh diệt, công đức này cũng phải thấy ở nơi tự tánh. “Chẳng lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức”. Công đức này giúp ta sáng tỏ, tự tánh được hiển bày.

    “Nếu tìm công đức Pháp thân, chỉ nương theo đây mà làm, đó là công đức chân thật”. Đây gọi là công đức Pháp thân. Phước hữu vi hay phước hữu lậu thuộc về phước sanh diệt, không thể sánh kịp được với công đức này.

    “Nếu người tu công đức, tâm chẳng khinh ai, thường sống cung kính hết thảy. Tâm thường khinh người, chẳng đoạn dứt ngô ngã tức tự không công, tự tánh hư dối chẳng thật tức tự công đức, vì ngô ngã tự đại thì thường khinh tất cả”. Nếu tâm khinh người thì sanh cái ngã. Làm lành mà sanh ngã thì tự làm mất công, cũng bỏ mất đức, che mờ tự tánh sáng suốt không hiển bày được, người tu công đức chân thật phải tránh.

    Thí dụ, bố thí cúng dường nhiều rồi chấp vào đó, thấy người kia làm không bằng ta thì khinh, đó là sanh tâm ngô ngã làm che mờ tự tánh sáng suốt. Lục Tổ dạy kỹ để chúng ta làm lành mà không chấp. Nếu bố thí cúng dường mà không chấp vào đó, luôn vun bồi, hướng về tự tánh hay hướng về Phật đạo, thì những việc làm đó chuyển thành công đức. Làm nhưng không chấp chứ không phải bảo đừng làm.

    Niệm niệm không gián đoạn là công, tâm thực hành ngay thật là đức; Tự tu tánh là công, tự tu thân là đức”. Tức tu tập, không để niệm xen hở mà tạp niệm xen vào, tâm luôn thực hành ngay thẳng, chân thật, sẽ hiển bày đức tốt ở nơi tâm chúng ta. Công đức chân thật là phải soi lại nơi tự tánh của chính mình để thấy. Ngài nói rõ: “Công đức cần thấy trong tự tánh, chẳng phải từ bố thí cúng dường mà cầu. Do đó công đức và phước đức riêng khác”.

    Ngài nói để ngăn ngừa người chấp vào việc lành, biết vậy thì việc làm của chúng ta càng tăng trưởng phước đức, có thể chuyển phước đức thành công đức. Tức là làm những việc đó, biết soi trở về tự tánh để phát huy công đức sáng tỏ nơi chính mình khiến lợi ích không thể nghĩ bàn.

    Thích sử hỏi thêm:

    - Đệ tử thường thấy tăng, tục niệm Phật A Di Đà, nguyện sanh Tây phương, xin Hòa thượng nói rõ có được sanh cõi kia chăng? Mong Ngài phá nghi cho.

    Sư bảo:

    - Sử quân hãy khéo lắng nghe, Huệ Năng sẽ nói cho. Thế Tôn ở trong thành Xá-vệ nói Tây phương để dẫn hóa, kinh văn rõ ràng, cách đây chẳng xa. Nếu luận về tướng để nói thì số dặm có mười muôn tám ngàn. Tức mười điều ác, tám điều tà trong thân, đó là nói xa. Nói xa là vì người hạ căn, nói gần là vì bậc thượng trí. Người thì có hai hạng, pháp không có hai thứ. Mê ngộ có khác mà thấy có chậm mau. Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ thì tự tịnh tâm mình. Do đó Phật nói: “Tùy tâm mình tịnh tức cõi Phật tịnh”.

    Này Sử quân! Người phương Đông chỉ tâm thanh tịnh tức không có tội. Còn tuy người phương Tây mà tâm chẳng tịnh cũng có tội. Người phương Đông tạo tội niệm Phật cầu sanh phương Tây, người phương Tây tạo tội niệm Phật cầu sanh cõi nào? Người phàm ngu chẳng rõ tự tánh, chẳng biết Tịnh độ trong thân, nguyện Đông nguyện Tây, người ngộ thì ở đâu cũng một thứ. Do đó Phật nói: “Tùy ở chỗ nào cũng hằng an vui”.

    Thích sử nghi về niệm Phật cầu xin về Tây phương Tịnh độ. Lục Tổ chỉ rõ về lý thật ở ngay tự tâm giúp người có trí bén sẽ thấy trở lại ngay nơi chính mình, “tâm tịnh thì cõi Phật tịnh” đây là lý Tịnh độ. Một bề cầu bên ngoài, bỏ quên không lo tịnh tâm của chính mình là sự thiếu sót lớn. Ví như người chấp niệm Phật cầu sanh Tịnh độ, miệng niệm nhưng tâm không tịnh thì khó có kết quả. Căn bản của Phật dạy cốt là để gạn lọc tự tâm, niệm Phật cũng để gạn lọc tự tâm, để tâm không nghĩ lăng xăng, không để tạp niệm xen vào.

    “Người mê niệm Phật cầu sanh về cõi kia, người ngộ tự tịnh tâm mình”. Tâm tịnh thấy gì cũng thanh tịnh, thấy chỗ nào cũng thanh tịnh. “Người phương Đông chỉ tâm thanh tịnh tức không có tội, còn người phương Tây mà tâm chẳng tịnh cũng có tội”. Chúng ta học, không nên chấp vào lời đó rồi chê bai người niệm Phật về Tây phương cũng là lầm. Chấp theo lời mà bài bác kia-đây thì chính mình cũng thành bệnh. Tức mượn lời Lục Tổ rồi bài bác cũng có tội. Như vậy tâm ta cũng không tịnh. Đây chỉ là lời phá chấp, bởi đã là nơi Tịnh độ phương Tây thì làm sao có tội! Tâm tịnh mới ở cõi tịnh, làm sao có tội! Học đạo phải đạt ý quên lời, ý Lục Tổ là nhắm thẳng vào người hiện tại, ngay đây cần phải tịnh tâm mới là trọng yếu, nếu tịnh tâm rồi thì cầu Tịnh độ cũng dễ được, nếu đạt được lý Thiền thì ngay đây sáng tự tâm lại càng hay. Thế nên, tâm tịnh thì chỗ nào cũng hằng an vui, tâm không tịnh thì cầu đây cầu kia đều bất an.

    Sử quân tâm địa chỉ không điều bất thiện thì Tây phương cách đây chẳng xa. Nếu ôm lòng bất thiện thì niệm Phật vãng sanh cũng khó đến.

    Nay khuyên thiện tri thức, trước trừ mười điều ác tức đi được mười muôn. Sau trừ tám điều tà, bèn qua tám ngàn. Niệm niệm thấy tánh, thường thực hành ngay thẳng thì đến như khảy tay liền thấy Đức Di Đà.

    Sử quân chỉ thực hành mười điều thiện, đâu cần nguyện vãng sanh. Chẳng đoạn tâm mười điều ác, Phật nào đến đón! Nếu ngộ đốn pháp vô sanh, thì thấy cõi Tây phương chỉ trong sát-na. Chẳng ngộ mà niệm Phật cầu sanh thì đường xa, thế nào đến được! Huệ Năng sẽ vì mọi người dời cõi Tây phương đến đây trong khoảng sát-na liền thấy ngay trước mắt, mọi người muốn thấy chăng?

    Mọi người đều đảnh lễ, thưa:

    - Nếu ngay đây liền thấy, đâu cần nguyện vãng sanh. Mong Hòa thượng từ bi hiện cõi Tây phương khiến cho khắp đều thấy được.

    Lục Tổ chỉ rõ thêm, tâm địa không có những điều bất thiện tức là thanh tịnh, thì Tây phương cách không xa. Ngược lại, ôm lòng bất thiện tức tâm không thanh tịnh, niệm Phật vãng sanh cũng khó đến được, do miệng niệm mà tâm không tịnh, miệng hành mà tâm không hành. Tu hành thực tế cần phải ngay đây trừ mười điều ác tám điều tà, niệm niệm thường thấy tánh không mê, thường thực hành ngay thẳng, chẳng hư dối, cong vạy thì khảy tay liền thấy Đức Di Đà. Di Đà ngay nơi tự tánh, Cực Lạc ngay nơi đây, đó là lý Tịnh độ. Mười điều ác là ngược lại mười điều thiện (Thập thiện), tám điều tà ngược lại với tám điều chánh (Bát chánh đạo), là tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Lục Tổ chỉ thẳng, nếu ngộ đốn pháp vô sanh tức ngay một niệm vô sanh thấy cõi Tây phương nơi tự tâm, rất gần. Ngược lại, chẳng ngộ mà cầu bên ngoài thì thấy xa xôi.

    Kế Lục Tổ dùng phương tiện để sách tấn, khích lệ mọi người nên hỏi có muốn Ngài dời cõi Tây phương tới đây không. Ngay đây thấy Tây phương thì quá hay! Mọi người đều hoan hỷ, đảnh lễ, mong Tổ hiện cõi Tây phương cho được thấy.

    Sư bảo:

    - Đại chúng! Người đời, sắc thân chính mình là thành, mắt tai mũi lưỡi là cửa. Ngoài có năm cửa, trong có cửa ý. Tâm là đất, tánh là vua, vua ở trên đất tâm. Tánh ở thì vua còn, tánh đi thì vua không. Tánh ở thì thân tâm còn, tánh đi thì thân tâm hoại. Phật nhằm trong tánh mà làm, chớ hướng ngoài thân mà cầu. Tự tánh mê tức chúng sanh. Tự tánh giác tức Phật. Từ bi là Quán Âm, hỷ xả là Thế Chí, hay thanh tịnh (năng tịnh) là Thích Ca, ngay thẳng (bình trực) là Di Đà. Nhân ngã là Tu-di, tâm tà là nước biển, phiền não là sóng mòi, độc hại là rồng dữ, hư dối là quỷ thần, trần lao là cá rùa, tham sân là địa ngục, ngu si là súc sanh.

    Này thiện tri thức! Thường thực hành mười điều thiện, liền được đến thiên đường. Trừ nhân ngã thì Tu-di lật. Bỏ tâm tà thì nước biển cạn. Phiền não không thì sóng mòi dứt. Độc hại hết thì cá rồng bặt. Trên đất tự tâm, giác tánh Như Lai phóng đại quang minh, bên ngoài chiếu soi sáu cửa thanh tịnh, hay phá tan sáu cõi trời Dục. Tự tánh chiếu soi bên trong thì ba độc liền trừ, những tội địa ngục v.v... một lúc tiêu dứt. Trong ngoài sáng suốt, chẳng khác Tây phương. Chẳng tu theo trên đây, thế nào đến được cõi kia!

    Đây là chỉ thẳng lý thật ở ngay nơi chính mình, sắc thân này là thành, năm căn là cửa ngoài, ý căn là cửa trong, tâm là đất, tánh là vua, như vậy tánh ở trên đất tâm. Cho nên, chúng ta thấy tánh ngay nơi tâm, không phải thấy bên ngoài. Tánh ở thì vua còn nhưng tánh đi là vua cũng không, ngay đây tánh đi thì thân tâm hoại. Người sống không có tự tánh thành người chết, hoặc còn sống nhưng sống cũng như chết, đa số người đời sống cũng như chết, sống không có chủ. Cần phải thấy tánh trở lại ngay nơi đất tâm để sống, đó là sống có chủ, thấy Phật, Phật ngay nơi tự tâm chính mình.

    Muốn thấy tánh phải từ đâu thấy? Phải qua sáu cửa thành, là qua cửa sáu căn, từ nơi sáu căn mà vào chứ không ở đâu xa. Phật ở ngay tánh mà làm, chớ hướng ra ngoài cầu, đó là cầu xa xôi. Thành Phật là do giác ngộ trở lại tự tâm hay tánh giác, bởi Phật là giác, tự tánh giác mới chính là Phật. Tổ nói rất thực tế, gần gũi: “Tự tánh mê tức chúng sanh, tự tánh giác tức Phật”. Mọi người đều có thể thấy được ngay chính mình có đủ, khéo vậy thì đổi mê thành giác. Ngược lại, có mà không biết thì đổi giác thành mê.

    “Từ bi là Quan Âm, hỷ xả là Thế Chí, hay thanh tịnh là Thích Ca, ngay thẳng là Di Đà”. Phật, Bồ-tát nơi tự tâm đầy đủ. Ngược lại, trong tự tâm mà khởi nghĩ nhân ngã thì không thấy Phật, không thấy Quan Âm, Thế Chí, mà thấy núi Tu-di cao ngất, chướng ngại, che mờ nên không thấy cõi Phật. Khởi tâm tà thành nước biển mênh mông, cũng che khắp. Khởi phiền não thì sóng mòi nổi dậy nhận chìm, khi phiền não đâu thấy cõi Phật. Khởi độc hại thành rồng dữ, người người đều sợ, không dám gần. Khởi hư dối thành quỷ thần, mê hoặc người. Khởi trần lao thành cá rùa, làm đục mờ che tự tánh. Khởi tâm tham sân thành địa ngục, nhốt kín trong đó. Khởi ngu si thành súc sanh, không còn thấy sáng suốt. Tu hành là khéo chuyển trở lại, thực hành mười điều lành liền đến được thiên đường an nhàn, trừ tâm nhân ngã thì núi Tu-di liền lật đổ, bỏ tâm tà thì nước biển khô cạn, phiền não sạch thì sống mòi không còn nổi sóng, trừ độc hại thì cá rồng mất dấu, như vậy thì không còn che ngăn, hết chướng ngại.

    Liền ở trên đất tự tâm, giác tánh Như Lai phóng ánh sáng rực rỡ soi khắp, không phải tìm đâu xa. Soi khắp là chiếu qua sáu cửa, thấy nghe giác biết, khi tâm đã thanh tịnh sáng suốt thì chiếu ra tất cả đều sáng tỏ, nên thấy sáu trần không còn ngăn ngại, không còn nhiễm. Các bậc Thánh cũng dùng sáu căn, thấy nghe hiểu biết mà sáng suốt tự tại. Chúng ta cũng dùng sáu căn này nhưng thấy đâu dính đó nên ngại.

    Tổ nói: “hay phá tan sáu cõi trời Dục”. Cõi Dục không thể làm nhiễm, rồi tự tánh chiếu soi bên trong thì ba độc liền trừ sạch, ba độc không còn thì những tội địa ngục v.v… cũng tiêu dứt, vậy là chuyển mê vọng thành giác ngộ chân thật. Trong ngoài sáng suốt, tỏ rõ thì thanh bình an lạc, ngay đây là Tây phương Cực Lạc.

    Lục Tổ dời cõi Tây phương đến ngay trước mắt là như thế! Đó là chuyển Ta-bà thành Tịnh độ. Chúng ta chứng nghiệm được rõ ràng ngay trong đời này. Đây cũng là ý ngăn ngừa những người không chịu tu mà chỉ lo cầu đây cầu kia, trái với con đường Phật dạy. Phải nhớ tu nơi tự tâm, thanh tịnh nơi tự tâm là trọng yếu.

    Ông Bàng Uẩn là cư sĩ tại gia mà ngộ đạo, giống như Lục Tổ nói người Đông phương mà có Phật. Ông có bài kệ nhắc mọi người:

        Thế gian việc tối thượng,

        Chỉ có tu hành hơn.

        Nếu ngộ lý vô sanh,

        Ba cõi tự tiêu mất.

        Uẩn không Diệu Đức hiện,

        Vô niệm đấy Thanh Lương.

        Đây tức cõi Di Đà,

        Chỗ nào tìm Tây phương.

    Việc tối thượng của thế gian chỉ có tu hành là hơn hết. Ngay đây, người ngộ được lý vô sanh thì ba cõi liền mất, tức vượt qua ba cõi, giải thoát.

    Diệu Đức hiện tức Bồ-tát Văn-thù hiện. Nếu thấu suốt năm uẩn đều Không thì Đại trí Văn-thù hiện. Thanh Lương ở Ngũ Đài Sơn. Vô niệm thì ngay đó là cõi Thanh Lương, không cần phải tìm đến Ngũ Đài Sơn.

    Ngay đây đã thấy cõi Di Đà thì còn cầu Tây phương ở đâu nữa! Đó là ông Bàng Uẩn nhắc nhở mọi người nhớ soi lại chính mình, tu kỹ là như vậy.

    Đại chúng nghe Sư nói, rõ ràng thấy tánh, thảy đều lễ bái, đồng khen:

    - Lành thay!

    Và nói to:

    - Nguyện khắp pháp giới chúng sanh người nghe đồng thời ngộ hiểu!

    Đại chúng nghe Lục Tổ dạy đến đây, tất cả đều sáng tỏ được ý nghĩa tu hành chân thật nơi tự tâm, nên nói: “rõ ràng thấy tánh”. Thấy công đức đầy đủ nơi tự tánh, không phải tìm cầu bên ngoài. Tất cả đồng vui mừng khen ngợi “Lành thay!” Bởi nghe những điều trước giờ chưa nghe. Những người này ở vùng Lĩnh Nam Quảng Châu, là vùng biên địa xa xôi, ít được nghe những điều hy hữu như vậy, giờ được nghe Lục Tổ giải thích giản dị mà sáng tỏ nên mọi người thấy rất hoan hỷ, và nguyện cho khắp cả chúng sanh, người nghe được đồng ngộ. Như vậy là mở tâm rộng lớn để quên bớt đi cái ngã nhỏ hẹp.

    Chúng ta ở đây, mỗi vị cũng nên mở lòng rộng lớn để nghe, sẵn sàng đón nhận chân lý giác ngộ sáng suốt nơi tự tánh thì ngay đây liền thấy Lục Tổ cũng đang nói với chính mình, học kinh là học như vậy. Nếu chúng ta nghĩ Lục Tổ chỉ nói với những người đương thời của Ngài, không dính dáng đến chúng ta thì học cũng như không.

    Sư bảo:

    - Này thiện tri thức! Nếu muốn tu hành thì ở nhà cũng được, chẳng do ở chùa. Ở nhà mà hay thực hành, như người phương Đông tâm thiện. Ở chùa mà chẳng tu, như người phương Tây có tâm ác. Chỉ tâm thanh tịnh, chính là tự tánh Tây phương.

    Lục Tổ dạy Vi Thích sử và những vị còn tại gia, nên Ngài dạy tại gia tu cũng được, không phải chỉ ở chùa, quan trọng là tịnh tâm, gạn lọc nơi tự tâm. Đây cũng là ngăn ngừa người chấp ở chùa mà không lo tu.

    Tu hành chân thật không phải ở hình thức bên ngoài, ngay nơi tự tâm biết gạn lọc tu tập mới là trọng yếu. “Chỉ tâm thanh tịnh chính là tự tánh Tây phương”. Đó là chỗ Phật, Tổ muốn chỉ. Chúng ta không chuyển hóa tự tâm mà chỉ cầu bên ngoài thì trái với nghĩa chân thật, cầu cũng khó được.

    Vi Công lại hỏi thêm:

    - Ở nhà tu hành thế nào, mong Ngài chỉ dạy cho!

    Sư bảo:

    - Tôi sẽ vì đại chúng làm bài kệ Vô Tướng, chỉ nương theo bài tụng này tu hành, là luôn luôn đồng ở một chỗ với tôi không khác. Nếu chẳng tu theo đây, thì cạo tóc xuất gia có ích gì với đạo!

    Bởi Lục Tổ nói ở nhà tu cũng được nên Vi Thích Sử hỏi ở nhà tu hành thế nào? Lục Tổ dạy bài tụng Vô tướng. Vô tướng tức không chấp trên hình tướng nên ở nhà tu cũng được.

    Tụng rằng:

         Tâm bằng đâu cần giữ giới,

         Hạnh thẳng nào phải tu thiền.

    Tâm bằng, hạnh thẳng thì không cần giữ giới, tu thiền, nghe thấy khỏe không? Nhưng không khỏe. Được tâm bằng, hạnh thẳng không phải dễ! Bởi giới là hàng rào ngăn ngừa tội lỗi, sai quấy, nếu tâm bằng phẳng an lành, không sanh lỗi lầm vậy giới để ngừa gì? Nên tâm bằng thì không cần giữ giới, nhưng phải tâm bằng, còn tâm chúng ta quá gập ghềnh mà không giữ giới là nguy hiểm.

    Hạnh thẳng mới không phải tu thiền, còn hạnh sống hư vọng trái với chân thì phải tu thiền để điều hòa trở lại. Nếu tâm ngay thẳng chân thật, không tạo nghiệp, thiền để làm gì? Tu thiền, giữ giới là phương tiện để đối trị, là thuốc trị bệnh, có bệnh cần phải dùng thuốc để trị, không bệnh thuốc cũng thôi. Tâm chúng ta có bệnh nên dùng thuốc giới, thuốc thiền để trị. Nếu tâm chúng ta hết bệnh thì giới-thiền cũng thôi. Nhưng phải thật là tâm không bệnh. Lục Tổ nói để ngăn ngừa chấp pháp, không bệnh mà uống thuốc mãi thì thành bệnh.

    Điều Ngự Giác Hoàng thuật lại việc Ngài từng hỏi Thượng sĩ Tuệ Trung:

    - Chỉ như người gìn giữ giới hạnh trong sạch không một chút xao lãng, lại thế nào?

    Thượng sĩ Tuệ Trung cười mà không đáp. Ngài lại thỉnh cầu, Thượng sĩ nói hai bài kệ:

        Giữ giới cùng nhẫn nhục,

        Chuốc tội chẳng chuốc phước.

        Muốn biết không tội phước,

        Chẳng giữ giới, nhẫn nhục.

                                   ***

        Như người leo lên cây,

        Trong an tự cầu nguy.

        Như người không leo cây,

        Trăng gió có làm gì!

    Nói xong, Thượng sĩ lại nói:

    - Nhưng chớ bảo cho những người không ra gì biết!

    Chúng ta mới nghe thì thấy Thượng sĩ Tuệ Trung nói như ngược với giáo pháp. Ngài nói: “Giữ giới, nhẫn nhục là chuốc tội không chuốc phước; muốn biết không tội-phước thì chẳng cần giữ giới, nhẫn nhục”. Nếu nghe theo chữ nghĩa sẽ khó chấp nhận, nhưng hiểu thấu được ý thì nghĩa rất sáng tỏ. Bởi tâm chúng ta còn có tạo tội nên phải giữ giới để tránh, ngăn ngừa. Cũng vậy, tâm chúng ta còn có nóng giận nên tu nhẫn nhục để trừ nó. Còn người đã vượt qua khỏi ý niệm tội-phước đối đãi thì chẳng có giới để giữ, cũng chẳng có nhẫn để chịu, không bệnh đâu cần dùng thuốc.

    “Như người leo lên cây, trong an tự cầu nguy”. Người đứng dưới đất an ổn không chịu, lại leo lên cây cao để gió thổi nguy hiểm rồi cầu cứu. Cũng như tạo tội rồi phải cầu giữ giới, phải lo tránh tội. Nếu sống trở lại với tâm thể chân thật xưa nay chưa từng ô nhiễm, thành người vô sự, như người đứng dưới đất thì tự an ổn.

    Chỗ này người không ra gì nghe sẽ sống buông lung, rồi mượn lời này để che tội lỗi của mình, nói lý suông mà tâm không thực hành, không giữ giới, nhẫn nhục, nên Thượng sĩ dặn kỹ: “Chớ bảo cho những người không ra gì biết”. Đó là sự khéo léo của Thượng sĩ, cũng nói lên ý nghĩa “tâm bằng” không cần giữ giới, “hạnh thẳng” khỏi phải tu thiền.

         Ân thì hiếu dưỡng cha mẹ,

         Nghĩa thì trên dưới thương nhau.

         Nhượng thì trên dưới hòa thuận,

         Nhẫn thì mọi ác không ồn.

     Lục Tổ dạy sống thực tế, tu ngay trong thế tục, hiếu dưỡng cha mẹ là biết ân. Trên dưới thương nhau không trái bỏ nhau thì thuận với nghĩa. Trên dưới sống hòa thuận nhau, không chống trái nhau là nghĩa nhượng. Tránh mọi điều ác, không để cho quấy rối, bất an thành nghĩa nhẫn. Sống ngay trong thế tục mà biết ân, nghĩa, nhượng, nhẫn, chính đó là tu hành, là chuyển hóa tự tâm. 

         Nếu hay dùi cây ra lửa,

         Bùn lầy quyết mọc sen hồng.

    Nghĩa là ngay trong tâm khéo chuyên cần tu tập, sáng tỏ được đạo lý giác ngộ, phiền não sẽ chuyển thành Bồ-đề, không phải tìm Bồ-đề ở đâu xa. Như lửa có từ nơi cây, khéo dùi cây sẽ có lửa. Tức ngay trong chúng sanh có Phật, ngay phiền não có Bồ-đề, ngay nơi bùn lầy thế gian mà có giải thoát.

         Đắng miệng chính là thuốc hay,

         Trái tai hẳn đó lời thẳng.

    Thuốc hay thì đắng miệng, muốn uống thuốc hay đừng sợ đắng miệng, muốn nghe những lời chân thật phải dám nghe những lời trái tai. Nếu thích nghe những lời thuận tai thì dễ bị người gạt mà không hay. Ví như chúng ta không giỏi mà người khen giỏi, theo đó liền bị gạt, lời đó thuận tai nhưng không thật. Người chân thành học đạo phải dám nghe những lời nói thẳng tức trái tai mới nghe được chân lý.

    Cũng như mọi người đều quý thân này, nhưng Đức Phật chê là đồ nhơ nhớp, đồ bỏ, có phải trái tai không? Chúng ta ra chợ nói thế sẽ bị đánh đuổi ngay. Nhưng đó là lời chân lý. Người thường thích nghe những gì hợp với ý ta, thuận với tai ta, tức là nghe theo sở thích của ta, trái sở thích của ta thì không nghe, vậy là không nghe được những lời chân lý. Bởi chỗ thích của chúng ta là bản ngã vô minh. Nghe như thế dễ nghe theo những lời a dua, lời xu nịnh, làm sao nghe được những lời chân thật sáng suốt. Như chúng ta học đạo mà muốn thầy phải nói thuận theo ta thì học được gì? Thầy nói những gì chúng ta chưa hiểu, chưa biết, nói điều trái với những suy nghĩ sai lầm bấy lâu của chúng ta, vậy mới học được những điều chưa từng nghe.

    Ngài Tuyết Đường khi dạy chúng, từng bảo:

    - Tử Tâm (Hòa thượng Tử Tâm) trụ trì chùa Vân Nham. Trong chốn trượng đường, tính Ngài hay nóng giận chửi mắng. Các hàng nột tử (Thiền tăng) vì thế đều nhìn về phía trời xa thẳm mà lần lượt ra đi. Thị giả Phương nói: “Ôi! Bậc thiện tri thức, thực hành đạo của Phật Tổ, làm hiệu lệnh cho nhân thiên nên phải coi người học như con đỏ. Nay Ngài lại chẳng rủ lòng lo lắng thương hại ban bố ân huệ, nuôi nấng vỗ về, dùng lời dạy bảo trung hòa, tại sao lại coi họ như cừu thù, thấy thì mắng nhiếc, đâu có phải là chỗ dụng tâm của bậc thiện tri thức vậy ư?”. Tử Tâm liền cầm chiếc gậy đương chống đuổi Thị giả Phương và nói: “Chỗ thấy nghe hiểu biết của ông như thế, ngày kia tất sẽ xu nịnh, sùng chuộng kẻ thế vị, ton hót kẻ hào quyền, bán rẻ cả Phật pháp, lừa dối đám ngu hèn. Vì ta không nỡ thấy những việc như thế, nên ta nặng lời kích động để họ gắng chí, nào có ý gì khác đâu. Ta chỉ muốn cho họ biết hổ thẹn để sửa lỗi, ghi tạc vào tâm khảm đừng quên, mong một ngày kia trở nên người tốt vậy”.

    Ngài Tử Tâm hay nóng giận, mắng chửi mọi người. Thị giả Phương không hiểu ý, thấy vậy chịu không nổi, nói rằng: “Người thiện tri thức phải thương người học, Ngài chỉ mắng nhiếc mà không chỉ dạy thì không có từ bi”. Ngài Tử Tâm ngay đó cảnh tỉnh cho ông biết, nếu ông theo chỗ thấy nghe hiểu biết như vậy, chắc ngày kia sẽ theo chiều xu nịnh, ton hót, tức muốn ai cũng nói theo ý ta, chìu theo ý ta thì làm sao trừ được những lỗi lầm. Nên Ngài nói: “Vì ta không nỡ thấy những việc như thế, nên ta nặng lời kích động để họ gắng chí, nào có ý gì khác đâu. Ta chỉ muốn cho họ biết hổ thẹn để sửa lỗi, ghi tạc vào tâm khảm đừng quên, mong một ngày kia trở nên người tốt vậy”. Nói mạnh như thế để họ gắng chí, tiến lên, quở để cho họ sửa lỗi chứ không phải ghét họ.

    Đây là các Ngài thực hành theo Bồ-tát nghịch hạnh. Chúng ta học đạo, có khi gặp Bồ-tát thuận hạnh, cũng có khi gặp Bồ-tát nghịch hạnh, khéo biết để tiến lên, không phải lúc nào cũng muốn thuận, đến khi gặp nghịch thì không chịu nổi. Khi chúng ta có lỗi, phải dám nghe, dám nhận lời chỉ thẳng để sửa, vậy mới tiến được, chính đó là tu nên ở tại gia cũng tu được.

         Sửa lỗi ắt sanh trí tuệ,

         Giữ xấu trong tâm chẳng hiền.

    Học đạo tu hành, quan trọng phải là người biết nghe lời nói thẳng, dám nhận lỗi lầm của mình để sửa đổi mới có thể tiến lên, sống được với trí tuệ. Người có lỗi không biết nhận để sửa thì không sanh trí tuệ, là che mờ, u mê.

    Tổ dạy rõ, nếu cố chấp ôm giữ điều xấu, không chịu nhận lỗi để sửa thì càng chìm trong cái xấu, không thể thành bậc Hiền bậc Thánh, không sanh trí tuệ. “Sửa lỗi mới sanh trí tuệ, giữ xấu trong tâm chẳng phải người hiền”. Người tu hành không nên sợ nhận lỗi là xấu, nhiều người hiểu lầm việc này, nghĩ chúng ta nhận lỗi là chúng ta xấu dở, do đó tránh không dám nhận. Sự thật nhận lỗi là điều tốt, điều cao thượng chứ không xấu.

    Chúng ta đều còn phàm phu, còn mê lầm, chưa người nào thành Thánh tất nhiên đều còn có lỗi, điều đó không tránh khỏi. Nhưng biết nhận lỗi để sửa sẽ tiến lên thành bậc Hiền, bậc Thánh, chính đó là tu. Đây là bài học thực tế để ứng dụng vào cuộc sống hàng ngày, chớ nên xem thường, cũng đừng nghĩ như thường tình của thế gian, cho rằng nhận lỗi là xấu dở. Phải nhớ kỹ, nhận lỗi là cao thượng, là bước tiến lên, người yếu hèn không dám nhận lỗi.

         Hằng ngày thường hành lợi ích,

         Thành đạo chẳng do thí tiền.

    Ngài nhắc chúng ta phải thường làm lợi ích cho người để làm gì? Nhằm tập quên tâm vị kỷ, tâm hẹp hòi. Làm lợi ích cho người tức là lợi tha, tất nhiên quên tâm hẹp hòi, tâm vì mình chỉ nghĩ đến ta, không biết đến người khiến chặn đứng con đường tiến đạo. Buông tâm nhỏ hẹp, siêng làm lợi ích cho người là con đường an vui thiết thực.

    Thực hành tốt điều này thì không bao giờ có bệnh trầm cảm, đó cũng là thuốc để trị bệnh trầm cảm. Sở dĩ có bệnh trầm cảm là do nghĩ đến ta quá nhiều, nghiêng về ta quá nhiều. Chuyển lại, lo làm lợi ích cho người, nghĩ đến lợi ích người thì làm sao có trầm cảm! Cho nên, trong Phật pháp cũng có thuốc trị nhưng vì người không uống.

    Như câu chuyện Cô Gái Xấu Xí. Có cô gái được sinh ra mang hình tướng xấu xí, mọi người đều chê. Cô buồn tủi nên nhảy xuống sông tự vẫn. Khi đó, có vị thầy tu vừa đi đến, thấy vậy liền hô to cho mọi người đến cứu cô. Sau khi được cứu, chẳng những cô không cám ơn mà còn trách vị thầy, cô nói:

    - Tôi muốn chết, thầy còn cứu làm chi cho tôi khổ thêm.

    Vị thầy từ tốn, dùng phương tiện khéo léo để an ủi cô, hỏi thăm vì sao cô phải khổ, phải tự vẫn. Cô kể lại việc từ khi mới sanh ra đã phải mang thân hình xấu xí, đi đến đâu mọi người cũng chê. Cô sống như thế không có niềm vui nên muốn chết. Vị thầy khéo léo khuyên bảo:

    - Cô nên nhớ rằng, người sống trên đời đều có hai sinh mệnh: Một sinh mệnh luôn nghĩ về ta, hướng về ta, tất cả đều vì ta, sinh mệnh đó của cô vừa nhảy xuống sông chết rồi. Giờ đây, tôi cứu cô là sinh mệnh thứ hai, luôn nhớ đến người khác, nghĩ đến người khác, làm lợi ích cho người khác, sinh mệnh này đang sống với cô đây. Cô hãy cố gắng sống với sinh mệnh này, chớ nên nhớ sinh mệnh kia nữa.

    Cô nghe xong thấy lòng cởi mở nên trở về nhà. Từ đó, cô thực hành lời thầy dạy, sống với sinh mệnh thường làm lợi ích cho mọi người, sẵn lòng giúp đỡ mọi người. Vậy nên, cô ngày càng được nhiều người thương mến. Mọi người khen cô có hạnh giúp người với tâm rộng rãi. Thời gian sau, cô thấy không còn buồn chán nữa, lúc nào cũng vui tươi. Lâu dần, thân hình cô cũng đổi dáng, bớt xấu, mọi người gọi cô là “Hạnh Thiện”. Về sau cô có gia đình, sống tốt đẹp.

    Thường nghĩ đến việc giúp người nên quên ta lúc nào không hay, giúp người vui nên ta cũng vui, thành ra không còn trầm cảm. Đó là một bài học kinh nghiệm.

    Còn thành đạo vốn ở nơi tâm, không phải ở hình thức bên ngoài, không phải do thí tiền, bởi thí tiền chỉ là xả của cải bên ngoài. Xả bên ngoài còn dễ, xả trong tâm là rất khó. Thành đạo là thành ở trong tâm, thế nên phải xả trong tâm mới thành được.

    Nếu trong tâm không xả, tuy thí nhưng vẫn còn dính, đôi khi xả rồi vẫn còn tiếc, thế nên thí tiền vẫn còn sanh phiền não. Xả trong tâm mới thật sự hết phiền não, mới thành đạo được. Thế nhưng không phải bảo chỉ làm bên trong không làm bên ngoài, tu tập là phải dung thông cả ngoài lẫn trong mới viên mãn.

         Bồ-đề chỉ nhằm tâm tìm,

         Đâu nhọc hướng ngoại cầu huyền.

    Bồ-đề phải tìm trong tâm, không thể hướng bên ngoài mà cầu. Hướng bên ngoài cầu, dù những nghĩa lý sâu xa mấy cũng chưa phải thật. Người mê không biết, hướng ra ngoài tâm tìm Bồ-đề càng tìm càng mê, không thấy được Bồ-đề. Bởi Bồ-đề là giác, tâm mới giác, ngoài tâm đi tìm giác thì không thể giác.

    Ngoài tâm tìm nếu có giác thì đó là giác trong sách vở, trong chữ nghĩa. Nhưng giác đó làm sao chống lại với phiền não, sinh tử! Gặp phiền não, sinh tử là chịu thua. Người sáng suốt chân chánh phải phản tỉnh trở lại nơi tự tâm mới có Bồ-đề chân thật. Chính Đức Phật cũng từng nhọc nhằn đi tìm đạo từ vị thầy này đến vị thầy khác, học với các vị thầy lỗi lạc hiện thời vẫn thấy chưa đúng với chỗ mong cầu của Ngài. Cuối cùng, Ngài phải từ giã hết, đến dưới cội cây Tất-bát-la ngồi thiền định, tâm sáng lên mới thành đạo Vô thượng Bồ-đề. Thế nên đổi tên cây Tất-bát-la thành cây Bồ-đề. Rõ ràng Bồ-đề ngay trong tâm, không ở bên ngoài.

    Cổ đức có bài kệ:

        Tâm ta tâm Phật vốn không hai,

        Nhiều kiếp nổi chìm bởi tại mê.

        Bồ-đề tiếng Phạn, Đường gọi giác,

        Tâm tịch mà tri ấy Bồ-đề.

    Âm:

        Ngã tâm bổn dữ Phật tâm tề,

        Khoáng kiếp phiêu trầm chỉ vị mê.

        Bồ-đề Phạn ngữ, Đường ngôn giác,

        Tâm tịch nhi tri thị Bồ-đề.

    Tâm ta tâm Phật vốn không có hai, nhưng người vì mê nên thấy chia ra thành cách biệt. Bồ-đề là dịch âm tiếng Phạn, Đường tức chữ Hán dịch là giác, cái gì giác? Ngay tâm lặng lẽ mà biết rõ ràng chính là Bồ-đề.

    Như vua Trần Thái Tông lên núi gặp Quốc sư Phù Vân xin xuất gia tu hành. Quốc sư Phù Vân khuyên vua về triều cũng tu được. Ngài khai thị cho vua: “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong tâm bệ hạ, nếu tâm bệ hạ lặng lẽ mà biết sáng suốt chính đó là Phật”.

    Đây là yếu chỉ tu hành, tâm tịch mà tri, hay tri mà tịch. Tri là biết tất cả, không bỏ sót cái gì. Tịch là lặng lẽ tức lìa tất cả. “Biết tất cả mà lìa tất cả” chính là Bồ-đề. Chúng ta thì tri mà lăng xăng, vọng động, cho nên không phải Bồ-đề mà thành vọng tưởng, thức tình, biết cái gì dính cái đó, mất tịch. Khi tu, có lúc tịch nhưng thiếu tri, lặng lẽ nhưng thiếu sáng suốt, thiếu rõ biết nên thấy mờ mờ. Sống bên ngoài động nhiều, khi vào tu thì muốn yên, muốn nhập định, nhưng khi lặng lại thiếu tri thành ra lặng mà mê chìm ở bên tịch, gọi là si định, định mà không có trí tuệ. Biết rõ chỗ này thì tu hành không sai lệch.

    Thế nên, không phải nhọc nhằn hướng ra bên ngoài chạy tìm những nghĩa lý sâu xa, nghĩa lý mầu nhiệm gì khác, ngay nơi mình đã đủ tất cả. Nhưng người không thấy được điều đó, thích những sự mầu nhiệm cao xa ở bên ngoài, chạy ra ngoài tìm nhọc nhằn mà không thấy được lý thật.

         Nghe nói nương đây tu hành,

         Thiên đường chỉ ngay trước mắt.

    Lục Tổ tóm kết lại, người học phải khéo biết nghe và thực hành, đó là yếu chỉ hơn hết. Nghe, nương theo đó thực hành tu tập nơi tâm thì thấy thiên đường trước mắt, không phải tìm đâu xa. Nói nhiều mà không tu thì không thể đến. Nên có câu: “Diêm Vương chẳng sợ người nói nhiều”. Nói hay đến mấy, Diêm Vương cũng không sợ, khi chết gặp Diêm Vương cũng không còn nhớ mà nói.

    Sư lại nói:

    - Này thiện tri thức! Hết thảy cần nương bài kệ tu hành, thấy được tự tánh, liền thành Phật đạo. Pháp chẳng đợi nhau, mọi người hãy giải tán, tôi trở về Tào Khê, nếu ai có nghi ngờ hãy đến đó thưa hỏi.

    Bấy giờ, Thích sử, quan liêu, thiện nam, tín nữ trong hội đều được tỏ ngộ, tin nhận vâng làm.

    Lục Tổ dạy hãy nương theo đó thực sự tu hành, đừng chỉ nói trên miệng, thì thấy tánh thành Phật đạo không xa. Ngài nói rõ pháp ngay nơi chính mình, không phải trông đợi nơi nào khác, soi lại nơi tự tâm của chính mình thì thấy đủ trong đó. Đây là lời chân thật, chỉ thẳng của Lục Tổ. Sau đó Lục Tổ đi về Tào Khê, chùa Nam Hoa.

    ***

  • 5. Phẩm 03 - ĐỊNH HUỆ MỘT THỂ

    CHÁNH VĂN:


    Sư dạy chúng:


    - Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây, lấy định huệ làm gốc, đại chúng chớ mê mờ nói định huệ riêng khác. Định huệ một thể, chẳng phải là hai. Định là thể của huệ, huệ là dụng của định; ngay khi huệ thì định ở trong huệ, ngay khi định thì huệ ở trong định. Nếu biết nghĩa này tức là định huệ đồng học. Những người học đạo chớ nói trước định rồi phát huệ, trước huệ rồi phát định mỗi thứ riêng khác, khởi cái thấy này thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành mà trong tâm chẳng lành, thì luống có định huệ mà định huệ chẳng đồng đều. Nếu tâm và miệng đều lành, trong ngoài một thứ thì định huệ tức đồng đều. Tự ngộ mà tu hành, chẳng ở tranh cãi. Nếu tranh cãi trước sau, tức đồng với người mê, chẳng đoạn dứt lòng hơn thua, càng thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng.

    Này thiện tri thức! Nhất hạnh tam-muội là, đối tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, thường thực hành một tâm ngay thẳng. Như kinh Tịnh Danh nói: “Tâm ngay thẳng là đạo tràng, tâm ngay thẳng là tịnh độ”, chớ có tâm thực hành cong vạy mà miệng cứ nói thẳng. Miệng nói Nhất hạnh tam-muội mà chẳng thực hành tâm ngay thẳng. Song thực hành tâm ngay thẳng thì đối tất cả pháp chớ có chấp trước. Người mê dính mắc tướng của pháp, chấp Nhất hạnh tam-muội, liền nói ngồi bất động, tâm vọng chẳng khởi, tức là Nhất hạnh tam-muội. Khởi cái hiểu này tức đồng với vô tình, lại là nhân duyên chướng đạo.

    Này thiện tri thức! Đạo cần phải trôi chảy, cớ sao lại ngưng trệ? Tâm chẳng trụ nơi pháp, đạo liền trôi chảy. Nếu tâm trụ pháp gọi là tự trói. Nếu nói ngồi bất động là phải, thế nhưng ngài Xá-lợi-phất ngồi yên trong rừng lại bị ông Duy-ma-cật quở trách!

    Này thiện tri thức! Lại có người dạy ngồi “khán tâm quán tịnh” chẳng động, chẳng khởi, từ đó đặt thành công phu. Người mê chẳng hiểu liền chấp thành điên đảo. Người như trên đây rất đông, dạy nhau như thế, nên biết là lầm to.

    Này thiện tri thức! Định Huệ giống như những gì? Giống như ngọn đèn và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không ngọn đèn tức tối. Ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn. Tên tuy có hai, thể vốn là một. Pháp Định Huệ này cũng lại như thế.

    Này thiện tri thức! Chánh giáo xưa nay không có đốn tiệm, chỉ tánh người có bén lụt. Người mê dần dần khế hợp, người ngộ thì chóng tu. Tự biết bản tâm, tự thấy bản tánh, tức không có sai khác. Do đó lập cái tên giả “đốn tiệm”.

    Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây, từ trước đến nay, trước lập “Vô niệm” làm tông, “Vô tướng” làm thể, “Vô trụ” làm gốc. Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà không niệm. Vô trụ là bản tánh của người đối với việc thiện ác, tốt xấu của thế gian, cho đến oán thân, lúc nói năng, động chạm, tranh đua v.v... đều đưa vào KHÔNG, chẳng nghĩ đáp hại lại, trong mỗi niệm chẳng nghĩ nhớ cảnh trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm tiếp nối nhau không gián đoạn, gọi là trói buộc. Ở trên các pháp, niệm niệm chẳng dừng trụ tức không trói. Đây là lấy Vô Trụ làm Gốc.

    Này thiện tri thức! Ngoài lìa tất cả tướng, gọi là vô tướng. Hay lìa nơi tướng tức pháp thể thanh tịnh. Đây là lấy Vô Tướng làm Thể. 

    Này thiện tri thức! Ở trên các cảnh mà tâm chẳng nhiễm là vô niệm. Ở trên niệm của chính mình mà thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh sanh tâm. Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, trừ sạch hết niệm, một niệm dứt bặt liền chết, thọ sanh vào chỗ khác, đó là lầm to. Người học đạo hãy nhớ kỹ! Nếu chẳng biết ý của pháp, tự mình lầm còn được, lại khuyên người khác, tự mình mê chẳng thấy, lại chê bai kinh Phật. Do đó lập Vô Niệm làm Tông.

    Này thiện tri thức! Thế nào là lập Vô Niệm làm Tông? Chỉ vì miệng nói thấy tánh, người mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm liền khởi tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng từ đây mà sanh. Tự tánh vốn không có một pháp có thể được, nếu có chỗ được, vọng nói họa phước, tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn này lập Vô Niệm làm Tông.

    Này thiện tri thức! Vô, là vô việc gì? Niệm, là niệm vật gì? Vô là không có hai tướng, không các tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh chân như. Chân như là thể của niệm. Niệm là dụng của chân như. Tự tánh chân như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi hay niệm. Chân như có tánh do đó khởi niệm. Nếu không có chân như thì mắt tai, sắc thanh ngay đó liền hoại.

    Này thiện tri thức! Tự tánh chân như khởi niệm, tuy có sáu căn thấy nghe cảm biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, thì chân tánh thường tự tại. Nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp, đối nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động”.

     

    GIẢNG:

    Sư dạy chúng:

    - Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây, lấy định huệ làm gốc, đại chúng chớ mê mờ nói định huệ riêng khác. Định huệ một thể, chẳng phải là hai. Định là thể của huệ, huệ là dụng của định; ngay khi huệ thì định ở trong huệ, ngay khi định thì huệ ở trong định. Nếu biết nghĩa này tức là định huệ đồng học. 

    Học theo tinh thần Lục Tổ, thấy rõ ý nghĩa viên mãn, không nghiêng lệch. Chúng ta thường học nhân định sanh huệ, vậy là định có trước huệ có sau, thành chia hai. Hoặc có người nghiêng về tu định, hoặc có người nghiêng về tu huệ, hay người nghiêng về tu chỉ, người nghiêng về tu quán. Tôn chỉ Lục Tổ chỉ dạy là định huệ đồng thời, gọi là định huệ một thể, không phân chia kia-đây, trước-sau, không nghiêng lệch một bên. “Định là thể của huệ, huệ là dụng của định”. Nếu có “thể” không có “dụng” là thể chết, còn “dụng” không có “thể” là dụng rỗng.

    Thế nên, tu tập phải có đủ định huệ song song, định có huệ thì định sáng tỏ, huệ có định thì huệ vững chắc. Như đèn sáng để trong nhà, không có gió thổi nên luôn tỏ sáng, còn đèn sáng để bên ngoài gió thổi chập chờn thì không sáng tỏ. Có “thể” có “dụng” đầy đủ là khế hợp với ý Tổ. Chúng ta tu hành phải nhớ định luôn kết hợp với huệ thì không sợ sai lạc. Đây là chỗ người tu thiền phải nắm vững dù tu theo Nguyên thủy, Đại thừa hay Thiền Tông.

    Người tu theo Nguyên thủy nếu nghiêng về bên định thiếu huệ, tức tu chỉ thiếu quán cũng dễ bị lệch lạc. Tu được định, an lạc, vui sướng quá rồi say sưa trong đó thì không tiến lên được. Cũng vậy, tu theo Đại thừa hay Thiền Tông ngay cả khi tu công án hay tu thoại đầu cũng không thể nghiêng một bên. Nếu nghiêng bên định, tham mà không còn biết câu thoại đầu là vào hang quỷ, thế nên phải có huệ.

    Thiền sư Thần Hội nối pháp của Lục Tổ. Có vị Pháp sư Triết đến hỏi Thiền sư Thần Hội:

    - Thế nào là nghĩa định huệ đồng thời?

    Thiền sư Thần Hội đáp:

    - Niệm chẳng khởi, rỗng suốt không có gì, tức gọi là chánh định. Vì hay thấy niệm không khởi, rỗng suốt không có gì, tức gọi là chánh huệ. Nếu được vậy, ngay khi định gọi là thể của huệ, ngay khi có huệ tức là dụng của định. Ngay lúc có định không khác huệ, ngay khi có huệ không khác định. Ngay lúc định tức là huệ, ngay khi huệ tức là định. Ngay lúc định không có định, ngay lúc huệ không có huệ. Vì cớ sao? Vì tánh tự như, đó gọi là định huệ đồng thời.

    “Niệm chẳng khởi, rỗng suốt không có gì” tức tất cả không dính, như “Xưa nay không một vật. Không khởi, không dính, không theo duyên, đó là định. Vì hay thấy được niệm không khởi, rỗng suốt, không dính, đó là chánh huệ. Không khởi niệm, rỗng suốt, nhưng thấy được tức có huệ, nếu rỗng suốt mà mờ mờ là thiếu huệ. Tiến bước nữa là không còn phân biệt đây-kia, đó là ý nghĩa của định huệ song hành, không nghiêng lệch.

    Những người học đạo chớ nói trước định rồi phát huệ, trước huệ rồi phát định mỗi thứ riêng khác, khởi cái thấy này thì pháp có hai tướng. Miệng nói lời lành mà trong tâm chẳng lành, thì luống có định huệ mà định huệ chẳng đồng đều. Nếu tâm và miệng đều lành, trong ngoài một thứ thì định huệ tức đồng đều. Tự ngộ mà tu hành, chẳng ở tranh cãi. Nếu tranh cãi trước sau, tức đồng với người mê, chẳng đoạn dứt lòng hơn thua, càng thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng.

     Thấy định huệ có trước sau thành có hai tướng, pháp có hai tướng thì dễ mắc kẹt, nghiêng lệch. Miệng nói lời lành mà trong tâm chẳng lành tức hai tướng, chia hai, có chia hai mới có tranh cãi kia-đây. Như người nói trước định sau phát huệ, người nói trước huệ sau định, vì có hai nên có cãi nhau, cãi nhau liền mất không thấy định huệ. Miệng nói định huệ mà trong tâm không có định huệ là xa chánh đạo không phải thật nghĩa. “Miệng nói lời lành mà tâm chẳng lành” Tức còn trong nhân ngã hơn thua. Ngài nói: “Càng thêm ngã pháp, chẳng lìa bốn tướng”. Bốn tướng là ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, tuy nói bốn tướng nhưng chung lại chỉ là ngã tướng, tức kẹt vào cái ngã.

    Cốt yếu là phải tự ngộ mà tu hành chẳng ở nơi tranh cãi, tranh cãi mãi thì không tu đến đâu, không thấy định huệ, chỉ thấy phiền não hơn thua. Người thật tâm tu hành phải cẩn thận chỗ này.

    Này thiện tri thức! Nhất hạnh tam-muội là, đối tất cả chỗ đi đứng ngồi nằm, thường thực hành một tâm ngay thẳng. Như kinh Tịnh Danh nói: “Tâm ngay thẳng là đạo tràng, tâm ngay thẳng là tịnh độ”, chớ có tâm thực hành cong vạy mà miệng cứ nói thẳng. Miệng nói Nhất hạnh tam-muội mà chẳng thực hành tâm ngay thẳng. Song thực hành tâm ngay thẳng thì đối tất cả pháp chớ có chấp trước. Người mê dính mắc tướng của pháp, chấp Nhất hạnh tam-muội, liền nói ngồi bất động, tâm vọng chẳng khởi, tức là Nhất hạnh tam-muội. Khởi cái hiểu này tức đồng với vô tình, lại là nhân duyên chướng đạo.

    Đây nói rộng về nghĩa Nhất hạnh tam-muội, tức chánh định chỉ chuyên một hạnh, không phân chia xen tạp. Chúng ta có nhiều hạnh, đi khác, ngồi khác. Thật nhất hạnh này thì đi đứng nằm ngồi chuyên nhất, không chia thành kia-đây chớ không phải chỉ nói ở trên miệng mà được. Dù đi đứng ngồi nằm nhưng luôn thực hành với một tâm ngay thẳng, tuy có bốn oai nghi thay đổi nhưng chỉ một tâm ngay thẳng đó là nhất hạnh. Còn ngồi im lìm không động, Tổ nói chưa phải nhất hạnh.

    Quan trọng là phải thực hành một tâm ngay thẳng, gọi là trực tâm, không phải ở chỗ miệng nói, luận bàn. Như kinh Tịnh Danh tức kinh Duy Ma Cật nói: “Tâm ngay thẳng là đạo tràng”. Người thực hành tâm ngay thẳng chính là chỗ chứng đạo, không phải nhọc nhằn chạy qua Bồ Đề Đạo Tràng. Thành đạo là thành ngay chỗ đó, tu hành như thế thì phiền não không có chỗ sanh khởi.

    Trái lại, tâm cong vạy mà miệng nói ngay thẳng là tự dối ta, liền có phiền não. Miệng nói Nhất hạnh tam-muội mà tâm không ngay thẳng thì không thấy Nhất hạnh tam-muội mà thấy đủ thứ lăng xăng. Tâm và miệng trái nhau có chia cắt đây-kia, thành ra pháp có hai tướng, không những chỉ có hai tướng mà thành vô số tướng, tức tham sân si v.v... đủ thứ sanh, đó là tạp hạnh chứ không còn nhất hạnh.

    Song tu tập tâm ngay thẳng chớ chấp trước trên tướng. Có người nghe nói nhất hạnh tức là một hạnh không hai, nghĩ là phải ngồi im lìm bất động, đè không cho vọng khởi gọi là nhất hạnh. Lục Tổ gọi đó là chấp tướng, không hiểu được ý nghĩa thật. Tổ dạy, trong mọi hành động, tâm ngay thẳng không kia-đây, không duyên theo cảnh thì không thay đổi, không cong vạy, không có hai tướng, tuy có đi đứng ngồi nằm nhưng vẫn là nhất hạnh.

    Thế nên bài tụng Vô Tướng, Lục Tổ nói: “Hạnh thẳng nào phải tu thiền” Hạnh thẳng tức ngay đó là thiền rồi! Người nghe đôi khi bắt chước rồi nói: “Tôi hạnh thẳng nên khỏi tu thiền”, nhưng là hạnh thẳng ngoài miệng, miệng nói thẳng mà trong tâm cong vạy thì chưa phải. Lại, “Người mê dính mắc tướng của pháp, chấp Nhất hạnh tam-muội liền nói ngồi bất động, tâm vọng chẳng khởi tức là Nhất hạnh tam-muội. Khởi cái hiểu này tức đồng với vô tình, lại là nhân duyên chướng đạo”, tức là tu để trở thành như cây đá ngồi im lìm bất động, không biết gì là lầm! Còn đây là biết tất cả, đi đứng ngồi nằm đều biết nhưng tâm không dính mắc, vẫn thẳng ngay, vẫn định, vậy là chánh định ngay trong động mới là chân thật nhất hạnh. Cho nên, chỉ “một hạnh chánh định” nếu thực hành đúng đắn là đủ giác ngộ thành Phật không phải thường.

    Này thiện tri thức! Đạo cần phải trôi chảy, cớ sao lại ngưng trệ? Tâm chẳng trụ nơi pháp, đạo liền trôi chảy. Nếu tâm trụ pháp gọi là tự trói. Nếu nói ngồi bất động là phải, thế nhưng ngài Xá-lợi-phất ngồi yên trong rừng lại bị ông Duy-ma-cật quở trách!

    Tổ dạy: “Đạo cần phải trôi chảy, cớ sao lại ngưng trệ?”. Đúng nghĩa đạo là phải trôi chảy. Chúng ta tu hành muốn tâm khế hợp với đạo thì không được để tâm ngưng trệ. Nếu để tâm ngưng trệ là trái đạo vì ngưng trệ tức là dính, ngưng trệ chỗ nào là dính chỗ đó, không trôi chảy. Trôi chảy thì không dính tất cả, tức là đạo. Người học đạo thường phân tích chữ nghĩa là đạo thế này thế kia mà không thấy đạo, bởi đã ngưng trệ trên chữ nghĩa. Đây cũng tức là tâm vô trụ. Chính tâm vô trụ đó đi qua tất cả, không dừng ở một pháp nào, là thông suốt không có gì chướng ngại.

    Tâm vừa có chỗ trụ liền có ngại thành tự trói, mất đạo. Ví như khi nhìn bình hoa, nếu trụ ngay bình hoa đó thì tâm cột ngay bình hoa, không thấy gì khác. Nếu nhìn bình hoa rồi đi qua, được vậy thì thấy đủ tất cả, tâm sáng suốt tự tại. Hiểu kỹ, thực hành, được vậy thì đi đâu, ở đâu, nghe gì cũng thông suốt bởi nó trôi chảy, không ngưng trệ chỗ nào, luôn luôn thấy đạo hiện tiền. Ngay trong cuộc sống hàng ngày, thấy nghe hiểu biết tất cả đối với sáu trần đều thông suốt, không ngưng trệ ở một trần nào là đạo hiện tiền, không cần nhọc nhằn phân tích trong bộ kinh này, bộ kinh kia.

    Có vị tăng hỏi Thiền sư Duy Khoan:

    - Thế nào là đạo?

    Thiền sư Duy Khoan đáp:

    - Núi rất tốt.

    Tăng thưa:

    - Con hỏi đạo, sao thầy lại nói núi tốt.

    Thiền sư Duy Khoan bảo:

    - Ông chỉ biết núi tốt thì đâu từng đạt đạo.

    Thiền sư khéo léo đánh thức khai thị cho vị tăng, nhưng vị tăng này theo chữ nghĩa nên ngưng trệ, không thấy được đạo. Nghe nói núi tốt thì hiểu núi tốt, tức là ngưng trệ, không trôi chảy thành không thấy đạo. Nếu tâm vô trụ khi nghe nói núi nhưng tâm không trụ nơi núi, không theo chỗ hiểu núi đó, mà thông suốt qua lời nói thì đạo hiện tiền. Cho nên, tâm trôi chảy thì đạo hiện tiền, còn có ngưng trệ tức có trụ liền chướng ngại.

    Lại dẫn trong kinh Duy Ma Cật, Tôn giả Xá-lợi-phất ngồi yên ở trong rừng nhưng bị Ngài Duy-ma-cật quở.

    Đức Phật bảo Tôn giả Xá-lợi-phất:

    - Ông hãy đi đến thăm bệnh ông Duy-ma-cật.

    Ngài Xá-lợi-phất bạch Phật:

    - Bạch Thế Tôn! Con không kham đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Con nhớ thuở xưa, từng ở trong rừng ngồi yên dưới cội cây, khi ấy ông Duy-ma-cật đến bảo con: “Thưa ngài Xá-lợi-phất, không hẳn ngồi thế ấy là ngồi yên định. Phàm ngồi yên định thì ở ba cõi mà không hiện thân ý, ấy là ngồi yên định. Không khởi Diệt tận định mà hiện các oai nghi, ấy là ngồi yên định. Chẳng bỏ đạo pháp mà hiện việc phàm phu, ấy là ngồi yên định. Tâm chẳng trụ trong cũng chẳng trụ ngoài, ấy là ngồi yên định. Đối các kiến chấp không động mà tu Ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ấy là ngồi yên định. Chẳng đoạn phiền não mà vào Niết-bàn, ấy là ngồi yên định. Nếu hay ngồi như thế Phật sẽ ấn chứng cho”.

    Bạch Thế Tôn! Khi ấy con nghe những lời nói này, lặng thinh mà thôi, không thể nào đáp được. Cho nên con không kham đến thăm bệnh ông ấy.

    Ở trong ba cõi mà không hiện thân ý trong ba cõi, đó chính là yên định. Không khởi Diệt tận định mà hiện các oai nghi, hay dù hiện các oai nghi nhưng không rời Diệt tận định, tức không rời khỏi định, có đi lại nhưng vẫn định, đó mới là yên, không phải chỉ một bề ngồi. Quan trọng là tâm không dính mắc tất cả, ngay trong động mà không dính mới thật yên định. Khi thân ngồi yên thì tâm cũng yên theo, nhưng khi đi ra lại động trở lại, đó là không thật yên định.

    Tâm đi qua tất cả, không dính một cái gì mới là chỗ đạo thường trôi chảy.

    Hòa thượng dạy: “Mắt thấy sắc là chân tâm, tai nghe tiếng là chân tâm, thân biết xúc chạm là chân tâm, mũi biết ngửi mùi là chân tâm, lưỡi biết nếm vị là chân tâm, ý biết pháp là chân tâm”. Thấy nghe hiểu biết, đi qua tất cả nhưng luôn nhớ không rời khỏi chân tâm tức là trôi chảy. Thấy nghe hiểu biết mà trôi chảy, không dính một trần nào thì chân tâm hiện tiền, đây gọi là đạo hiện tiền.

    Ý nghĩa tu hành nếu hiểu rồi sẽ thông suốt không nghi ngờ. Chúng ta tu là tập cho tâm đi qua mọi thứ, không dừng, không trụ, không ngưng trệ một pháp hay một chỗ nào thì đạo hiện tiền, sáng tỏ, không mê. Vừa ngưng trệ chỗ nào, trụ trong đó, ngay đó liền mê. Nắm vững yếu chỉ đó là biết tu hành, không còn sợ lạc.

    Này thiện tri thức! Lại có người dạy ngồi “khán tâm quán tịnh” chẳng động, chẳng khởi, từ đó đặt thành công phu. Người mê chẳng hiểu liền chấp thành điên đảo. Người như trên đây rất đông, dạy nhau như thế, nên biết là lầm to.

    Đường lối của Lục Tổ dạy không chấp nhận ngồi khán tâm quán tịnh. “Khán tâm quán tịnh” tức ngồi xem xét tâm niệm cho dừng trụ chẳng động, lấy chỗ tịnh làm công phu, đó cũng là phương tiện theo thứ lớp, còn ở trong động-tịnh, bỏ động về tịnh. Lục Tổ muốn khai thị chỉ thẳng tự tánh chân thật là bản tánh sẵn tịnh nên đường lối của Tổ gọi là Đốn giáo.

    Lại, khán tâm tức đem tâm biến thành đối tượng cho ta khán. Quán tịnh tức đem tịnh làm chỗ trụ để hướng đến chỗ chẳng động chẳng khởi, lấy đó làm công phu liền kẹt vào đó. Đem tịnh làm chỗ trụ, thì tịnh đó cũng thuộc về cảnh. Người tu không khéo dễ mắc kẹt, nhất là người mới tu, bởi tâm động quá nên khi ngồi ai cũng muốn tịnh. Nhưng tịnh do bỏ động về tịnh thì tịnh đó là cái bị quán, thuộc về cảnh tịnh, đối tượng tịnh, chưa phải tự tánh tịnh, khi hết sức định liền động trở lại. Thế nên, nếu lấy đó làm chỗ công phu, rồi bám trụ vào đó sẽ bị chướng ngại.

    Vì thế, Lục Tổ chỉ thẳng con đường tiến lên. Tổ nói rằng không rõ biết bản tánh hay bản tâm vốn là tịnh, lại khởi lên tâm quán tịnh liền thành động, trái với bản tâm thanh tịnh. Chấp theo đó thành điên đảo, trái với lý rốt ráo chân thật, không khéo rơi vào thiền chết giống như cây khô. Đây là ngăn ngừa để người tu không lầm trong đó.

    Này thiện tri thức! Định Huệ giống như những gì? Giống như ngọn đèn và ánh sáng. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không ngọn đèn tức tối. Ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn. Tên tuy có hai, thể vốn là một. Pháp Định Huệ này cũng lại như thế.

    Lục Tổ dùng ngọn đèn và ánh sáng làm thí dụ cho nghĩa định huệ không hai. Có ngọn đèn tức có ánh sáng, không ngọn đèn thì tối, ngọn đèn và ánh sáng không thể tách rời thành hai thứ riêng biệt. Nếu tách riêng ngọn đèn và ánh sáng, có ngọn đèn mà không có ánh sáng thì không còn là ngọn đèn, hoặc tách ánh sáng ra khỏi ngọn đèn cũng không thành ánh sáng được. Ngọn đèn là thể của ánh sáng, ánh sáng là dụng của ngọn đèn, nếu tách ra thì thành có thể không dụng, hoặc có dụng không thể.

    Cũng vậy, định là thể của huệ, huệ là dụng của định. Nếu tách định huệ thành hai là có thể không có dụng, hoặc có dụng không có thể. Nhưng người hay lầm chỗ đó, nói định trước huệ sau, huệ trước định sau tức là tách định huệ thành hai, là thể riêng dụng riêng.

    Định Huệ gọi là “hai trong một”, tuy tên là hai nhưng đồng một thể. Thấu suốt được nghĩa “hai trong một” này mới thấy tột được nghĩa định huệ. Vì người thường sống quen theo tình phân biệt nên luôn phân tích định huệ thành ra dễ mắc kẹt. Lục Tổ phá chấp cho, để người thấy trở lại chỗ gốc chân thật khiến công phu của chúng ta sẽ tiến đều.

    Này thiện tri thức! Chánh giáo xưa nay không có đốn tiệm, chỉ tánh người có bén lụt. Người mê dần dần khế hợp, người ngộ thì chóng tu. Tự biết bản tâm, tự thấy bản tánh, tức không có sai khác. Do đó lập cái tên giả “đốn-tiệm”.

    Nên nhớ, đốn-tiệm cũng là tên giả nhưng người hay mắc kẹt trong đó. Do phân biệt quen nên theo tên rồi chấp thành thật có. Từ đó có tôi tu đốn anh tu tiệm, anh dở hơn tôi, thành ngăn ngại. Lục Tổ nói, đó chỉ là cái tên phương tiện giả lập. Bởi căn tánh của mỗi người không đồng nhau, có người bén nhạy, có người chậm lụt, nếu dạy như nhau sẽ không thích hợp. Người chậm lụt chưa đủ khả năng đi nhanh thì dạy đi từ từ, người bén nhạy có khả năng đi nhanh thì dạy cho đi nhanh. Do căn cơ người có sai biệt nên phương tiện nói pháp có đốn tiệm để thích hợp với từng căn tánh. Nhưng nếu người nhận rõ bản tâm, bản tánh ngay chính mình thì thể đó vốn không hai, không có đốn-tiệm. Người đốn, người tiệm khi nhận ra thì không hai, sao lại chia ra thành ngăn cách! Không vì cái tên đốn-tiệm mà chia thành đây-kia rồi chướng ngại với nhau. Pháp không có chướng ngại, do tâm ta chia đây-kia thành chướng ngại.

    Trọng yếu là tự nhận ra bản tâm bản tánh chính mình, không nên mắc kẹt trên cái tên đốn-tiệm. Nhận ra bản tâm bản tánh chính mình là vượt qua tên đốn-tiệm. Khi ấy, nói đốn-tiệm đó chỉ là trò chơi chữ, tỏ ngộ tâm tánh rồi là ở bên kia của những trò chơi chữ đó. Đây là chỗ Lục Tổ muốn chỉ dạy, cũng là chỗ hành giả cần phải thấu triệt, thấu triệt đó mới thấu được đến lý rốt ráo chân thật, còn mắc kẹt trên đốn tiệm là còn trên phương tiện.

    Này thiện tri thức! Pháp môn của ta đây, từ trước đến nay, trước lập “Vô niệm” làm tông, “Vô tướng” làm thể, “Vô trụ” làm gốc. Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng. Vô niệm là nơi niệm mà không niệm. Vô trụ là bản tánh của người đối với việc thiện ác, tốt xấu của thế gian, cho đến oán thân, lúc nói năng, động chạm, tranh đua v.v... đều đưa vào KHÔNG, chẳng nghĩ đáp hại lại, trong mỗi niệm chẳng nghĩ nhớ cảnh trước. Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm tiếp nối nhau không gián đoạn, gọi là trói buộc. Ở trên các pháp, niệm niệm chẳng dừng trụ tức không trói. Đây là lấy Vô Trụ làm Gốc.

    Đây là tôn chỉ Tam Vô của Lục Tổ. “Vô tướng là nơi tướng mà lìa tướng”. Thông thường nghe nói vô tướng là hiểu không có tướng rồi phá bỏ tướng, diệt các tướng thành vô, đó không phải là ý của Lục Tổ dạy. Tổ dạy “Vô nghĩa là ở ngay tướng mà lìa tướng, không mắc kẹt nơi có-không. Cũng vậy, “Vô niệm là nơi niệm mà không niệm”. Ngay nơi niệm mà không niệm chứ không phải diệt niệm thành không niệm. Bởi nếu diệt niệm thành vô thì đã sanh niệm khác để diệt niệm này, niệm này diệt thì niệm khác sanh. Không khéo lại mắc kẹt theo nghĩa đoạn diệt dứt hết niệm là nghiêng một bên.

    “Vô trụ làm gốc”, là nói thẳng vào bản tánh của người xưa nay vốn là rỗng không, không dính với các niệm thiện ác, tốt xấu, oán thân, hơn thua, yêu ghét v.v... Bản tánh vốn tự không, không phải chúng ta làm thành không. Chính chúng ta không chịu ở trong cái Không đó mà lại gây rắc rối, khởi vọng tưởng. Mọi sai biệt rắc rối đều do tưởng, mà tưởng thì không có thật, cho nên khi giác ngộ liền hết tưởng, trở về bản tánh vốn tự thanh tịnh rỗng không, không phải phá cho thành không.

    Không trụ vào tất cả thì tâm hợp trở về gốc. Có trụ thì có dính mắc, không trụ tức đi qua tất cả mà không dừng lại một pháp nào, vậy đâu có vấn đề gì! Chúng ta có vấn đề là vì dừng trụ tức dính mắc, thấy cảnh trụ ngay cảnh rồi phân biệt, dính cảnh tức bị chướng ngại. Rồi lại đổ lỗi do cảnh làm ngại, và muốn phá bỏ cảnh, nhưng phá bỏ cảnh này lại dính cảnh kia, bởi cái tâm trụ chưa “vô”. Nếu tâm không trụ thì đi qua tất cả, dù cảnh trước mắt nhưng tâm vẫn an nhàn rỗng rang, không phải phá bỏ thành rỗng, người tu phải hiểu kỹ, không khéo bị lầm.

    Lục Tổ nói: “Trong mỗi niệm chẳng nghĩ nhớ cảnh trước”. Tức không dính với cảnh trước, liền được rỗng rang thanh tịnh, đó là trở về gốc của tất cả. Lấy đây làm gốc sẽ thông suốt tất cả pháp đều vô ngại. Trái lại, “Nếu niệm trước, niệm nay, niệm sau, niệm niệm tiếp nối nhau không gián đoạn”. Tức có trụ có dính, tâm luôn nghĩ nhớ đến cảnh, đến duyên, nên luôn luôn tương tục sanh diệt theo duyên, thành trói buộc, ngăn ngại.

    Nếu, “Ở trên các pháp, niệm niệm chẳng dừng trụ tức không trói”. Tức mỗi niệm mỗi niệm đi qua tất cả, không có dừng trụ pháp nào thì không có pháp nào trói, không trói tức giải thoát. Giải thoát này mới thực tế, là tâm giải thoát đi qua tất cả cảnh. Chúng ta cầu giải thoát thế này thế kia nhưng tâm dính cảnh mãi thì không thể có giải thoát. Nghĩ giải thoát ở cảnh giới nào đó, cầu lên cảnh giới đó để giải thoát, nhưng còn có cảnh giới thì còn có trói vào cảnh giới đó. Chỉ tâm không dính, không trụ vào cảnh giới nào tức là giải thoát, đó là “tâm giải thoát”.

    Giải thoát này ở bên kia những ngôn ngữ luận bàn, bên kia những trò chơi chữ. Bởi luận bàn không đến được, Tinh thần Vô trụ này rất trọng yếu. Như trong kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy pháp an tâm cũng là Vô trụ, không có chỗ trụ mà sanh tâm kia. Không trụ sắc, không trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, không trụ vào tất cả, đó chính an tâm.

    Không trụ thì không có cảnh nào làm loạn tâm, ngay đó an tâm chứ gì! Thế nên gọi Vô trụ tức an trụ, trụ tức là bất an. Thế gian trụ là đứng yên, là an định nhưng ở đây ngược lại, không trụ mới là an. Không trụ vào tất cả tức là an trụ, chúng ta nắm vững yếu chỉ này để tu hành, làm tất cả những việc phước thiện, Phật sự đều thông suốt. Làm tất cả phước đức mà không trụ vào phước đức mới là chân thật phước đức. Làm Phật sự hay tu hành, giữ giới cũng vậy, giữ giới mà trụ vào giữ giới là mắc kẹt, cũng là dính, thiền định mà trụ vào thiền định cũng dính, cũng có ngại. Không trụ, đó mới thật giải thoát, thật an trụ. Chúng ta ứng dụng Vô trụ vào tất cả việc làm, thì làm tất cả đều giải thoát, không sanh vấn đề. Trái lại, vừa có trụ là sanh vấn đề, nên nói lấy Vô trụ làm gốc.

    Này thiện tri thức! Ngoài lìa tất cả tướng, gọi là Vô tướng. Hay lìa nơi tướng tức pháp thể thanh tịnh. Đây là lấy Vô Tướng làm Thể.

    Người thế gian thì “thể” phải có “tướng”. Tổ dạy lấy “vô tướng” làm “thể”, không phải lấy tướng này tướng kia làm thể. Vô tướng đây, là đối tất cả tướng mà lìa tướng, không dính mắc nơi tướng, tức thể thường thanh tịnh. Chúng ta chấp tướng là có dính có nhiễm, còn lìa tướng thì không dính không nhiễm, không có gì che mờ, tức thanh tịnh, lấy đó làm thể thì bảo đảm không có lo buồn, phiền não. Đây không phải phá hoại các tướng, mà chính ngay nơi thấy nghe tất cả tướng nhưng tâm lìa tất cả tướng, không dính nơi tướng thì thể thanh tịnh lộ bày, không có gì dối gạt được, đó mới là thể chân thật, không có gì trộn lẫn vào đó. Người khéo tu, lấy đó làm thể mới là chỗ chân thật nương tựa. Bởi có tướng tất nhiên sẽ biến hoại vì thuộc vô thường. Lìa tướng thì lấy gì để biến hoại, đó mới là thể thật.

    Này thiện tri thức! Ở trên các cảnh mà tâm chẳng nhiễm là Vô niệm. Ở trên niệm của chính mình mà thường lìa các cảnh, chẳng ở trên cảnh sanh tâm. Nếu chỉ trăm vật chẳng nghĩ, trừ sạch hết niệm, một niệm dứt bặt liền chết, thọ sanh vào chỗ khác, đó là lầm to. Người học đạo hãy nhớ kỹ! Nếu chẳng biết ý của pháp, tự mình lầm còn được, lại khuyên người khác, tự mình mê chẳng thấy, lại chê bai kinh Phật. Do đó lập Vô Niệm làm Tông.

    Tông là yếu chỉ, then chốt tu hành. Người nghe nói Vô niệm nghĩ phải dứt tất cả niệm không còn gì, nên khi ngồi thiền thường đè niệm không cho khởi, giống như cây khô, không còn biết gì, nhiều người lầm chỗ đó. Cho nên phải hiểu thế nào là Vô niệm đúng nghĩa, đúng ý Tổ. Đây là điểm quan trọng, người học phải hiểu thật kỹ.

    Lục Tổ chỉ rõ ở trên cảnh mà tâm chẳng nhiễm là vô niệm, cũng như trên niệm mà tâm thường lìa cảnh, không dính nơi cảnh là vô niệm. Không phải chúng ta trốn bỏ cảnh, chạy trốn nơi đâu cho khỏi cảnh? Trên núi cũng còn cảnh, cho đến nhắm mắt cũng còn, không có cảnh trước mắt nhưng còn trong tư tưởng, vậy trốn đâu cho khỏi? Chỉ ngay nơi cảnh mà lìa cảnh, tức tâm không dính cảnh, ngay nơi niệm mà lìa niệm, tránh ở trên cảnh sanh tâm. Thấy cảnh nhưng tâm lìa cảnh thì không có vấn đề gì, đó là ý nghĩa vô niệm.

    Thế nên, Vô niệm không phải phá cảnh, không còn biết gì, mà chính ngay nơi cảnh, thấy rõ các cảnh nhưng tâm không nhiễm, không ở trên đó sanh tâm, thấy cảnh mà tâm không có xen vào. Người thường có bệnh xen vào cảnh thành rắc rối. Đôi khi không đáng, không phải việc của ta mà cũng xen vào. Tu hành là ngay chỗ đó, đừng xen vào, thấy cảnh là cảnh thôi, không xen vào thì không có chuyện gì. Gốc của bệnh là từ đâu? Từ cái “tôi”. Vì muốn “có cái tôi” này chen vào, không thì chịu không được. Khi xen vào thành động niệm, động niệm thì mất mình theo cảnh, bị cảnh chuyển.

    Tôn chỉ tu hành đơn giản là cảnh trả về cho cảnh, tâm tự nó là tâm. Vậy là làm chủ trở lại chính mình, không nô lệ theo cảnh. Tâm không sanh, không khởi niệm thì cảnh có cũng như không, không làm gì được. Vậy nên không cần phải phá bỏ cảnh mà vẫn tự tại, như như. Cũng không phải diệt hết niệm, không cho biết gì. Biết tất cả nhưng đừng xen vào, tâm tự nó ở ngay vị trí của nó, đừng đổi vị trí.

    Chúng ta thường sợ niệm nên muốn diệt niệm, sợ niệm sanh, bởi không hiểu thấu được bản chất thật của niệm. Niệm từ đâu khởi? Thường nói niệm từ cảnh khởi, nhưng thật sự niệm từ Tâm khởi, ngoài Tâm không có niệm khởi. Niệm đã từ Tâm khởi nên khi tan cũng trở về Tâm. Dù trăm ngàn niệm niệm khởi cũng không ra khỏi ngoài Tâm, giống như sóng và nước. Sóng từ nước biển khởi lên rồi cũng tan trở về nước biển, không có tự thể riêng của nó, trăm ngàn lượn sóng nhưng không có lượn sóng nào đi ra khỏi nước biển, ra ngoài nước biển thì không còn là sóng. Niệm cũng vậy, ra khỏi Tâm thì không còn là niệm. Thấu rõ chỗ này không phải tách nó ra thành hai. Bởi chúng ta mê nên tách ra thành hai, có ta, có niệm, ta khởi niệm, ta muốn dừng niệm.

    Hiểu được chỗ niệm không rời tâm thì thấy tu hành rất lý thú. Cũng như vọng tưởng là những bóng dáng của các trần tướng, ẩn hiện trong tâm, không thật có, như bóng trong gương, dù hàng nghìn, hàng triệu bóng trong gương, nhưng không có bóng nào đi ra ngoài gương thành cái bóng riêng, thể riêng. Muốn diệt bóng thì diệt làm sao? Chỉ biết nó là bóng, không lầm với mặt gương, chúng ta nhớ mặt gương, không nên nhớ bóng, đó là chỗ tu hành. Nếu chỉ nhớ bóng, quên mặt gương là mê.

    Thấu được chỗ này thì không thể tách rời thành hai mà thành thật có sanh, thật có diệt rồi muốn trừ nó, đó là chỗ vi tế, khó thấy. Thấy rõ chỗ đó thì giải tỏa được lầm mê. Lục Tổ dạy: “Người học đạo hãy nhớ kỹ, nếu chẳng biết ý của pháp, tự mình lầm còn được, lại khuyên người khác, tự mình mê chẳng thấy lại chê bai kinh Phật”. Ngài lập Vô niệm làm tông là để cho chúng ta nắm rõ được yếu chỉ tu hành, khỏi phải mình lầm rồi làm lầm cho người nữa.

    Này thiện tri thức! Thế nào là lập Vô Niệm làm Tông? Chỉ vì miệng nói thấy tánh, người mê ở trên cảnh có niệm, trên niệm liền khởi tà kiến, tất cả trần lao vọng tưởng từ đây mà sanh. Tự tánh vốn không có một pháp có thể được, nếu có chỗ được, vọng nói họa phước, tức là trần lao tà kiến, nên pháp môn này lập Vô Niệm làm Tông.

    Tổ ngăn ngừa người nói trên miệng mà không làm. Miệng nói thấy tánh mà trong tâm thường mê, ở trên cảnh khởi niệm, trên niệm khởi tà kiến nên đi lệch ra ngoài, từ đó kéo theo bao nhiêu thứ trần lao vọng tưởng khởi theo, thành che mờ cả chân tánh xưa nay, không còn biết đâu là thật. Sống như thế là sống trong hư vọng, theo niệm khởi, quên mất chính mình, xa rời cội gốc chân thật. Nhưng cội gốc chân thật ở đâu? Cũng ngay đó. Niệm khởi cũng từ tâm khởi, tức không rời khỏi tâm, cội gốc chân thật cũng ở ngay đó. Chân thật là thể của niệm, nhưng niệm khởi theo cảnh rồi nhớ theo cảnh mà quên mất chính nó thành mê. Nếu quên cảnh nhớ trở lại là đốn ngộ. Bởi tự tánh vốn không một vật, không một pháp có thể tồn tại trong đó thì có chỗ nào để được, để khởi, khởi đó chỉ là vọng khởi. Người vừa thấy có “được” thì vọng có các thứ, tức che mờ chân thật, đó là lỗi có niệm.

    Do đó Tổ lập Vô niệm làm tông để nhắc người tu phải tỉnh biết trở lại để không lầm theo các niệm khởi, hay các thứ vọng sanh rồi quên mất gốc vô sanh. Gốc vô sanh nhưng chúng ta hiện đang sống theo cái vọng sanh, lại quá quan trọng nó nên không dám bỏ. Bởi đã sống với cái vọng sanh lâu quá thành quen, làm bạn với nó nhiều đời, giờ xem nó cũng như ta. Tu hành là phải nhờ ánh sáng chánh pháp soi lại để nó lạ dần, mà làm quen trở lại với chính mình. Chính mình mà giờ phải làm quen trở lại, thấy đau đớn không? Nhưng tu là phải vậy.

    Có học Phật, có tu tập mới thấy được những lầm mê lâu nay của chúng ta. Người học nhiều kinh điển, học về vô minh, mê lầm, nói vô minh là thế này thế kia, nhưng không ngờ vô minh, mê lầm ở ngay trước mặt lại không hay biết. Chúng ta phải thấy trở lại chỗ này, ngay chỗ vọng sanh, rõ trở lại gốc vô sanh của nó, đừng theo nó vọng sanh mãi.

    Này thiện tri thức! Vô, là vô việc gì? Niệm, là niệm vật gì? Vô là không có hai tướng, không các tâm trần lao. Niệm là niệm bản tánh chân như. Chân như là thể của niệm. Niệm là dụng của chân như. Tự tánh chân như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi hay niệm. Chân như có tánh do đó khởi niệm. Nếu không có chân như thì mắt tai, sắc thanh ngay đó liền hoại.

    Lục Tổ dạy: “Vô là không có hai tướng, không có các tâm trần lao; Niệm là niệm bản tánh chân như. Chân như là thể của niệm, niệm là dụng của chân như”. Vậy thì làm sao diệt niệm? Chân như là thể của niệm, diệt niệm là diệt chân như! Chân như và niệm như nước và sóng, không thể diệt. Quan trọng là phải thấy đúng như thật bản tánh của nó để không lầm. Nhưng chỗ này người học phải khéo nghiệm kỹ, nghe theo chữ nghĩa thì dễ lầm. Niệm bản tánh chân như là niệm như thế nào? Có người nói lấy chân như làm chỗ để niệm. Niệm như thế là mất chân như, bởi lấy chân như làm thành đối tượng cho chúng ta niệm.

    Học thiền khác với học trường lớp, phải đạt ý quên lời, không phải chỉ theo chữ nghĩa mà giải. Tổ dạy “vô” là không có hai tướng, tức không theo tướng phân biệt đối đãi, không theo các duyên. Niệm là niệm bản tánh chân như, là không quên bản tánh của chính nó, tức là niệm không tách rời bản thể chân như nên gọi là niệm chân như, không phải đem chân như ra để niệm. Nhớ kỹ, thể của niệm là chân như nên nó không tách rời chân như, ngay đó chúng ta thầm nhớ lại, thầm khế hợp chính bản thể của nó, không phải đem niệm tách ra khỏi chân như để niệm. Ví như sóng khởi lên từ biển, khi tan thì trở về biển, không tách rời biển riêng có sóng. Niệm không tách rời chân như cũng như vậy.

    “Tự tánh chân như khởi niệm, chẳng phải mắt tai mũi lưỡi hay khởi niệm, chân như có tánh do đó khởi niệm”. Chỗ này phải hiểu kỹ, chân như khởi niệm thì sao? Khởi niệm là sanh diệt, chân như khởi niệm thì chân như thành sanh diệt hay sao? Chỗ này cũng không thể hiểu trên chữ nghĩa.

    Nghe nói chân như có tánh, chúng ta hiểu chân như có tự ngã giống một vật có thể nắm bắt được, đó là lầm. Đây muốn chỉ chân như không phải thứ rỗng suông trên chữ nghĩa, không phải như lông rùa sừng thỏ, có tên mà không có thật, không thể chứng biết được. Chân như, nếu tu hành thật sự thì có thể chứng biết được rõ ràng không nghi ngờ, từ đó có đầy diệu dụng. Niệm chỉ là tướng vọng khởi, không có thực thể riêng, không có dụng riêng, nó lấy chân như làm thể nên không rời khỏi chân như.

    Hiểu như thế thì có thể có dụng đầy đủ, không nghiêng lệch một bên. Người thường sống nghiêng bên niệm, quên mất chân như, tức nghiêng bên dụng mà không có thể. Người tu hành sáng đạo thì làm gì cũng từ nơi tự tánh chân như mà hiện khởi, không rời khỏi tự tánh chân như, thấy nghe mà không rời khỏi tự tánh chân như thì không có mê. Chúng ta thấy nghe mà rời khỏi tự tánh chân như, chỉ nhớ đến cảnh nên mê, đó là có dụng không có thể. Sống có dụng có thể đầy đủ rõ ràng là thấy nghe luôn luôn sáng tỏ, tự tánh chân như luôn hiện tiền không chỗ nào thiếu, vậy thì không có chỗ nào mê. Tuy thấy nghe mà lìa cảnh, vì có tự tánh chân như trong đó. Chúng ta không có nên chỉ nhớ cảnh, tách rời tự tánh chân như, đi theo cảnh. Nói tách rời cũng chỉ là tạm nói chứ không thật tách, nếu tách được là chết rồi, Tổ nói: “Nếu không có chân như thì mắt tai, sắc thanh ngay đó liền hoại”. Chúng ta phải hiểu thật kỹ, thật thấu đáo chỗ đó.

    Nếu nghe nói chân như khởi niệm rồi hiểu chân như cũng có động niệm, hiểu vậy là lầm. Chính chỗ này là ý sâu xa, ngầm chỉ “niệm không có thật thể” riêng của nó. Niệm từ chân như mà khởi thì nó không có thực thể, không rời chân như riêng có. Cũng như sóng từ nước, không có tự thể riêng của sóng. Người khéo tu ngay đó ngộ trở lại thì thể chân như đầy đủ không thiếu, không lầm theo niệm, chỉ như trở bàn tay, tinh thần Đốn ngộ là chỗ đó. Nói mê nói ngộ, chúng ta tưởng có hai, nhưng sự thật không phải vậy. Mê là mê cái ngộ, ngộ là ngộ cái mê. Nói cách khác, mê là mê cái giác, giác là giác cái mê. Thể giác mà không giác được thì mê, giác lại thì hết mê, không có gì khác. Người lầm theo tên, tưởng có hai, do đó bỏ mê cầu ngộ hoặc bỏ mê tìm giác, nên tìm mãi cũng không thấy giác. Ý nghĩa chân thật là như vậy.

    Này thiện tri thức! Tự tánh chân như khởi niệm, tuy có sáu căn thấy nghe cảm biết mà chẳng nhiễm muôn cảnh, thì chân tánh thường tự tại. Nên kinh nói: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp, đối nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động”.

    Nếu người thật sống được trong tự tánh chân như, từ đó ứng dụng ra thì thấy nghe cảm biết đều thành diệu dụng. Tức từ tự tánh chân như ứng dụng ra thì cái gì cũng thành diệu dụng, cái gì cũng sáng ngời, vẫn thấy nghe nhưng không mê, không nhiễm. Chúng ta cũng từ tánh chân như khởi nhưng lại không thành diệu mà thành vọng, nên thấy nghe thì mê, chỉ sai khác chỗ đó. Nếu tự tánh chân như ứng dụng ra đều thành diệu dụng, thì đối với tất cả muôn cảnh, thấy nghe đều tự tại sáng ngời.

    Câu  “Tự tánh chân như khởi niệm”, vậy thì niệm là diệu dụng của chân như, tức tự tánh dụng, không có mê. Thế thì niệm cũng không thành niệm, tùy theo thế tục mà gọi niệm cho người dễ hiểu. Đừng nghe nói niệm rồi hiểu theo thế tục. Nhiều người nghe như thế, nói các bậc Hiền Thánh cũng khởi niệm như chúng ta, đó là lầm. Phải hiểu ý, tùy theo ngôn ngữ thế tục nên tạm gọi niệm để gợi ý cho người thầm cảm thông trở lại. Tức là không phá hoại các pháp, mà hiển bày thật tướng các pháp, vẫn thấy nghe nhưng không mê.

    Tổ dẫn kinh Duy Ma Cật: “Hay khéo phân biệt tướng các pháp, mà nơi nghĩa đệ nhất vẫn chẳng động”. Phân biệt tướng các pháp mà vẫn không rời khỏi nghĩa đệ nhất, tức không rời khỏi tự tánh chân như, vậy lúc nào chân như cũng luôn hiện tiền. Như vậy, Vô niệm không phải hoàn toàn diệt hết niệm, cũng không phải sanh khởi theo niệm, mà lúc nào tâm cũng thường sáng ngời không mê, không có cái gì gạt được, đó mới đúng nghĩa Vô niệm.

    Vô niệm làm tông, tức tông chỉ tu hành là chỗ đó. Hiểu rõ được chỗ này, tu hành theo thì con đường giải thoát sanh tử ngay nơi ta. Khi còn niệm là còn sanh tử, vô niệm thì không có chỗ cho sanh tử bám. Yếu chỉ tu hành rõ ràng sáng sủa không có gì phải nghi ngờ.

    ***

  • 6. Phẩm 04 - CHỈ DẠY TỌA THIỀN

     

    CHÁNH VĂN:

    Sư dạy chúng:

    - Này thiện tri thức! Sao gọi là tọa thiền? Trong pháp môn này không ngăn, không ngại. Bên ngoài đối tất cả cảnh giới thiện ác, tâm niệm chẳng dấy lên gọi là Tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là Thiền.

    Này thiện tri thức! Sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định. Nếu ngoài dính tướng, trong tâm liền loạn. Nếu ngoài lìa tướng, tâm ắt chẳng loạn. Bản tánh vốn tự tịnh, tự định, chỉ vì thấy cảnh rồi nghĩ nhớ cảnh liền loạn. Nếu thấy các cảnh, tâm chẳng loạn, đó là chân định. 

    Này thiện tri thức! Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định. Ngoài thiền, trong định đó là thiền định. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”. Trong kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh”.

    Này thiện tri thức! Ở trong mỗi niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo.

    Nhưng môn tọa thiền này vốn chẳng dính mắc tâm, cũng chẳng dính mắc tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói dính mắc tâm thì tâm vốn là vọng, biết tâm như huyễn nên không chỗ để dính mắc. Nếu nói dính mắc tịnh thì tánh người sẵn tịnh, do vọng niệm nên che lấp chân như. Chỉ không vọng tuởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm dính tịnh, lại sanh cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, dính mắc đó là vọng. Tịnh không có hình tướng, lại lập ra tướng tịnh nói là công phu. Người khởi cái thấy này, tự làm ngăn ngại bản tánh của mình, lại bị cái tịnh trói. 

    Này thiện tri thức! Nếu người tu chẳng động, chỉ khi thấy tất cả người, mà chẳng thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người, chính đó là tự tánh chẳng động.

    Này thiện tri thức! Người mê dù thân chẳng động mà mở miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người thì trái ngược với đạo. Nếu dính mắc tâm, dính mắc tịnh, là ngăn ngại đạo.

     

    GIẢNG: 

    Sư dạy chúng:

    - Này thiện tri thức! Sao gọi là tọa thiền? Trong pháp môn này không ngăn, không ngại. Bên ngoài đối tất cả cảnh giới thiện ác, tâm niệm chẳng dấy lên gọi là Tọa, bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là Thiền.

    Lục Tổ dạy tọa thiền không phải cố chấp trên hình tướng ngồi. “Bên ngoài đối tất cả cảnh giới thiện ác mà tâm niệm chẳng dấy lên gọi là Tọa”. Không phải ngồi yên gọi là tọa, bởi có khi thân ngồi yên nhưng tâm không yên thì cũng chưa phải thật là tọa, thân ngồi nhưng tâm đi đâu, thành ra chưa đúng nghĩa ngồi. Lục Tổ dạy ngay nơi tâm niệm đối với tất cả cảnh giới thiện ác bên ngoài chẳng dấy khởi, chẳng duyên theo, chính ngay đó mới đúng nghĩa là ngồi yên tại chỗ. Còn thân ngồi mà tâm đi ra ngoài cảnh, duyên theo cảnh thì không phải thật ngồi.

    “Bên trong thấy tự tánh chẳng động gọi là Thiền”. Nghĩa là đối bên trong, thấy rõ được tự tánh chẳng động của mình, không chìm trong mê mờ. Như vậy ngoài chẳng bị cảnh làm loạn, trong chẳng bị tâm làm mê, vậy là trong ngoài đều an lành, sáng suốt. Tọa thiền đúng như vậy mới chuyển được mê lầm thành chánh giác. Còn không biết, chấp vào ngồi yên rồi mê mê tuy thấy thân yên nhưng tâm mờ hoặc tâm loạn.

    Này thiện tri thức! Sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định. Nếu ngoài dính tướng, trong tâm liền loạn. Nếu ngoài lìa tướng, tâm ắt chẳng loạn. Bản tánh vốn tự tịnh, tự định, chỉ vì thấy cảnh rồi nghĩ nhớ cảnh liền loạn. Nếu thấy các cảnh, tâm chẳng loạn, đó là chân định.

    Định này gọi là định chân thật, thấy cảnh mà tâm không loạn, gọi là đối cảnh vô tâm. Đối với cảnh bên ngoài nhưng lìa tướng, không dính nơi tướng, không duyên theo tướng tức không bị tướng làm mê; rồi đối với trong tâm lại chẳng loạn, ấy là thiền định hiện tiền. Sở dĩ tâm loạn là vì hướng ra ngoài, dính theo tướng. Lục Tổ dạy rõ: “Chỉ vì thấy cảnh rồi nghĩ nhớ cảnh liền loạn”. Thấy cảnh rồi nghĩ nhớ đến cảnh là dính tướng nên tâm loạn, tức tâm sanh theo cảnh mà quên mất chính mình, do đó “vọng” thành ra loạn động, che mờ bản tánh chân thật. Nhưng bản tánh vốn là tự tịnh, tự định, chúng ta không cần làm cho tịnh, cho định. Chỗ này người tu hay mắc kẹt, thường tu để làm cho định, mà bản tánh đã tự định, tự tịnh, chúng ta lại làm cho định nữa nên thành loạn động, gọi là sanh tâm tịnh thì thành động, đó là tâm tạo tác mà tạo tác là còn sanh diệt.

    Hiểu kỹ như vậy tuy tâm bị các “vọng loạn” che mờ nhưng vẫn không mất đi bản tánh tự tịnh, tự định, cái che mờ chỉ là “vọng” không thật. Nếu khéo soi trở lại, thôi nhớ theo các cảnh, không duyên theo cảnh thì tâm chẳng loạn, tự hợp trở về với bản tánh tự tịnh, tự định, đó mới gọi là chân định, không phải chúng ta làm cho nó thành tịnh, thành định.

    Cái định do chúng ta làm thành định, tức người tu tập có công phu mạnh mẽ, dùng công phu làm cho yên định, như thế cũng có được phần yên định nhưng đó là yên định tạm thời, khi công phu hết thì động trở lại, định đó không vững, không bền. Tự tánh định là tự tịnh, tự định, chúng ta chỉ trừ cái mê lầm, tâm không duyên theo, không sanh những hư vọng là hợp trở về bản tánh tự tịnh, tự định. Định này dù là đi đứng, qua lại cũng vẫn định, trong động vẫn định, đó là nghĩa định mà Lục Tổ dạy.

    Này thiện tri thức! Ngoài lìa tướng là Thiền, trong chẳng loạn là Định. Ngoài thiền, trong định đó là thiền định. Kinh Tịnh Danh nói: “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”. Trong kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh”.

    Thiền định ở đây không có đề mục, đối trước cảnh nhưng tâm không sanh, không dính theo tướng thì tâm tự chẳng loạn, ngay đó là định, không phải bỏ động về tịnh. Đây dẫn kinh Tịnh Danh (tức kinh Duy Ma Cật): “Liền đó hoát nhiên trở lại được bản tâm”. Hoát nhiên là bỗng ngay đó rỗng rang liền hợp trở về với bản tâm. Kinh Bồ Tát Giới nói: “Bản tánh của ta vốn tự thanh tịnh”. Tự mình khế hợp trở lại với bản tâm, nhận ra bản tánh vốn tự thanh tịnh không phải thêm cái mới, không phải làm ra. Hiểu như vậy để không lầm, không phải là chúng ta làm cho thanh tịnh mà bản tánh là tự thanh tịnh. Hoát nhiên trở lại cái sẵn có. Hoát nhiên ở đây là không phải tốn thời gian để làm thành, cũng không có tướng định cho chúng ta chấp. Có tướng định cho chúng ta chấp là cái định có tướng, thì thuộc về tạo tác, không bền.

    Này thiện tri thức! Ở trong mỗi niệm tự thấy bản tánh thanh tịnh, tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo.

    Đây, Tu là ngay trong mỗi tâm niệm, tự thấy nơi bản tánh thanh tịnh của chính mình chứ không đâu xa. Thành Phật đạo cũng ở ngay trong tâm, không phải cầu bên ngoài. Tức là ngay trong mỗi niệm hiện tiền luôn tự thấy bản tánh thanh tịnh, thấy bản tánh thanh tịnh thì không bị niệm làm mê, bởi bản tánh thanh tịnh lúc nào cũng sẵn thanh tịnh, không lúc nào không thanh tịnh. Ngay nơi mỗi niệm soi trở lại không dính theo tướng, tự thấy rõ ràng trong đó sẵn đủ thanh tịnh như vậy. Đó là chỗ tự tu, tự hành, tự thành Phật đạo, không phải ai tu dùm cho chúng ta, cũng không phải ai thành cho chúng ta, cũng không phải hướng bên ngoài tìm cầu. Mỗi niệm mỗi niệm, tự mình phải tu rồi tự mình thấy.

    Vì chúng ta mê, không thấy thấu suốt được nên bị vọng khởi dẫn đi thành bị chuyển. Sự thật, nếu hiểu thấu đáo, tuy mỗi niệm có vọng khởi nhưng cũng không đi ra khỏi bản tánh xưa nay, không làm mất cái chân thật, bởi nó chỉ là vọng. Giống như biển dậy sóng nhưng không có lượn sóng nào đi ra khỏi mặt biển. Bao nhiêu vọng niệm của chúng ta cũng vậy, dù bao nhiêu vọng niệm nhưng cũng không đi ra khỏi bản tánh xưa nay. Tại sao chúng ta lại nhớ theo vọng niệm mà quên mất bản tánh xưa nay, đó là chỗ điên đảo lầm mê. Nếu nhớ trở lại bản tánh thì tất cả vọng niệm đâu thành vấn đề gì. Sóng từ biển khởi lên rồi cũng tan trở lại biển. Cũng vậy, vọng niệm từ bản tánh xưa nay do mê nên vọng khởi, rồi cũng tan trở về trong bản tánh chứ không đi đâu. Thế nên nói tu là dứt vọng, trừ vọng chỉ là một lối nói, thật sự thì không trừ bỏ đi đâu. Tức là vọng khởi không đi ra ngoài bản tánh, khi ngộ rồi vọng đó tan trở về bản tánh, vậy thôi. Đây chính là giáo lý sâu xa mà Lục Tổ muốn khai thị cho người học.

    Chúng ta học phải nhớ kỹ giáo lý này không ở trong ngôn ngữ bên ngoài, không ở trong trò chơi chữ, đừng đem trò chơi chữ mà lý luận trong đây. Phải khéo tự tu, tự hành rồi mới tự thành Phật đạo. Đây là tạm dùng ngôn ngữ để giúp chúng ta thấy trở lại đừng mắc kẹt trên ngôn ngữ.

    Nhưng môn tọa thiền này vốn chẳng dính mắc tâm, cũng chẳng dính mắc tịnh, cũng chẳng phải chẳng động. Nếu nói dính mắc tâm thì tâm vốn là vọng, biết tâm như huyễn nên không chỗ để dính mắc. Nếu nói dính mắc tịnh thì tánh người sẵn tịnh, do vọng niệm nên che lấp chân như. Chỉ không vọng tuởng thì tánh tự thanh tịnh. Khởi tâm dính tịnh, lại sanh cái tịnh vọng. Vọng không có chỗ nơi, dính mắc đó là vọng. Tịnh không có hình tướng, lại lập ra tướng tịnh nói là công phu. Người khởi cái thấy này, tự làm ngăn ngại bản tánh của mình, lại bị cái tịnh trói.

    Chỗ này nhiều người tu mắc kẹt. Bình thường sống trong động nên khi ngồi tu thì muốn được yên tịnh, đó là bị cái tịnh trói. Tức là không hiểu được bản tánh vốn thanh tịnh lại muốn làm cho được tịnh. Môn tọa thiền của Lục Tổ dạy vốn không dính mắc tâm, cũng không dính mắc tịnh, cũng không phải một bề bỏ cái động. Chữ “vốn” có ý nghĩa là không có cái thật tánh để dính mắc. Đã không có thật tánh để dính mắc thì tại sao chúng ta lại phải dính mắc rồi phải trừ thành ra lẩn quẩn. Nên nói: “Nếu nói dính mắc tâm, thì tâm đó vốn là vọng”. Mà vọng thì dính mắc cái gì! Cho nên: “Biết tâm như huyễn nên không chỗ để dính mắc”. Đó chỉ là “tưởng”, tưởng lầm rồi thành như bị dính chứ sự thật không có gì để dính. Chúng ta thường nghĩ tưởng rằng khi còn mê thì tâm bị dính mắc tức chấp tâm là thật, thấy tâm là thật nên thấy thật dính mắc, rồi nghĩ là thật trừ bỏ, cái nào cũng thật. Mà nếu thật thì làm sao trừ! Không làm sao trừ được, đã là thật thì dẹp chỗ này sẽ đến chỗ khác. Thật sự đó là vọng nên khi ngộ rồi thì tan hết. Đó là tự mình làm ngăn ngại mình mà không hay. Do đó, Lục Tổ chỉ rõ cái tâm mà ông cho là dính mắc vốn là vọng, do mê mà vọng khởi, là vọng khởi nên không có cái thật thể gì để có thể nắm bắt. Làm sao nắm bắt được tâm vọng đó? Gọi là tâm vọng thì không làm sao nắm bắt được, chỉ ngộ nó là xong. Cũng như người vật trong ti vi, có chỗ nào để dính mắc! Chỉ do chúng ta tưởng lầm, trừ cái tưởng lầm là xong. Nếu cố trừ người vật trong ti vi thì càng mê!

    Cũng vậy, nói dính mắc tịnh chỉ là một lối nói, không khéo lại lầm. Bản tánh vốn sẵn là tịnh còn có cái tịnh nào nữa để dính. Do vọng niệm che lấp chân như, che mất cái thật rồi tưởng là không tịnh, lại muốn lập thêm cái tịnh để tu, tức là lập thêm cái tịnh nữa cho mình dính. Đó là điên đảo, đã sẵn tịnh rồi mà không chịu tịnh, lập thêm cái tịnh nữa để dính. Nếu không vọng tưởng thì tánh tự thanh tịnh, đâu còn cái tịnh nào nữa để dính, cho nên chỉ quên vọng tưởng là xong. Khởi thêm một cái tịnh để dính gọi đó là tịnh vọng, đã là vọng thì có gì là ngại, là chướng mà lại mắc kẹt trong đó, đó là chỗ chúng ta cần sáng tỏ. Khởi thêm cái thấy tịnh là mê, là tự mình làm ngại mình, tự mình bị cái tịnh trói khiến quên mất bản tánh thanh tịnh, quên mất cái sẵn. Cái thanh tịnh của bản tánh không có hình tướng gì để dính mắc. Đây là chỗ người tu hành phải cẩn thận, đừng thấy tướng tịnh rồi mê theo tướng tịnh đó mà lầm.

    Ví như khi ngồi thiền, thấy chán những tướng động loạn, muốn dừng cho được yên tịnh trở lại, tịnh này là do dừng cái động kia, tức là tịnh đối với động mà có, đó gọi là tướng tịnh, tức tịnh thuộc về đối tượng để chúng ta nhận biết, chưa phải bản tánh thanh tịnh của chính mình. Nói kỹ hơn thì tịnh đó thuộc về trần chứ chưa phải cái thật, “động thuộc về sanh trần, tịnh thuộc về diệt trần”. Còn tự tánh tịnh thì dù cho trong động mà vẫn tịnh, gọi là thường tịnh.

    Hãy nhớ kỹ, tướng tịnh mà mình thấy được là tướng bị thấy, không phải bản tánh tịnh. Huống nữa là còn lập ra tướng tịnh làm thành công phu của mình, rồi bám vào đó cho là có sở đắc thì càng bị kẹt, bị trói. Thế nên, Lục Tổ nói: “Tịnh không có hình tướng, lại lập ra cái tướng tịnh nói là công phu. Người khởi cái thấy này tự làm ngăn ngại bản tánh của mình, lại bị cái tịnh trói”.

    Này thiện tri thức! Nếu người tu chẳng động, chỉ khi thấy tất cả người, mà chẳng thấy việc phải quấy, tốt xấu, lỗi lầm của người, chính đó là tự tánh chẳng động.

    Tu chẳng động đúng ý nghĩa là phải như Lục Tổ dạy, tức là tâm vẫn ở nơi vị trí của nó, không khởi động ra ngoài mà thành mất mình. Thấy việc phải quấy, tốt xấu của người rồi khởi tâm phân biệt khen chê, tự sanh phiền não che mờ tâm tánh, đó là động rồi, là mất tâm mà không hay. Tu hành dù thân chẳng động mà mở miệng là nói chuyện tốt xấu của người là trái, thân không động mà tâm động rồi, đó là chỗ phải cẩn thận!

    Này thiện tri thức! Người mê dù thân chẳng động mà mở miệng liền nói việc phải quấy, hay dở, tốt xấu của người thì trái ngược với đạo. Nếu dính mắc tâm, dính mắc tịnh, là ngăn ngại đạo.

    Lục Tổ dạy có dính mắc là có ngăn ngại, phải tâm thông suốt không trụ vào cảnh giới nào thì không có ngăn ngại, suốt qua cả động tịnh lúc nào cũng sáng tỏ. Thân ngồi yên nhưng tâm vẫn sanh thì không thấy thiền. Ngồi thiền mà không thấy thiền thì sao? Đó là chỗ phải học kỹ, hiểu rõ để tiến tu đúng pháp không sai lầm.

    ***

     

  • 7. Phẩm 05 - TRUYỀN HƯƠNG SÁM HỐI

     

    CHÁNH VĂN:


    Bấy giờ Đại sư thấy dân chúng ở châu Quảng, châu Thiều và các nơi nhóm họp trong núi để nghe pháp, liền lên tòa bảo mọi người rằng: 

    - Hãy đến đây, thiện tri thức! Việc này cần từ trong tự tánh phát khởi, đối trong tất cả thời, niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân chính mình, thấy Phật nơi tự tâm, tự độ tự răn mới được, chẳng nhờ tới đây. Nhưng đã từ xa đến cùng chung hội họp nơi này, là đều có duyên với nhau. Nay mỗi người hãy quỳ xuống, trước tôi sẽ truyền cho Năm Phần Pháp Thân Hương của tự tánh, kế đó trao pháp Vô Tướng Sám Hối! 

    Mọi người quỳ xuống, Sư bảo: 

        - Một là Giới hương. Tức trong tự tâm không quấy, không ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại, gọi là Giới hương.

        - Hai là Định hương. Tức thấy các cảnh tướng thiện ác, tự tâm chẳng loạn, gọi là Định hương.

        - Ba là Huệ hương. Tự tâm không ngăn ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, chẳng gây tạo các điều dữ, tuy tu mọi điều lành mà tâm chẳng chấp trước, kính người trên nghĩ đến kẻ dưới, thương xót người nghèo khó, đơn độc, gọi là Huệ hương. 

        - Bốn là Giải Thoát hương. Tức tự tâm không chỗ vin theo, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại không ngại, gọi là Giải Thoát hương.

        - Năm là Giải Thoát Tri Kiến hương. Tự tâm đã không chỗ vin theo thiện ác, mà chẳng chìm đắm trong “Không”, bám giữ chỗ “Tịch”, phải học rộng nghe nhiều, nhận biết bản tâm mình, thấu suốt lý của chư Phật, hòa ánh sáng tiếp độ mọi người, không ta không người, thẳng đến Bồ-đề, chân tánh không đổi dời, gọi là Giải Thoát Tri Kiến hương.

     Này thiện tri thức! Hương này mỗi người hãy tự xông bên trong chớ hướng ra ngoài tìm. Nay sẽ trao cho các ông pháp Vô Tướng Sám Hối, diệt tội trong ba đời khiến ba nghiệp được thanh tịnh.

    Này thiện tri thức! Mỗi người hãy nói theo cùng một lúc:

        - Đệ tử.......... từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị ngu mê làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội ngu mê v.v... thuộc ác nghiệp đã tạo nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại.

        - Đệ tử.......... từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị kiêu mạn, lừa dối làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội kiêu mạn, lừa dối v.v... thuộc ác nghiệp đã tạo nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi không sanh khởi trở lại.

        - Đệ tử.......... từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị ganh ghét làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội ganh ghét v.v... thuộc ác nghiệp đã tạo nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại.

    Này thiện tri thức! Trên đây là pháp Vô Tướng Sám Hối. Thế nào gọi là Sám? Thế nào gọi là Hối? Sám là mong tha thứ lỗi trước. Từ trước có bao nhiêu tội ngu mê, kiêu mạn, lừa dối, ganh ghét v.v... thuộc ác nghiệp thảy đều mong tha thứ hết, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại, đó là Sám. Hối là ăn năn chừa bỏ lỗi sau. Từ nay về sau, bao nhiêu tội ngu mê, kiêu mạn, lừa dối, ganh ghét v.v... thuộc ác nghiệp, giờ đây đã giác ngộ rồi, thảy đều đoạn dứt hẳn, chẳng còn làm trở lại, đó gọi là Hối. Vì vậy gọi là Sám Hối.

    Phàm phu ngu mê, chỉ biết mong tha thứ lỗi trước, chẳng biết ăn năn chừa bỏ lỗi sau; do chẳng ăn năn chừa bỏ nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là Sám Hối!

    Này thiện tri thức! Đã sám hối rồi, sẽ vì thiện tri thức phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, mỗi người phải dụng tâm lắng nghe kỹ!

      Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.

      Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn.

      Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học.

      Tự tánh vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

    Này thiện tri thức! Cả thảy đâu chẳng nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nói thế ấy rốt cuộc chẳng phải Huệ Năng độ.

    Này thiện tri thức! Chúng sanh ở trong tâm, nghĩa là tâm tà mê, tâm dối gạt, tâm chẳng lành, tâm ganh ghét, tâm ác độc, những tâm như thế… trọn là chúng sanh. Mỗi thứ cần tự tánh tự độ, đó gọi là chân độ. Sao gọi là tự tánh tự độ? Tức chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si trong tự tâm, đem chánh kiến mà độ, đã có chánh kiến thì khiến trí Bát-nhã phá tan chúng sanh ngu si, mê vọng, mỗi thứ đều tự độ. Tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, dữ đến thì lành độ, độ như thế gọi là chân độ.

    Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn, là đem trí Bát-nhã của tự tánh mà trừ sạch tâm hư vọng nghĩ tưởng.

    Pháp môn vô tận thệ nguyện đoạn, là cần tự thấy tánh, thường thực hành chánh pháp, gọi là chân học.

    Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành, là đã thường hay thấp lòng mà thực hành chân chánh, lìa mê, lìa giác, luôn sanh Bát-nhã, trừ chân, trừ vọng liền thấy Phật tánh, tức ngay lời nói mà thành tựu Phật đạo. Luôn luôn nghĩ nhớ tu hành, đó là phát nguyện lực.

    Này thiện tri thức! Nay đã phát bốn thệ nguyện rộng lớn xong, sẽ vì thiện tri thức trao cho ba giới Quy Y Vô Tướng. Này thiện tri thức! Quy y Giác, Nhị Túc Tôn. Quy y Chánh, Ly Dục Tôn. Quy y Tịnh, Chúng Trung Tôn. Từ ngày nay trở đi lấy Giác làm thầy, trọn chẳng quy y tà ma, ngoại đạo. Lấy Tam Bảo của tự tánh thường tự chứng minh. Khuyên thiện tri thức hãy quy y Tam Bảo của tự tánh. Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh.

    Tự tâm quy y Giác, tà mê chẳng sanh, ít muốn biết đủ, nay lìa tài, lìa sắc, gọi là Nhị Túc Tôn (bậc tôn quý đầy đủ cả hai).

    Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm không có tà kiến. Do không có tà kiến nên không có nhân ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn (bậc tôn quý lìa dục).

    Tự quy y Tịnh, tất cả cảnh giới trần lao, ái dục, tự tánh đều chẳng nhiễm trước, gọi là Chúng Trung Tôn (bậc tôn quý ở trong chúng).

    Nếu tu hạnh này chính là tự quy y. Phàm phu chẳng hiểu, ngày đêm thọ ba thứ quy giới. Nếu vậy, Quy y Phật thì Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật thì y cứ vào đâu để trở về? Lời nói thành hư dối!

    Này thiện tri thức! Mỗi người hãy tự quán xét chớ lầm dụng tâm. Kinh văn đã nói rõ ràng là tự quy y Phật, chẳng nói quy y Phật khác, Phật của chính mình mà chẳng trở về thì không chỗ nào để nương tựa. Nay đã tự ngộ rồi, mỗi người cần trở về nương tựa với Tam Bảo của tự tâm. Bên trong điều phục tâm tánh, bên ngoài cung kính người khác, đó là tự quy y.

    Này thiện tri thức! Đã quy y Tam Bảo của chính mình rồi, mỗi người hãy chí tâm, Tôi sẽ nói về Tự tánh Phật một thể ba thân khiến cho mọi người thấy ba thân rõ ràng, tự ngộ tự tánh. Cả thảy hãy nói theo tôi:

        - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy y Phật Pháp thân thanh tịnh.

        - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy y Phật Hóa thân ngàn trăm ức.

        - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy Phật Báo thân viên mãn.

    Này thiện tri thức! Sắc thân là nhà ở, chẳng thể nói là trở về. Ba thân Phật ở trong tự tánh, người đời thảy đều có đủ, vì tự tâm mê, chẳng thấy tánh bên trong mà tìm kiếm ba thân Như Lai ở bên ngoài, chẳng thấy ngay trong thân mình có Phật ba thân. Các ông hãy lắng nghe, tôi sẽ khiến các ông ở ngay thân mình thấy tự tánh có đủ Phật ba thân. Phật ba thân này từ tự tánh phát sanh, chẳng từ bên ngoài mà được.

    Sao gọi là Phật pháp thân thanh tịnh? Tánh của người đời vốn là thanh tịnh, muôn pháp từ tự tánh mà sanh. Nghĩ ngợi tất cả việc dữ liền sanh hạnh dữ, nghĩ ngợi tất cả việc lành liền sanh hạnh lành, các pháp ở trong tự tánh cũng như thế. Như bầu trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì bị đám mây nổi che lấp mà trên sáng dưới tối. Chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn tướng đều hiện rõ. Tánh của người đời luôn luôn trôi nổi như đám mây trên trời kia.

    Này thiện tri thức! Trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ luôn luôn sáng, mà dính mắc cảnh bên ngoài, bị đám mây nổi vọng niệm che lấp nên tự tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp thiện tri thức, nghe pháp chân chánh, tự trừ hết mê vọng, bên trong sáng suốt, thì muôn pháp đều hiện trong tự tánh. Người thấy tánh cũng như thế. Đây gọi là Phật pháp thân thanh tịnh.

    Này thiện tri thức! Tự tâm trở về nương tựa tự tánh, đó là quy y Phật thật. Tự quy y là trừ sạch ở trong tự tánh những tâm chẳng lành, tâm ganh ghét, tâm dua dối, tâm ngô ngã, tâm dối gạt, tâm khinh người, tâm ngạo mạn với kẻ khác, tâm tà kiến, tâm cống cao và những hạnh chẳng lành, trong tất cả thời thường thấy lỗi của chính mình, chẳng nói điều tốt xấu của người khác. Đó là tự quy y. Thường nên thấp lòng thực hành cung kính khắp hết tức là thấy tánh thông suốt, không còn trệ ngại, là tự quy y.

    Sao gọi là Hóa thân ngàn trăm ức? Nếu chẳng nghĩ nhớ muôn pháp, tánh vốn như hư không. Một niệm nghĩ ngợi gọi là biến hóa. Nghĩ ngợi việc dữ thì hóa thành địa ngục, nghĩ ngợi việc lành thì hóa thành thiên đường, độc hại hóa làm rồng dữ, từ bi hóa làm Bồ-tát, trí tuệ hóa làm cõi trên, ngu si hóa làm phương dưới. Tự tánh biến hóa rất nhiều. Người mê chẳng thể tỉnh giác, mỗi niệm sanh khởi điều dữ, thường đi theo đường dữ. Nếu xoay trở lại một niệm lành thì trí tuệ liền sanh. Đây gọi là Phật hóa thân nơi tự tánh.

    Sao gọi là Báo thân viên mãn? Ví như một ngọn đèn hay trừ hết bóng tối của ngàn năm. Một trí hay diệt cái ngu của muôn năm. Chớ nghĩ nhớ về trước, đã qua rồi thì chẳng thể được. Thường nghĩ về sau, mỗi niệm tròn sáng, tự thấy bản tánh thì lành dữ tuy khác, bản tánh không hai. Tánh không hai gọi là thật tánh. Ở trong thật tánh chẳng nhiễm lành dữ. Đây gọi là Phật báo thân viên mãn.

    Tự tánh sanh khởi một niệm dữ thì diệt cái nhân lành của muôn kiếp. Tự tánh sanh khởi một niệm lành thì hết sạch hằng sa điều dữ, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy, chẳng mất bổn niệm, gọi là báo thân.

    Này thiện tri thức! Từ pháp thân mà nghĩ ngợi tức là Phật hóa thân. Mỗi niệm tự tánh tự thấy tức là Phật báo thân. Tự ngộ, tự tu công đức của tự tánh, đó là quy y chân thật. Da thịt là sắc thân. Sắc thân là nhà ở, chẳng nói quy y. Chỉ ngộ ba thân của tự tánh liền nhận biết Phật của tự tánh. Tôi có một bài tụng VÔ TƯỚNG, nếu ai hay tụng trì, ngay lời nói khiến cho tội mê trong nhiều kiếp của ông một lúc tiêu dứt.

    Tụng rằng:

        Người mê tu phước chẳng tu đạo,

        Chỉ nói tu phước đó là đạo.

        Bố thí cúng dường phước vô biên,

        Ba ác trong tâm vốn đã tạo.

        Toan đem tu phước muốn diệt tội,

        Đời sau được phước, tội vẫn còn.

        Chỉ nhằm trong tâm trừ duyên tội,

        Thảy trong tự tánh thật sám hối.

        Chợt ngộ Đại thừa chân sám hối,

        Trừ tà hành chánh tức không tội.

        Học đạo thường quán nơi tự tánh,

        Liền cùng chư Phật đồng một thứ.

        Tổ ta chỉ truyền Đốn pháp này,

        Nguyện khắp thấy tánh đồng một thể.

        Nếu muốn về sau tìm Pháp thân,

        Lìa các pháp tướng rửa trong tâm.

        Gắng sức tự thấy chớ lơ là,

        Niệm sau chợt dứt một đời thôi.

        Nếu ngộ Đại thừa được thấy tánh,

        Thành kính chắp tay chí tâm cầu.

    Sư bảo:

    - Thiện tri thức! Cả thảy cần tụng lấy, nương theo bài tụng này tu hành, ngay lời nói thấy tánh, thì dù cách xa ta ngàn dặm, như luôn luôn ở bên ta. Ngay lời nói chẳng ngộ, tức đối diện mà cách ngàn dặm, đâu phiền từ xa đến.

    Trân trọng, hãy khéo đi!

    Cả chúng nghe pháp đều tỏ sáng, vui mừng vâng làm.

    ***

     

    GIẢNG:

    Bấy giờ Đại sư thấy dân chúng ở châu Quảng, châu Thiều và các nơi nhóm họp ở trong núi để nghe pháp, liền lên tòa bảo mọi người rằng:

    - Hãy đến đây thiện tri thức! Việc này cần từ trong tự tánh phát khởi, đối trong tất cả thời, niệm niệm tự tịnh tâm mình, tự tu, tự hành, thấy Pháp thân chính mình, thấy Phật nơi tự tâm, tự độ, tự răn mới được, chẳng nhờ tới đây.

    Đúng lý thật thì nơi mình đã sẵn đủ, Lục Tổ nhắc cho mọi người biết quay trở lại tự tánh chính mình, sáng tỏ trở lại nơi tự tâm chính mình là yếu chỉ tu hành chân thật. Tổ bảo: “Việc này cần ở trong tự tánh phát khởi”. Không phải tìm bên ngoài, lo chạy tìm cầu bên ngoài là trái xa với đạo. Tu hành là: “Đối trong tất cả thời, niệm niệm tự tịnh tâm mình”. Tu hành chân thật là thường ở ngay nơi mỗi niệm mà tự tịnh tâm mình mới là quý, không để niệm chạy lọt ra ngoài, không để nhiễm theo cảnh, như thế là tu rất kỹ và không ai tu thế cho ai được.

    Nên nói: “Tự tu, tự hành, tự thấy bản tâm chính mình, thấy Phật nơi tự tâm”. Tánh giác sẵn ở nơi mỗi chúng sanh, chúng ta ai cũng có ông Phật này, nhưng lại bỏ quên rồi chạy tìm Phật ở bên ngoài. Xét kỹ mới thấy mỗi người chúng ta quá cô phụ chính mình, khiến cho Phật chính mình ngồi đó mà không ai ngó đến, thấy có buồn không? Phật thì không buồn, nhưng thật buồn cho chúng ta. Tổ nhắc cần phải: “tự độ, tự răn mới được”. Chớ có một bề nương tựa bên ngoài, nên nói: “chẳng nhờ tới đây”. Nhưng mà không phải nói vậy đó là không cần tới đây, nếu không tới đây thì không được nghe những điều này. Chúng ta không thể chấp một chiều, quan trọng là hiểu được ý để tiến tu.

    Nhưng đã từ xa đến, cùng chung hội hợp nơi này là đều có duyên với nhau, nay mỗi người hãy quỳ xuống. Trước tôi sẽ truyền cho Năm Phần Pháp Thân Hương của tự tánh, kế đó trao pháp Vô Tướng Sám Hối.

    Lục Tổ nhắc trước như vậy để mọi người nhận định đúng đắn, rồi mới bảo mọi người quỳ xuống, Ngài truyền cho Năm Phần Pháp Thân Hương của tự tánh, rồi trao cho pháp Vô Tướng Sám Hối, tức là sám hối thuộc về vô tướng chứ không phải sám hối trên hình tướng.

    Mọi người mới quỳ xuống, Sư bảo:

         - Một là Giới hương, tức là trong tự tâm không quấy, không ác, không ganh ghét, không tham sân, không cướp hại, gọi là Giới hương.

    Thắp cây hương này là hương giới, không cần phải mồi đèn để thắp mà thắp bằng giới đức nơi người tu hành. Hương giới ở ngay trong tự tâm không khởi những niệm quấy ác, những niệm tội lỗi làm xúc hại đến người. Thắp được hương này lên thì tự tâm mình thanh tịnh, tội lỗi đi xa.

         - Hai là Định hương, tức là thấy các cảnh tướng thiện, ác, tự tâm chẳng loạn gọi là Định hương.

    Tức là tâm đối trước cảnh mà vẫn tự an, không bị cảnh chi phối. Tự tâm cần phải thắp hương này lên, gọi là hương định, chính là Pháp thân hương.

         - Ba là Huệ hương, là tự tâm không ngăn ngại, thường dùng trí tuệ quán chiếu tự tánh, chẳng gây tạo các điều dữ. Tuy tu mọi điều lành mà tâm chẳng chấp trước, kính người trên, nghĩ đến kẻ dưới, thương xót người nghèo khó, đơn độc, gọi là Huệ hương.

    “Tự tâm không ngăn ngại”. Là thấu suốt qua các cảnh, không bị cảnh che mờ, không bị ngăn chướng. “Thường dùng trí tuệ quán chiếu nơi tự tánh”. Tức soi sáng trở lại nơi chính mình, không để duyên ra ngoài, không để chạy theo cảnh mà làm mất mình, mất mình tức mất huệ. Rồi “chẳng gây tạo các điều dữ”, trừ hết nghiệp dữ, nghiệp gây ác hại đến người, tu nghiệp lành nhưng không dính mắc vào việc lành, không tham trước trong đó. Tức là không sanh tâm tự đắc hay kiêu ngạo vì làm được những việc tốt. “Kính người trên, nghĩ đến kẻ dưới, thương xót người nghèo khó, đơn độc”. Tâm rộng mở đến tất cả mọi người. Đó là khéo quên cái ngã để trí tuệ soi sáng, thường thắp hương này lên thì không có mê.

         - Bốn là Giải Thoát hương, tức là tự tâm không có chỗ vin theo, chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại không ngại gọi là Giải Thoát hương.

    “Tự tâm không có chỗ vin theo”. Vin theo tức là phan duyên, tâm lìa hết các duyên, không có chỗ bám. “Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, tự tại không ngại”. Dứt bặt tâm duyên, vượt qua tất cả những niệm phân biệt thiện ác, đây kia thì tâm tự tại không ngăn ngại, đó chính là giải thoát. Thắp được hương này lên thì khỏi phải nghĩ lăng xăng tốn tiền vô ích.

         - Năm là Giải Thoát Tri Kiến hương, tự tâm đã không chỗ vin theo thiện ác, mà cũng chẳng chìm đắm ở trong “Không”, bám giữ chỗ “Tịch”, phải học rộng nghe nhiều, nhận biết bản tâm mình, thấu suốt lý của chư Phật, hòa ánh sáng tiếp độ mọi người, không ta không người, thẳng đến Bồ-đề, chân tánh không đổi dời, gọi là Giải Thoát Tri Kiến hương.

    Giải thoát tri kiến tức là chỗ chứng biết đến chân thật giải thoát. “Tự tâm đã không có chỗ vin theo những thiện ác, mà cũng chẳng chìm đắm ở trong “Không”, bám giữ chỗ “Tịch””. Tâm dứt bặt những niệm theo duyên, không có chỗ để sanh tâm, cũng không kẹt trong chỗ vắng lặng, trống không, tức cái lặng thiếu sáng suốt. Không kẹt bên này cũng không kẹt bên kia, không còn nghiêng lệch, không dừng trụ một bên thì tự tại vô ngại. “Phải học rộng nghe nhiều”. Không phải nghe nói tự tánh sẵn rồi thì chỉ quay về tự tánh, không cần học gì cả. Lục Tổ dạy phải học rộng nghe nhiều để chỗ thấy không cục bộ. “Nhận biết bản tâm mình, thấu suốt lý của chư Phật”. Vừa bảo học rộng nghe nhiều, ngay đó liền bảo phải nhận biết bản tâm mình, thấu suốt lý của chư Phật, chứ không phải mắc kẹt trên chữ nghĩa, không phải chỉ lo học rộng bên ngoài. “Hòa ánh sáng tiếp độ mọi người”. Không tự hưởng an vui riêng mình, phải trở lại tiếp độ mọi người chứ không nghĩ đến tự lợi riêng. “Không ta không người”. Quên hết cái ngã, xóa tan những dấu vết của ta-người, kia-đây. “Thẳng đến Bồ-đề”. Đi tột đến Bồ-đề, không dừng ở giữa đường. “Chân tánh không đổi dời”. Chân tánh không sanh, không diệt, không có gì phá hoại được. Thắp hương này lên thì bao nhiêu những thứ tạp nhạp không còn chỗ bám. Dạy thắp hương này cũng là dạy chúng ta tu hành chứ không phải chỉ làm trên hình thức.

    Này thiện tri thức! Hương này mỗi người hãy tự xông bên trong, chớ hướng ra ngoài tìm.

    Hương này thuộc về công đức pháp thân, phải thắp lên bằng sự tu tập nơi tự tâm, chuyển hóa những điều lầm mê, vọng tưởng, dính mắc để hợp trở về với Pháp thân thanh tịnh, không phải cầu trên hình thức bên ngoài, cũng không phải nói suông mà được.

    Nay sẽ trao cho các ông pháp Vô Tướng Sám Hối, diệt tội trong ba đời, khiến ba nghiệp được thanh tịnh. Này thiện tri thức! Mọi người hãy nói theo cùng một lúc:

         - Đệ tử (xưng pháp danh) từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị ngu mê làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội ngu mê v.v… thuộc ác nghiệp đã tạo, nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại.

    Lục Tổ truyền pháp Vô Tướng Sám Hối, là pháp sám hối vượt lên trên những hình thức lễ nghi bên ngoài. Vào chùa lạy sám hối là sám hối có tướng, còn đây là sám hối vô tướng.

    Trước là sám hối về những tội ngu mê v.v… đã tạo, sám hối ngay mỗi niệm, mỗi niệm trong ba thời không để bị lầm nhiễm, không để sanh trở lại. Đây là thực tế, chuyển hóa ngay từ trong mỗi niệm, tức là sám hối dứt tận gốc.

         - Đệ tử (xưng pháp danh) từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị kiêu mạn, lừa dối làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội kiêu mạn, lừa dối v.v… thuộc ác nghiệp đã tạo nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại.

    Sám hối những tội kiêu mạn, lừa dối v.v… cũng ngay trong từ mỗi niệm, khắp cả ba thời đều không để lầm nhiễm, không cho sanh trở lại.

         - Đệ tử (xưng pháp danh) từ niệm trước, niệm nay và niệm sau, mỗi niệm chẳng bị ganh ghét làm nhiễm. Từ trước có bao nhiêu tội ganh ghét v.v… thuộc ác nghiệp đã tạo, nên thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu dứt, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại.

    Sám hối những cái tội ganh ghét, đố kỵ v.v… trong mỗi niệm đều dứt sạch, không cho sanh trở lại. Nên nhớ sám hối là phải dứt sạch, không sanh trở lại.

    Này thiện tri thức! Trên đây là pháp Vô Tướng Sám Hối. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là mong tha thứ lỗi trước. Từ trước có bao nhiêu tội ngu mê, kiêu mạn, lừa dối, ganh ghét, v.v… thuộc ác nghiệp thảy đều mong tha thứ hết, mãi mãi chẳng sanh khởi trở lại, đó là sám. Hối là ăn năn, chừa bỏ lỗi sau. Từ nay về sau, bao nhiêu tội ngu mê, kiêu mạn, lừa dối, ganh ghét, v.v… thuộc ác nghiệp, giờ đây đã giác ngộ rồi thảy đều đoạn dứt hẳn, chẳng còn làm trở lại, đó gọi là hối. Vì vậy gọi là sám hối.

    Lục Tổ giải thích kỹ nghĩa sám hối, đây không phải làm trên hình thức suông bên ngoài mà thực sự chuyển hóa từ trong tâm. “Sám là mong tha thứ những lỗi trước”. Khiến sạch hết những lỗi trước, không chứa giữ để làm nhân duyên sanh khởi trở lại. “Hối là ăn năn, chừa bỏ lỗi sau”. Dứt hẳn về sau, không còn tạo trở lại nữa, điều này mới là quan trọng. Tức là mong hết lỗi trước để không còn đắm nhiễm, ngăn ngừa về sau không để sanh trở lại. Sám hối chân thật phải như vậy mới chuyển những lỗi lầm thành thanh tịnh được. Không phải chỉ lên lễ Phật rồi xem như đã sám hối, trở về tiếp tục làm những việc lỗi đến kỳ lại sám hối, thế thì sám hối mãi cũng không hết tội.

    Phàm phu ngu mê chỉ biết mong tha thứ lỗi trước, chẳng biết ăn năn chừa bỏ lỗi sau. Do chẳng ăn năn chừa bỏ nên tội trước chẳng dứt, lỗi sau lại sanh. Tội trước đã chẳng dứt, lỗi sau lại sanh, sao gọi là sám hối!

    Chúng ta phải hiểu đúng nghĩa sám hối, phải thật sự chuyển hóa, ăn năn, chừa bỏ để dứt sạch không còn tái phạm. Sám hối như vậy đó thì được thanh tịnh. Đó là Lục Tổ chỉ dạy pháp Vô Tướng Sám Hối, không phải chỉ nương trên hình tướng bên ngoài.

    Nói vậy không phải bảo chúng ta không lễ sám hối, nhưng làm phải có đủ sự và lý. Lễ thuộc về sự bên ngoài, nhưng phải có lý ở bên trong, sự lý viên dung thì tội mới thật sạch. Chỉ có sự không lý thì nghiêng một bên, không sạch tội được. Hoặc nói tôi sám hối lý được rồi, không cần lên chùa lễ Phật sám hối, như thế cũng nghiêng một bên.

    Này thiện tri thức! Đã sám hối rồi, sẽ vì thiện tri thức phát bốn điều thệ nguyện rộng lớn, mỗi người phải dụng tâm lắng nghe kỹ!

        Tự tâm chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

        Tự tâm phiền não vô biên thệ nguyện đoạn,

        Tự tánh pháp môn vô tận thệ nguyện học,

         Tự tánh vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành.

    Tứ Hoằng Thệ Nguyện là bốn điều thệ nguyện rộng lớn. Thường bốn điều này nói gọn là:

        Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,

        Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn…

    Lục Tổ thêm ở phía trước lời thệ nguyện chữ “tự tâm” và “tự tánh”, ngầm chỉ cho mọi người phát bốn thệ nguyện lớn này phải xoay trở lại nơi tự tâm tự tánh chứ không phải hướng ra bên ngoài.

    Này thiện tri thức! Cả thảy đâu chẳng nói: “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, nói thế ấy, rốt cuộc chẳng phải Huệ Năng độ.

    Này thiện tri thức! Chúng sanh ở trong tâm nghĩa là tâm tà mê, tâm dối gạt, tâm chẳng lành, tâm ganh ghét, tâm ác độc, những tâm như thế… trọn là chúng sanh, mỗi thứ cần tự tánh tự độ, đó gọi là chân độ.

    Chúng sanh vô biên, không có bờ mé, thế thì làm sao độ hết tất cả! Lục Tổ chỉ chúng sanh này ở ngay nơi tự tâm, bởi tâm mê nên sanh vô số chúng sanh trong đó không thể tính kể, tức tâm tà mê, tâm dối gạt, tâm chẳng lành, tâm ganh ghét… mỗi tâm niệm là một chúng sanh, độ là độ chúng sanh đó, độ hết những chúng sanh đó thì thành Phật không nghi ngờ. Cho nên nói Phật thành Phật thì phải độ hết chúng sanh, nếu nhìn chúng sanh bên ngoài thì chúng ta còn ở đây mà Phật đã thành Phật rồi là sao?

    Mỗi tâm niệm là một chúng sanh, lẽ thật này chúng ta có thể hiểu được, bởi niệm là có biết, nhưng biết trong vô minh nên là chúng sanh. Chúng sanh này phải là tự tánh tự độ, không ai có thể độ thay cho chúng ta và độ sạch chúng sanh này thì thành Phật, bởi không còn niệm chúng sanh tức là Phật. Nhưng độ đây thì mỗi người phải tự độ, không thể nhờ ai khác độ, không phải nhờ Lục Tổ độ.

    Sao gọi là tự tánh tự độ? Tức chúng sanh tà kiến, phiền não, ngu si trong tự tâm, đem chánh kiến mà độ. Đã có chánh kiến thì kiếm trí Bát-nhã phá tan chúng sanh ngu si, mê vọng, mỗi thứ đều tự độ, tà đến thì chánh độ, mê đến thì ngộ độ, ngu đến thì trí độ, dữ đến thì lành độ, độ như thế gọi là chân độ.

    Tu như vậy là tu kỹ. Niệm tà khởi lên thì lấy chánh độ, niệm dữ khởi thì lấy niệm lành độ, độ tất cả như vậy, rốt cuộc không còn chúng sanh tức thành Phật. Đây là tự tánh tự độ, không ai vào đây để độ, dùng diệu dụng của tự tánh để tự độ.

    Phiền não vô biên thệ nguyện đoạn là, đem trí Bát-nhã của tự tánh trừ sạch tâm hư vọng nghĩ tưởng.

    Trí Bát-nhã của tự tánh không phải trí học được từ bên ngoài. Trí mà chúng ta học từ bên ngoài là trí vay mượn của thầy, Tổ, của Phật. Đã có vay mượn thì phải có trả lại nên trí đó không bảo đảm. Trí của tự tánh mới là trí chân thật nơi chính mình, không mất, bởi trí này ở tự tánh thì không phải trả cho ai cả. Trí này phải tự tu, tự hành rồi tự tánh hiển phát. Trí này mới trừ sạch được tận gốc những tâm hư vọng nghĩ tưởng, mới trừ hết được những phiền não vô biên. Trí vay mượn bên ngoài không thể trừ hết, có chăng chỉ tạm trừ chút ít, bởi đó là phương tiện bên ngoài.

    Tâm hư vọng nghĩ tưởng ẩn trong vô minh mới sống được, có trí Bát-nhã sáng suốt thì không còn chỗ ẩn. Có trí Bát-nhã sáng suốt thì vô minh không tồn tại, không còn vô minh thì không còn chỗ cho nó ẩn, không chỗ bám, vậy phiền não vô biên nơi tự tâm cũng theo đó tự đoạn dứt. Đó là lẽ thật Lục Tổ dạy rất thiết thực. Đây là thệ nguyện vững mạnh, phải thắng phiền não đến tận cùng chứ không chịu thua cũng không chịu thắng chút ít, gọi là phiền não vô biên thệ nguyện đoạn. Người tu thông thường nguyện đoạn phần nào thôi, đoạn hết không nỗi, đó là chưa mạnh mẽ, chưa rốt ráo. Đây thì thệ nguyện phải đoạn hết, đi đến cùng chứ không dừng bước nửa chừng.

    Pháp môn vô tận thệ nguyện học, là cần tự thấy tánh, thường thực hành chánh pháp, gọi là chân học.

    Pháp môn vô tận tức những pháp môn nhiều không tính kể được, thệ nguyện học tất cả, không nhàm chán, không có mệt mỏi. Chúng ta bây giờ học được một số ít bộ kinh đã thấy đủ, vậy là tâm còn quá giới hạn, tâm hẹp hòi. Đây nguyện học tất cả thì trí tuệ mới rộng lớn, mở rộng tâm đến vô biên. Muốn vậy, Lục Tổ dạy cần tự thấy tánh, tức chân tánh không sanh không diệt, bởi đó là gốc của tất cả pháp. Thấy tánh là thấy ngay gốc mới học được tất cả. Nó là cái vốn vượt ngoài chữ nghĩa, học thấu đến đó mới thấu được pháp môn vô tận. Thường thực hành chánh pháp là phải học vượt qua chữ nghĩa. Vượt qua chữ nghĩa, thực hành chánh pháp để thật sự sống trong pháp, đó mới là chân học.

    Vô thượng Phật đạo thệ nguyện thành, là đã thường hay thấp lòng thực hành chân chánh, lìa mê, lìa giác, luôn sanh Bát-nhã, trừ chân trừ vọng liền thấy Phật tánh, tức ngay lời nói mà thành tựu Phật đạo, luôn luôn nghĩ nhớ tu hành, đó là phát nguyện lực.

    Phật đạo đây không phải Phật đạo của Đức Phật mà của tự tánh nơi mỗi người chính mình. Muốn vậy, phải thấp lòng thực hành chân chánh, tức là phải quên cái ngã, vượt qua cả mê và giác, cả chân và vọng. Vì Phật đạo Vô thượng nên không mắc kẹt ý niệm đối đãi, phải vượt qua tất cả.

    “Luôn sanh Bát-nhã, trừ chân trừ vọng liền thấy Phật tánh”. Trí Bát-nhã luôn sáng ngời nên không bị phân biệt đối đãi che mờ, liền đó thấy Phật tánh sẵn nơi mình, không phải cầu ở đâu khác. Rồi “ngay lời nói mà thành tựu được Phật đạo” là sao? Tức ngay lời nói đó, chúng ta nhận ra sáng tỏ được Phật đạo, không tìm cầu đâu khác, cũng không mắc kẹt trên ngôn ngữ lời nói. Ngay lời nói đó, nhận trở lại nơi tự tánh. Tuy nói thành Phật đạo mà không thành cái gì khác ở bên ngoài, nên gọi là tự tánh Vô thượng Phật đạo.

    Tuy nhiên, việc này không thể hiểu suông mà phải luôn nghĩ nhớ tu hành. Nói suông ngoài miệng dễ quá, ngộ tự tánh là xong, nhưng có thật ngộ hay không? Thực hành việc đó đôi khi cả đời cũng chưa được, phải thấy điều đó. Nên Lục Tổ dạy không phải phát nguyện suông mà phải luôn nhớ thực hành nơi tự tâm để hợp với tự tánh sáng suốt, chuyển hóa những mê lầm, những hư vọng, phải thật sự đặt chân trên đất Phật. Đặt chân trên đất Phật như thế nào? Đất Phật ở đâu? Phật là giác, nếu người chứng nghiệm được giác ngộ, có phần nào giác ngộ gọi là đặt chân trên đất Phật, tu hành là phải vậy.

    Bốn thệ nguyện đều rộng lớn. Thệ nguyện nào cũng không giới hạn, giúp chúng ta mở rộng cõi lòng, quên hết dấu vết cái ngã nhỏ hẹp, như vậy mới thành tựu được Chánh giác. Chúng ta học kỹ lời Tổ dạy phát nguyện để tu tập là thành tựu được những lợi ích lớn lao trên đường giác ngộ.

    Này thiện tri thức! Quy y Giác, Nhị Túc Tôn. Quy y Chánh, Ly Dục Tôn. Quy y Tịnh, Chúng Trung Tôn. Từ ngày nay trở đi lấy Giác làm thầy, trọn chẳng quy y tà ma, ngoại đạo. Lấy Tam Bảo của tự tánh thường tự chứng minh. Khuyên thiện tri thức hãy quy y Tam Bảo của tự tánh. Phật là Giác, Pháp là Chánh, Tăng là Tịnh.

    Tiếp theo Lục Tổ truyền ba giới quy y Vô tướng gọi là Tam Bảo của tự tánh, cũng nhắc nhở chúng ta nên quay trở về nơi chính mình. Phật là Giác, nên ở đây gọi quy y Giác. Đọc theo dịch âm tiếng Phạn thì thấy Phật là cái gì rất xa xôi, nhưng dịch ra Phật là Giác thì gần gũi với chúng ta. Sự thật ngày xưa nhiều vị Tổ cũng có tên là chữ Phật như Ngài Phật Đà Mật Đa, Phật Đồ Trừng.

    Quy y Phật là quy y Giác, Giác là Nhị Túc Tôn, Nhị Túc là đầy đủ cả hai Phước và Tuệ. Phật là bậc tôn quý đầy đủ cả phước và tuệ, gọi là phước tuệ trang nghiêm.

    Pháp là chánh, tức chân thật không có nghiêng lệch, đó là ngôi tôn quý, lìa các thứ dục nhiễm, nên gọi là Ly Dục Tôn.

    Tăng là tịnh, tức thanh tịnh, không có tranh chấp, là ngôi tôn quí ở trong chúng, nên gọi là Chúng Trung Tôn.

    Lục Tổ dạy từ đây lấy Giác làm thầy, không để những mê lầm dẫn đi lệch lạc theo các thứ tà ma ngoại đạo, phải thường quay về với Tam Bảo tự tánh, đó là chỗ quy y chân thật.

    Tự tâm quy y Giác thì tà mê chẳng sanh, ít muốn biết đủ, nay lìa tài lìa sắc, gọi là Nhị Túc Tôn.

    Hãy nhớ tự tâm trở về nương tựa với Giác, tức thường sống với tâm giác ngộ sáng suốt, không chạy theo tài sắc, không tham cầu nhiều để nuôi đức sáng của chính mình, gọi là đủ cả phước đức trí tuệ tôn quý.

    Tự tâm quy y Chánh, niệm niệm không tà kiến, do không tà kiến nên không có nhân ngã, cống cao, tham ái, chấp trước, gọi là Ly Dục Tôn.

    Đem tự tâm trở về nương tựa với Chánh, là lìa bỏ những thiên lệch đây-kia sai lầm. Nơi mỗi niệm đều hướng về Chánh nên không để tà kiến sanh khởi, trong tâm không có tà kiến thì các thứ nhân ngã, cống cao, tham ái, chấp trước không có chỗ sanh. Không sống theo những tâm nhân ngã, cống cao, tham ái, chấp trước thì không đi lệch ra ngoài nghĩa Chánh của Pháp, thành tựu được Ly Dục Tôn.

    Tự tâm quy y Tịnh, tất cả cảnh giới, trần lao, ái dục, tự tánh đều chẳng nhiễm trước gọi là Chúng Trung Tôn.

    Đem tự tâm trở về nương tựa với Tịnh, tức xa lìa các cảnh giới trần lao, ái dục, sống trở về với tự tánh thanh tịnh thì không có những nhiễm trước, thành tựu an ổn trong chỗ chúng đông người, nên gọi Chúng Trung Tôn. Đó là chỗ tu hành chân thật, phát huy ba ngôi báu của tự tánh, không để mê mất. Quy y như vậy mới có thể là chỗ nương tựa vững bền. Nếu chỉ quy y ở bên ngoài thì Phật giờ đã nhập Niết-bàn, Pháp chữ nghĩa thì pháp đó thuộc về pháp vô thường, không bền chắc, Tăng cũng vậy. Thế nên quy y trở về với Tam Bảo tự tâm sẽ đi đến thành Phật, vượt khỏi thế gian điên đảo lầm mê.

    Nếu tu hạnh này chính là tự quy y. Phàm phu chẳng hiểu, ngày đêm thọ ba thứ quy giới, nếu vậy, quy y Phật thì Phật ở chỗ nào? Nếu chẳng thấy Phật, y cứ vào đâu để trở về, lời nói thành hư dối.

    Đây không phải một bề hướng ra ngoài mà quay trở về chính mình, đó mới là quy y chân thật. Nên Tổ nói quy y Phật, giờ Phật ở đâu mà quy y, muốn nhắc mọi người cần phải quay lại với Phật nơi chính mình, bởi Phật mà thành Phật cũng từ đó thành. Thế nên quy y trở lại, đó là trở về gốc.

    Này thiện tri thức! Mỗi người hãy tự quán xét, chớ lầm dụng tâm. Kinh văn đã nói rõ ràng là tự quy y Phật, chẳng nói quy y Phật khác, Phật của chính mình mà chẳng trở về thì không có chỗ nào để nương tựa. Nay đã tự ngộ rồi, mỗi người cần trở về nương tựa với Tam Bảo của tự tâm, bên trong điều phục tâm tánh, bên ngoài cung kính người khác, đó là tự quy y.

    Chúng ta thường tụng Tam Tự quy y là nhắc phải trở về với Tam Bảo của tự tánh, nhưng thường chúng ta chỉ tụng theo chữ nghĩa, nhớ theo chữ nghĩa chứ không thực hành. Lục Tổ giải thích rõ ý nghĩa tự quy y là tự quay trở về với Tam Bảo của tự tánh hay Tam Bảo của tự tâm chứ không phải hướng cầu bên ngoài xa xôi. Vậy thì vừa quy y cũng vừa gạn lọc nội tâm để ba ngôi báu này hiển bày không còn che đậy, đó mới thật tự quy y. Lục Tổ nhắc: “Bên trong điều phục tâm tánh, bên ngoài cung kính người khác”. Tức vừa tự tin ở nơi chính mình có đủ, vừa hiểu rõ nơi người cũng có đủ nên không dám khinh ai. Tu hành đúng theo đây càng ngày càng làm sáng tỏ của báu nơi chính mình, không để bị chôn vùi như xưa, đó mới là khai thác kho tàng của báu của chúng ta.

    Này thiện tri thức! Đã quy y Tam Bảo của chính mình rồi, mỗi người hãy chí tâm, tôi sẽ nói về tự tánh Phật một thể ba thân, khiến cho mọi người thấy được ba thân rõ ràng, tự ngộ tự tánh. Cả thảy hãy nói theo tôi:

         - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy y Phật pháp thân thanh tịnh.

         - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy y Phật hóa thân ngàn trăm ức.

         - Đối với sắc thân của chính mình, xin quy y Phật báo thân viên mãn.

    Ngay nơi sắc thân này hướng về Phật ba thân chứ không kẹt nơi sắc thân, đồng thời Phật ba thân cũng không rời sắc thân này riêng có. Nhắc mọi người hãy quay trở lại tỏ ngộ nơi tự tánh chính mình, không nên tìm cầu bên ngoài, ngay nơi sắc thân của chúng ta mà tỏ ngộ được ba thân.

    Này thiện tri thức! Sắc thân là nhà ở, chẳng thể nói là trở về, ba thân Phật ở trong tự tánh người đời thảy đều có đủ, vì tự tâm mê chẳng thấy tánh bên trong mà tìm kiếm ba thân Như Lai ở bên ngoài, chẳng thấy ngay trong thân mình có Phật ba thân. Các ông lắng nghe, tôi sẽ khiến các ông ở ngay thân mình thấy tự tánh có đủ Phật ba thân. Phật ba thân này từ tự tánh phát sanh, chẳng từ bên ngoài mà được.

    Phật ba thân ở ngay nơi sắc thân này, nhưng sắc thân giống như nhà ở, tạm mượn một thời gian rồi đi, không thường còn, không phải là chỗ nương tựa. Chính ba thân Phật ở trong tự tánh mỗi người có đủ mới là chỗ quy y chân thật, cần phải sáng tỏ để trở về. Người không biết, chạy tìm bên ngoài là bỏ gốc theo ngọn, nên Tổ nói: “Tìm kiếm ba thân Như Lai ở bên ngoài, chẳng thấy ngay trong thân mình có Phật ba thân”.

    Sao gọi là Phật pháp thân thanh tịnh? Tánh của người đời vốn là thanh tịnh, muôn pháp từ tự tánh mà sanh, nghĩ ngợi tất cả việc dữ liền sanh hạnh dữ, nghĩ ngợi tất cả việc lành liền sanh hạnh lành. Các pháp ở trong tự tánh cũng như thế, như bầu trời thường trong, mặt trời mặt trăng thường sáng, vì bị đám mây nổi che lấp mà trên sáng dưới tối, chợt gặp gió thổi mây tan, trên dưới đều sáng, muôn tướng đều hiện rõ. Tánh của người đời luôn luôn trôi nổi như đám mây trên trời kia.

    Tổ chỉ ra Phật pháp thân, tức tánh vốn thanh tịnh của mọi người, nhưng người lại quên nó. Tánh sẵn thanh tịnh là thể của muôn pháp, nên muôn pháp từ tự tánh sanh, chúng ta phải sáng suốt, không theo những cái sanh đó mà bỏ quên gốc vốn sẵn thanh tịnh này.

    Ví như mặt trời mặt trăng vốn thường sáng lại bị mây che lấp thành ra trên sáng dưới tối. Khi trên sáng dưới tối, người ở dưới nhìn lên chỉ thấy mây mà không thấy sáng. Chúng ta cũng vậy, tánh thanh tịnh sẵn không thiếu bao giờ, luôn sáng tỏ, nhưng bị những đám mây vọng tưởng, vô minh, phiền não che kín giờ chỉ thấy mây. Tuy nghe nói chúng ta có tánh sáng suốt cũng chỉ mường tượng chớ không thấy rõ. Song những đám mây chỉ là tạm thời, không có thực thể, không chắc chắn thường còn. Khi gió thổi mây tan, sẽ thấu suốt được trên dưới đều sáng, muôn tướng hiện rõ ràng.

    Cũng vậy, chúng ta tu tập để thổi tan những đám mây vô minh, vọng tưởng, thì bầu trời trong sáng, sẽ thấy rõ tự tánh thanh tịnh sẵn đủ không thiếu. Thế nên chớ lầm theo những đám mây nổi, đó là chỗ Lục Tổ muốn nhắc. Đa số người đời lầm theo đám mây nổi, chỉ nhận theo đám mây nổi, ngoài ra không thấy gì khác, không biết còn có gì nữa. Với người sáng suốt, biết đó chỉ là đám mây nổi không có thật, trên đám mây nổi còn có bầu trời trong sáng. Chúng ta không nên đồng hóa mình với những vọng tưởng sanh diệt hư dối mà sống mất mình, bỏ quên chân thật. Đây là nhắc để chúng ta nhớ trở lại Phật pháp thân thanh tịnh nơi tự tánh.

    Này thiện tri thức! Trí như mặt trời, tuệ như mặt trăng, trí tuệ luôn luôn sáng mà dính mắc cảnh bên ngoài, bị đám mây nổi vọng niệm che lấp nên tự tánh chẳng được sáng tỏ. Nếu gặp thiện tri thức, nghe được pháp chân chánh, tự trừ hết mê vọng, bên trong sáng suốt thì muôn pháp đều hiện trong tự tánh, người thấy tánh cũng như thế, đây gọi là Phật pháp thân thanh tịnh.

    Trí tuệ như mặt trời mặt trăng thường sáng không dính mắc cảnh bên ngoài, nhưng bị đám mây vọng niệm che lấp thành ra giống như chẳng được sáng, nên Tổ gọi: “Chẳng được sáng tỏ”. Nhưng người học không khéo lại mắc kẹt nơi đó, nói chẳng được sáng tỏ mà có thật không? Nếu không sáng tỏ tức là tối sao? Sự thật, mây hư vọng làm sao đánh mất được sự sáng tỏ của mặt trời mặt trăng, mà nói chẳng được sáng tỏ! Đó là tạm dùng ngôn ngữ phương tiện của thế gian mà nói, bởi nói với những người mê phải nói như vậy, với người trí không nói vậy. Vì nếu giờ không được sáng tỏ, khi trừ hết mê vọng mới được sáng hay sao? Nếu “được sáng” thì cái sáng này là “cái sáng mới được”, đâu phải thường sáng, thường sáng thì không có được. Học kinh phải khéo hiểu ý, không thể mắc kẹt trong ngôn ngữ lời nói. Người lanh lợi phải khéo thấy trở lại trước khi niệm khởi, trước khi tâm sanh, trước khi những đám mây nổi. Hiện tại chúng ta chỉ thấy sau những đám mây nổi, thấy theo vọng niệm. Giờ phải thấy ngược trở lại trước khi vọng niệm sanh, mới thấy bầu trời trong, thấy đến chỗ chân thật. Tức thấy vượt qua những đám mây nổi kia, không dừng trên những đám mây nổi đó. Đó là chỗ chúng ta phải học thấu đáo.

    Này thiện tri thức! Tự tâm trở về nương tựa tự tánh đó là quy y Phật thật. Tự quy y là trừ sạch ở trong tự tánh, những tâm chẳng lành, tâm ganh ghét, tâm dua dối, tâm ngô ngã, tâm dối gạt, tâm khinh người, tâm ngạo mạn với kẻ khác, tâm tà kiến, tâm cống cao và những hạnh chẳng lành, trong tất cả thời thường thấy lỗi của chính mình, chẳng nói điều tốt xấu của người khác, đó là tự quy y. Thường nên thấp lòng thực hành cung kính khắp hết tức là thấy tánh thông suốt, không còn trệ ngại là tự quy y.

    Biết tự quy y là biết trở về với tự tánh Phật, ở trong đó không có chất chứa những tâm chẳng lành như ganh ghét, dua dối, ngô ngã, dối gạt v.v… Phải tỉnh giác thường xuyên trong tất cả thời để trừ sạch, không để có khe hở cho nó tồn đọng lại. Tự quy y phải như vậy, không phải chỉ nói suông, tụng suông ngoài miệng. Phải thực hành để gạn lọc tâm hư dối, chính đó là tập sống trở về tự tánh Phật sáng suốt. Bây giờ chưa sống hoàn toàn nhưng phải tập sống trở về. Nếu không tập sống trở về, chỉ sống theo những đám mây hư vọng mãi thì phải theo nó trôi nổi trong luân hồi sanh tử. Nếu một giây phút nào tách rời ra khỏi tự tánh thanh tịnh tức là mê, mê tức tâm hư dối xen vào làm mất ý nghĩa tự quy y, chúng ta luôn nhớ vậy là tu hành kỹ. Thực hành đúng ý nghĩa tự quy y thì thấy tánh thành Phật không nghi.

    Sao gọi là Hóa thân ngàn trăm ức? Nếu chẳng nghĩ nhớ muôn pháp thì tánh vốn như hư không, một niệm nghĩ ngợi gọi là biến hóa. Nghĩ ngợi việc dữ hóa thành địa ngục, nghĩ ngợi việc lành hóa thành thiên đường, độc hại hóa làm rồng dữ, từ bi hóa thành Bồ-tát, trí tuệ hóa thành cõi trên, ngu si hóa thành phương dưới. Tự tánh biến hóa rất nhiều, người mê chẳng thể tỉnh giác, mỗi niệm sanh khởi điều dữ thường đi theo đường dữ, nếu xoay trở lại một niệm lành thì trí tuệ liền sanh, đây gọi là Phật hóa thân nơi tự tánh.

    Ở đây giải Phật hóa thân trước báo thân. “Tánh vốn như hư không” tức tự vốn rỗng không, thanh tịnh, không có thứ này thứ kia, nhưng trong đó khởi ra nghĩ ngợi liền có đủ thứ hiện ra. Từ chỗ rỗng không hiện thành có thì cái có đó là vọng có, không phải thật có, nhưng chúng sanh mê theo nó cho là thật, điên đảo là chỗ đó. Có là vọng có không có thật tánh, giống như biến hóa nên gọi hóa thân. Người đời không biết chấp là thật, chúng ta biết đều từ tự tánh mà hiện, không rời tự tánh, nếu sáng tỏ trở lại tự tánh liền chuyển thành diệu dụng, nên gọi Phật hóa thân. Do mê nên có những vọng niệm điên đảo, giác trở lại thành hóa thân Phật, rất diệu dụng. Người mê không biết, chấp vào đó bị lưu chuyển, người giác liền chuyển trở lại tự tánh liền giải thoát tự tại.

    Hiểu đây rồi sẽ rõ được lời Phật dạy trong kinh Pháp Hoa: “Khi tháp Phật Đa Bảo hiện ra, Đức Phật Thích Ca muốn mở cửa tháp phải thâu hồi các hóa thân Phật khắp nơi trở về một chỗ mới mở được, mới thấy được Phật Đa Bảo”, bởi Phật Đa Bảo chính là Phật pháp thân. Muốn thấy Phật pháp thân phải thu tất cả những hóa thân trở về một chỗ, nếu để hóa thân đi chỗ này chỗ kia thì không thể thấy. Chúng ta còn để cho tâm đi lang thang, đi đâu cũng không hay, không biết, hiện giờ cũng không biết đang ở đâu, đó là mê. Tuy nhiên, mỗi niệm mỗi niệm đều không rời tự tánh giác nên gọi Phật hóa thân nơi tự tánh, nếu suốt như vậy thì không lầm theo niệm.

    Sao gọi là Báo thân viên mãn? Ví như một ngọn đèn hay trừ hết bóng tối của ngàn năm, một trí hay diệt cái ngu của muôn năm. Chớ nghĩ nhớ về trước, đã qua rồi thì chẳng thể được. Thường nghĩ về sau, mỗi niệm tròn sáng, tự thấy bản tánh thì lành dữ tuy khác mà bản tánh không hai, tánh không hai gọi là thật tánh. Ở trong thật tánh chẳng nhiễm lành dữ, đây gọi là Phật báo thân viên mãn.

    Phật báo thân tức là trí tuệ tròn sáng thấu suốt qua niệm lành dữ đối đãi, thấy tột được bản tánh không hai. Nghĩa là ở trong Phật tánh không hai thì không nhiễm lành nhiễm dữ, lành dữ không dính được trong đó nên gọi báo thân viên mãn. Mỗi niệm thường sáng như thế, không để cho những niệm lành dữ sanh khởi che mờ, đó là sống với báo thân Phật. Tổ bảo thêm: “Chớ nghĩ nhớ về trước, đã qua rồi thì chẳng thể được”. Trước giờ mê thì không tính, bảo đừng mê cũng không được, đó là chuyện về trước. Quan trọng là: “Thường nghĩ về sau, mỗi niệm tròn sáng, tự thấy bản tánh thì lành dữ tuy khác mà bản tánh không hai, tánh không hai gọi là thật tánh”. Thường nghĩ về sau để luôn sáng tỏ trở lại. Bây giờ có trách chuyện mê ngày trước cũng không hết mê, quan trọng là từ đây về sau phải thường sáng tỏ không lầm nữa, luôn không rời bản tánh thì cái mê không còn chỗ bám, đó là thực tế.

    Trong nhà Thiền có câu chuyện Cá Nhảy Khỏi Lưới. Có Thiền sư Thâm và Hòa thượng Minh trên đường cùng đi du phương, đến sông Hoài, thấy người bủa lưới đánh cá, có một con cá mắc lưới rồi từ trong lưới nhảy vọt ra. Thiền sư Thâm nói:

    - Huynh Minh, giỏi quá, giống như một nạp tăng (thiền tăng).

    Hòa thượng Minh nói:

    - Đâu có gì giỏi! Thay vì trước kia đừng vào lưới hay hơn.

    Thiền sư Thâm nói:

    - Huynh Minh! Ông còn thiếu ngộ.

    Khi đó Hòa thượng Minh chưa hiểu nên im lặng. Hai huynh đệ đi đến nhà trọ nghỉ, đến nửa đêm thì Hòa thượng Minh ngộ ra lời của Thiền sư Thâm.

    Chúng ta thường bị lý luận gạt. Hòa thượng Minh nói: “Đâu có gì giỏi, thay vì trước kia đừng vào lưới hay hơn”. Tại sao phải vào lưới rồi mới nhảy ra cho tốn công nhọc nhằn, trong khi ở ngoài tự tại? Nhưng lý luận như thế vẫn ở mãi trong lưới. Quan trọng là hiện giờ ngay trong lưới này mà nhảy ra mới quý. Nên Tổ dạy từ đây về sau phải luôn thường sáng, không để mê xen vào mới quan trọng.

    Tự tánh sanh khởi một niệm dữ thì diệt nhân lành của muôn kiếp. Tự tánh sanh khởi một niệm lành thì hết sạch hằng sa điều dữ, thẳng đến Vô thượng Bồ-đề, niệm niệm tự thấy, chẳng mất bổn niệm, gọi là báo thân.

    Lành dữ không có thật tánh, không cố định, không nên mắc kẹt trong lành dữ, cần sáng tỏ trong đó để vượt thẳng lên Vô thượng Bồ-đề, không có niệm thứ hai, gọi là báo thân. Tức là trí tuệ không có hai, không lầm theo những tướng đối đãi đó. Khởi một niệm dữ thì diệt nhân lành muôn kiếp, nhưng khởi niệm lành là hết sạch hằng sa điều dữ, tức nó không có tự tánh thật. Thấy trở lại tự tánh không hai mới là thật tánh, đó là chỗ sống trí tuệ. Luôn sống với trí tuệ thấu suốt, sáng tỏ thì không có niệm thứ hai, là sống với báo thân Phật.

    Này thiện tri thức! Từ pháp thân mà nghĩ ngợi tức là Phật hóa thân. Mỗi niệm tự tánh tự thấy tức là Phật báo thân. Tự ngộ, tự tu công đức của tự tánh, đó là quy y chân thật. Da thịt là sắc thân. Sắc thân là nhà ở, chẳng nói quy y. Chỉ ngộ ba thân của tự tánh liền nhận biết Phật của tự tánh. Tôi có một bài tụng VÔ TƯỚNG, nếu ai hay tụng trì, ngay lời nói khiến cho tội mê trong nhiều kiếp của ông một lúc tiêu dứt.

    Từ pháp thân khởi ra hóa thân, pháp thân cũng làm chỗ dựa cho báo thân, vậy pháp thân là gốc. Tuy nói ba thân nhưng đồng một thể, không thể tách rời nhau mà riêng có, không phải nói ba thân thành có ba cái thể riêng, thế nên ngộ trở lại tự tánh xưa nay thì có đủ ba thân. Đó là chỗ trở về nương tựa chân thật. Quy y đó là quy y chân thật, đời nay cho đến đời sau không mất, bởi Phật ba thân của tự tánh không thuộc về sắc thân. Còn quy y sắc thân chỉ một thời gian rồi phải bỏ.

    Người ta thường sống lầm theo chữ nghĩa, theo danh mà khởi tưởng, rồi bị tưởng gạt. Nghe nói ba thân liền nghĩ có ba cái thân, có đầu mắt tay chân mũi lưỡi, hiểu vậy là trái với chỗ Lục Tổ chỉ. Lục Tổ dạy ba thân nơi tự tánh, từ Pháp thân nghĩ ngợi tức là Phật hóa thân, mỗi niệm tự tánh tự thấy là Phật báo thân, vậy là ngay tự tánh. Phải hiểu thấu qua ngôn ngữ để đạt được ý sâu trong đó.

    Bài tụng Vô Tướng, nghĩa là phá chấp trên tướng.

    Tụng rằng:

         Người mê tu phước chẳng tu đạo,

         Chỉ nói tu phước đó là đạo.

         Bố thí cúng dường phước vô biên,

         Ba ác trong tâm vốn đã tạo.

    Người mê chỉ chấp vào một bên tu phước, không biết tu hành để đạt đạo, cho rằng tu phước là đạo, tức kẹt trong phước hữu lậu. Như bố thí cúng dường tuy được phước nhiều nhưng cũng là phước hữu lậu, có lúc sẽ hết. Hơn nữa, những điều ác ở trong tâm chúng ta đã tạo, phước đó không thể làm cho hết tội.

         Toan đem tu phước muốn diệt tội,

         Đời sau được phước, tội vẫn còn.

         Chỉ nhằm trong tâm trừ duyên tội,

         Thảy trong tự tánh thật sám hối.

    Tu phước muốn diệt tội thì không thể được. Tu phước là việc làm bên ngoài, còn tội do tâm làm cũng phải tự trong tâm trừ mới sạch được, nên muốn sạch tội phải trừ sạch duyên tội ở trong tâm, không còn có chỗ để tâm tạo tác nữa thì tội mới sạch. Vậy phải tu từ ngay trong tâm, dứt sạch mầm tạo tội ngay trong tâm. Ngay trong tự tánh sám hối mới trừ tận gốc tội, mới là sám hối tận gốc, gọi là chân sám hối, không phải làm trên hình thức bên ngoài.

         Chợt ngộ Đại thừa chân sám hối,

         Trừ tà hành chánh tức không tội.

         Học đạo thường quán nơi tự tánh,

         Liền cùng chư Phật đồng một thứ.

    Tỏ ngộ được pháp chân sám hối của Đại thừa mới chóng trừ tội lỗi, tức sám hối ngay tự tâm, trừ sạch trong tự tâm, không còn những tâm tà vạy, những tâm hư vọng, tâm chánh rồi thì tội mới không còn. Còn tâm tà làm sao hết tội? Nên nói trừ tà hành chánh. Không phải chỉ sám hối trên hình thức, lễ nghi bên ngoài mà được hết tội. Lễ sám hối để nhắc chúng ta phải thật lòng biết nhớ những điều lầm lỗi. Đối trước Phật, trước chúng Tăng, thành tâm nói lên điều lỗi lầm để xấu hổ, không còn dám tạo tội nữa. Như vậy, lễ sám hối là phương tiện bên ngoài, nhắc chúng ta gạn lọc trong nội tâm, không phải lễ sám hối là hết tội, phải trừ gốc trong tâm mới hết tội được. Người học đạo cần phải luôn quán nơi tự tánh để sáng tỏ lại tự tánh mới khế hợp với chư Phật. Đó là con đường chuyển mê khai ngộ.

         Tổ ta chỉ truyền Đốn pháp này,

         Nguyện khắp thấy tánh đồng một thể.

         Nếu muốn về sau tìm Pháp thân,

         Lìa các pháp tướng rửa trong tâm.

    Đây là pháp Đốn giáo chư Tổ từ trước đã truyền, không dễ gặp được. Nếu người chóng ngộ được pháp này tức liền thấy tánh. Khi thấy tánh thì cùng với chư Phật khế hợp về đồng một thứ, tức đồng một thể như nhau. Tánh Phật vốn không hai, sở dĩ có hai là vì chấp vào tánh chúng sanh này nên thấy ta khác Phật. Thấy tánh là vượt lên tâm phân biệt đối đãi kia-đây ngăn cách. Cho nên, nếu muốn tìm pháp thân phải lìa tướng bên ngoài, xoay trở về để rửa sạch trong tâm những thứ lầm mê liền tự thấy, không phải tìm đâu xa. Pháp thân ngay trong tự tâm chính mình, không có ở bên ngoài.

         Gắng sức tự thấy chớ lơ là,

         Niệm sau chợt dứt một đời thôi.

         Nếu ngộ Đại thừa được thấy tánh,

         Thành kính chắp tay chí tâm cầu.

    Ngài nhắc phải gắng sức tự thấy, chớ có lơ là. Nói gắng sức tự thấy cũng là lời nói phương tiện để ngăn ngừa buông lung để thời giờ luống qua vô ích. Nhưng cũng đừng lầm theo chữ nghĩa, nghe nói gắng sức tự thấy thì cố gắng để tự thấy, như vậy là không thể thấy. Tự thấy là buông hết những duyên bên ngoài, tâm tự khế hợp, còn cầu tự thấy thì trái xa.

    Hãy nhớ, ngay một niệm sau mà chợt dứt thì hết một đời! Đây là răn nhắc hãy nhớ sự vô thường cận kề để luôn tinh tấn, chỉ cần niệm trước đến, niệm sau chợt dứt là cáo chung một đời. Đời người ngắn ngủi như thế, sao nhiều người chưa chịu tỉnh?

    Nếu ngộ pháp Đại thừa này, nhận thấy được tự tánh xưa nay mới thấy vô cùng trân quý, không có gì trên thế gian này có thể sánh kịp. Thế nên, Lục Tổ chắp tay chí tâm cầu, không dám xem thường bỏ qua. Lục Tổ còn như vậy, chúng ta thì sao?

    Sư bảo:

    - Thiện tri thức! Cả thảy cần tụng lấy, nương theo bài tụng này tu hành, ngay lời nói thấy tánh, thì dù cách xa ta ngàn dặm, như luôn luôn ở bên ta. Ngay lời nói chẳng ngộ, tức đối diện mà cách ngàn dặm, đâu phiền từ xa đến.

    Trân trọng, hãy khéo đi!

    Cả chúng nghe pháp đều tỏ sáng, vui mừng vâng làm.

    Tổ nhắc cần phải y đây tu hành chứ không phải tụng suông nghe suông. Ngay lời nói mà thấy tánh thì tuy cách xa ngàn dặm cũng như gần bên Ngài, còn không thì tuy ở gần bên Ngài mà như cách xa ngàn dặm. Cũng như chúng ta ngày nay, nếu ngay lời đó thấy tánh thì thấy Tổ hiện tiền dù cách xa hơn ngàn năm. Người khéo học kinh Pháp Bảo Đàn sẽ luôn thấy Tổ hiện tiền, không phải chạy cầu xa xôi nhọc công đáng tiếc!

    Thượng Sĩ Tuệ Trung có câu:

        “Thôi tìm Thiếu Thất với Tào Khê,

        Thể tánh sáng tròn chẳng từng mê.”

    Ngài nói thôi tìm Tổ Bồ-đề Đạt-ma ở núi Thiếu Thất, cũng đừng đến Tào Khê tìm Lục Tổ. Ngay thể tánh sáng tròn chẳng từng mê của chính mình, thấy lại là xong!

    ***

Mục lục

Kinh Pháp Bảo Đàn - Tào Khê Nguyên Bản giảng ký
  • 1. SƠ LƯỢC KINH PHÁP BẢO ĐÀN VÀ PHẦN LƯU TRUYỀN
  • 2. SƠ LƯỢC VỀ SỰ TÍCH LỤC TỔ HUỆ NĂNG (Theo phần ngoại ký về duyên khởi)
  • 3. Phẩm 01 - NGỘ PHÁP TRUYỀN Y
  • 4. Phẩm 02 - GIẢI THÍCH CÔNG ĐỨC TỊNH ĐỘ
  • 5. Phẩm 03 - ĐỊNH HUỆ MỘT THỂ
  • 6. Phẩm 04 - CHỈ DẠY TỌA THIỀN
  • 7. Phẩm 05 - TRUYỀN HƯƠNG SÁM HỐI

Tìm kiếm

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 99348
  • Online: 16