Kinh Pháp Hoa giảng lục 1
24/03/2015 | Lượt xem: 59
Danh mục: Kinh - Luật
Tác giả: HT. Thích Thông Phương
Lời Đầu
-------------------
Bộ Kinh Pháp Hoa này lần đầu tiên chúng tôi được nghe Hòa Thượng Viện trưởng Thiền Viện Trúc Lâm giảng, thật là một đều bất ngờ. Lời Phật lời Thầy đã mở ra cho chúng tôi một chân trời mới mẻ chưa từng có. Niềm tin về thiền cũng như lòng tự tin nơi mình có đủ khả năng giác ngộ được phát khởi từ đó.
Rồi trải qua thời gian dài, nhiều năm gần gũi Hòa thượng để tu học, thực hành công phu, càng giúp chúng tôi cảm sâu lời dạy của đấng Giác Ngộ Vô Thượng. Quả là một chân lý tuyệt diệu không thể nói hết bằng lời.
“Diệu Pháp ấy”, đời đời vẩn là ánh sáng đưa người ra khỏi đường sanh tử lầm mê từ vô thủy kiếp.
Tri kiến Phật này, bản hoài của ba đời chư Phật ra đời, người người luôn phải nhớ, phải khai, phải sống.
Mật chỉ đấng Giác Ngộ ba lần ngăn Tôn Giả Xá-Lợi-Phất “Thôi thôi, đừng nói nữa; là tiếng sét vang rền mãi mãi đánh thức cho người học Pháp Hoa:Chớ chết chìm trong đám rừng chữ nghĩa khô cằn,chết cứng ở những trang giấy mực vô tri ấy! Ngôn ngữ không biết phóng quang đâu, chớ lầm bám chặt theo.
Ánh sáng giữa chặng mày kia, giờ đây ai thấy được ? Có lẽ nào nó đã tắt lịm từ lâu cách đây hơn hai mươi lăm thế kỷ hay sao?
Nhà lửa ba xe vẫn còn luôn để ngoài cửa chờ mổi chúng ta, hay là mổi chúng ta đang ngồi trên xe trâu trắng rồi đây!
Gã cùng tử con ông trưởng giả giàu sang vẫn còn lang thang đây đó, hay hay đã về nhà gặp cha già nhận lấy tài sản nghiệp ? Kinh Pháp Hoa muốn nói gì với mỗi chúng ta ?
Cỏ thuốc hiện bày khắp nơi trên thế gian này, có cây nào thấm ướt giọt mưa Pháp Hoa đang xối xuống đó chăng ?
Đói gặp cơm vua chẳng chịu ăn, còn đợi gì nữa ?
Lẽ thật đang hiện bày ra đó, công đức đó hiện đủ nơi sáu căn Thấy, Nghe, Giác , Biết, người chân thành trì kinh sẽ cảm nghiệm được ngay không nghi ngờ.
Phật Đại Thông Trí Thắng vẫn còn đang thuyết pháp đấy, chưa từng nhập diệt bao giờ, chớ vội tưởng tượng quay về quá khứ xa xôi vi trần kiếp.
Mười sáu Vương tử cũng luôn ra đời đấy, có ai thấy chăng ?
Tháp báu Đa bảo hiện ra kìa, phải một lòng chiêm ngưỡng, chớ để lầm qua. Mau thu hồi các Hóa Phật trở về, cửa tháp báu cang rền bung ra đó!
Ồ, vô số Bồ tát từ đất Tâm vọt lên kìa! Thật không ngờ, xưa nay chưa từng biết! Cha trẻ, con già chỉ làm mờ mắt anh chàng Tâm thức hay phân biệt kia thôi còn tuổi thọ vô lượng ấy, là sức sống chân thật hằng hữu, đâu che được con mắt Bồ tát Văn Thù, và phải nhờ chư Bồ tát đây mới giữ gìn được. Hành giả Pháp Hoa phải khai thác chỗ chỉ yếu này để sống vững theo lời phó chúc của đấng Giác Ngộ Vô Thượng.
Đến đây rồi, không còn có có Tâm khinh thường ai cả, vì người người đều có Pháp Hoa trong nhà: “Tôi chẳng dám khinh quý ngài, quý ngài đều sẽ thành Phật”.
Nam nữ, tăng tục , Việt Miên Lào .. v.v… cũng không phân chia ngăn cách.
Long nữ còn có đủ khả năng kia, thì chúng ta sao lại không có? Chớ để thân tướng nghiệp báo này làm lầm, rồi tự khinh mình thành lui sụt.
Song con đường Khai Thị Ngộ Nhập không phải dễ dàng nói ra suông. Để nhập được Pháp Hoa, trước phải quên cái NGÃ này! Đó là con đường bắt buộc hành giả chân chính phải đạp qua, không thể tránh né. Bồ tát Nhất Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến đốt thân, đốt tay cúng dường Phật, là có ý sâu, mỗi người cần nghiệm kỹ!
Diệu Âm, Quán Âm tiếp tục trừ cho sạch tập khí cái Ngã ấy thôi. Cho đến cuối cùng Bồ tát Phổ Hiền phủi sạch để hiện khắp nơi, hoàn thành cho Bồ tát Văn Thù khải phát từ ban đầu.
Mong rằng ánh sáng Pháp Hoa luôn chiếu đến với nhà nhà. Chân lý này hằng sống dậy khỏi những trang giấy chết. Ngày ngày càng có nhiều người tụng trì Pháp Hoa, khiến cho bản hoài chư Phật không bị gián đoạn trên thế gian.
Cuối cùng, vì đây là lời giảng ghi lại, tuy có chỉnh sửa nhưng chắc chắn nhiều lời, nhiều ý trùng lắp…, kính mong người đọc đạt ý quên lời, để cùng chia hưởng một vài tia sáng Pháp Hoa, đó chính là niềm vui chung cho sự ra mắt bộ kinh Pháp Hoa Giảng Lục này.
Tuy nhiên với bậc đã nhảy qua khỏi đầu lưỡi, hẳn phải ôm bụng cười vang, phảy tay đi thẳng.
Lưỡi Phật che trùm nuốt hết rồi!
Mùa đông năm Ất Dậu 2005
Kính ghi
KINH-DIỆU PHÁP LIÊN HOA-Giảng Lục
------------------
Pháp Phật sâu mầu chẳng gì hơn,
Trăm ngàn muôn kiếp khó được gặp,
Nay con nghe thấy vâng gìn giữ,
Nguyện hiểu nghĩa chân Đức Thế Tôn.
Hôm nay nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bộ kinh này nguyên bản bằng chữ Phạn, gần đây các nhà nghiên cứu phát hiện được tại vùng Tân Cương. Khoảng năm 1852 có một học giả người Pháp, ông dịch ra tiếng Pháp. Còn bản dịch mà chúng ta đang học ở đây là dịch từ bản chữ Hán.
Ở Trung Quốc, từ xưa có sáu bản dịch từ tiếng Phạn ra chữ Hán, nhưng dần dần về sau này thất lạc bớt, còn lại ba bản, gồm có:
- Bản thứ nhất, do Ngài Trúc Pháp Hộ dịch, gọi là Chánh Pháp Hoa Kinh, gồm có mười quyển và hai mươi bảy phẩm, dịch vào khoảng năm 286 Tây lịch.
- Bản thứ hai, là do Ngài Cưu Ma La Thập dịch, tức là bản chúng ta đang học ở đây, gọi là Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Bản này gồm tám quyển hai mươi tám phẩm, dịch khoảng năm 406 Tây lịch, vào thời Dao Tần.
- Bản thứ ba, do Ngày Xà Na Quật Đa và Đạt Ma Cấp Đa dịch, để tên là Thiêm Phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh. Gồm có tám quyển, hai mươi bảy phẩm, dịch vào khoảng năm 601 Tây lịch.
Về chú giải, cũng có nhiều bảm chú giải về Kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Ở bên Ấm Độ có Ngài Thế Thân chú giải, gọi là bộ Diệu Pháp Liên Hoa Ưu Bà Đề Xá.
Qua bên Trung Quốc có bộ Pháp Hoa Kinh Sớ cùa Ngài Trúc Đạo Sanh, Pháp Hoa Nghĩa Ký của Ngài Pháp Vân, Pháp Hoa Văn Cú, Pháp Hoa Huyền Nghĩa của Ngài Trí Khải, Pháp Hoa Nghĩa Sớ của Ngài Cát Tạng, Pháp Hoa Huyền Tán của Khụy Cơ v.v…
Qua phần tiếng Việt có bản dịch của Hòa thượng Thích Trí Tịnh là bản học ở đây. Có bản của ông Đoàn Trung Còn, bản của ông Mai Thọ Truyền, của Hòa thượng Trí Nghiêm v.v…
Trong đó bản của Hòa thượng Thích Trí Tịnh thông dụng, nên ở đây chúng ta dùng bản này để học. Đó là nói qua về bản kinh.
Kinh Pháp Hoa này, là một trong những bộ kinh Đại Thừa có duyên rất lớn với cõi này, được nhiều người mến mộ, kính quý đọc tụng. Bộ kinh này xiển dương về giáo lý, gọi là Khai Quyền Hiển Thật hoặc đưa Tam thừa trở về một Phật thừa. Nghĩa là trước đó có Tam thừa, là Thanh Văn, Duyên Giác và Bồ Tát, mà đến đây đưa vào một Phật thừa hết. Để nêu cao cho thấy rõ tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật.
Bởi vậy, trong đây Ngài Đề Bà Đạt Đa phá Phật đủ thứ, nhưng cũng được thọ ký, không bị bỏ sót ra ngoài, và trong bộ kinh này nhấn mạnh tông chỉ là: - Khai, Thị, Ngộ, Nhập Tri Kiến Phật, nghĩa là khai thị cho chúng sanh ngộ nhập tri kiến Phật. Đó là đại sự nhân duyên của Phật ra đời, tức là một nhân duyên, một việc lớn lao Phật ra đời. Chính đó là bản hoài của Phật, Ngài ra đời là vì mục đích khai thị cho chúng sanh ngộ nhập Tri Kiến Phật. Đó là điểm chính, còn dùng phương tiện này, phương tiện khác đều là những cách tạm thời để đưa về chỗ này. Cho nên có những lúc Phật chưa nói hết được bản hoài của Ngài thì Ngài dùng phương tiện nói thế này, thế kia. Chẳng hạn, như mấy người mới vào học đạo và nói thẳng như vậy thì họ chưa tin nổi, thì dạy tu thập thiện, ngũ giới rồi lần lần lên tạo những nghiệp lành, bỏ ác để bớt đi nghiệp ác. Đó cũng là cách mình trở về từ từ, nhưng mà chưa chỉ thẳng ở đây.
Đến đây, Đức Phật Ngài thổ lộ ra hết, đưa thẳng chĩ rõ mọi người đều có tánh Phật, đều có tánh Phật, đều có thể thành Phật. Về tông chỉ này, trong kinh Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ có dạy Ngài Pháp Đạt:
- Ông tụng niệm kinh này mà ông có biết kinh này lấy gì làm tông chăng ?
Ông thưa:
- Con chỉ nương theo văn mà tụng niệm, đâu có biết tông thú.
Tổ mới dạy:
- Tôi chẳng biết chữ, bây giờ ông hãy lấy kinh tụng qua một lần, tôi sẽ giải nói cho.
Pháp Đạt liền tụng thuộc lòng, tụng đến phẩm Thí Dụ, Tổ bảo dừng lại, rồi nói:
“Thôi kinh này vốn lấy nhân duyên ra đời làm tông, dù có nói nhiều thứ thí dụ cũng không ra ngoài ý này, mà cái gì là nhân duyên? – kinh nói:” chư Phật Thế Tôn chỉ vì một đại sự nhân duyên nên hiện ra nơi đời”. Một đại sự đó tức là Tri Kiến Phật.
Người đời bên ngoài mê đắm nơi tướng, bên trong mê đắm nơi không. Nếu mà hay ở nơi tướng mà lìa tướng, nơi không lìa không, tức là trong ngoài chẳng mê. Nếu ngộ được pháp này, một niệm mà tâm mở sáng đó là Khai Tri Kiến Phật. Phật vẫn Giác đây chia ra bốn môn: Khai tri kiến giác, Thị tri kiến giá, Ngộ tri kiến giác, Nhập tri kiến giác. Nếu nghe khai thị liền có thể ngộ nhập tức là tri kiến giác, chân tánh xưa nay sẽ hiện ra thôi, ông hãy dè dặt chớ hiểu lầm ý kinh. Nghe thấy Phật nói Khai thị ngộ nhập rồi tu cho là tri kiến của Phật, còn bọn ta không có phần. Nếu khởi hiểu nghĩa này, chính là chê bai kinh, là hủy báng Phật. Ngài đã là Phật thì đã đủ tri kiến rồi, đâu cần khai nữa. Nay ông hãy tin Tri kiến Phật là tự tâm ông, trọn không có Phật khác.
Bởi vì tất cả chúng sanh tự che lấp cái sáng tỏ rồi tham đắm nơi trần cảnh, bên ngoài thì duyên ra, bên trong thì quấy động, đành chịu rong ruổi làm nhọc cho Đức Thế Tôn mới từ tam muội dậy, rồi nói hết lời để khuyên:- “hãy nghỉ ngơi đi”, chớ có tìm cầu bên ngoài, thì cùng Phật không hai. Cho nên nói là Khai Tri Kiến Phật”.
Lục Tổ nói rõ: Tông thú của kinh là lấy nhân duyên ra đời của Phật, nhân duyên ra đời là gì ? – Là KHAI THỊ cho chúng sang Ngộ Nhập Tri Kiến Phật.
Tri là biết. Kiến là thấy. Phật là giác. Cái thấy biết giác ngộ ngay nơi chính mình, đánh thức cái giác ngộ chính mình mà bỏ quên, đó là đại sự nhân duyên của Phật ra đời, mà đó cũng là tông thú của bộ kinh. Bởi vậy mà Ngài nói rằng:
- Phật nói bao nhiêu các phương tiện, bao nhiêu thí dụ cũng dẫn về chỗ đó, nhắm vào chỗ đó, mà chúng ta mê lầm, dùng tâm chúng sanh cứ duyên ra bên ngoài, bên trong thì khuấy động cho nên mới phải nhọc nhằn Đức Thế Tôn từ tam muội dậy, rồi Ngài mới nói thế này thế kia - Để khuyên mọi người hãy ” nghỉ ngơi đi”, đừng chạy nữa, hãy trở về tri kiến Phật nơi mình.
Như vậy, người nghe kỹ và hiểu sâu nghĩa lý của kinh này, đó là trồng sâu căn lành Bồ đề hay hạt giống Phật, có cơ hội thì nó nẩy mầm. Nghe sâu tức là nghe tận nội tâm của mình, chớ không nghe ngoài tai. Đó là nói qua tông thú bộ kinh, kế nói về người dịch.
Kinh này do Ngài Cưu Ma La Thập dịch vào đời Dao Tần, khoảng thế kỷ V, tại chùa Thảo Đường, ở Trường An. Ngài là một vị dịch kinh nổi tiếng và được đa số người rất tin tưởng. Những bộ kinh Ngài dịch ra, văn sáng sủa, lưu loát. Khi sắp tịch, Ngài có nguyện:” Nếu những kinh mà Ngài dịch ra không sai với ý Phật thì cho khi thiêu, cái lưỡi vẫn còn không hoại, không hư”. Quả nhiên khi Ngài tịch, thiêu rồi lưỡi vẫn còn nguyên. Đó là để chứng tín kinh của Ngài dịch ra không sai ý Phật.
-
1. Giải đề kinh
Kinh này gọi là Diệu Pháp Liên Hoa. Vậy Diệu Pháp là gì ?
- Diệu: Là mầu nhiệm. Sao gọi là mầu nhiệm ? - Bởi vì, chỗ này nói không thể hết, nghĩ không thể đến, gọi là dứt đường ngôn ngữ, bặt dấu tâm hành. Bất khả thuyết, bất khả tư nghi, tạm gọi là Diệu. Nếu nói được, nghĩ được thì đâu còn Diệu nữa.
Như Ngài Đạt Quán Dĩnh nói về sự lý với ngàu Cốc Ẩn, Sư nói:
- Như Thạch Đầu nói: “ Chấp sự nguyên là mê, khế lý cũng chẳng phải ngộ”.
Đó là ý nghĩa Diệu Pháp.
- Liên Hoa: tức là hoa sen, là dụ, còn Diệu Pháp là chỉ cho Pháp. Bởi vì Pháp đó quá mầu nhiệm, không nghĩ bàn được, bây giờ làm sao cho người hiểu đây, nên tạm thí dụ hoa sen. Người khéo nhân đây thấy kia, nhân dụ này thấy lý kia, chớ không nên mắc kẹt mà phải thấy được ngoài cái dụ này. Đó cũng nhắc mình thấy được ý ngoài lời.
Bởi vì hoa sen có nhiều ý nghĩa, nhưng đây nhấn mạnh hai điểm:
*Hoa sen: nó từ bùn nhơ mà nhô lên, rồi nó tỏa hương mà không dính bùn, không bị bùn nhơ làm ô nhiễm. Cũng vậy, cái Tri Kiến Phật đó, ở trong phiền não chúng sanh đều có. Rõ Tri Kiến Phật này thì nó vốn xưa nay chưa từng nhiễm ô. Tuy ở trong phiền não mà vốn tự thanh tịnh. Nói như vậy có ai dám tin không? Nếu nghiệm kỹ thì thấy rõ, tất cả chúng ta luân hồi trong sanh tử này chừng bao lâu rồi? Mình vào trong vòng luân hồi này, Phật nói từ vô thủy, vô lượng kiếp không biết thời gian là bao lâu nữa. Trong suốt thời gian luân hồi đó cũng làm đủ thứ. Làm trời cũng có, làm quỷ cũng có, có khi xuống địa ngục, súc sanh..., tại sao bây giờ còn ngồi đây?
Cho thấy rõ, trong vòng luân hồi, trong vô thường sanh diệt đó, nó có cái không mất. Cho nên hôm nay vẫn còn ngồi đây! Để tin rằng: trong đó có cái chân thật, gọi là Tri Kiến Phật, nó ở trong phiền não, sanh tử mà không bị ô nhiễm. Do đó, ai được đủ duyên tỏ ngộ thì liền nhận rõ, quả thực lâu nay mình bỏ rơi một cái thật là tự đáng thương vô cùng! Ngay khi đức Phật mới thành đạo, trong Kinh Hoa Nghiêm kể, Ngài liền la lên:
- Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đầy đủ đức tướng trí tuệ của Như Lai. Vì vọng tưởng chấp trước mà không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng thì trí thanh tịnh, trí tự nhiên, trí vô sư tự hiện tiền.
Còn như Ngài Lục Tổ khi đại ngộ thì Ngài la lên:
Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh xưa nay vốn tự đầy đủ.Rõ ràng xưa nay nó không thiếu, nó cũng chưa từng sanh diệt, vốn tự thanh tịnh, nó ở trong phiền não của chúng sanh đây mà không bị nhiễm ô. Đó là ý nghĩa hoa sen từ bùn nhơ nhô lên tỏa hưông thơm ngát, tức một ý nghĩa nhấn mạnh về Tri Kiến Phật, vốn tự thanh tịnh lìa nhiễm ô.
*Thứ hai: hoa sen nhân quả đồng thời. Có hoa sen là có gương, có gương là có sẵn quả trong đó. Hoa là nhân, gương là quả thì nhân quả đồng thời. Cũng như mình, có tâm tức có Phật, nhưng mê Tri Kiến Phật ẩn, ngộ thì hiện ra sáng tỏ tự bao giờ, chớ không phải mình ngộ nó mới có. Cho nên trong nhà Thiền có câu "Kiến tánh thành Phật". Kiến tánh là mình ngộ tự tánh mình hay đây là ngộ Tri Kiến Phật, thì liền rõ nó là sẵn đó rồi, vốn sẵn thành Phật rồi. Nhưng nó cũng còn có những vô minh, những tập khí điên đảo chưa sạch hết, mình phải gạn lọc cho hết đi thì tròn sáng thành Phật, là thành cái sẵn có này thôi, không có gì khác. Gọi là nhân quả đồng thời, chớ không phải là do mình tạo ra mới có, từ nhân mà sanh ra quả không phải như vậy. Xưa, vua Tống Hiếu Tông hỏi Ngài Phật Chiếu nhân ngày Phật thành Đạo. Ông hỏi:
- Đức Thích Ca, sáu năm ở trong núi Tuyết tu hành khổ hạnh, rốt cuộc đó là thành cái gì?
Thiền sư Phật Chiếu đáp:
- Sẽ bảo bệ hạ đã quên.
Thành cái bệ hạ đã quên chứ không có gì khác. Tưởng đâu Phật khổ hạnh vậy đó, là thành được cái gì phi phàm ngoài sức tưởng tượng, nhưng không ngờ thành là thành cái “sẵn có tự bao giờ mình bỏ quên”. Cái đó là cái gì? - Tức là Tri Kiến Phật.
Cũng như Tuyết Phong đến chỗ Hoà thượng Đức Sơn thưa:
- Việc ở trong tông thừa từ trước con có phần chăng?
Hòa thượng Đức Sơn đánh cho một gậy, bảo:
- Nói cái gì?
Ngay đó Tuyết Phong bảo rằng Sư giống như cái thùng sơn lũng đáy, rổng rang.
Hỏi cái việc trong tông thừa từ trước đến giờ con có phần chăng? Tức là nghi mình không có phần, nhưng mà cái đó có sẵn nơi mọi người, cho nên Ngài Đức Sơn chỉ đập cho một gậy và bảo: "Nói cái gì?". Ngay đó Tuyết Phong liền rỗng rang hết, không còn có cái gì để bám, để tìm cầu nữa, như thùng sơn lủng đáy.
Sau khi Sư ra giáo hoá, có vị Tăng hỏi:
- Hòa thượng ở chỗ Đức Sơn được cái gì mà trở về?
Ngài nói:
- Ta đi tay không, về tay không.
Cũng ngầm ý nhận rõ cái Tri Kiến Phật này hay cái Diệu Pháp đó sẵn có đầy đủ nơi tự tâm của mỗi người, của chính mình. Bởi vì có tâm tức là có giác, do chúng sinh mê lầm không hay biết, cho nên Đức Phật mới ra đời thưông xót, dùng đủ mọi phưông tiện để đánh thức mình. Cũng như các Tổ ra đời, có khi dùng tiếng hét để đánh thức mình nhớ lại, tỉnh lại. Tóm lại, hoa sen là dụ cho cái Tri Kiến Phật sẵn có nơi chúng ta, dù ở nơi phiền não nhưng cũng không bị nhiễm ô. Ngay nơi đây tỏ sáng trở lại, là nó sẵn có đã thanh tịnh tự bao giờ, không phải do ai làm ra, cũng không phải do mình mới tu mà được.
Như vậy, ý nghĩa Diệu Pháp Liên Hoa đã giải rõ. Nhắc lại, đề kinh này dùng pháp và dụ lập đề. Diệu Pháp là pháp, còn Liên Hoa là dụ. Chính ngay đề đó đã ngầm ý nghĩa sâu xa, nhắc chúng ta phải nhân cái này mà thấy được cái kia, không nên chấp bám vào cái phưông tiện đó.
Vậy đề Kinh có thể dịch cho rõ ra là: Kinh Hoa Sen Diệu Pháp hay Kinh Hoa Sen Bổn Pháp Nhiệm Mầu. Ngay đề Kinh này thôi, nếu người lanh lợi một chút thì cũng mở cửa vào được rồi, khỏi phải đợi nói nhiều. Đây nhấn mạnh lại: Cái Hoa Sen Diệu Pháp này, hiện giờ nó ở đâu? Làm sao thấy? Tiếp vào phần chánh văn.PHẦN CHÁNH VĂN
------------------------------Trước khi vào chánh văn, nói qua về phần phân khoa của bộ Kinh này. Bộ Kinh này gồm có 28 phẩm. Phân khoa là chia ra nhiều phẩm theo sự sai biệt tùy với chỗ nhận của mỗi Ngài.
Từ xưa có vị phân làm nhân môn, quả môn. Nhân môn tức là nói về nhân; quả môn nói về quả. Lại có vị chia làm bốn đoạn sau:
- Thứ nhất, phẩm đầu là phẩm Tựa gọi là đoạn Tự
- Thứ hai, từ phẩm Phương tiện đến phẩm An Lạc Hạnh. Đoạn này gọi là Khai Tam Hiển Nhất, tức là mở ba hiển một, là đưa Tam thừa trở về Nhất thừa.
- Thứ ba, từ phẩm Tùng Địa Dũng Xuất tới phẩm Công Đức, là đoạn Khai Cận Hiển Viễn (mở gần hiển xa).
- Thứ tư, từ phẩm Như Lai Thọ Lượng cho đến hết. Đó là đoạn Lưu Thông.
Ngài Thiên Thai Trí Giả thì phân ra Bản môn và Tích môn.
- Bản, là chỉ cho sẵn có từ xưa, chỉ cho Phật bản địa, Phật lâu xa.
- Tích, là chỉ cho đức Phật từ bản địa lâu xa đó mà hiện ra dấu tích mới thành Phật gần đây, tức Phật Thích Ca mới thành ở Ấn Độ là Tích môn. Phật sẵn có tự bao giờ là Bản môn.
Mười bốn phẩm đầu là Tích môn, mười bốn phẩm sau là Bản môn. Phần Tích môn chia phần tự, phần chánh văn, phần lưu thông.
Ở đây chúng ta chia theo Ngài Hám Sơn đơn giản hơn. Ngài Hám Sơn chia ra ba phần là phần tựa, phần chánh tông và phần lưu thông.
Phần tựa gọi là phẩm Tựa.
Phần chánh tông gồm 27 phẩm sau, trong đó chia ra làm bốn phần:
- Phần một: từ phẩm Phương tiện đến phẩm Pháp sư, gồm 9 phẩm đầu gọi là Khai Tri Kiến Phật. Tức mở bày cho người nhận hiểu nơi mình có đầy đủ Tri Kiến Phật.
- Phần hai: chỉ một phẩm Hiện Bảo Tháp, gọi là Thị Tri Kiến Phật, tức chỉ bày Tri Kiến Phật.
- Phần ba: từ phẩm Đề Bà Đạt Đa đến phẩm Chúc Lụy, gồm 11 phẩm. Đó gọi là Ngộ Tri Kiến Phật.
- Phần bốn: từ phẩm Dược Vương Bổn Sự đến phẩm Phổ Hiền, gồm 6 phẩm, gọi là Nhập Tri Kiến Phật.
Ngài nói rõ phần Khai - Thị - Ngộ đó thuộc về phần Tín giải, tức tin hiểu tỏ sáng. Phần Nhập là phần hành chứng, là chứng nghiệm. Đó là nói phần chánh văn.
Phần lưu thông: gồm mấy câu cuối của phẩm Phổ Hiền là "Tất cả đại chúng trong hội nghe Kinh này đều rất vui thọ trì lời Phật, làm lễ mà đi".
Đó là lược qua phần phân khoa. Bây giờ vào chánh văn.
-
2. Phẩm tựa
CHÁNH VĂN:
1. Tôi nghe như thế này: Một thuở nọ đức Phật ở trong núi Kỳ Xà Quật, nơi thành Vương Xá, cùng chúng đại Tỳ kheo một muôn hai nghìn người câu hội. Các vị đó đều là bậc A-la-hán, các lậu đã hết, không còn phiền não, việc lợi mình đã xong, dứt sự ràng rịt trong các cõi, tâm được tự tại. Tên của các vị đó là: A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp, Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Dà Gia Ca Diếp, Nan Đề Ca Diếp, Xá Lợi Phất, Đại Mục Kiền Liên, Ma Ha Ca Chiên Diên, A Nậu Lâu Đà, Kiếp Tân Na, Kiều Phạm Ba Đề, Ly Bà Đa, Tất Lăng Già Bà Ta, Bạc Câu La, Ma Ha Câu Si La, Nan Đà, Tôn Đà La Nan Đà, Phú Lầu Na Di Đa La Ni Tử, Tu Bồ Đề, A Nan, La Hầu La v.v… Đó là những vị đại A la hán, hàng tri thức của chúng.
Lại có bậc hữu học và vô học hai nghìn người. Bà Tỳ kheo ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề, cùng với quyến thuộc sáu nghìn người câu hội, mẹ của La Hầu La là bà Tỳ kheo ni Gia Thâu Đà La cũng cùng với quyến thuộc câu hội.
GIẢNG:
Đây là phần lục chủng chứng tín, hay lục chủng thành tựu, phần này còn dài. Ở đây giải trước phần đầu này.
*Tôi nghe: gọi là Văn thành tựu. Tức là chỉ cho Ngài A Nan, Ngài nghe.
A Nan là một vị đa văn đệ nhất, dịch là Khánh Hỷ, Ngài là em chú bác với Phật. Sử chép Ngài A nan có dung mạo rất là đẹp đẽ, mặt như trăng tròn, mắt như sen xanh, thân như gương sáng. Ở trong hàng đệ tử lớn của Phật Ngài A Nan đặc biệt từ trước tới sau đều được mọi người kính mến. Theo kinh luận xưa nói có ba vị A Nan là:
1. A Nan Đà: dịch là Khánh Hỷ, Hoan Hỷ.
2. A Nan Bạt Đà: dịch là Hoan Hỷ Hiền.
3. A Nan Bà Già: gọi là Hoan Hỷ Hải.
Theo bộ luận xưa và theo Kinh Niết Bàn, Ngài A Nan có đủ tám pháp:
Tín căn kiên cố: Nghe qua 12 bộ kinh, Ngài liền tin nhận vững chắc và hay sanh được tất cả pháp lành.
Tâm chất trực ngay thẳng: tâm Ngài ngay thẳng chân thật. Nghe rồi thì y chánh pháp mà tin thôi, luôn luôn lìa tà kiến hư vọng.
Thân không bệnh khổ: Ngài được phước thân không bệnh khổ.
Siêng năng tinh tấn: Ngài thường siêng năng tinh tấn.
Đầy đủ niệm tâm: Nghe rồi tâm nhớ nghĩ không quên.
Tâm không kiêu mạn: Ngài tuy được đa văn nhưng không kiêu mạn.
Thành tựu định ý: tất nhiên nghe rồi y pháp tu nhiếp tâm, thành tựu được thiền định.
Từ nghe mà sanh trí: tức là Ngài nghe những nghĩa thú vô lượng, khiến sanh được những trí tuệ sáng thêm, đều rõ thấu được tất cả.
Phần này gọi là phần Văn thành tựu.
*Như thế này: là Tín thành tựu, chỉ cho pháp được nói ra.
*Một thuở nọ: Là thời thành tựu. Nghe nói, nói cái gì? - Tức nói Pháp Hoa này. Nói ở đâu? Lúc nào? Ở đây nói một thưở thôi, không nói lúc đó là lúc nào. Bởi vì thời gian xưa tới nay là cách xa, thứ hai từ Ấn Độ qua Trung Hoa lịch số xưa có sai biệt. Do đó trên đây nói một thuở vậy thôi.
*Đức Phật: là chủ thành tựu.
*Ở trong núi Kỳ Xà Quật, nơi thành Vương Xá: là xứ thành tựu, tức là chỗ nơi nói ở đâu.
Núi Kỳ Xà Quật: Dịch là Linh Thứu, nói gọn là Linh Sơn. Núi này nằm ở Đông Bắc thành Vương Xá, nước Ma Kiệt Đề hoặc Ma Kiệt Đà. Bởi vì núi này phần đỉnh giống như đầu con chim thứu, cho nên gọi là Linh Thứu. Ở đây còn có ý nghĩa là núi này phía nam có rừng gọi là rừng Thi Đà, nơi đây dùng để bỏ thây người chết. Bởi vậy các vị Tỳ kheo khi quán bất tịnh thường vào đây quán. Vườn này bỏ thây chết nên chim thứu thường đến đây ăn xong rồi bay đậu trên núi này, nên cũng gọi là Linh Thứu. Ngài Trí Giả nói núi này có năm ngôi tinh xá là:
Tinh xá Thiên Chủ Huyệt
Tinh xá Thất Diệp Huyệt
Tinh xá Xà Thần Sơn
Tinh xá Thiếu Độc Lực Sơn
Tinh xá Kỳ Xà Quật Sơn
Thành Vương Xá: tên tiếng Phạn gọi là La Duyệt Kỳ. Đây là thủ đô của nước Ma Kiệt Đà. Thành này lúc đương thời do Vua Bình Sa Vương trị vì, sau đó là Vua A Xà Thế, hiện nay vẫn còn nền cũ ở bên phía nam của thành phố vùng Trung du sông Hằng. Đó là một trong những trung tâm truyền giáo của đức Phật ngày xưa. Là chỗ thịnh hành nhất của Phật giáo trong thời đức Phật.
Theo bộ Đại Đường Tây Vức Ký, trong vùng phụ cận này có hai suối nước nóng, có tháp hàng phục voi say. Khi Vua A Xà Thế thả voi say đến đạp Phật, được Phật hàng phục, cho nên có tháp đó. Có thất đá Tất- bát-la, thất đá của Đề Bà Đạt Đa nhập định. Có tháp của Tỳ kheo tự sát chết, có tháp xá lợi Phật, tháp xá lợi nửa thân của Ngài A Nan, có trụ đá của Vua A Dục. Đây là nói qua về xứ thành tựu.
*Chúng thành tựu: rất dài, trước là các vị đại Tỳ kheo một muôn hai nghìn người câu hội, tên các vị đó là: A Nhã Kiều Trần Như, Ma Ha Ca Diếp… La Hầu La. Đó là những vị đại A la hán hàng tri thức của chúng. Lại các bậc hữu học và vô học, các Tỳ kheo, các bậc đại Bồ Tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đạo Sư Bồ Tát. Sau đó đến Thiên Long Bát Bộ, Thích Đề Hoàn Nhơn cùng quyến thuộc, Minh Nguyệt Thiên Tử… Bửu Quang Thiên Tử, Tự Tại Thiên Tử, Đại Tự Tại Thiên Tử, chủ cõi Ta bà như Phạm Thiên Vương v.v… Có tám vị Long Vương, bốn vị A Tu La Vương, bốn vị Ca Lâu La Vương, cuối cùng là vua A Xà Thế cùng trăm nghìn quyến thuộc khác cùng câu hội.
A Nhã Kiều Trần Như: đây là một trong năm vị Tỳ kheo Phật độ đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Kiều Trần Như là họ, dịch là Hỏa khí, thuộc dòng Bà la môn. A Nhã là tên, dịch là Liễu Giải hoặc Dĩ Tri hay Sơ Tri, còn gọi là Vô Trí. Là vị khi Phật giảng về Tứ Đế, Phật hỏi: "Ai hiểu chưa?" thì Ngài là người hiểu đầu tiên. Ở trong hàng đệ tử Phật, Ngài là một Trưởng lão có tuổi hạ cao nhất.
Năm vị Tỳ kheo đầu tiên là:
- Ngài A Nhã Kiều Trần Như.
- Ngài Bạt Đà La, có khi gọi là Ba Đề.
- Ngài Thập Lực Ca Diếp.
- Ngài Bà Sáp Ba.
- Ngài A Thấp Ba Thệ.
Ma Ha Ca Diếp: tức là Ngài Đại Ca Diếp, vì Ca Diếp có nhiều vị. Trung Hoa dịch là Quy Thị hay Ẩm Quang, vì Ngài có thân sáng chói. Tên của Ngài là Tất Bát La, do khi xưa mẹ ngài cầu nơi thọ thần Tất Bát La mà sinh ra nên lấy đó đặt tên. Ngài là vị tu hạnh đầu đà bậc nhất.
Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp: là ba anh em Ca Diếp, gọi là tam Ca Diếp.
Ưu Lâu Tần Loa: dịch là Mộc Qua Lâm, là anh của hai vị Ca Diếp kia và cũng là thầy của Vua Bình Sa Vương. Ngài ban đầu tu theo ngoại đạo có 500 đệ tử, tự cho mình đã đắc A La Hán rồi, cho nên khi Phật muốn hóa độ Ngài thì Phật dùng thần thông để độ, nhưng Ngài cứ bảo rằng:
- Tuy là Phật có thần thông như vậy nhưng cũng chẳng bằng ta, vì ta đã đắc A La Hán rồi.
Cuối cùng Phật mới bảo:
- Ông chẳng phải A La Hán, chẳng có được Đạo.
Khi đó ông mới giật mình, sau đó Phật khai thị và Ngài được khai ngộ theo Phật, dẫn thêm 500 đệ tử của Ngài theo luôn. Kế đó hai người em là Già Da Ca Diếp và Na Đề Ca Diếp nghe anh đã theo Phật, trở về cũng theo Phật luôn. Ngài hay cung cấp tứ sự cho tứ chúng, là bậc nhất.
Na Đề: là Hà hay Giang. Ngài tâm ý lặng lẽ, hàng phục hết những kiết sử, tu hành rất là tinh tiến bậc nhất.
Già Da: là Tượng thành. Ngài quán rõ các pháp tất cả đều không. Không có chấp trước và cũng khéo hay giáo hóa bậc nhất.
Xá Lợi Phất: nói đủ là Xá Lợi Phất Ca, dịch là Thân Tử hay Thu Lộ Tử. Đó là vị có trí tuệ bậc nhất, có khi gọi là Xá Lợi Tử như trong Tâm kinh. Mẹ Ngài là con gái vị Luận sư Bà la môn ở thành Vương Xá. Khi còn ở trong bụng mẹ, Ngài đã giúp mẹ biện luận hơn hẳn tất cả mọi người.
Đại Mục Kiền Liên: Mục Kiền Liên là họ, dịch là Tán Tụng. Tên riêng là Câu Luật Đà dịch là Thiên Bão, cũng thuộc dòng Bà la môn, ở thôn Câu Luật Đà. Ngài với Ngài Xá Lợi Phất là hai người bạn thân từ nhỏ. Trước khi theo Phật thì Ngài theo ông San Xàø Dạ, sau khi Ngài Xá Lợi Phất quy y Phật thì Ngài cũng theo Phật và Ngài đắc được thần thông bậc nhất. Đó là hai vị đại đệ tử của Phật.
Ma Ha Ca Chiên Diên: dịch là Đại Tiễn, cũng dịch là Chủng Nam, ở xứ A Bàn Đề miền Tây Ấn Độ. Trước Ngài theo tu học với Tiên A Tư Đà (ông Tư Đà coi cho Thái tử Tất Đạt Đa khi mới sinh ra). Sau khi Tiên A Tư Đà mất có dặn lại Ngài hãy đến lễ Thế Tôn để thờ làm thầy. Cho nên sau đó Ngài đến và theo Phật. Ngài là vị Luận nghị bậc nhất.
A Nậu Lâu Đà: có chỗ gọi là A Na Luật, dịch là Vô Bần hay Như Ý, là vị Thiên nhãn bậc nhất, con của vị Cam Lộ Phạn Vương, là anh em chú bác với đức Thế Tôn. Ngài xuất gia cùng một lúc với các Ngài A Nan, Ngài Nan Đà, ngài Ưu Ba Ly v.v…
Kiếp Tân Na: dịch là Phòng Túc, do cha mẹ của Ngài cầu ngôi sao Phòng rồi cảm sanh ra. Lúc đầu Ngài xuất gia nhưng chưa có gặp Phật. Nghe nói Phật thì Ngài hướng về Phật, trong đêm đó gặp trời mưa, cho nên Ngài nghỉ tạm trong phòng của một người thợ gốm, lấy cỏ làm tòa. Sau đó cũng có một vị Tỳ kheo vào đó để nghỉ tạm. Ngài mới lấy tòa cỏ của mình nhường cho vị Tỳ kheo đến sau. Chính Ngài thì ngồi dưới đất, trong đêm đó Ngài hỏi han. Vị Tỳ kheo sau mới hỏi Ngài:
- Vậy chứ ông muốn đi đâu?
Ngài thưa:
- Muốn đi tìm Phật.
Vị Tỳ kheo sau mới vì Ngài mà thuyết pháp. Thuyết pháp xong thì Ngài hoát nhiên đắc đạo. Lúc đó vị Tỳ kheo sau mới hiện hình ra chính là đức Phật hiện đến độ Ngài, ở chung một phòng với đức Phật mà không hay.
Kiều Phạm Ba Đề: dịch là Ngưu Tích hay Ngưu Tư. Do quả báo của kiếp trước, thường sau khi ăn xong thì cái miệng của Ngài hay nhơi nhơi như trâu nhơi Ngài được Tôn giả Xá Lợi Phất dẫn dắt tu chứng được A La Hán. Phật sợ Ngài ở thế gian mọi người thấy vậy chê bai sẽ bị đọa, cho nên Phật bảo Ngài hãy lên cung trời mà ở. Do đó Ngài thường lên cung trời ở. Khi Phật nhập diệt, các vị kết tập kinh điển thì Tôn giả Ca Diếp cho người lên cung trời thỉnh Ngài, lúc đó Ngài mới hay Phật nhập diệt rồi. Nhưng sau đó Ngài cũng không có xuống mà ở trên đó Ngài nhập diệt luôn.
Ly Bà Đa: dịch là Ly Việt hoặc Thường Tác Thanh, Giả Hòa Hợp. Ngài là em của Tôn giả Xá Lợi Phất. Cha mẹ của Ngài cầu sao Ly Bà Đa mà sanh ra. Ngài có lúc gặp mưa vào nghỉ ở một đền thờ Thần, gặp một con quỷ vác thây chết vô trước, còn một con đi sau. Hai con giành nhau thây chết, con nào cũng nói thây chết là của nó, hai con nhờ Ngài phân xử xem của ai. Ngài nghĩ rằng, bây giờ mà nói dối thì cũng chết, vì con nào cũng là quỷ, thôi chi bằng nói thật. Ngài mới chỉ con quỷ vô trước nói là của con quỷ này. Con quỷ sau tức giận nó bèn bứt tay, bứt chân của Ngài. Con quỷ trước thấy vậy cảm thương, nó bèn lấy tay, chân của thây chết ráp vào cho Ngài. Cuối cùng, hai con lấy những phần bứt ra ngoài cùng chia nhau ăn. Lúc này Ngài mới suy nghĩ: "vậy thì thân này là của ai đây?" Vì tay chân của Ngài bị chúng bứt đi, rồi lấy tay chân của thây chết ráp vô, vậy thân này là của ai? Lúc này Ngài mới cảm nhận được thân người là hư huyễn không thật, nó không phải là của ta gì hết. Vì vậy khi đến chỗ đức Phật nghe nói lý bốn đại hòa hợp, thì Ngài cảm nhận được và xin xuất gia tu chứng A La Hán.
Tất Lăng Già Bà Ta: dịch là Dư Tập. Ngài có dư tập kiêu mạn 500 đời làm Bà la môn. Có lần Ngài đi ngang qua sông Hằng, nước lúc đó chảy xiết Ngài không qua được, Ngài mới kêu Thần sông Hằng và bảo:
- Này con tiểu tỳ, hãy dừng dòng chảy để cho ta đi qua.
Sau đó Thần sông Hằng đi đến thưa với Phật:
- Đệ tử của Ngài mắng tôi.
Phật kêu Ngài xin lỗi. Nghe lời Phật, Ngài đến chấp tay lại xin lỗi và nói:
- Con tiểu tỳ, thôi chớ giận.
Các vị Tỳ kheo nghe Ngài nói vậy đều cười, vì nói xin lỗi mà như mắng người ta. Phật mới dạy: Đây là do tập khí kiêu mạn nhiều đời của Ngài khi làm Bà la môn đó thôi, chứ sự thật thì Ngài không có tâm kiêu mạn.
Bạc Câu La: dịch là Thiện Dung hoặc là Vĩ Hình. Lúc nhỏ bà mẹ kế ghét Ngài, tìm cách giết hại Ngài đến năm lần nhưng không giết được, bởi vì đây là kiếp chót của Ngài sẽ chứng quả A-La-Hán. Sau cùng Ngài gặp Phật và tu đắc đạo. Đặc biệt Ngài sống đến 160 tuổi, được phước là thân không có bệnh. Ngài được gọi là trường thọ bậc nhất.
Ma Ha Câu Si La: dịch là Đại-Tất, có chỗ gọi là Trường Trảo Phạm Chí, là cậu của Ngài Xá Lợi Phất.
Nan Đà: dịch là Hoan Hỷ, là em khác mẹ với đức Thế Tôn, nhưng để phân biệt với Ngài Mục Ngưu Nan Đà cho nên gọi là Tôn Đà La Nan Đà. Tôn Đà La là tên của người vợ sắp cưới. Theo trong sử cũng có một vị tên là Tôn Đà La Nan Đà là con của một vị đại thương chủ. Nan Đà có nhiều vị, ở đây có hai vị là Nan Đà và Tôn Đà La Nan Đà.
Phú Lầu Na Di Đa La Ni Tử: dịch là Mãn Từ Tử, đây là con một vị Quốc Sư của Vua Tịnh Phạn, cũng thuộc dòng Bà la môn. Trước Ngài cùng 30 người bạn vào trong núi Tuyết tu đắc được tứ thiền và đắc được cả ngũ thông, nhưng chưa đắc được lậu tận thông, chưa được giải thoát. Sau theo Phật chứng được A La Hán, là vị thuyết pháp bậc nhất.
Tu Bồ Đề: gọi là Không Sanh. Ngài là vị Giải Không bậc nhất (học trong Kinh Kim Cang).
A Nan: là vị thị giả của Phật, Ngài là vị đa văn bậc nhất.
La Hầu La: còn gọi là La Vân, dịch là Phú Chướng vì Ngài ở trong bụng mẹ sáu năm. Ngài là một vị Sa di đầu tiên trong Phật Pháp, là một vị Mật hạnh bậc nhất.
Đó là những vị đại A La Hán. Còn những bậc hữu học và vô học là những vị nào?
Hữu học: chỉ cho những bậc Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hàm và A Na Hàm, bởi vì chưa hoàn toàn sạch hết lậu.
Vô học: phải chứng A La Hán, đã sạch hết phiền não lậu tận, được giải thoát, cho nên gọi là Vô học.
Hàng Tỳ kheo Ni, đó là:
Bà Tỳ kheo Ni Ma Ha Ba Xà Ba Đề: dịch là Đại Ái Đạo, có chỗ gọi là Kiều Đàm Di, chúng chủ Ni, bà là di mẫu của đức Thế Tôn.
Bà Tỳ kheo Ni Gia Thâu Đà La: là mẹ của La Hầu La, dịch là Hoa Sắc hay Danh Văn, cùng với quyến thuộc đồng câu hội trong đây. Đó là nói chung tất cả chúng Thanh Văn. Ở đây đặt hàng Thanh Văn trước, bởi vì hàng Thanh Văn là hàng đương cơ, dẫn hàng Thanh Văn tức hàng Nhị thừa để trở về nơi Nhất Phật Thừa. Kế đến mới nói hàng Bồ Tát.
CHÁNH VĂN:
2. Bậc đại Bồ tát tám muôn người đều không thối chuyển ở nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đều chứng đặng pháp Đà La Ni, nhạo thuyết biện tài, chuyển nói pháp luân bất thối chuyển, từng cúng dường vô lượng trăm nghìn chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức. Thường được các Phật ngợi khen, dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ của Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, có thể độ vô số trăm nghìn chúng sanh.
Tên của các vị đó là: Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Thường Tinh Tấn Bồ tát, Bất Hưu Tức Bồ tát, Bửu Chưởng Bồ tát, Dược Vương Bồ tát, Dõng Thí Bồ tát, Bửu Nguyệt Bồ tát, Nguyệt Quang Bồ tát, Mãn Nguyệt Bồ tát, Đại Lực Bồ tát, Vô Lượng Lực Bồ tát, Việt Tam Giới Bồ tát, Bạt Đà Bà La Bồ tát, Di Lặc, Bồ tát, Bửu Tích Bồ tát, Đạo Sư Bồ tát v.v… Các vị đại Bồ tát như thế tám muôn người câu hội.
GIẢNG:Đây nói về các vị Bồ tát thuộc hàng đại Bồ tát chớ không phải thường, trong đó tám muôn người đều là bất thối chuyển ở nơi đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bồ tát bất thối có ba hạng:
1. Vị bất thối: chỉ Bồ tát hàng thất trụ. Thất trụ trong thập trụ, không còn thối chuyển trở lại Nhị thừa nữa, nên gọi bất thối, là vị bất thôi.
2. Hạnh bất thối: là Bồ tát thuộc hàng thất địa thì tu hành không còn thối chuyển nữa.
3. Niệm bất thối: là Bồ tát thuộc hàng bát địa. Đến hạng này không cần khắc ý tinh tấn gì nhưng tự nhiên cũng có thể tiến đạo hết, luôn luôn là được vô công dụng đạo. Đó là những hàng Bồ tát bất thối.
Đà La Ni: dịch là tổng trì, là gom giữ không để sót mất. Những vị này được sức niệm huệ, nghe rồi ghi nhớ không quên.
Nhạo thuyết biện tài: là một trong bốn pháp biện tài vô ngại:
1. Pháp vô ngại: đối với những văn cú văn chương, pháp mà mình đã lãnh ngộ đó, quyết đoán không có ngại. Tức là những pháp về văn cú, về văn chương đều tinh thông.
2. Nghĩa vô ngại: là tinh thông những nghĩa lý của pháp đã nêu bày, quyết đoán rõ ràng không ngăn ngại.
3. Từ vô ngại: là tinh thông mọi thứ ngôn ngữ, ngôn từ của địa phương.
4. Biện tài vô ngại: hay gọi là nhạo thuyết biện tài. Đây là tùy thuận chánh lý tỏ bày được vô ngại. Tùy theo chỗ mong muốn của mọi người, của đối phương mà nói ra đều được tự tại.
Đó là bốn pháp biện tài vô ngại. Những vị này là những vị Bồ tát lớn nên được những công đức khác thường, từng cúng dường vô lượng chư Phật, ở nơi các đức Phật trồng các cội công đức. Những vị này cũng thường được các Phật ngợi khen dùng đức từ để tu thân, khéo chứng trí tuệ Phật, thông đạt đại trí đến nơi bờ kia, danh đồn khắp vô lượng thế giới, độ vô số trăm nghìn chúng sanh.... Hàng Thanh Văn dẫn trước tiên, kế hàng Bồ tát, thuộc điểm chính của Kinh nhắm nên ở giữa, sau đây mới tới các vị Trời rồng Bát bộ.
CHÁNH VĂN:3. Lúc bấy giờ, Thích Đề Hoàn Nhân cùng quyến thuộc hai muôn vị thiên tử câu hội.
Lại có Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử, bốn vị Đại Thiên Vương cùng với quyến thuộc một muôn thiên tử câu hội. Tự Tại thiên tử, Đại Tự tại thiên tử cùng với quyến thuộc ba vạn thiên tử câu hội.
Chủ cõi Ta bà: Phạm Thiên Vương, Thi Khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm v.v… cùng với quyến thuộc một muôn hai nghìn vị thiên tử câu hội.
Có tám vị Long Vương: Nan Đà Long Vương, Bạt Nan Đà Long Vương, Ta Dà La Long Vương, Hoà Tu Kiết Long Vương, Đức Xoa Ca Long Vương, A Na Bà Đạt Đa Long Vương, Ma Na Tư Long Vương, Ưu Bát La Long Vương v.v… đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Khẩn Na La Vương: Pháp Khẩn Na La Vương, Diệu Pháp Khẩn Na La Vương, Đại Pháp Khẩn Na La Vương, Trìø Pháp Khẩn Na La Vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Càn Thát Bà Vương: Nhạc Càn Thát Bà Vương, Nhạc Âm Càn Thát Bà Vương, Mỹ Càn Thát Bà Vương, Mỹ Âm Càn Thát Bà Vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị A Tu La Vương: Bà Trỉ A Tu La Vương, Khư La Khiên Đà A Tu La Vương, Tỳ Ma Chất Đa La A Tu La Vương, La Hầu A Tu La Vương, đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Có bốn vị Ca Lầu La Vương: Đại Oai Đức Ca Lầu La Vương, Đại Thân Ca Lầu La Vương, Đại Mãn Ca Lầu La Vương, Như Ý Ca Lầu La Vương đều cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Vua A Xà Thế, con bà Vi Đề Hy cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
GIẢNG:Thích Đề Hoàn Nhơn: là Đế Thích, Vua cõi trời Đao Lợi thuộc Dục giới.
Minh Nguyệt thiên tử, Phổ Hương thiên tử, Bửu Quang thiên tử: là những vị thuộc nội thần của trời Đế Thích.
Bốn vị Đại Thiên Vương: thuộc ngoại tướng bên ngoài của trời Đế Thích.
Tự Tại thiên tử: là vị thiên tử của cõi trời Hoá lạc.
Đại Tự Tại thiên tử: là vị Thiên chủ của cõi trời Tha Hoá Tự Tại.
Đây là những vị Trời thuộc về Dục giới.
Chủ cõi Ta bà: Phạm Thiên Vương, Thi Khí Đại Phạm, Quang Minh Đại Phạm: là những vị thuộc cõi trời Sắc giới.
- Thi Khí Đại Phạm là vị Thiên chủ của cõi Sơ thiền.
- Quang Minh Đại Phạm là vị Thiên chủ của cõi Nhị thiền.
Tám vị Long Vương: Nan Đà Long Vương... là rồng, thuộc Long thần bát bộ.
Bốn vị Khẩn Na La Vương, Pháp Khẩn Na La Vương... là thần ca hát của trời Đế Thích, hình dáng giống như người mà không phải người vì trên đầu có sừng, còn gọi là phi nhân. Đây là thần ca hát.
Bốn vị Càn Thát Bà Vương: Nhạc Càn Thát Bà Vương... dịch là Hương âm, trên người phát ra mùi thơm. Đây là các vị thần đánh nhạc cho trời.
Bốn vị A Tu La Vương: Bà Trỉ A Tu La Vương... dịch là Phi thiên, có phước như trời nhưng đức không bằng cõi trời. Đây là tâm hay đấu tranh nên sanh vào loài A Tu La, loài này thường hay đấu tranh dữ lắm. Cho nên Phật tử tu phước nhưng phải bớt tâm đấu tranh, nóng nảy, chứ không khéo tuy tu có phước nhưng sanh vào mấy loài này thì cũng không tốt.
Bốn vị Ca Lầu La Vương: Đại Oai Đức Ca Lầu La Vương... đây là thần Kim xí điểu. Còn Ma Hầu La Già là thần đại mãng xà. Đó là Thiên long bát bộ hộ pháp.
Vua A Xà Thế, con bà Vi Đề Hy cùng bao nhiêu trăm nghìn quyến thuộc câu hội.
Cả chúng đều lễ chân Phật, lui ngồi một phía.
Đó gọi là Chúng thành tựu. Vậy trong hội Pháp Hoa này có mặt đầy đủ Thiên long bát bộ, Bồ tát, Thanh văn. Cuối cùng Vua A Xà Thế cũng có mặt. Đó là điều đánh thức cho mọi người có đủ niềm tin, Vua A Xà Thế là người có tội giết cha, thuộc tội ngũ nghịch mà cũng được dự trong hội Pháp Hoa. Giống như ông cha sắp phó chúc bàn giao sự nghiệp, cũng vậy ở kinh Pháp Hoa này Phật muốn nói rõ cái bản hoài ra đời của các đức Phật, cho nên nhóm họp hết. Bổn hoài đó là gì?
Đó là Ngài muốn mở bày Tri Kiến Phật cho mọi người ngộ nhập, khiến tất cả tin nhận ai ai cũng có khả năng thành Phật, hoặc duyên gần hoặc duyên xa. Cho nên ở đây các vị Thanh văn là chúng đương cơ được Phật thọ ký trong hội này, còn chúng Bồ tát là người chính để tiến thành Phật, và các vị như Trời, Rồng, người là chúng kết duyên, cũng đều được kết duyên với Pháp Hoa hết, không bỏ sót ai.
Phần này gọi là phần Thông Tự, là phần tựa chung của các Kinh. Kế đây mới nói tựa riêng của Kinh Pháp Hoa.CHÁNH VĂN:
4. Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn, hàng Tứ chúng vây quanh cúng dường, cung kính ngợi khen tôn trọng, vì các vị Bồ tát mà nói Kinh Đại thừa tên là "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm".
Nói Kinh này xong, đức Phật ngồi xếp bằng nhập vào chánh định "Vô Lượng Nghĩa Xứ", thân và tâm của Phật đều không lay động.
Khi đó trời mưa hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la, hoa Mạn thù sa, hoa Ma ha mạn thù sa để rải trên đức Phật cùng hàng đại chúng, khắp cõi Phật sáu điệu vang động.
Lúc bấy giờ trong chúng hội, các hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhơn, Phi nhơn và các Tiểu Vương cùng Chuyển Luân Thánh Vương, các đại chúng ấy đều đặng thấy việc chưa từng có, vui mừng chắp tay một lòng nhìn Phật.
GIẢNG:
Tựa riêng của Kinh Pháp Hoa là nguyên do phát khởi Kinh này. Như vậy trước khi nói Kinh Pháp Hoa đức Phật nói Kinh "Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm".
Kinh Vô Lượng Nghĩa là nghĩa vô lượng không có lường nổi, là pháp giáo hóa chỉ dạy cho hàng Bồ tát, là chỗ Phật thường hộ niệm, thường giữ gìn. Tại sao nói Kinh Pháp Hoa không nói thẳng đi, lại nói Kinh Vô Lượng Nghĩa trước, có ý nghĩa gì? Mà Kinh gì là Kinh Vô Lượng Nghĩa? Trong tạng Kinh cũng có bài Kinh Vô Lượng Nghĩa ngắn gọn do Ngài Đàm Ma Già Đà Da Xá thời Nam triều dịch khoảng năm 481, Kinh này nói: "Phiền não của chúng sanh vô lượng, cho nên Phật nói pháp cũng là vô lượng. Vì nói pháp vô lượng nên nghĩa cũng vô lượng, cái vô lượng nghĩa đó vốn sanh từ một pháp, pháp đó là vô tướng”. Đó là ý bài kinh Vô Lượng Nghĩa, nhưng ở đây kinh này nói đủ là Kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, mà không kể bài kinh đó ra, chỉ nêu tựa thôi. Đây là một ý ngầm chỉ chỗ nghĩa vô lượng, thì làm sao nói hết, làm sao nghĩ cho cùng, nghĩ cho đến. Như vậy ngay tên đó muốn nhắn nhủ mình cái gì?
Tức muốn nghe Kinh Pháp Hoa phải khéo nghe ngoài lời nói, nghe ngoài cái tình thức suy tư, cho nên trước khi nói Pháp Hoa Phật nói Kinh Vô Lượng Nghĩa. Bởi vì, nếu dùng ngôn ngữ nói được hết, dùng tình thức mà suy nghĩ đến thì nó thuộc về hữu hạn, chứ đâu thành vô lượng. Mà đã là vô lượng nghĩa thì có chỗ nào thiếu không? Nghĩa vô lượng là hiển bày khắp chỗ, chỗ nào cũng có, không có tính kể, gió thổi, lá rụng, sum la vạn tượng đầy đủ. Vậïy thì cái gì cũng đang diễn bày cái nghĩa vô lượng đó hết, đâu có thiếu. Cần gì phải mở miệng nói. Do đó có vị Tăng hỏi Thiền sư Duy Chánh:
- Thầy là Thiền sư, sao thầy không nói thiền?
Thiền sư bảo:
- Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày thôi, ngôn ngữ có gián đoạn, còn pháp này thì vô tận cho nên gọi là tạo hóa vô tận tạng.
Vạn tượng sum la hiển bày tất cả, nếu khéo nghe thì lúc nào cũng nghe được hết, đó mới gọi là cái kho vô tận. Thấy được cái đó là thấy được nghĩa vô lượng, nó trùm khắp mọi nơi không thiếu. Đó cũng là ngầm chỉ cái diệu của tâm pháp chân thật, Diệu pháp là như vậy.
Chính pháp này là pháp dạy cho hàng Bồ tát, là chỗ Phật thường hộ niệm, thường giữ gìn. Cũng giống như hạt châu trên búi tóc của ông Vua, phần sau Kinh Pháp Hoa có nói. Ông Vua có hạt châu quý ở trên búi tóc, hạt châu đó không phải đụng ai cho đó, không có vọng cho người, mà phải cho người đúng cơ. Do đó, ở đây muốn nhấn mạnh lại, mình cũng phải chuẩn bị tâm, lắng lòng để đón nhận pháp Phật muốn nói. Bởi vậy, trước khi nói Pháp Hoa Ngài nói Kinh Vô Lượng Nghĩa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói Kinh này xong Ngài lại nhập định Vô Lượng Nghĩa Xứ, thân và tâm Phật đều không lay động. Chỗ vô lượng đó có dễ dòm thấy chưa? Rồi ở đây thân và tâm của Phật đều không lay động, đó là muốn nhắc mình cái gì?
Nhắc mình trước khi muốn nghe kinh này cũng phải lắng lòng, để cho tạp niệm lăng xăng nó tạm dừng đi thì mới dễ thâm nhập Pháp Hoa này. Cho nên ở đây mới là mở màn thôi mà đã thấy tâm và cảnh đều nhiệm mầu, không thể nghĩ bàn. Lại có điểm đặc biệt, trong cái chỗ không nói đó nhưng cảm trời mưa hoa, đất sáu điệu vang động, tức là lúc này quên thân tâm, lặng lẽ mà chỗ lặng lẽ đó không phải hoàn toàn giống như là không ngơ, như là cây đá chết.
Mưa hoa gồm bốn thứ hoa là:
- Hoa Mạn đà la: hoa sen trắng.
- Hoa Ma ha mạn đà la: hoa sen trắng lớn.
- Hoa Mạn thù sa: hoa sen đỏ.
- Hoa Ma ha mạn thù sa: hoa sen đỏ lớn.
Rồi đất chấn động sáu điệu. Đất chấn động, đó là gì? - Tức là đất tâm chấn động, mà mình chưa chấn động chút nào hay sao? Cho nên nghe tới chỗ đó mới thấy cái gì sâu xa trong chỗ im lặng của Phật không phải im lặng suông, mà im lặng đó gọi là im lặng vi diệu, im lặng sấm sét, im lặng chấn động cả đất tâm Chính cái im lặng đó phá đổ cái mầm mống vô minh trong mình, như vậy đó là mở ra cảnh giới không thể nghĩ bàn.
Trong chúng hội thấy được điều đó là điều chưa từng có, cho nên ai nấy lòng đều vui mừng, nhưng cũng không hiểu lý do nên chắp tay một lòng nhìn Phật, để trông chờ Phật sắp nói điều gì đặc biệt mà hiện tướng lạ như vậy. Vậy thì tất cả hãy một lòng trông chờ xem!
CHÁNH VĂN:
5. Bấy giờ, đức Phật từ nơi tướng lông mày trắng giữa chặng mày phóng ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên suốt thấu trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia. Lại thấy đức Phật hiện tại nơi các cõi kia và nghe Kinh pháp của các đức Phật ấy nói. Cùng thấy nơi các cõi kia, các hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ, những người tu hành đắc đạo.
Lại thấy các vị đại Bồ tát dùng các món nhơn duyên, các lòng tin giải, các loại tướng mạo mà tu hành đạo Bồ tát. Lại thấy các đức Phật nhập niết bàn. Lại thấy sau khi các đức Phật nhập niết bàn, đem xá lợi của Phật mà dựng tháp bằng bảy báu.
GIẢNG:
Đến đây Phật từ nơi lông trắng giữa chặng mày đó phóng ra hào quang chiếu suốt cả một muôn tám nghìn cõi phương Đông, suốt cả địa ngục từ dưới đất, trên suốt trời Sắc Cứu Cánh. Chúng ở cõi này thấy sáu loài chúng sanh ở các cõi kia, thấy hiện trạng đạo tràng nơi các đức Phật ở cõi kia, thấy Bồ tát tu hành, thấy Phật nhập niết bàn rồi chúng dựng tháp xá lợi, như vậy ở đây muốn hiện bày cảnh giới gì?
Bởi vì trước khi nói Pháp Hoa để chỉ bày Tri Kiến Phật, là chỗ ngoài lời nói, ngôn ngữ không thể diễn tả hết, cho nên ở đây mới dùng hình ảnh ánh sáng này phóng ra, để nói lên một ý nghĩa ngoài ngôn ngữ, khiến cho người thầm nhận. Tức nhân tướng đó mà thầm nhận cái gì đặc biệt không thể nói. Ánh sáng này chúng ta trông như là ánh sáng của Phật Ngài phóng ra thôi, nhưng mình có ánh sáng này không? Ánh sáng đó nếu chỉ Phật có, còn mình không có phần thì Phật phóng chỉ cho ai? Đó là muốn nhắc nhở mỗi người cũng có ánh sáng đó không thiếu. Ánh sáng đó là TRÍ TUỆ THỰC TƯỚNG VÔ TƯỚNG. Trí tuệ đó là bặt niệm phân biệt đối đãi hai bên, cho nên phóng từ nơi lông trắng giữa chặng mày, là chỉ nó ở giữa không kẹt hai bên. Nếu mình thấy ánh sáng xanh vàng đỏ trắng gì đó thì ánh sáng đó là ánh sáng sanh diệt thôi, phóng ra nó có tướng rồi cũng mất. Mà muốn cảm nhận ánh sáng trí tuệ thật tướng đó thì phải quên niệm phân biệt hai bên liền thấy được suốt các cõi nước trước mắt chứ gì! Mở sáng trí tuệ đó thấy tất cả không còn ranh giới, cho nên ngồi đây mà thấy các cõi Phật từ phương Đông, gồm vô lượng cõi nước hết ranh giới, bặt niệm phân biệt. Còn mình niệm phân biệt vẫn còn cho nên ngồi đây thấy ngoài kia là có ranh giới rồi, làm sao thấy vô lượng cõi nước kia.
Mà trong ánh sáng đó thì tất cả phàm thánh đều đủ trong đó hết. Sáu đạo chúng sanh cũng có trong đó, các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tu hành đắc đạo cũng có, các vị Bồ tát tu hành đạo Bồ tát cũng có trong đó. Như vậy có phải tìm đâu xa, chỉ cần quên niệm phân biệt bên đây bên kia thì ngay đó rõ được ánh sáng này, tự tâm sáng tỏ liền. Và như vậy thì ánh sáng này nó suốt từ địa ngục A Tỳ, trên trời hữu đảnh, không có chỗ nào thiếu ánh sáng đó. Ngay trong địa ngục cũng có ánh sáng đó nữa. Nghĩa là cho đến tận chỗ tâm hồn đen tối của mình cũng có ánh sáng đó. Nếu khéo bặt niệm phân biệt thì từ chỗ tăm tối của nơi tâm mình nó cũng không thiếu, nó suốt hết. Vậy ngay trong khoảng ánh sáng phóng ra thì cái gì thấy? - Mắt thấy! Đó là muốn đánh thức từ nơi con mắt này, nơi tánh thấy này mình khéo nhận thì nó đầy đủ hết.
Còn điểm đặc biệt nữa là Phật phóng ánh sáng đó mà có thâu lại chưa? Tức là bây giờ cũng còn, còn đợi chờ đó, sẵn đó ai cũng có quyền thấy được, vì Phật chưa thâu lại. Đó là điểm mà người đọc Kinh Pháp Hoa ít ai để ý!
Phật phóng ánh sáng đó, phóng trong lúc nào? - Trong lúc nhập định thân tâm chẳng động. Vậy nói lên ý nghĩa gì?
Thân tâm chẳng động là nghĩa tịch. Tức lặng lẽ mà phóng ánh sáng, là chiếu soi. Lặng lẽ mà chiếu soi rõ ràng. Tức là đầy đủ hai nghĩa tịch và chiếu. Tâm của mình nếu đầy đủ hai nghĩa tịch và chiếu thì đó là tâm Phật.
Mình thường thường theo chiếu mà quên tịch, còn có khi chìm trong tịch mà quên chiếu. Cho nên tịch tịch một hồi lâu thì gục gặc cái đầu, còn nếu theo chiếu một lúc rồi thì nó chiếu cả tới thành phố bên Mỹ, bên Tây và quên tịch luôn. Phải đầy đủ tịch và chiếu thì ngay đây hiện tiền sáng ngời đầy đủ tâm Phật rõ bày. Vì vậy ở đây Phật nhập định, trong nhập định đó thì chiếu soi tất cả. Nếu mình tu mà nó được tương ưng hai nghĩa đó: tịch và chiếu, thì đảm bảo nơi đây ngộ đạo dễ dàng, Tri Kiến Phật thấy cũng dễ, không xa. Còn mình theo ánh sáng Phật phóng ra đó rồi thấy đủ cảnh giới này, cảnh giới kia, thấy tuốt cõi trời, lúc đó quên nghĩa tịch hồi nào không hay.
Nếu nói theo Kinh Kim Cang đó là có chỗ trụ. Ở đây phải chiếu mà không rời cái nghĩa tịch, tức chiếu mà vô trụ, như vậy mới thấy Phật phóng ánh sáng hiện đủ, nhưng mà Ngài chẳng rời thân tâm bất động. Mình tu hành cũng vậy, phải đầy đủ hai nghĩa tịch và chiếu đó thì đúng, còn nghiêng một bên là sai.
Do đó, một ánh sáng này thôi thì đức Phật đã truyền cái gì cho mình rồi? - Truyền cái Diệu tâm Niết bàn, chánh pháp nhãn tạng cho rồi, chớ đâu phải tìm cái gì khác nữa. Mình nghe truyền Diệu tâm Niết bàn hay Chánh pháp nhãn tạng, tưởng gì cao siêu ở cõi nào đâu, không ngờ ngay đây thôi. Như vậy Ngài phóng ánh sáng đó, cùng với chuyện đưa cành hoa sen có khác nhau không? Phóng ánh sáng đó cũng là khơi dậy cái thấy đang hiện hữu nơi mình đó! Đưa cành hoa sen lên mình cũng thấy, khéo thấy chỗ đó thì khéo thấy ánh sáng này chứ không phải có gì khác lạ
Ở đây cần chú ý cho kỹ, ánh sáng này nó hiển bày tất cả cảnh giới, từ địa ngục cho đến cảnh trời, các cõi Phật, các vị Bồ tát, Thanh văn tu hành gì nó hiện đủ tất cả hết, nhưng mà nó có là cái gì không? Nó soi suốt tất cả hết nhưng nó không là cái gì hết. Cũng vậy, mình thấy biết tất cả, thấy vật, thấy cảnh đều thấy nhưng không là gì hết, “Thấy biết vẫn là thấy biết thôi”, thì ngay đó liền cảm nhận ánh sáng này, khỏi trở về cách đây hai ngàn mấy trăm năm, lâu xa. Đó cũng là ý nghĩa đánh thức cho mọi người theo dòng thấy biết này nhậân ra được tự tánh. Một cái phóng ánh sáng đó, người lanh lợi là biết chỗ về, khỏi phải tìm đâu xa.
CHÁNH VĂN:
6. Khi ấy, Ngài Di Lặc Bồ tát nghĩ rằng: "Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, vì nhân duyên gì mà có điềm lành này". Nay đức Phật đương nhập chánh định, việc biến hiện hy hữu không thể nghĩ bàn này nên hỏi ai, ai đáp được?
Ngài lại nghĩ: "ông Pháp Vương Tử Văn Thù Sư Lợi này đã từng gần gũi cúng dường vô lượng các đức Phật đời quá khứ, chắc đã thấy tướng hy hữu này, ta nên hỏi ông".
Lúc đó hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và các Trời, rồng, quỷ, thần v.v… đều nghĩ rằng: "Tướng thần thông sáng chói của đức Phật hiện đây, nay nên hỏi ai?"
7. Bấy giờ, Ngài Di Lặc Bồ tát muốn giải quyết chỗ nghi của mình, Ngài lại xét tâm niệm của bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cận sự nam, cận sự nữ và cả chúng hội Trời, rồng, quỷ, thần v.v… mà hỏi Văn Thù Sư Lợi rằng: "Vì nhân duyên gì mà có tướng lành thần thông này, Phật phóng ánh sáng lớn soi khắp một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, đều thấy cõi nước trang nghiêm của các đức Phật?"
Khi đó Ngài Di Lặc muốn nói lại nghĩa trên, dùng kệ hỏi rằng:GIẢNG:
Ở đây Phật phóng ánh sáng đó rồi, Bồ tát Di Lặc khởi nghi, Ngài nghĩ: "Hôm nay đức Thế Tôn hiện thần biến tướng, vì nhơn duyên gì mà có điềm lành này", Di Lặc sao khởi nghi? Bởi vì Ngài Di Lặc là tượng trưng cho thức. Đâây không phải chỗ thức mà hiểu được, vì thức là phân biệt, cho nên thức thì khởi nghi, còn Phật thì đang nhập định thì làm sao hỏi? Do đó phải hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi thôi. Đó là muốn đánh thức cái tình thức mê lầm của mình, tình thức mê lầm là theo duyên, mà đây mình phải chuyển thức trở về trí. Ngài Văn Thù Sư Lợi chỉ cho căn bản trí hay gọi là trí sẵn có, trí bản hữu nơi mọi người. Bởi vậy Ngài Ngài Văn Thù là vị Bồ tát từng gần gũi chư Phật, nên hỏi Ngài là chắc chắn xong. Chư Phật cũng chứng ngộ nơi trí căn bản này mà thành Phật. Trí này cũng gọi là Vô Sư trí. Chính trí vô sư đó nó tỏ suốt được chỗ này. Do đó muốn thấu được ánh sáng này, phải từ căn bản trí này mà thầm nhận, và đó cũng là ý nghĩa nhắc nhủ người phải quên các niệm phân biệt kia đây. Vì căn bản trí là trí vô phân biệt.
Do đó, ở đây Ngài Di Lăïc nghi, Ngài hỏi, và Ngài Văn Thù sẽ trả lời. Một điểm nữa là, bao nhiêu việc của chư Phật, Bồ tát, chúng sanh mà hiện ra ở trong ánh sáng đó, mà ngay đây thấy đủ hết, không sót gì, chỉ trong một lúc, một thời gian ngắn thôi. Tin nổi không? Là ngầm ý muốn nhắc cái gì? - Nếu sống được trở về với Tri Kiến Phật này, quên được niệm phân biệt kia đây, tức sẽø quên cái niệm về thời gian, quên niệm về không gian. Thời gian lâu mau sẽ không thành vấn đề, không gian xa gần cũng không thành vấn đề, ngay một niệm đây tỏ suốt được là đầy đủ, trong nhà Thiền gọi là một niệm muôn năm. Mình chưa kinh nghiệm thì thấy khó hiểu, nhưng người có công phu rồi kinh nghiệm thấy rõ, ngồi thiền lúc đầu chưa quen, ngồi nửa tiếng thì lúc còn năm phút cuối đau quá tưởng còn lâu, trông cho mau hết để xả Còn nếu ngồi an rồi, ngồi hai tiếng mà tưởng như mới năm, mười phút. Tùy theo tâm niệm, khi đau năm phút, mười phút thấy dài đăng đẳng, khi tâm yên lặng hai tiếng, ba tiếng thấy như chốc lát. Đây cũng vậy, tâm mà sống được chỗ này rồi, thì quên niệm thời gian, quên niệm không gian. Đó là điểm người chứng nghiệm dễ cảm nhận được. Ngài Di Lăïc dùng lời kệ tóm tắt ý trên.
CHÁNH VĂN:
8- Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Đức Đạo Sư cớ chi
Lông trắng giữa chặng mày
Phóng ánh sáng khắp soi?
Trời mưa hoa Mạn đà
Cùng hoa Mạn thù sa
Gió thơm mùi chiên đàn
Vui đẹp lòng đại chúng
Vì nhơn duyên như vậy
Cõi đất đều nghiêm tịnh
Mà trong thế giới này
Sáu điệu vang động lên
Bấy giờ bốn bộ chúng
Thảy đều rất vui mừng
Thân cùng ý thơ thới
Đặng việc chưa từng có.GIẢNG:
Đây là thuật lại việc Phật phóng hào quang về phương Đông. Trời mưa hoa, đất chấn động, trong chúng thấy việc chưa từng có. Kế đó nói đến ánh sáng giữa chặng mày.
CHÁNH VĂN:
9- Ánh sáng giữa chặng mày
Soi suốt thẳng phương Đông
Một muôn tám nghìn cõi
Đều ánh như sắc vàngGIẢNG:
Đây nói ánh sáng soi suốt thẳng phương Đông, trời mưa hoa, đất chấn động.
Từ địa ngục A Tỳ
Trên đến trời Hữu đảnh
Cả sáu đạo chúng sanhĐây là ánh sáng đó soi rõ cả sáu đường chúng sanh từ dưới địa ngục A Tỳ lên đến cõi trời.
Sống chết của kia đến
Nghiệp duyên lành cùng dữ
Thọ báo có tốt xấu
Tại đây đều thấy rõGIẢNG:
Trong ánh sáng đó thấy hết nghiệp lành, nghiệp dữ, quả báo tốt xấu đều hiện rõ.
CHÁNH VĂN:
10- Lại thấy các đức Phật
Đấng Thánh chúa Sư tử
Diễn nói các kinh điển
Nhiệm mầu bậc thứ nhất
Tiếng của Ngài thanh tịnh
Giọng nói ra êm dịu
Dạy bảo các Bồ tát
Vô số ức muôn người.
Tiếng phạm âm thâm diệu
Khiến người nghe đều ưa
Các Phật ở cõi mình
Mà giảng nói chánh pháp
Dùng nhiều món nhân duyên
Cùng vô lượng tỷ dụ
Để soi rõ Phật pháp
Mà khai ngộ chúng sanh.
Nếu có người bị khổ.
Nhàm lìa già, bệnh, chết
Phật vì nói Niết bàn
Để dứt các ngằn khổ
Nếu là người có phước
Đã từng cúng dường Phật
Chí cầu pháp thù thắng
Vì nói hạnh Duyên giác.
Nếu lại có Phật tử
Tu tập các công hạnh
Để cầu huệ vô thượng
Phật vì nói tịnh đạo.GIẢNG:
Đây là nói đức Phật nói pháp độ cho các hàng tam thừa, tiếng Phạm âm vi diệu, có nhiều phương tiện khéo léo để khai ngộ chúng sinh.
CHÁNH VĂN:
11- Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Tôi ở tại nơi đây
Thấy nghe dường ấy đó
Và nghìn ức việc khác
Thấy rất nhiều như thế
Nay sẽ lược nói ra:
Bắt đầu lại kể chi tiết thêm.
CHÁNH VĂN:12- Tôi thấy ở cõi kia
Có hằng sa Bồ tát
Dùng các món nhơn duyên
Mà cầu chứng Phật đạo.
Hoặc có vị bố thí
Vàng, bạc, ngọc như ý
Kim cương, các trân bửu
Cùng tôi tớ, xe cộ
Kiệu cáng chưng châu báu
Vui vẻ đem bố thí
Hồi hướng về Phật đạo
Nguyện đặng chứng thừa ấy
Bậc nhất của ba cõi
Các Phật hằng khen ngợi.
Hoặc có vị Bồ tát
Xe tứ mã, xe báu
Bao lơn che tàng đẹp
Trau tria dùng bố thí.
Lại thấy có Bồ tát
Bố thí cả vợ con
Thân thịt cùng tay chân
Để cầu vô thượng đạo.
Lại thấy có Bồ tát
Đầu, mắt và thân thể
Đều ưa vui thí cho
Để cầu trí huệ Phật.GIẢNG:
Bố thí cả bảy báu, tôi tớ, xe cộ đều hướng về Phật đạo. Đây là Bồ tát bố thí cả ngoại tài lẫn nội tài, là muốn nói lên phá sạch lòng chấp ngã từ thân thể đến vợ con của mình, cho đến của cải đều bố thí hết. Như vậy mới đi đến ba la mật.
CHÁNH VĂN:
13- Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Ta thấy các Quốc Vương
Qua đến chỗ của Phật
Thưa hỏi đạo vô thượng
Bèn bỏ nước vui vẻ
Cung điện cả thần thiếp
Cạo sạch râu lẫn tóc
Mà mặc y pháp phụcGIẢNG: Bỏ ngôi Vua.
Hoặc lại thấy Bồ tát
Mà hiện làm Tỳ kheo
Một mình nơi vắng vẻ
Ưa vui tụng kinh điển
Đây là Bồ tát thích ở nơi vắng vẻ tu hành.
CHÁNH VĂN:
Cũng có thấy Bồ tát
Dõng mãnh và tinh tấn
Vào ở nơi thâm sơn
Suy xét mối Phật đạo.
Và thấy bậc ly dục
Thường ở chỗ không nhàn
Sâu tu các thiền định
Đặng năm món thần thông.
Và thấy vị Bồ tát
Chắp tay trụ thiền định
Dùng nghìn muôn bài kệ
Khen ngợi các Pháp Vương.GIẢNG:
Đó là Bồ tát ở núi sâu, vắng vẻ, tu thiền định, chứng thần thông, khen ngợi Phật.
CHÁNH VĂN:Lại thấy có Bồ tát
Trí sâu chí bền chắc
Hay hỏi các đức Phật
Nghe rồi đều thọ trì
Lại thấy hàng Phật tử
Định huệ trọn đầy đủ
Dùng vô lượng tỷ dụ
Vì chúng mà giảng pháp
Vui ưa nói các pháp
Dạy bảo các Bồ tát
Phá dẹp chúng binh ma
Mà đánh rền trống pháp.GIẢNG:
Bồ tát trí sâu, đầy đủ định tuệ, dùng pháp thí để đánh dẹp các binh ma.
CHÁNH VĂN:
Cùng thấy vị Bồ tát
Vắng lặng yên lặng ngồi
Trời, rồng đều cung kính
Chẳng lấy đó làm mừng.
Và thấy có Bồ tát
Ở rừng phóng hào quang
Cứu khổ chốn địa ngục
Khiến đều vào Phật đạo.
Dùng trí tuệ, tu thiền định, cứu khổ đến chỗ tăm tối.
Lại thấy hàng Phật tử
Chưa từng có ngủ nghỉ
Kinh hành ở trong rừng
Siêng năng cầu Phật đạo.
Luôn luôn tinh tấn chưa từng có ngủ nghỉ.
Cũng thấy đủ giới đức
Oai nghi không thiếu sót
Lòng sạch như bửu châu
Để cầu chứng Phật đạoĐó thuộc về trì giới.
Và thấy hàng Phật tử
Trụ vào sức nhẫn nhục
Bị kẻ tăng thượng mạn
Mắng rủa cùng đánh đập
Thảy đều hay nhẫn được
Để cầu chứng Phật đạoĐó thuộc về nhẫn nhục.
Lại thấy có Bồ tát
Xa rời sự chơi cười
Và quyến thuộc ngu si
Ưa gần gũi người trí
Chuyên tâm trừ loạn động
Nhiếp niệm ở núi rừng
Trải ức nghìn muôn năm
Để cầu được Phật đạoĐó là tu thiền định
14- Lại thấy vị Bồ tát
Đồ ăn uống ngon ngọt
Cùng trăm món thuốc thang
Đem cúng Phật và tăng
Áo tốt đồ thượng phục
Giá đáng đến nghìn muôn
Hoặc là vô giá y
Đem cúng Phật và tăng
Dùng nghìn muôn ức thứ
Nhà báu bằng chiên đàn
Các giường nằm tốt đẹp
Để cúng Phật cùng tăng
Rừng vườn rất thanh tịnh
Bông trái đều sum sê
Suối chảy cùng ao tắm
Cúng dường Phật và tăng
Cúng thí như thế đó
Các đồ cúng tốt đẹp
Vui vẻ không hề nhàm
Để cầu đạo vô thượng
GIẢNG: Đây là cúng dường các đồ vật trang nghiêm và thanh tịnh, thuộc bố thí.CHÁNH VĂN:
15- Lại có vị Bồ tát
Giảng nói pháp tịch diệt
Dùng các lời dạy dỗ
Dạy vô số chúng sanh
GIẢNG: Nói pháp tịch diệt tức dạy về pháp Niết bàn, là bố thí pháp.
Hoặc thấy vị Bồ tát
Quán sát các pháp tánh
Đều không có hai tướng
Cũng như khoảng hư không.
Đó là thấu suốt tánh không của các pháp.
Lại thấy hàng Phật tử
Tâm không chỗ mê đắm
Dùng món diệu huệ này
Mà cầu đạo vô thượng
Dùng cái diệu huệ vô trước.
CHÁNH VĂN:
16- Ngài Văn Thù Sư Lợi
Lại có vị Bồ tát
Sau khi Phật diệt độ
Cúng dường xá lợi Phật
Lại thấy hàng Phật tử
Xây dựng các tháp miếu
Nhiều vô số hằng sa
Nghiêm sức khắp cõi nước
Bửu tháp rất cao đẹp
Đều năm nghìn do tuần.
Bề ngang rộng xứng nhau
Đều hai nghìn do tuần
Trong mỗi mỗi tháp miếu
Đều có nghìn tràng phan
Màn châu xen thả xuống
Tiếng linh báu hòa reo
Các vị trời, rồng, thần
Người cùng với phi nhơn
Hương hoa cùng kỹ nhạc
Thường đem đến cúng dường.
Ngài Văn Thù Sư Lợi!
Các hàng Phật tử kia
Vì cúng dường xá lợi
Nên trang sức tháp miếu
Cõi quốc giới tự nhiên
Thù đặc rất tốt đẹp
Như cây Thiên thọ vương
Bông kia đương hé nở.
Cúng dường tháp xá lợi.
CHÁNH VĂN:17- Phật phóng một luồng sáng
Ta cùng cả chúng hội
Thấy nơi cõi nước này
Các thứ rất tốt đẹp
Thần lực của chư Phật
Trí huệ đều hi hữu
Phóng một luồng tịnh quang
Soi khắp vô lượng cõi
Chúng ta thấy việc này
Đặng điều chưa từng có.
GIẢNG:
Tóm tắt lại, chung quy chỉ có một luồng ánh sáng phóng ra đó mà thấy suốt cả những việc như vậy thì làm sao mà sáng tỏ được việc đó?
CHÁNH VĂN:18- Xin Phật tử Văn Thù
Giải quyết lòng chúng nghi
Bốn chúng đều mong ngóng
Nhìn Ngài và nhìn ta.
Đức Thế Tôn cớ chi
Phóng ánh quang minh này?
Phật tử phải thời đáp
Quyết nghi cho chúng mừng.
Có những lợi ích gì
Đức Phật phóng quang này?
Khi Phật ngồi đạo tràng
Chứng đặng pháp thâm diệu
Vì muốn nói pháp đó
Hay là sẽ thọ ký?
Hiện bày các cõi Phật
Các báu sạch trang nghiêm
Cùng thấy các đức Phật
Đây không phải cớ nhỏ
Ngài Văn Thù nên biết
Bốn chúng và long thần
Nhìn xem xét Ngài đó
Mong sẽ nói những gì?
GIẢNG:Ngài Di Lặc nói kệ thuật lại về điềm lành Phật phóng ánh sáng thấy đủ các việc trên đó, khiến cho lòng chúng khao khát trông chờ mà đón nhận pháp vi diệu Phật sắp nói ra. Nếu người lanh lợi như Ngài Văn Thù thấy ánh sáng đó thì biết được cái gì rồi. Thấy ánh sáng đó, rõ được ý Phật muốn nói cái gì, tức thấy được ý ngoài lời. Nếu chưa thấy được ý đó thì chờ Ngài Văn Thù nói ra cho mình hiểu.
CHÁNH VĂN:
19- Lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với Ngài Di Lặc Đại Bồ tát cùng các vị Đại sĩ: "Các Thiện nam tử! Như chỗ ta xét nghĩ thời nay đức Phật Thế Tôn muốn nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổõ lớn và diễn pháp nghĩa lớn.
Các Thiện nam tử! Ta từng ở nơi các đức Phật đời quá khứ, thấy được điềm lành này, Phật kia phóng hào quang đó rồi liền nói pháp lớn. Cho nên biết chắc rằng hôm nay đức Phật hiện hào quang cũng lại như vậy. Phật vì muốn cho chúng sanh đều đặng nghe biết pháp mầu mà tất cả trong đời khó tin theo, nên hiện điềm lành này.
GIẢNG:
Theo như chỗ Bồ tát Văn Thù xét biết đó Ngài thấy rằng: đức Phật sắp nói pháp lớn, mưa pháp vũ lớn, thổi pháp loa lớn, đánh pháp cổ lớn và diễn pháp nghĩa lớn, tức là Ngài sắp nói pháp sâu xa vi diệu.Ngài mới thuật lại, trước kia ở những đời quá khứ, Ngài thường gần gũi các đức Phật Ngài cũng thấy rõ các đức Phật kia, khi phóng hào quang, ánh sáng soi khắp về phương Đông những điềm đó. Sau khi phóng như vậy, sẽ nói pháp sâu xa.
Như vậy pháp Phật sắp nói đây rất khó tin, khó hiểu ngầm chỉ pháp đó khó nói, phải hiểu ý sâu xa, ngoài lời kìa. Bởi vì khó nói, lời nói không thể đến được, cho nên ở đây Ngài hiện điềm lành trước.
Ngài Văn Thù cho biết Phật sắp nói pháp lớn, nhưng chưa biết pháp lớn đó là pháp lớn gì, để cho mọi người thật khao khát mới nói dễ đón nhận. Đây Ngài nói tiếp:CHÁNH VĂN:
20- Các Thiện nam tử! Như vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp về trước, bấy giờ có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh Như lai Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô Thượng sĩ, Điều Ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn diễn nói chính pháp. Ban đầu, giữa, rốt sau ba chặng đều lành, nghĩa lý rất sâu xa. Lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, đầy đủ cả tướng phạm hạnh thanh bạch.
GIẢNG:
Ở đây Ngài thuật lại ở vô lượng vô biên A tăng kỳ kiếp, lâu xa về trước có đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh. Đức Phật này cũng đầy đủ mười hiệu:- Như Lai: là không từ đâu đến, không đi về đâu (vô sở tùng lai, diệc vô sở khứ). Có chỗ nói, Như Lai là những điều Phật nói ra, là những điều Ngài làm được và đã làm, gọi là Như Lai. Như là thể như như bất động. Lai là đến, có thể có dụng đầy đủ, từ thể như mà đến.
- Ứng cúng: là xứng đáng nhận sự cúng dường.
- Chánh biến tri: là biết khắp hết, không rơi vào hai bên.
- Minh hạnh túc: là tam minh lục thông đầy đủ - Thiện thệ: là khéo qua, khéo vượt qua sanh tử. - Thế gian giải: là hiểu suốt cả thế gian.
- Vô thượng sĩ: là bậc Vô thượng không có ai trên. Chính cái tên này có ý nghĩa rất sâu, đem lại niềm tin cho mình, sức mạnh vươn lên.
Gọi là bậc Vô thượng, là không ai trên, nhưng có người bằng. Bởi vì, ai ai cũng có Phật tánh, nếu mình tu đến viên mãn cũng được thành Phật, cũng được Vô thượng, cũng ngang bằng. Đó là ý nghĩ bình đẳng, không phải Ngài là bậc tối thượng, rốt cuộc ai tu rồi cũng về đó quỳ dưới chân Ngài, không thể ngang được.
- Điều ngự trượng phu: là điều phục mọi người.
- Thiên nhân sư: là bậc thầy của cả trời, người.
- Phật Thế Tôn: là bậc giác ngộ tôn quý ở trên đời.
Đức Phật này gọi là Nhật Nguyệt Đăng Minh, những pháp Ngài nói ra nghĩa lý rất sâu xa, lời lẽ khéo mầu, thuần một không tạp, tức là thuần nhất không có xen tạp, mà ban đầu, giữa, rốt sau đều lành. Như vậy tức là sao?
Những điều Phật nói ra ban đầu cũng là lành, giữa cũng là lành, sau cũng là lành thì đó mới thật là chân lý. Bởi vì Phật chứng ngộ, từ cái chứng ngộ của Ngài, Ngài nói ra. Những điều Ngài nói ra đó là những điều Ngài đã đi qua, Ngài đã kinh nghiệm qua chớ không phải những điều Ngài suy tưởng, phỏng đoán, giả thuyết, không phải như vậy. Mà đây chính Ngài kinh nghiệm thể nhận nói ra, cho nên những điều đó trước cũng lành, giữa cũng lành, sau cũng lành, luôn luôn đều đúng. Không phải những cái thuyết đúng trong lúc này nhưng không đúng trong lúc khác, trong giai đoạn, chân lý mà có giai đoạn. Còn ở đây lúc nào cũng đúng hết.
Ví dụ: Phật nói lý Tứ đế, Ngài nói khổ, có thân là đều khổ, từ xưa đến giờ kiểm lại không sai bao giờ.
Như Ngài nói vô thường, sự vật có làm ra,có tạo tác vốn là vô thường. Kiểm lại từ trước, sau cho tới bây giờ đều đúng như vậy hết. Cho nên đó là đầu, giữa, rốt sau đều lành.
CHÁNH VĂN:
Phật, vì người cầu đạo Thanh văn nói pháp Tứ đế, thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, cứu cánh Niết bàn. Vì hạng cầu quả Duyên giác, nói pháp mười hai nhân duyên. Vì hàng Bồ tát, nói sáu pháp Ba la mật, làm cho chứng đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thành bậc Nhất thiết chủng trí.
GIẢNG:
Đức Phật vì người cầu đạo Thanh văn, nói Tứ đế để thoát khỏi sanh, già, bệnh, chết, chứng đến cứu cánh Niết bàn. Vì người cầu Duyên giác nói pháp mười hai nhân duyên, Bồ tát thì nói pháp Ba la mật, để chứng đến đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ngài tùy theo căn cơ, trình độ, mong cầu của mỗi người mà nói pháp tam thừa, nhưng rốt ráo sau cùng cũng đưa đến thành Phật. Cuối cùng cũng đưa đến chỗ đó.
CHÁNH VĂN:Kế lại có đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như thế đến hai muôn đức Phật đều đồng một tên, hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, đầy đủ mười hiệu, những pháp được nói ra đầu, giữa, sau đều lành.
GIẢNG:
Kế đó cũng có đức Phật hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh, lại có đức Phật cũng hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Như vậy cho tới hai muôn đức Phật cũng hiệu là Nhật Nguyệt Đăng Minh. Hết tên đặt, sao có một tên hoài vậy? Đóù là nghĩa rất sâu xa! Nhật Nguyệt Đăng Minh là gì?
Nhật, là mặt trời. Nguyệt, là mặt trăng. Đăng, là đèn. Minh, là sáng. Mặt trời, mặt trăng, đèn, cái nào cũng sáng hết. Ban ngày có mặt trời soi sáng (Nhật), ban đêm có mặt trăng soi sáng (nguyệt), những chỗ mặt trời, mặt trăng soi không tới thì có ánh đèn soi tới (đăng). Như vậy là sao? - Tức luôn luôn không có lúc nào tối hết. Là chỉ cho nguồn sáng vô biên nơi chính mình, nghĩa là không có lúc nào gián đoạn, không từng mất, không từng thiếu, không từng vắng nơi chính mình. Đây là nhắc nhở mọi người đều có nguồn sáng đó, mà việc này không phải mới đây, mà nó có từ vô số kiếp trước. Tại sao? - Nó sẵn có tự bao giờ nhưng tại mình bỏ quên. Đã có sẵn như nhau cho nên Phật kế tiếp in nhau không khác. Phật trước cũng Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật sau cũng Nhật Nguyệt Đăng Minh, mà hai chục ngàn vị cũng Nhật Nguyệt Đăng Minh. Nghĩa là cũng một việc đó chưa từng có tối, có mờ, không gián đoạn, nhưng chúng ta tự bỏ quên vậy thôi.
Vậy, ai cũng có một đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ vô số kiếp, nhưng mà bỏ quên. Chính vì bỏ quên cho nên thấy có tối có mờ, khi mà tỏ sáng được mới biết mình có đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh luôn luôn sáng ngời chưa từng tối bao giờ.
Cho nên đức Lục Tổ khi ngộ Ngài đã la lên:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủỞ đây Phật Phật đồng hiệu, đó cũng là ý chỉ Tri Kiến Phật vốn là không có hai. Phật trước, Phật sau không có hai, không có sai biệt. Khi chúng ta sống trở về nguồn giác rồi thì chỗ thấy như nhau, nếu có chỗ thấy biết sai biệt thì cách biệt nhau rồi.
Tổ Lâm Tế có lần Ngài dạy:
- “Quý vị nếu muốn cùng Phật Tổ không khác thì chỉ như vậy mà thấy, chẳng nên ngờ vực. Tâm tâm quý vị không khác, thì đó gọi là Tổ sống”.
Tâm tâm, niệm niệm nó không sai khác, niệm trước niệm sau nó như vậy, không đổi không biến là Tổ sống, không cần phải tìm đâu hết. Còn mình niệm trước như vậy, niệm sau khác, chưa nói tới thời gian dài, chỉ trong vòng một hai niệm thôi thì nó đã khác rồi, thì làm sao thấy Tổ sống được. Ngài nói tiếp:
- “ Tâm tâm nếu khác biệt, thì tánh tướng cũng sai khác”
Tâm mình khác rồi thì thấy rõ muôn sự cũng sai biệt. Tâm tâm không khác biệt, thì tánh tướng không có khác. Như vậy khi chúng ta sống trở về với nguồn tâm, tức nguồn sáng không gián đoạn đó, thì tâm tâm in nhau. Tâm mình, tâm Phật cũng in nhau, cùng thấy cùng gặp Phật, gặp Tổ rõ ràng.
Bởi vậy mà khi Phật trước, Tổ sau và các vị Thiền sư sau nữa, tuy các đời cách xa nhau, nhưng khi tỏ ngộ rồi thì chỗ thấy các Ngài giống nhau, nói ra nó cũng in nhau, nó hợp nhau. Phật ngày xưa đưa cành hoa sen lên khai thị cho Ngài Ca Diếp, tới sau này các Tổ thì sao? Như Ngài Bá Trượng, Ngài khai thị cho Ngài Quy Sơn Linh Hựu, một hôm bảo Linh Hựu:
- Ông vạch trong lò xem có lửa không?
Linh Hựu bới trong lò, thấy không có, trình với Bá Trượng, Ngài bèn đến vạch sâu trong đó, thấy đốm lửa, Ngài đưa lên và hỏi:
- Ông nói không, chớ cái này là cái gì?
Linh Hựu liền tỏ ngộ.
Ở chỗ kia Phật đưa cành hoa sen lên. Đây đưa đốm lửa lên, chỉ khác cành hoa sen với đốm lửa thôi, còn chỗ khai thị là chỗ gì? - Chính là tánh thấy nơi mình đó, cái hiện hữu đó. Hai Ngài tuy cách xa nhau nhưng chỗ thấy cũng gặp nhau.
Rồi sau này Ngài Quy Sơn có khi đưa phất tử lên, có vị lại đưa cây gậy. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Phật khai thị cho Ngài A Nan, Phật đưa tay lên. Vậy mặc dù sống cách xa nhau, khi tỏ ngộ rồi chỗ thấy gặp nhau. Cho nên tâm tâm mà không khác biệt rồi thì cùng Phật Tổ thấy không hai. Không khác biệt thì Phật Phật đồng tên, đồng họ.
Chứng đến chỗ đó rồi đều gặp nhau. Những pháp được nói ra cũng cùng chỗ chứng ngộ đó mà nói ra, cũng đều đúng với chân lý không sai.
CHÁNH VĂN:
Đức Phật rốt sau cả, lúc chưa xuất gia có tám vị Vương tử: người thứ nhất tên là Hữu Ý, thứ hai tên Thiện ý, thứ ba tên Vô Lượng Ý, thứ tư tên Bửu Ý, thứ năm tên Tăng ý, thứ sáu tên Trừ Nghi Ý, thứ bảy tên Hướng Ý, thứ tám tên Pháp Ý.
Tám vị Vương tử đó có oai đức tự tại, đều lãnh trị bốn châu thiên hạ. Nghe Vua cha xuất gia chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều bỏ ngôi Vua cũng xuất gia theo, phát tâm đại thừa, hằng tu hạnh thanh tịnh, đều làm bậc Pháp sư, thuở trước đã từng ở chỗ nghìn muôn đức Phật vun trồng các cội lành.
GIẢNG:
Đây, Ngài thuật thêm cho thấy một điều nữa là: đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh rốt sau khi chưa xuất gia có tám vị Vương tử. Tám vị này mang tên đều chữ “ý “ như vậy có ý nghĩa gì trong đó? Và những vị Vương tử đó đều có oai đức tự tại hết, đều lãnh trị bốn châu thiên hạ, nhưng khi nghe Vua cha xuất gia rồi chứng đạo, liền bỏ ngôi xuất gia theo. Đó là nói lên ý gì?
Những hình ảnh nói trong Kinh Pháp Hoa đây đều có ý nghĩa sâu xa trong đó. Phải hiểu qua những cái đó, nếu theo chữ nghĩa hiểu thì dễ lầm. Tám vị đó đều mang tên kèm với chữ ý. Ý tức là chỉ một tâm thể. Tám vị Vương tử chỉ cho tám thức, đó là nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý , mạt na thức và a lại da thức. Tám thức tuy công dụng có sai biệt nhưng cùng một tâm thể thôi.
Mạt na thức (thức chấp ngã): còn gọi là là truyền tống thức. Từ trong tàng thức đưa ra, truyền vào.
Bao nhiêu chủng tử của mình thấy nghe ở ngoài thì mạt na thức nó đem vô gieo trong tàng thức (a lại da thức). Tàng thức giữ trong đó, bởi vậy yêu ghét, buồn giận, thương yêu gì đó, nó vừa ở ngoài, khi gieo vô nó giữ lại ở đó, lúc gặp duyên nó tống ra. Ví dụ: bữa nay thấy bực mình với ai, ghét người đó thì đem vô để đó, hôm nào gặp mặt thì trong hiện ra, cho nên khi gặp người đó là ghét liền. Đó là trong này tống ra.
Mình tu là để gạn hết chủng tử đó cho nó sạch. Mới đầu gạn chủng tử xấu, chủng tử ác ra ngoài, giữ chủng tử lành trở lại, nhưng mà sâu hơn nữa là sao? - Lành, dữ phải buông. Bởi vì còn lành còn dữ là còn đối đãi. Sống cho trọn vẹn, thấy cho tột cùng cái thể chân thật của nó thì cái lành mới tột lành. Còn cái lành đối với cái dữ đó là cái lành có hạn chế.
Như vậy là:
- Nhãn thức cũng có biết phân biệt nơi con mắt.
- Nhĩ thức: biết phân biệt ở lỗ tai, thì cũng biết.
- Tỷ thức: phân biệt nơi lỗ mũi, thì nó cũng biết.
Mỗi cái đều có biết mà có biết tức là đồng có tâm, bởi vì mê mà theo trần thành ra có sai khác. Nếu sống trở về nguồn chân thì cái biết trùm khắp , nó dùng lẫn nhau, như trong Kinh Lăng Nghiêm nói: "Sáu căn hỗ dụng,dùng thay lẫn nhau”. Trong đây, khi Phật chưa xuất gia, thì “Phật” đây chỉ cho “Như Lai tàng” còn tại triền, tức là còn trong mê nhiễm. Mỗi người chúng ta đều có kho Như Lai, kho Phật đó hết, nhưng còn tại triền, còn trong mê trong nhiễm nên có đó mà không biết. Chính còn trong mê trong nhiễm nên tâm biến thành thức. Tuy nó ở trong cái nhiễm ô đó mà không rời thể giác. Bởi vậy, tuy nó phân biệt hơn thua, tốt xấu nhưng vẫn còn mang tánh Biết trong đó. Song cái biết này là biết theo mê, biết hơn thua, phải quấy, biết giới hạn. Khi sống trở về được rồi thì cái biết nó tròn khắp, tức biết trở thành giác. Vì vậy ở trong mê nó cũng có công năng soi sáng, nhưng soi sáng phân biệt các pháp.
Cho nên tám vị Vương Tử đều có oai đức tự tại lãnh trị bốn châu thiên hạ, như các thức, nó phân biệt các pháp, các trần từ bốn phương tới. Cũng là ý, tám thức này nó không rời thân tứ đại này.
Như vậy tám thức khi Như Lai tàng còn tại triền (mê nhiễm) thì tâm biến thành thức, thành ra cũng biết phân biệt, nhưng phân biệt còn trong mê trong nhiễm. Khi nghe Vua cha xuất gia thì tám vị Vương tử cũng xuất gia theo, tức là Như Lai tàng này khi xuất triền, là ra khỏi mê thì tám thức cũng chuyển theo, chuyển thức thành trí.
Trong nhà Phật, sau khi giác rồi thì các thức đó chuyển thành trí, mà chuyển thành trí thì năm thức trước chuyển thành Thành Sở tác trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu Quan sát trí, thức thứ bảy chuyển thành Bình Đẳng tánh trí, thức thứ tám là tàng thức chuyển thành Đại Viên cảnh trí, tức là trí tròn sáng như gương lớn, không có nhiễm ô gì, cái gì cũng hiện trong đó hết.
Còn mạt na thức chuyển thành bình đẳng tánh trí, vì lúc còn mê mạt na chấp ngã cho nên phân biệt có tôi, có anh, có yêu có ghét, đâu còn bình đẳng. Chuyển thành trí rồi, thì quên tướng ta và người, tức là thấy rõ bình đẳng hết. Còn các thức kia thì cũng chuyển thành trí hết, cho nên Phật xuất gia, tám vị Vương tử cũng xuất gia theo. Như vậy để cho thấy rõ, tu hành cuối cùng đâu có trở thành một cái gì khác, mà chính là cái mình dùng hằng ngày mà mình mê không biết, chỉ là chuyển tên đó thôi. Hồi xưa còn mê nói là thức, bây giờ tỉnh gọi là trí vậy thôi, đâu có gì khác trong đó. Cho nên cũng cái biết này, cái thấy này, khi mê thì gọi là thấy biết của chúng sanh, khi giác ngộ rồi thì thấy biết của Phật, gọi là Tri Kiến Phật.
CHÁNH VĂN:
21- Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, lúc đó nói Kinh đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa Xứ Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói kinh đó rồi Phật ở trong đại chúng, ngồi xếp bằng nhập vào cảnh chánh định Vô lượng nghĩa xứ, thân và tâm chẳng lay động.
Khi ấy trời mưa hoa Mạn-đà-la, hoa Ma-ha mạn-đà-la, hoa Mạn-thù-sa, hoa Ma-ha- mạn- thù- sa để rải trên đức Phật và hàng đại chúng. Khắp cõi nước Phật sáu điệu vang động.
22- Lúc đó trong hội, hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lầu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già Nhân, Phi nhân, cùng các vị Tiểu Vương v.v…, các đại chúng đó đặng điều chưa từng có, mừng rỡ chấp tay một lòng nhìn Phật.
23- Bấy giờ, đức Như Lai từ tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng ánh sáng soi khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, như nay đương thấy ở cõi Phật này.
Di Lặc nên biết! Khi đó trong hội có hai mươi ức ức Bồ tát ưa muốn nghe pháp, các vị Bồ tát ấy thấy ánh sáng chiếu khắp các cõi Phật đặng điều chưa từng có, đều muốn biết vì duyên cớ gì mà phóng ánh sáng này. Khi ấy có vị Bồ tát hiệu Diệu Quang có tám trăm người đệ tử.
GIẢNG:
Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh thời đó Ngài cũng nói Kinh đại thừa tên Vô Lượng Nghĩa Xứ Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, nói Kinh đó xong cũng nhập vào chánh định Vô lượng nghĩa xứ, thì cũng trời mưa hoa, đất chấn động, tất cả chúng trong hội cũng đều nghi ngờ cũng giống như chuyện ngày nay.Tức cảnh trước đó cũng giống như ngày nay, những điềm lành đó cũng giống như những điềm lành ngày nay, vậy để rõ cái việc gì? - Là để nói lên xưa nay cũng vốn không hai, mê ngộ cũng đồng một thể thôi. Xưa cũng cảnh đó, nay cũng cảnh đó, nhưng Ngài Văn Thù thì thấy còn mình không thấy, vì do mê mà thôi. Sự thật trong đó chưa từng có cách biệt bao giờ, chỉ cần ‑mình mở mắt của Ngài Văn Thù thì biết được Phật muốn nói gì rồi,
Mắt Văn Thù là mắt gì? Là mắt trí tuệ. Mà trí tuệ đây là chỉ cho căn bản trí hay cũng gọi là bản giác. Trí căn bản là trí sẵn có nơi mình, trong nhà Thiền gọi là trí vô sư, là trí không thầy dạy. Nên Ngài Văn Thù mới thấy thì hiểu liền, có ai dạy đâu, trong khi đó ở phần sau Ngài Di Lặc mới nghi. Cũng vậy mình mở được căn bản trí đó là mở được trí vô sư thì rõ được ánh sáng kia liền. Tóm lại Phật Phật đồng một Diệu pháp đó thôi chứ không có hai. Phật xưa cũng hiện ra điềm đó, bây giờ cũng hiện ra điềm đó, Diệu pháp đó không hai nhưng vì mình chưa mở được con mắt căn bản nên còn chưa hiểu được.
CHÁNH VĂN:
24- Bấy giờ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh từ trong chánh định mà dậy, vì Diệu Quang Bồ tát nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm, trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời chỗ ngồi.25- Lúc ấy trong hội, người nghe pháp cũng ngồi một chỗ đến sáu mươi tiểu kiếp, thân tâm đều không lay động, nghe đức Phật nói pháp cho là như trong khoảng bữa ăn. Bấy giờ trong chúng không có một người nào hoặc là thân hoặc là tâm mà sanh lười mỏi.
26- Đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh trong sáu mươi tiểu kiếp nói Kinh đó rồi, liền ở trong chúng ma, phạm, sa môn, bà la môn và trời, người, a tu la mà tuyên rằng: "Hôm nay vào nửa đêm, Như Lai sẽ nhập Vô Dư Niết bàn". Khi đó có vị Bồ tát tên Đức Tạng, đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh liền thọ ký cho, bảo các Tỳ kheo rằng: "Ông Đức Tạng Bồ tát này kế đây sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Thân Như Lai, Ứng Cúng Chánh Đẳng Chánh Giác".
Đức Phật thọ ký xong, vào nửa đêm bèn nhập Vô Dư Niết bàn.GIẢNG:
Trước tiên nhắc đến ở trong hội đó có Bồ tát tên là Diệu Quang khi Phật phóng ánh sáng đó rồi Phật ở nơi chánh định dậy, vì Bồ tát Diệu Quang đó nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nói Kinh đó trải qua sáu mươi tiểu kiếp chẳng rời khỏi chỗ ngồi, trong chúng hội cũng ngồi sáu mươi tiểu kiếp.
Bồ tát Diệu Quang là gì? Diệu là mầu nhiệm. Quang là ánh sáng. Diệu Quang là ánh sáng nhiệm mầu. Ánh sáng Diệu Quang là ánh sáng trí tuệ căn bản. Đó là trí tuệ không thể nghĩ bàn, tức là muốn ngầm nói cái gì? - Muốn nghe pháp này, rõ Tri Kiến Phật này thì phải bặt niệm phân biệt, phải từ căn bản trí mà vào.
Sáu mươi tiểu kiếp, tính ra khoảng một tỷ tám triệu năm, nói pháp luôn như vậy, ai nghe có tưởng tượng nổi không? Pháp ở đâu mà nói hoài vậy? Đây muốn chỉ cho ta rõ Tri Kiến Phật vượt ngoài thời gian, khái niệm. Ở đây Ngài nói pháp thời gian dài như vậy thân và tâm không lay động, không rời chỗ ngồi. Chúng nghe pháp cũng vậy, cũng ngồi đó thân tâm đều không lay động trải qua sáu mươi tiểu kiếp, tức là một tỷ tám triệu năm mà tưởng như trong khoảng bữa ăn thôi, tức quên thời gian. Còn mắc kẹt thời gian là còn thấy có lâu, có mau cho nên ngồi nghe một lúc trông cho hết giờ để nghỉ. Đó là sống với tri kiến chúng sanh, còn sống với Tri Kiến Phật thì quên thời gian.
Đức Phật nói pháp trong sáu mươi tiểu kiếp cũng không rời chỗ ngồi, ý nghĩa đó là muốn nói lên cái gì?
- Đó là cho dù Ngài nói thế nào, nói Đông nói Tây gì đi nữa thì vẫn không rời “một niệm hiện tiền” đây thôi. Vậy mình ngồi nghe mà nghe chú tâm, lắng lòng nghe thì thời gian dài cũng không rời người nghe pháp đây, không rời niệm hiện tiền đó. Rõ được chỗ này mình mới thấy ý nghĩa sâu xa trong đó, chớ mình không biết đức Phật nói pháp cách gì trải qua thời gian dài mà ngồi đó nói hoài, chúng cũng ngồi đó hoài. Như vậy, khi người sống trong Tri Kiến Phật đó thì quên niệm về thời gian, mới rõ được, mới sống được trong Tri Kiến Phật. Do đó ngồi thiền lâu lâu có những giây phút an ổn, mình cảm thấy được chút chút quên thời gian, lúc đó mình mới hiểu được phần nào cảnh giới này. Khi chúng ta sống được nhất tâm, sống ngay trong hiện tại này, bặt được ý nghĩ lăng xăng đó, quên mất ý niệm về thời gian, chúng ta mới nghe được Pháp Hoa rõ ràng, còn bây giờ nghe Pháp Hoa bằng cái gì? - Nghe với tâm đang ngồi đây mà nghĩ nhớ chuyện nhà. Vậy ngay đây mà đã rời khỏi chỗ ngồi rồi, chưa nói đến mấy mươi kiếp nữa.
Khi Phật nói Kinh Pháp Hoa xong rồi tức qua sáu mươi tiểu kiếp đó xong rồi, Ngài tuyên bố: "Tối nay nửa đêm Ta nhập Niết bàn". Sao nói Kinh xong tuyên bố nhập Niết bàn? Chỗ này có giống chỗ Ngài Sùng Tín đưa đèn cho Ngài Đức Sơn không? Tức là Đức Sơn Tuyên Giám, sau khi quảy bộ Thanh Long Sớ Sao đi về phương Nam, gặp bà già bán bánh hỏi một câu mà đáp không được, Sư mới hỏi, ở đây có Thiền sư không, bà già chỉ đến Ngài Sùng Tín. Ở đó, Sư theo Ngài Sùng Tín một thời gian, một hôm đứng hầu khuya, Ngài Sùng Tín mới bảo:
- Khuya rồi, sao ông không xuống đi?
Sư đi ra thấy trời tối đen, bèn trở vào thưa rằng:
- Bên ngoài tối đen.
Tối đen đó có hai nghĩa, là bên ngoài trời tối đen mà tâm Ngài cũng đang tối đen.
Ngài Sùng Tín nói:
- Được rồi! Ông tới ta đốt đèn đưa cho.
Ngài Sùng Tín đốt đèn đưa cho Sư. Sư đưa tay ra tiếp nhận, thì ngay đó Ngài Sùng Tín liền thổi tắt. Sư liền ngộ.
Lúc cần thì mồi đèn đưa cho, khi lấy thì thổi tắt đi. Như vậy có giống ở đây không? - Nói Kinh Pháp Hoa cho nghe, nghe xong tuyên bố nhập Niết bàn. Vậy đó là nhắn nhủ mình cái gì? - Phần của Ta nói tới đây là xong rồi, nói Pháp Hoa là thổ lộ cho mọi người hết rồi, Tri Kiến Phật đó đã nói rõ rồi, bây giờ còn lại là gì? - Là phần của các ông. Cho nên, thôi Ta nhập Niết bàn. Cũng như ta đưa đèn rồi liền thổi tắt, đó là ông tự sáng lên, không ỷ vào Ta. Ỷ lại, nếu có được gì đi nữa cũng là cái vay mượn, cũng là trí hữu sư. Ở đây muốn mình phải phát trí vô sư, sống với trí vô sư đó. Ta nhập Niết bàn rồi chỉ còn ông ở đó thì ông phải sống dậy thôi. Đó là ý nghĩa rất sâu xa! Chính ông sống được như vậy đó thì ông mới giữ gìn, mới truyền Pháp Hoa không đoạn dứt được. Nếu ỷ lại vào Ta, khi Ta mất đi thì ông chới với. Trong nhà Thiền có câu: "Từ cửa vào thì không phải của báu của nhà mình". Nếu báu trong nhà thì trong nhà tự lấy ra xài, còn từ cửa vào là thuộc bên ngoài. Do đó ở đây Phật tuyên bố thôi Ta nhập Niết bàn, còn lại là phần dành cho ông.
Khi đức Phật tuyên bố nửa đêm nhập Niết bàn thì trong hội đó có vị Bồ tát tên là Đức Tạng, Phật thọ ký cho Ngài Đức Tạng kế đó sẽ thành Phật gọi là Tịnh Thân Như Lai. Ai thấy có gì lạ không? Nói Kinh thì nói cho Ngài Diệu Quang nghe, đối trước với Ngài Diệu Quang, nhưng lại thọ ký cho Ngài Đức Tạng. Bởi vì Diệu Quang là chỉ cho Ngài Văn Thù, mà Văn Thù tức là căn bản trí. Căn bản trí tức là trí căn bản, là trí âkhông thầy, là bản giác, giác có ở nơi mọi người thì còn thọ ký gì nữa. Do đó thọ ký cho Ngài Đức Tạng.
Đức Tạng là kho công đức đầy đủ diệu hạnh, chỗ sống được trọn vẹn, được viên mãn mới thành Phật, với tự thân trang nghiêm thanh tịnh, đó là quả đức. Muốn nói lên, ngộ Tri Kiến Phật, rõ được bản giác là sẵn đủ tự bao giờ rồi, nhưng còn phải sống, sống cho trọn vẹn viên mãn trong đó mới tròn đầy quả đức, thực sự thành tựu thanh tịnh pháp thân, thanh tịnh tự thân. Quả Phật tới đó mới là trọn vẹn, cho nên thọ ký cho ngài Đức Tạng. Đó là điều nhắc nhở cho người học Pháp Hoa cũng phải nhớ kỹ, sáng được Pháp Hoa, ngộ được Tri Kiến Phật nhưng phải sống được trong đó, sống trọn vẹn đầy đủ công đức thì mới xong, chứ không phải nghe ngộ là đủ. Cho nên Phật thọ ký cho Ngài Đức Tạng mà không thọ ký cho Ngài Diệu Quang.
CHÁNH VĂN:
27- Sau khi đức Phật diệt độ, Diệu Quang Bồ tát trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa, trải tám mươi tiểu kiếp vì người mà diễn nói.
28- Tám người con của Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đều học với Ngài Diệu Quang. Ngài Diệu Quang dạy bảo cho đều vững bền ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Các vị Vương tử đó cúng dường vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật đều thành Phật đạo. Vị thành Phật sau hết hiệu là Nhiên Đăng.
29- Trong hàng tám trăm người đệ tử có một người tên Cầu Danh. Người này ưa tham danh lợi, dầu cũng đọc tụng các kinh mà chẳng thuộc rành, phần nhiều quên mất nên gọi là Cầu Danh. Người này cũng do có trồng các nhơn duyên căn lành nên đặng gặp vô lượng trăm nghìn muôn ức đức Phật mà cúng dường cung kính tôn trọng khen ngợi.
30- Di Lặc nên biết! Lúc đó Diệu Quang Bồ tát đâu phải người nào xa lạ, chính là Ta đấy, còn Cầu Danh Bồ tát là Ngài đấy.
Nay thấy điềm lành này cùng với xưa không khác. Cho nên ta xét nghĩ, hôm nay đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa tên Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm.
Bấy giờ, Ngài Văn Thù Bồ tát ở trong đại chúng, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
GIẢNG:Phật thọ ký xong, Ngài nhập Niết bàn rồi, sau đó Bồ tát Diệu Quang trì kinh Diệu Pháp Liên Hoa tám mươi tiểu kiếp, vì người khác mà diễn nói, tức là tiếp nối giữ gìn Kinh Pháp Hoa hay giữ gìn Tri Kiến Phật đó. Mà muốn tiếp nối, giữ gìn Tri Kiến Phật hay kinh Pháp Hoa đó, phải là cái gì? Phải là căn bản trí hoặc là trí vô sư, cho nên ở đây Bồ tát Diệu Quang trì Diệu Pháp Liên Hoa tám mươi tiểu kiếp, Ngài trì liên tục. Bởi cái trí sẵn nơi mình, chính trí đó nó mới giữ gìn liên tục được, còn trí hữu sư thì nó sẽ có gián đoạn, lấy cái trí đó mà giữ gìn Pháp Hoa thì khó được liên tục. Rồi tám người con của đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đó đều học với Ngài Diệu Quang, Ngài Diệu Quang cũng dạy bảo cho khiến đều vững bền nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác và những người con này cũng từng cúng dường vô lượng đức Phật rồi sau đó cũng đều thành Phật, Phật cuối cùng là Phật Nhiên Đăng, mà Nhiên Đăng là thầy của đức Phật Thích Ca.
Tám người con đó là chỉ cho tám thức, tám thức nó đều nương theo căn bản trí, tức là nương theo Ngài Diệu Quang mà học. Như vậy để thấy rõ, khi mê thì nó là thức, khi giác thì nó là trí. Ngay điểm này ta hiểu thêm ý nghĩa gì? Nó có cố định không? Không có tánh cố định gì hết. Thức nó không phải cố định là thức mà khi giác thì nó chuyển thành trí rồi. Do đó, tám thức nó vốn là tánh không, không có tánh cố định. Mà tánh không, tức là tám thức đều vô ngã, nhưng mình lại chấp ngã, chấp nó cố định đó là mê lầm. Hiểu được như vậy, thì chính ngay cái suy nghĩ của mình đây, khéo chuyển thì nó sẽ đi đến cái gì? Cái suy nghĩ này, thay vì nó suy nghĩ hơn thua, phải quấy, đông tây bây giờ hãy suy nghĩ đến chỗ không suy nghĩ xem. Song chỗ không suy nghĩ làm sao suy nghĩ? Thì ngay đó nó bặt suy nghĩ rồi! Mà bặt suy nghĩ thì nó chuyển thành trí, căn bản trí hiện ra. Nếu khéo ứng dụng thì chính ngay cái tâm suy nghĩ này, mình chuyển nó liền tỏ ngộ ngay không cần phải tìm đâu xa.
Mà nếu ngay chỗ suy nghĩ này, mình suy nghĩ đến chỗ bặt suy nghĩ thì bừng sáng dậy, và chỗ bừng sáng dậy là gì? Đóù là Nhiên Đăng chớ gì! Cho nên Phật cuối cùng là Nhiên Đăng. Nhiên Đăng là cái đèn nó bật cháy và đó là thầy của Phật Thích Ca. Tới đây có ai nghi cái gì không? Tám vị Vương tử đó theo học với Ngài Diệu Quang, cuối cùng rồi cũng đều thành Phật, cũng đều phựt cháy hết, cuối cùng là vị Nhiên Đăng. Như vậy, mấy vị học trò đều thành Phật hết, còn Ngài Diệu Quang thì sao không thấy thọ ký thành Phật? Diệu Quang tức Ngài Văn Thù, cũng không thấy thọ ký thành Phật, cũng còn là Văn Thù? Bởi vì, Ngài là căn bản trí rồi. Đó là một ý, thành Phật cũng không phải là thành một cái gì khác, mà là thành cái sẵn có đã bị bỏ quên thôi. Bởi vậy, chính cái “diệu quang” tức cái ánh sáng nhiệm mầu sẵn có, là thầy của các đức Phật. Các đức Phật thành Phật cũng là thành cái sẵn có đó chớ không phải cái gì khác. Đêán đây ai thấy được cái Diệu Quang chưa?
Rồi thêm một đoạn nữa, trong hàng tám trăm đệ tử của Ngài Diệu Quang đó, có người tên là Cầu Danh. Cầu Danh tức là đi theo danh lợi, tiếng tăm, cho nên nói người này ưa danh lợi, tiếng tăm, dầu có đọc tụng nhưng không có thuộc kinh. Theo danh tướng thì làm sao thuộc kinh Pháp Hoa này nổi! Nhưngdo có trồng nhân duyên căn lành, có gần gũi các đức Phật, nên cuối cùng cũng được thọ ký thành Phật. Do đó Ngài Văn Thù nói, Diệu Quang đó không ai khác, chính là ta đây; còn Cầu Danh là ông - là Ngài Di Lăïc. Ngài Di Lăïc đó cũng được gặp Phật Thích Ca thọ ký sau này sẽ thành Phật. Như vậy, Cầu Danh cũng được thọ ký thành Phật, thì ở đây có ai mất phần không?
Hiện tại đây chúng ta đang sống với cái gì? - Với cầu danh, với vọng tưởng chứ gì? Tức sống với các thức tưởng phân biệt đó, nếu khéo chuyển rồi cũng thành Phật. Mình biết rõ cái vọng tưởng đó nó là không thật thì không lầm các vọng tưởng đó. Chính ngay suy nghĩ mà bặt suy nghĩ thì nó bừng sáng lên, tánh giác hiện tiền. Đểå thấy rõ, mỗi người chúng ta ngồi đây đều là những vị Phật tương lai, nếu khéo biết chuyển. Cho nên ở đây rốt lại Ngài Văn Thù nói ra, Diệu Quang đó chính là ta, còn Cầu Danh chính là ông chứ không có ai khác. Đóù cũng là ý nghĩa, xưa nay không rời ngay một niệm hiện tiền này, chớ kẹt vào niệm xưa nay đó chính trước mắt đây liền cách biệt.
Do đó, Ngài Văn Thù kết thúc, nay thấy điềm lành này cùng với xưa không khác, xét biết rõ đức Phật Như Lai sẽ nói kinh Đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm. Nay với xưa không khác, thấy rõ như vậy. Phật chưa nói, chưa xuất định nhưng Ngài Văn Thù thấy đó đã biết rồi. Vậy là do cái gì? - Do căn bản trí thầm hiểu được Phật muốn nói. Chúng ta khéo mở được con mắt đó thì mình cũng thấy được chỗ chưa nói của đức Phật đó. Chính thấy chỗ chưa nói của Phật đó mới thấy được chỗ tột cùng. Còn thấy chỗ đã nói thì sao? - Thấy chỗ đã nói là thấy theo chỗ phân biệt rồi. Cho nên khi Phật đã nói rồi nhưng mình cũng phải từ chỗ đã nói đó mà thấy chỗ chưa nói kia, còn nếu theo chỗ đã nóimà hiểu tức là theo đuôi. Chỗ này phải nghiền ngẫm cho kỹ mới thấy chỗ sâu xa của Phật!
Như vậy ngày xưa cũng cái thấy cái nghe này, rồi bây giờ cũng cái thấy cái nghe này, cho nên Ngài Văn Thù lúc xưa, ở chỗ đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh đó thì Ngài cũng cái thấy cái nghe này, rồi ngày nay ở chỗ Phật Thích ca cũng cái thấy cái nghe này Ngài biết rõ, thì mình bây giờ nếu khéo cũng sẽ thấy rõ. Chính ngày xưa cũng thấy nghe đó, bây giờ cũng cái thấy nghe đó thì có hai, ba gì đâu. Chưa ngộ còn đợi gì nữa? Tri Kiến Phật là ngay chỗ đó, còn gì nữa; chỉ là mình đừng xen những cái khác vào thôi. Cũng ngay chỗ thấy nghe này đừng xen những cái khác vào là xong!
Trong Sử thiền có kể: có vị Tăng đến hỏi Ngài Linh Vân:
- Khi Phật chưa ra đời thì thế nào?
Ngài Linh Vân lấy cây phất tử đưa lên (đó là Phật chưa ra đời).
Sau đó ông Tăng hỏi tiếp:
- Khi Phật ra đời thì như thế nào?
Ngài cũng đưa cây phất tử lên.
Vậy có gì sai khác? Mà cái gì là cái Phật trước khi chưa ra đời? - Chính là cái đang ngồi đó. Thành ra chính cái đó khi Phật chưa ra đời và sau khi ra đời cũng không rời cái đó. Nhưng mình không sống được ngay cái đó, mà còn thêm trong đó cho nên thành ra sai biệt. Nếu rõ được ngay chỗ đó rồi thì ở đây thấy được Diệu Pháp Liên Hoa thôi. Kế đó Ngài Văn Thù mới thuật lại bài kệ:
CHÁNH VĂN:
31-Ta nhớ thuở quá khứ
Vô lượng vô số kiếp
Có Phật Nhơn Trung Tôn
Đức Thế Tôn nói pháp
Độ vô lượng chúng sanh
Vô số ức Bồ tát
Khiến vào trí huệ Phật
GIẢNG:Đây nhắc lại đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, từ vô lượng vô số kiếp về trước, Phật ra đời, độ vô lượng chúng sanh cũng đều nhắm vào trí huệ Phật. Đó là bản hoài của Phật.
CHÁNH VĂN:
32- Khi Phật chưa xuất gia
Có sanh tám Vương tử
Thấy Đại Thánh xuất gia
Cũng theo tu Phạm hạnhGIẢNG:
Nhắc lại khi Phật chưa xuất gia có tám vị Vương tử, khi Phật xuất gia thì tám vị đó cũng xuất gia theo.
CHÁNH VĂN:33- Phật nói kinh Đại thừa
Tên là "Vô Lượng Nghĩa"
Ở trong hàng đại chúng
Mà vì rộng tỏ bày.
Phật nói kinh ấy rồi
Liền ở trong pháp tòa
Xếp bằng nhập chánh định
Tên "Vô Lượng Nghĩa Xứ."
Trời rưới hoa Mạn đà
Trống trời tự nhiên vang
Các trời, rồng, quỷ, thần
Cúng dường đấng Nhơn Tôn
Tất cả các cõi Phật
Tức thời vang động lớn.GIẢNG:
Đây nói về đức Phật nói kinh "Vô Lượng Nghĩa", sau khi nói xong Ngài bèn nhập định tên là "Vô Lượng Nghĩa Xứ", lúc đó trời rưới hoa, đất chấn động. Thuật lại việc đó, người nghe thì ai cũng tưởng vào một thời xa xôi nào đó. Nhưng đất chấn động vang như vậy, nó còn vang cho đến ngày nay, có ai nghe được không? Tiếng vang chấn động đất, vậy đất này là đất gì? - Đó là đất tâm. Tiếng vang đó còn vang đến ngày nay, ai khéo nghe tiếng vang đó thì sao? - Thì tự nhiên là thấy trời mưa hoa, cảm được trời mưa hoa và nghe được Phật nói kinh Vô Lượng Nghĩa, thấy được Phật nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ đó.
CHÁNH VĂN:
34- Phật phóng sáng giữa mày
Hiện các việc hy hữu
Ánh sáng chiếu phương Đông
Muôn tám nghìn cõi Phật.
Bày sanh tử nghiệp báo
Của tất cả chúng sanh
Lại thấy các cõi Phật
Dùng các báu trang nghiêm
Màu lưu ly, pha lê
Đây bởi Phật quang soi.GIẢNG:
Đây là nói Phật phóng ánh sáng từ lông trắng giữa chặng mày, chiếu về phương Đông, một muôn tám nghìn cõi, soi thấy hết nghiệp báo của chúng sanh ở trong sáu đường, cho đến cảnh trang nghiêm ở cõi Phật, màu lưu ly, pha lê đều thấy rõ hết. Đó là muốn nói lên cái gì? - Trong ánh sáng đó tịnh uế gì cũng hiện trong đó hết, không thiếu. Vậy còn tìm đâu xa chi nữa Đó là nhắc nhở cho mình thấy lại ánh sáng đó là cái hay, còn theo tướng tịnh uế là theo chiều mê.
CHÁNH VĂN:35- Lại thấy những trời, người
Rồng, thần, chúng dạ xoa
Càn thát, Khẩn na la
Đều cúng dường Phật mình.
GIẢNG: Thấy trời, người, rồng, thần, dạ xoa.CHÁNH VĂN:
36- Lại thấy các Như Lai
Tự nhiên thành Phật đạo
Màu thân như núi vàng
Đoan nghiêm rất đẹp màu
Như trong lưu ly sạch
Hiện ra tượng chơn kim
Thế Tôn trong đại chúng
Dạy nói nghĩa thâm diệu
GIẢNG:Đây là thấy thân tướng trang nghiêm, đẹp đẽ của các đức Phật. Và tự nhiên thành Phật đạo nói pháp vi diệu, tức là sao? Thành Phật là thành tự nhiên, ý nói thành Phật tức là thành cái sẵn có đó, chớ không phải thành cái bên ngoài, thành mà không có chỗ thành.
CHÁNH VĂN:37- Mỗi mỗi các cõi Phật
Chúng Thanh văn vô số
Nhơn Phật quang soi sáng
Đều thấy đại chúng kia
Hoặc có các Tỳ kheo
Ở tại trong núi rừng
Tinh tấn giữ tịnh giới
Dường như gìn châu sángGIẢNG: Nhân cái ánh sáng của Phật mà thấy các Tỳ kheo trì giới, tu hành tinh tấn thanh tịnh.
CHÁNH VĂN:38- Lại thấy các Bồ tát
Bố thí nhẫn nhục thảy
Số đông như hằng sa
Đây bởi sáng Phật soi.
Lại thấy hàng Bồ tát
Sâu vào các Thiền định
Thân tâm lặng chẳng động
Để cầu đạo vô thượng.
Lại thấy các Bồ tát
Rõ tướng pháp tịch diệt
Đều ở tại nước mình
Nói pháp cầu Phật đạo.
GIẢNG:Đây là nói các Bồ tát tu hành bố thí, nhẫn nhục. Còn các Bồ tát tu Thiền định cầu Phật đạo thì rõ được các pháp tướng tịch diệt. Thấy rõ ở ngay nước mình cũng nói pháp cầu Phật đạo, chớ khỏi phải đi đâu xa. Ý nói nơi mình có đủ, khỏi cần ở đâu khác.
CHÁNH VĂN:
39- Bây giờ bốn bộ chúng
Thấy Phật Nhật Nguyệt Đăng
Hiện sức thần thông lớn
Tâm kia đều vui mừng
Mỗi người tự hỏi nhau
Việc này nhơn duyên gì?GIẢNG:
Đây nói về bốn chúng khởi nghi, thấy rõ đó nhưng vẫn chưa nhận biết được, vậy có giống như mình không? Thấy đó, gặp nhau đó mà không biết nhau!
CHÁNH VĂN:40- Đấng của trời, người thờ
Vừa từ chánh định dậy
Khen Diệu Quang Bồ tát
Ông là mắt của đời
Mọi người đều tin về
Hay vưng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được.
Đức Phật đã ngợi khen
Cho Diệu Quang vui mừng
Liền nói kinh Pháp Hoa
Trải sáu mươi tiểu kiếp
Chẳng rời chỗ ngồi ấy
Ngài Diệu Quang pháp sư
Trọn đều hay thọ trì
Pháp thượng diệu của Phật.GIẢNG:
Đây là Phật xuất định khen Bồ tát Diệu Quang, ngầm chỉ cho mọi người thầm cảm thông chỗ mà tình thức không thể xen vào biết được. Tức là chỗ tâm tương ưng, người ngoài khó suy nghĩ biết. Trong đây Phật khen Diệu Quang rồi nói:
“Ông là mắt của đời
Hay vâng giữ tạng pháp
Như pháp của ta nói
Chỉ ông chứng biết được”
Đó là thầm cảm thông với nhau, còn người ngoài dùng trí suy nghĩ thì không biết được. Phật khen ngợi cho Ngài Diệu Quang vui mừng rồi, nói kinh Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:41- Phật nói kinh Pháp Hoa
Cho chúng vui mừng rồi
Liền chính ngay trong đó
Bảo hàng chúng trời, người
Các pháp "nghĩa thật tướng"
Đã vì các ông nói
Nay ta giữa đêm này
Sẽ vào cõi Niết bàn
Phải một lòng tinh tấn
Rời các sự buông lung
Các Phật rất khó gặp
Ức kiếp được một lần.GIẢNG:
Đây Phật tuyên bố, Ngài sắp nhập Niết bàn. Coi như về pháp sâu xa nghĩa thật tướng đó đã nói hết rồi, bây giờ Ngài nhập Niết bàn, trả lại phần còn lại cho các ông.
CHÁNH VĂN:42- Các con của Phật thảy
Nghe Phật sắp nhập diệt
Thảy đều lòng buồn khổ
Phật sao gấp diệt vậy?
Đấng Thánh Chúa Pháp Vương
An ủi vô lượng chúng
Nếu lúc ta diệt độ
Các ông chớ lo sợ
Đức Tạng Bồ tát đây
Tâm đã được thông thấu
Nơi vô lậu thiệt tướng
Kế đây sẽ thành Phật
Tên hiệu là Tịnh Thân
Cũng độ vô lượng chúng
GIẢNG:Đây đức Phật thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng. Thấy chúng buồn khổ, Ngài bảo các ông không phải buồn khổ rồi Ngài an ủi thêm, nói các ông chớ có lo sợ, Bồ tát Đức Tạng kế tiếp đây sẽ thành Phật, sẽ độ vô lượng chúng sanh. Là nói lên, khi có tướng, có sanh, có diệt thì đó là giả tướng thôi. Còn thật tướng vẫn hằng hữu không có mất bao giờ, chớ có lo buồn. Thấy Phật nhập diệt đó là tướng giả, tướng sanh diệt, còn Phật thật có sanh diệt gì đâu mà lo buồn.
CHÁNH VĂN:43- Đêm đó Phật diệt độ
Như củi hết lửa tắt
Chia phân các xá lợi
Mà xây vô lượng tháp.
Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni
Số đông như hằng sa
Lại càng thêm tinh tấn
Để cầu đạo vô thượng.
GIẢNG: Đây nói Phật diệt độ, chúng đệ tử xây tháp cúng dường.
CHÁNH VĂN:44- Diệu Quang pháp sư ấy
Vâng giữ Phật pháp tạng
Trong tám mươi tiểu kiếp
Rộng nói kinh Pháp Hoa
Tám vị Vương tử đó
Được Diệu Quang dạy bảo
Vững bền đạo vô thượng
Sẽ thấy vô số Phật
Cúng dường các Phật xong
Thuận theo tu đại đạo
Nối nhau đặng thành Phật
Chuyển thứ thọ ký nhau
Đấng Phật rốt sau cả
Hiệu là Phật Nhiên Đăng
Đạo sư của thiên tiên
Độ thoát vô lượng chúng.
GIẢNG:Đây nói Ngài Diệu Quang tiếp tục thọ trì kinh Pháp Hoa, tám vị Vương tử theo học với Ngài cuối cùng đều thành Phật, rốt sau cả là Phật Nhiên Đăng.
CHÁNH VĂN:45 -Diệu Quang pháp sư đó
Có một người đệ tử
Tâm thường cưu biếng trễ
Tham ưa nơi danh lợi
Cầu danh lợi không nhàm
Thường đến nhà sang giàu
Rời bỏ việc tụng học
Bỏ quên không thông thuộc
Vì bởi nhơn duyên ấy
Cũng tu các nghiệp lành
Đặng thấy vô số Phật
Cúng dường các đức Phật
Thuận theo tu đại đạo
Đủ sáu Ba la mật
Nay gặp đấng Thích Ca
Sau đây sẽ thành Phật
Hiệu rằng Phật Di Lăïc
Rộng độ hàng chúng sanh
Số đông đến vô lượng.GIẢNG:
Đây nói về Ngài Cầu Danh là vị đệ tử øNgài Diệu Quang. Ban đầu là cầu danh, do tham ưa danh lợi nhưng do cũng có trồng căn lành và gần gũi các đức Phật, nên chuyển tâm tu các công đức lành, cúng dường chư Phật rồi cũng thấy vô số Phật. Cuối cùng rồi cũng được thọ ký thành Phật.
CHÁNH VĂN:
46 - Sau Phật kia diệt độ
Lười biếng đó là Ngài
Còn Diệu Quang pháp sư
Nay thời chính là ta.
Ta thấy Phật Đăng Minh
Điềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói Pháp Hoa
Tướng nay như điềm xưa
Là phương tiện của Phật.
Nay Phật phóng ánh sáng
Giúp bày nghĩa thật tướng
Các người nay nên biết
Chắp tay một lòng chờ
Phật sẽ rưới nước pháp
Đầy đủ người cầu đạo
Các người cầu ba thừa
Nếu có chỗ nghi hối
Phật sẽ dứt trừ cho
Khiến hết không còn thừa.
GIẢNG:Đây nói rõ Diệu Quang chính là Ngài Văn Thù hiện tại, còn Cầu Danh là Ngài Di Lặc. Vậy, xưa chính là nay chớ không gì khác, xưa nay không từng xa cách. Muốn nhắc, ngay niệm hiện tiền này, mình khéo soi lại, sống ngay đây liền rõ được chỗ sâu xa đó. Phật nói rõ:
“Điềm sáng trước như thế
Cho nên biết rằng nay
Phật muốn nói Pháp Hoa”
Và đây là Ngài đã thổ lộ rõ ràng: “phóng ánh sáng đó, là giúp bày ngầm chỉ nghĩa thật tướng”. Khỏi cần phải nói nhiều, đó là Ngài thổ lộ cho mình thấy rõ ràng, thấy ánh sáng đó là phải thầm hội cái thật tướng, chớ không phải thấy ánh sáng đó rồi mê mờ chạy theo ánh sáng đó.Vậy ngay một phẩm Tựa này, tuy Phật chưa nói lời nào nhưng đã ngầm hiển hiện, chỉ rõ cái diệu pháp trong đó rồi.
Bởi vì, Diệu Pháp, nó là chỗ ngôn ngữ không thể nói đến được, cho nên tạm dùng hình ảnh phóng quang, hình ảnh Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Cầu Danh, Bồ tát Di Lặc, Bồ tát Diệu Quang, những hình ảnh đó thầm tỏ bày cho mình ngầm thấy được lý sâu xa mà ngôn ngữ không thể nói đến được. Nếu người khéo nhận ngay nơi tướng sáng đó, liền rõ cảnh giới Pháp Hoa hiện bày khắp các nơi. Cho nên trong nhà Thiền nói là núi xanh trước mắt, chim kêu bên tai đều hiển bày nghĩa thật tướng, nếu mình khéo thấy.
Có một Thiền sư đọc kinh Pháp Hoa tới câu:
“Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng”Các pháp xưa nay tướng nó vốn là tịch diệt, lặng lẽ, ông nghi: bây giờ có lặng lẽ gì đâu? Tướng này là cây cối trước mắt, gió động, người qua, người lại sanh diệt rõ ràng, tại sao nói các pháp xưa nay vốn là lặng lẽ? Ông nghi thời gian dài suốt bao nhiêu năm trời, một hôm tới mùa Xuân ông ngồi, nghe chim hoàng oanh hót trên cành, bỗng liền tỏ ngộ. Ông làm thêm hai câu kế đó là:
“Chư pháp tùng bản lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng”Có nghĩa,”các pháp xưa nay nó vốn tự vắng lặng, nhưng Xuân đến trăm hoa nở, hoàng oanh hót trên cành”.
Tướng thường lặng lẽ chỉ cho thể, thể thì thường lặng lẽ, nhưng khi duyên đến nó hiện rõ nên gọi là chân không mà diệu hữu. Tướng lặng lẽ đây không phải là một bề im phăng phắc, mà khi duyên đến thì nó hiện rõ mọi nơi mọi chỗ, đâu đâu cũng hiện bày cái thể thật tướng đó. Cho nên ngay các tướng hiển bày trước mắt đây, liền rõ được thật tướng lặng lẽ đó, chớ không rời những cái này.
Vậy, nếu mình khéo nhận được tướng sáng đó thì rõ được cảnh giới Pháp Hoa hiện bày khắp nơi, chỗ nào nó cũng đều hiện bày. Mà muốn rõ cái diệu pháp này, trước phải thấu suốt kinh Vô Lượng Nghĩa, nên Phật nói kinh này trước. Kinh Vô Lượng Nghĩa đó là kinh gì? - Vô Lượng Nghĩa là nghĩa vô lượng không đếm hết, không tính hết, chỗ ngôn ngữ không thể nói đến.
TÓM TẮT:
Phẩm này, Phật ban đầu ở núi Linh Thứu, chúng Thanh văn hữu học, vô học, Bồ tát, trời, rồng, bát bộ, cả Vua A Xà Thế cũng đều có mặt ở trong pháp hội đó. Phật trước nói kinh Vô Lượng Nghĩa, saunhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, từ đó trời mưa hoa, đất chấn động, rồi Phật từ ánh sáng giữa chặng lông mày mới phóng ra, soi khắp bao nhiêu cõi nước ở phương Đông, trong đó hiện hết cảnh giới phàm thánh đều có đủ . Sau đó, chúng hội khởi nghi hỏi Bồ tát Văn Thù. Bồ tát Văn Thù mới thuật lại những việc xưa kia mà Ngài đã từng thấy hai muôn đức Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh, Phật Nhật Nguyệt Đăng Minh cuối cùng khi Phật chưa xuất gia có tám vị Vương tử, sau khi Phật xuất gia thành đạo thì tám vị Vương tử đó cũng xuất gia theo và đồng theo học với Bồ tát Diệu Quang. Phật lúc đó cũng như ngày nay nói kinh Vô Lượng Nghĩa, cũng nhập chánh định Vô Lượng Nghĩa Xứ, cũng phóng quang, sau đó cũng nói kinh Pháp Hoa giống như việc ngày nay, xưa nay nó không khác. Nói kinh Pháp Hoa rồi, tuyên bố nửa đêm nhập Niết bàn, thọ ký cho Bồ tát Đức Tạng. Sau đó Bồ tát Diệu Quang trì kinh Pháp Hoa trải tám mươi tiểu kiếp.
Ngài Diệu Quang có đệ tử tên là Cầu Danh, vì tham ưa danh lợi đó cho nên học rồi mà không thuộc kinh. Nhưng do có trồng các căn lành, gặp nhiều đức Phật, cuối cùng cũng được thọ ký thành Phật. Sau cùng Ngài Văn Thù mới nói rõ, Diệu Quang chính là ta, còn Câàu Danh chính là ông, thì không có ai khác hết. Xưa tức là nay đây. Như vậy thấy rõ điềm này cũng như điềm xưa nên biết chắc Phật sẽ nói Pháp Hoa.
Nếu chúng ta ngày nay thấy được ánh sáng đó ngay chính mình đây, thì biết rõ Pháp Hoa dễ dàng. Như vậy, mở đầu kinh Pháp Hoa xuất hiện trước là Ngài Văn Thù Sư Lợi khơi mào. Văn Thù đó là chỉ cho căn bản trí, muốn nhắc nhở mỗi người chúng ta cũng phải khéo mở sáng được căn bản trí nơi mình, tin nhận căn bản trí nơi mình đó, lấy đó làm cái nhân để tiến tu thì quả chân thật sẽ đến.
-
3. Phẩm phương tiện
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn từ chánh định an lành mà dậy, bảo Ngài Xá Lợi Phất:" Trí huệ của các đức Phật rất sâu vô lượng, môn trí huệ đó khó hiểu khó vào, tất cả thành Thanh văn cùng Bích Chi Phật đều không biết được.Vì sao ?
Phật đã từng gần gũi trăm nghìn muôn ức vô số các đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp ý thú khó hiểu.
Xá Lợi Phất! Từ khi ra thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dù dắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp.Vì sao? Đức Như Lai đã đầy đủ phương tiện, tri kiến và ba la mật.
Xá Lợi Phất! Tri kiến của Như Lai rộng lớn sâu xa, đức vô lượng vô ngại lực, vô sở úy, thiền định, giải thoát tam muội, đều sâu vào không ngắn mé, trọn nên tất cả pháp chưa từng có.
Xá Lợi Phất ! Như Lai hay các món phân biệt, khéo nói các pháp lời lẽ êm dịu vui đẹp lòng chúng. Xá Lợi Phật ! Tóm yếu mà nói đó, vô lượng vô biên pháp vị tằng hữu, đức Phật thảy đều trọn nên.
GIẢNG:
Tới phần này là Phật từ chánh định dậy, trước khi nói ý nghĩa này, nói qua ý nghĩa phẩm phương tiện, vì sao phẩm này gọi là phẩm phương tiện ?
Phương: là phương pháp, cách thức.Tiện: là tiện lợi, thích ứng khéo léo, nói đủ là thiện xảo phương tiện để giúp cho người đạt đến chỗ mong muốn.
Vì trí tuệ giác ngộ của Phật, là trí tuệ siêu việt, nó vượt ngoài ngôn ngữ, cung như tâm suy nghĩ. Bởi vậy, khi Đức Phật thành đạo xong, Ngài định nhập Niết Bàn, vì thấy nó sâu xa quá, khó mà nói cho người hiểu được, thì nhập Niết Bàn cho rồi. Chư thiện phải ba lần thưa thỉnh, Phật mới hứa khả. Đó là ngầm nói lên trí tuệ chứng ngộ của Phật, nó vượt ngoài ngôn ngữ, khó có thể dùng ngôn ngữ diễn bày được. Để giáo hóa chúng sanh, Ngài phải dùng phương tiện mà dẫn dắt họ khéo vào trí tuệ đó. Cho nên cuối cùng phải vượt qua ngôn ngữ, vượt qua cái suy nghĩ bình thường của thế gian, mới thấu được chỗ rốt ráo Phật muốn nói, muốn chỉ.
Chính vì vậy, mở đầu kinh Pháp Hoa này, Phật nhập định phóng quang, rồi trời mưa hoa đất chấn động, chúng hội thắc mắc không hiểu được, chỉ Ngài Văn Thù mới thầm cảm thông được mà thôi. Ngay mở đầu kinh này cũng nói lên điều đó.
Như vậy để thấy, lý chân thật rốt ráo không thể nói mà chỉ người tri âm mới tự thầm cảm thông, thầm hiểu được. Song nếu một bề không nói thì dạy ai đây, do đó Phật phải phương tiện bày nói. Vậy đã nói ra thì đó là phương tiện, chứ chưa phải thật, mình không thể chấp vào chỗ nói năng đó. Trong nhà thiền, khi nói ra là thuộc về đầu thứ hai rồi, còn đầu thứ nhất, có chỗ gọi là ngọn diệu phong, chỗ bặt ngôn ngữ .
Bởi vậy trong Kinh Hoa Nghiêm, khi đồng tử Thiện Tài lên tham vấn Tỳ kheo Đức Vân trên ngọn Diệu Phong, nhưng đồng tử lên đến núi rồi lại không gặp Ngài Đức Vân, sau đó qua ngọn núi khác, gọi là Biệt Phong mới gặp Ngài. Trong đó lại nói, Tỳ kheo Đức Vân chưa từng xuống núi, mà đồng tử Thiện Tài ở núi khác lại thấy Ngài là sao ? – Ngọn Diệu Phong là chỗ lý rốt ráo chân thật, chỗ đó không có hai. Nên Thiện Tài lên đó không thấy Ngài Đức Vân. Nếu thấy được là có hai, có chủ có khách rồi. Bởi vậy lên tới đó, nhưng không thấy được, muốn thấy thì qua ngọn núi khác mới thấy. Đó là nhân cái này mà thấy được cái kia. Mình ở đây cũng vậy, nhân lời nói phương tiện kia phải thấy thấu qua cái đó, thấy thấu qua ý kia, mới thấy chỗ lý rốt ráo.
Trong sử Thiền có một vị Tăng hỏi Thiền sư Khế Phan ở Nam Thiền:
- Thế nào là nghĩa đệ nhất ?
Sư bảo:
- Sao không hỏi nghĩa đệ nhất ?
Ông Tăng nói:
- Đang hỏi đây !
Sư bảo:
- Đã rơi vào nghĩa đệ nhị rồiNgay đó ông phải thầm nhận liền. Do đó để hiểu rõ, khi có nói ra là thuộc về phương tiện, mà phương tiện là thuộc về cái thứ hai, thứ ba rồi.
Lẽ thật là chỗ tột lý không lời, phương tiện vì người mà tạm có nói năng thôi. Dùng cách này, cách nọ khéo léo để dẳn người vào lý thật đó là phương tiện. Phương tiện cũng như chiếc xe, chiếc thuyền, chuyên chở đưa mình từ chỗ này đến chỗ khác, nhưng cái đó không phải mục đích mà mình muốn đến. Ví dụ, mình muốn đi Sài gòn, ngồi trên xe nó đưa mình tới Sài Gòn, nhưng cứ ngồi lỳ trên xe đó hoài cho đó là Sài Gòn là lầm.
Cũng vậy, nếu mình không khéo mà mắc kẹt trên phương tiện, trên ngôn ngữ lời nói đó, thì cũng không thấy được lý đạo. Trong Kinh Viên Giác, Phật nói: ”Kinh điển Phật cũng giống như ngón tay chỉ mặt trăng”. Ngón tay là chỉ cho phương tiện để chỉ mặt trăng, mình phải khéo thấy mặt trăng mới thấy được lý thật.
Vua Đường Tuyên Tông có lần hỏi thăm Thiền sư Hoằng Biện:
- Sao gọi là phương tiện ?
Thiền sư Hoằng Biện đáp:
- Phương tiện là ẩn thật mà che tướng, là cửa quyền khéo léo, để tiếp hàng căn cơ bậc trung, bậc hạ, chiều uốn uyển chuyển bày ra để dẫn dụ họ, gọi đó là phương tiện. Giả sử đối với hàng thượng căn, bảo là cởi bỏ phương tiện, chỉ nói đạo vô thượng. Đây cũng là lời nói phương tiện.
Đến như Tổ Sư bảo quên công bặt lời, cũng không ra ngoài dấu vết phương tiện. Vì cái lời nói đó cũng là phương tiện rồi. Vậy làm sao vượt khỏi phương tiện ? Nói “Tôi buông hết phương tiện, cởi bỏ hết phương tiện”, lời nói đó cũng là phương tiện.
Người vượt ngoài phương tiện, là người phải khéo dùng phương tiện để ứng dụng cho mình, nhưng không mắc kẹt trong phương tiện đó. Cũng như đức Phật, Ngài nói ra lời này, lời nọ, Ngài cũng biết đó là phương tiện; nhưng Ngài khéo dùng nó mà dẫn dắt mình, không mắc kẹt trong đó, là Ngài vượt qua phương tiện, và dùng trở lại phương tiện. Đó là khéo léo, nếu không mình nghe nói buông hết rồi bảo: “ tôi bây giờ không chấp gì hết”, nói không chấp mà thành chấp. Chấp vào cái không chấp đó ! Lời nói phương tiện của Phật là lời nói phá chấp, lại chấp vào lời nói phá chấp làm thật, thành ra chấp nữa, cái đó rất là vi tế. Cho thấy, mọi cái lập bày ra đều là phương tiện.
Đến các vị Thiền sư hay các vị Tổ đánh hoặc hét cũng là phương tiện, để ngay đó đánh thức mình tỉnh lại cái thật chính mình. Cũng như ở đây, Phật phóng ánh sáng cũng là phương tiện. Như vậy, mình phải thấy được ý ngoài lời chứ không nên mắc kẹt ngôn ngữ.
Rồi khi Phật xuất định, Ngài tán thán trí tuệ của Phật với Tôn giả Xá Lợi Phất, Ngài bảo:
- Trí huệ đó rất sâu vô lượng. Môn trí huệ đó khó hiểu, khó vào. Tất cả hàng Thanh văn cùng Bích Chi Phật cũng không biết được.
Trí tuệ đó quá sâu xa, hàng Thanh văn cùng Bích Chi Phật cũng không biết được. Phật nói thêm:
- Phật đã từng gần gũi trăm nghìn vô số đức Phật, trọn tu vô lượng đạo pháp của các đức Phật, dõng mãnh tinh tấn, danh tốt đồn khắp, trọn nên pháp rất sâu chưa từng có, theo thời nghi mà nói pháp, ý thú khó hiểu.
Phật tán thán trí tuệ sâu xa đó, cho đến hàng Thanh văn, Bích chi Phật không thể biết được, vậy ai biết được ? Mới xuất định, Phật liền tán thán trí tuệ đó. Hiểu chỗ này, thấm được chỗ này, quý vị mới thấy được ý của Phật khi thành đạo, Ngài muốn nhập Niết bàn. Vì trí tuệ này qua sâu xa, vượt ngoài ngôn ngữ. Ở đây Ngài nói thêm, Ngài đã từng gần gũi trăm nghìn vô số Phật và trọn tu vô lượng đạo pháp mới thành được như vậy. Tuy nói lý chân thật đó sẵn có nơi mình, không phải do tu hành mà được, nhưng không phải để tự nhiên mà có, phải công phu sâu xa miên mật, khế hợp tự cảm nhận. Ngài cũng nói rõ:
- Ta, từ thành Phật đến nay, các món nhân duyên, các món thí dụ, rộng nói ngôn giáo, dùng vô số phương tiện dìu đắt chúng sanh, làm cho xa lìa lòng chấp.
Nghĩa là, Ngài dùng bao nhiêu phương tiện ngôn ngữ cùng để dìu dắt người xa lìa lòng chấp. Còn chấp là còn mắc kẹt cái này, mặc kẹt cái kia, hết chấp liền thấu được chỗ chân thật đó.
Trong đây ngầm nói ý gì ? Ngài nói bao nhiêu lời, bao nhiêu phương tiện đó đều là để phá chấp cho người. Mình sạch hết chấp thì thấu được ý Phật. Vậy, những điều Phật nói ra chưa thật là rốt ráo; và ngầm ý, bốn mươi mấy năm Phật nói pháp cũng là phương tiện đánh thức cho người sống trở lại lý thật, vượt ngoài ngôn ngữ. Do đó trong Kinh Lăng Già, Phật nói:
- Ta từ khi thành Phật cho đến nhập Niết bàn, ở trong khoảng giữa đó chưa từng nói một chữ, cũng không đã nói, sẽ nói:
Sự thật không có gì để nói, cốt là mọi người hết chấp, tự cảm nhận lẽ thật chính nơi mình mà mình đã bỏ quên, chớ không có cái khác.
Kinh nói, Phật đã đạt được những pháp sâu xa đó, những trí tuệ, các giải thoát tam muội đều là vào chỗ không ngằn mé. Tức nói lên chỗ Phật đã đến hay cái tri kiến của Như Lai nói rộng sâu, thức tình không thể suy cùng được.
CHÁNH VĂN:2- Thôi xá lợi phất! Chẳng cần nói nữa. Vì sao? Vì pháp khó hiểu ít có thứ nhất mà Phật trọn nên đó, chỉ có Phật cùng Phật mới có thể thấu tột tướng chân thật của các pháp, nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt rao như vậy.
GIẢNG:
Phật nói rõ, bởi vì các pháp khó hiểu đó chỉ có Phật với Phật mới thấy rõ tột tướng chân thật. Đó cũng chỉ cho người thầm cảm thông chứ không thể diễn tả hết bằng lời. Phật nói: "Nghĩa là các pháp: tướng như vậy, tánh như vậy, thể như vậy, lực như vậy, tác như vậy, nhân như vậy, duyên như vậy, quả như vậy, báo như vậy, trước sau rốt rao như vậy".
Đây là thập như thị trong Kinh Pháp Hoa, nghĩa là nó như vậy, thấy như vậy thôi. Phật tán thán rồi thôi, Phật không nói nữa là để cho người thật khát khao, lắng lòng định tâm mà tin vào. Tin nhận lìa phân biệt thì mới có thể cảm thông được, vì không thể suy nghĩ qua chỗ đó.
Chính chỗ này, đức Lục Tổ nói bài pháp đầu tiên cho thượng tọa Minh. Khi Minh đuổi theo Tổ. Tổ bảo ông, hãy lắng lòng mà nghe, thượng tọa Minh im lặng giây lâu, Ngài mới nói:
- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác, cái gì là bộ mặt thật của thượng tọa Minh ?
Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, tức là bặt niệm thiện ác thì chính ngay đó là gì? Làm sao suy nghĩ? Chính ngay đó liền cảm nhận bộ mặt thật rõ ràng của mình, cho nên khi thượng tọa Minh đại ngộ và hỏi thêm:
- Ngoài lời mật, ý mật, từ trước đến nay, còn có ý mật nào nữa chăng?
Tổ bảo:
- Đã nói với ông, tức chẳng phải mật, nếu ông soi ngược lại thì mật đó ở ngay bên ông thôi.
Ngay khi mình bặt niệm phân biệt, thì chính đó tự mình tỉnh dậy, mọi bí mật sẽ mở tung, không giấu giếm gì nữa. Còn vừa nghĩ thì thành bí mật thôi. Vì sao? Vì còn nghĩ là chưa hiểu nên nó thành bí mật tại nơi mình. Ở đây mọi tướng tánh đó nó như thế nào thấy đúng như thế, không thêm, không bớt, không nghĩ ngợi. Mình vừa nghĩ ngợi tức là xen cái ta vào trong đó rồi. Có cái ta xen vào, thì bóp méo sự thật của các pháp, nó hết còn là như vậy, mà thành ra thế này, thế kia theo cái ta.
Thí dụ, như cái hoa thấy là cái hoa, thấy đúng như vậy, đâu có lỗi lầm gì, thì chân lý rõ ràng thôi. Nếu xen cái tôi vào thì bắt đầu sinh chuyện, mỗi người đều thấy khác nhau, có đẹp, có xấu. Hoa – sự thật không đẹp không xấu. Hoa là hoa thôi, cũng như nó không đỏ không trắng. Đỏ, trắng, do mình thêm vào đó. Do tâm phân biệt mà mình đặt tên màu cho nó là xanh, đỏ, trắng quen rồi, ai cũng gọi như vậy trở thành thói quen chung, ai nói màu xanh thành màu vàng thì cãi liền. Nếu xưa kia người ban đầu đọc đỏ là vàng, thì bây giờ mình cũng gọi tên hoa là vàng. Đó là do nhóm người ban đầu đặt tên trước, nên mọi người đều công nhận gọi theo. Cũng như đứa bé sinh ra, lớn lên chưa biết gì hết thì thấy hoa là hoa thôi chứ không biết đỏ, vàng là gì. Nó cũng không biết đó là hoa nữa, chỉ biết đó là vật vậy thôi. Để cho thấy rõ, mình có xen cái thấy của mình vào đó thì có cái ta, cho nên sự vật đó đã bị bóp méo theo cái nhìn của mình, nó hết như thị, còn đây là thấy đúng như vậy, nó như vậy thôi.
Thập như thị, Tướng – tánh là một cặp, tướng nó hiện ra bên ngoài; còn tánh chỉ ngầm bên trong, tánh không biến đổi. Ví dụ như nước thì tánh của nó là ướt. Còn thể - lực là cặp đối nhau. Thể là bản thể, là cái gốc của lực. Lực là lực dụng, thể đối với dụng. Từ thể đó nó có công năng đầy đủ, cái lực dụng đó nó ứng ra ngoài. Còn nhân là điều kiện chính để đưa đến cái quả. Thí dụ, hạt giống là nhân, là nó đủ điều kiện chính để đưa đến quả; duyên là điều kiện phụ trợ giúp cho nhân đó mà thành tựu đến cái quả. Ví dụ hạt giống là nhân, duyên là là phân, nước, ánh sáng mặt trời, công của người v.v… Quả là kết quả nhân duyên đó tạo thành, tức là nhân duyên đó tạo thành kết quả. Báo là chỉ cho cái quả nó hiện ra để đáp lại cái nhân kia. Trước – sau rốt ráo như vậy, tức trước là chỉ cho cái khởi đầu, sau là chỉ cho rốt ráo sau này. Trong đó tánh, tướng, thể, lực, tác, thì tác là hành động tạo thành những cái nghiệp.
Vậy tánh, tướng, thể, lực, tác, nhân, duyên, quả, báo, trước, sau rốt ráo đều như vậy. Đây là gồm cả thời gian và không gian trong đó hết đều như vậy, đều NHƯ hết, mà đều NHƯ là sao? – Là nó không rời ngay một niệm hiện tiền đây! Ngay đây nó như vậy, thấy đúng như vậy, mình vừa quên một niệm hiện tiền này, thêm cái khác vào thì hết như vậy liền, tức là có cái niệm phân biệt vào trong đó, quên mất niệm hiện tiền này thì mọi cái thành ra sai biệt, hết NHƯ. Đến đây là mở ra cái thấy biết "trở về núi sông là núi sông".
Từ trước đến giờ Phật nói vô thường, nói vô ngã, nói khổ, tập, diệt, đạo, nói nhân duyên, bao nhiêu phương tiện tùy duyên. Qua Bát Nhã nói tánh không, đến Pháp Hoa này Phật nói "thấy đúng rõ mọi cái như vậy là như vậy", trả về cái thấy như thật, núi sông là núi sông thấy đúng như nó là nó, chứ không thêm một chút xíu nào vào trong đó.
Do đó, quý vị khéo mở cái thấy này, thì còn gì là hơn thua, phân biệt thế này thế kia! Và như vậy nhìn những cánh hoa này, từng cánh hoa nó đều rõ ràng rơi trong mắt mình thôi, không đi đâu khác, mỗi cánh hoa nó đều hiện rõ, không có chút gì lầm lẫn! Còn bây giờ quý vị nhìn cánh hoa có thấy rõ ràng từng cánh hoa không, hay là sao? Bây giờ nhìn hoa thì mình đồng hóa mình với cái hoa đó, mình chết trên hoa đó, chứ đâu thấy rõ từng cánh hoa, từng cánh hoa. Còn nếu mở mắt sáng ra thì thấy rõ từng cánh hoa, từng cánh hoa rành rành không có một chút gì lầm lẫn, đó chính là mở cái thấy như thị. Mở được cái thấy như thị thì mới rõ được các pháp đúng như thật. Đến đây quý vị thấy trí tuệ sâu xa rộng lớn của Phật chưa? Khi nói tới đó Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
CHÁNH VĂN:
3- Đấng Thế Hùng khó lường
Các Trời cùng người đó
Tất cả loài chúng sanh
Không ai hiểu được Phật
Trí lực, vô sở úy
Các pháp khác của Phật
Không ai so lường đượcGIẢNG:
Đấng Thế Hùng khó lường là chỉ cho Phật. Ở đấy Phật nhắc lại, mọi trí lực, vô sở úy các pháp của Phật đó Ngài đều đầy đủ hết, không ai có thể so lường được. Đó là nói lên không phải chỗ thức tình có thể hiểu được, dò đến được
Vốn từ vô số Phật
Đầy đủ tu các đạo
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Khó thấy khó rõ được.
Trong vô lượng ức kiếp
Tu các đạo đó rồi
Đạo tràng đặng chứng quả
Ta đều đã thấy biết.
Quả báo lớn như vậy
Các món tánh, tướng, nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đóGIẢNG:
Ở đây Phật nói tiếp, vốn tu hành đầy đủ đạo pháp từ vô số đức Phật và các pháp nhiệm mầu sâu xa đó, là chỗ rất khó thấy, khó rõ được, không thể dùng mắt thấy, không thể dùng thức hiểu, mà ở đây do Ngài từ vô lượng kiếp tu các đạo đó rồi, ở nơi đạo tràng mà chứng quả, cho nên chính từ “đạo tràng đặng chứng quả, ta đều đã thấy biết”. Nghe đến đây thì quí vị hiểu được cái gì ?- Đây là chổ tự chứng của Phật . Ở nơi đạo tràng Ngài chứng quả thì làm sao dùng suy nghĩ mà biết được? Cho nên mình học Phật, có khi mình có trí lanh lợi, mình suy đoán chỗ Phật thành đạo rồi nói thế này thế kia, rồi cãi nhau: tôi thấy thế này, anh thấy thế kia, rốt cuộc để lộ cái chỗ không thật của mình ra. Bởi vì , đó là chỗ chứng của Phật, mình dùng trí hiều biết lanh lợi để suy đoán, làm sao suy đoán được ? Nếu có hiểu được thì hiểu theo suy đoán, hiểu một góc cạnh nào đó thôi, đâu phải hiểu đến chỗ thật , mà trong đó cãi nhau càng không thật nữa. Cho nên chính chỗ này, quý vị mới kinh nghiệm qua, người còn thích cãi thì sao ? – Thì biết rõ thế nào rồi. Do đó nếu hiễu chỗ này, quý vị mới thấy thấm thía câu chuyện người mù rờ voi:
Ông Vua muốn thử mấy người mù, cho nên một hôm gọi mất người mù lại, rồi đem con voi để trước sân trong triều. Ông vua bảo mấy người mù đó là:
- Đâu các ông rờ con voi rồi tả lại cho ta nghe hình dáng nó như thế nào ?
Người rờ trúng tai voi thì nói:
- Voi giống cái quạt
Người rờ trúng cái đuôi nói:
- Voi giống như cây chổi.
Người rờ trúng cái chân thì nói:
- Voi giống như cái cột
Người rờ trúng cái bụng thì nói :
- Voi giống như cái lu
Rồi ai cũng nghĩ là mình thấy đúng nên liền cãi nhau. Tại sao mấy người đó cãi? Mấy người đều có rờ trúng hết, chớ không phải là không rờ trúng, nhưng trúng trong một góc cạnh nào đó thôi, chớ không phải là chính mắt trông thấy rõ ràng. Do đó mỗi người đều thấy khác nhau, nên cãi nhau. Trong khi đó ông Vua chỉ cười, vì vua thấy toàn thể con voi rồi, nói thế nào đi nữa thì cũng không toàn vẹn hết. Vậy người thấy toàn vẹn thì sao ? Còn cãi nữa không ? Còn cãi là chưa thấy tròn vẹn, là chấp theo cái thấy riêng của mình.
Đây cho thấy , đức Phật Ngài ở nơi đạo tràng tự chứng được. Do đó, muốn thấy chỗ này thì cũng phải đến cảnh giới đó, tự mình vào được trong chỗ đó, rồi thầm cảm nhận thôi, chớ không thể suy nghĩ. Phật nói đó là chỗ ta đều thấy biết hết. Do Ngài tự chứng mà thấy biết rõ ràng, không còn chỗ suy luận, chỗ phỏng đoán. Cho nên những điều Ngài nói ra chắc chắn, chân thật, quả quyết không sai với lẽ thật.
Quả báo lớn như vậy
Các món tánh tướng nghĩa
Ta cùng mười phương Phật
Mới biết được việc đó.
GIẢNG:Quả báo lớn như vậy, nghĩa tánh tướng đó, Ngài cùng mười phương chư Phật mới biết được. Bởi vì sao? Bởi vì Phật với Phật tâm tâm tương ứng với nhau thì mới biết được, chớ không phải là chỗ suy nghĩ.
CHÁNH VĂN :
Pháp đó không chỉ được.
Vắng bặt tiếng nói năng
Các loài chúng sanh khác
Không có ai hiểu đặng
Trừ các chúng Bồ tát
Người sức tin bền chặt.GIẢNG:
Ở đây Phật đã thổ lộ ngầm chỉ ý ngoại biệt truyền rõ ràng qua hai câu :
Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năng.Là ý giáo ngoại biệt truyền đó, bởi vì chỗ đó nó bặt hết mọi nói năng, vậy thì phải thấy như thế nào ? – Phải thấy trước câu nói, thấy ngoài lời. Đó là ý nói, lời nói ra đều không thể đến được chỗ này, không thấy được chỗ này, phải thấu qua ngôn ngữ, ngay đây ý giáo ngoại biệt truyền hiện tong đó. Cho nên Ngài nói:
Các loài chúng sanh khác
Không có ai hiểu đặng
Trừ các chúng Bồ tát
Người sức tin bền chặt.Đó là dùng trực giác tin nhận vào, chớ không thể suy nghĩ. Chỗ này trong nhà thiền, các Ngài ít chịu giải thích rõ ràng cho mình hiểu, mà các Ngài nói những lời dễ hiểu là những lời tử ngữ, còn những lời sống là những lời mà người ta bặt tình thức suy nghĩ .
Các hàng đệ tử Phật
Từng cúng dường các Phật
Tất cả lậu đã hết
Trụ thân rốt sau này
Các hạng người vậy thảy
Sức họ không kham đượcỞ đây Phật nói, những hàng đệ tử Phật tất cả lậu đã hết, trụ thân rốt sau, mà sức họ cũng không kham được, đây Phật thí dụ:
Giả sử đầy thế gian
Đều như xá lợi Phất
Cùng suy chung so lường
Chẳng lường được trí PhậtTrí tuệ như Xá Lợi Phất đầy thế gian này, cũng không lường được Phật trí. Đó là một lớp.
Chánh sử khắp mười phương
Đều như Xá Lợi Phất
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.Lớp thứ hai là, khắp mười phương đều như Xá Lợi Phất và những hàng đệ tử khác nữa, cùng họp lại để suy lường cũng không biết được.
Bậc Duyên giác trí lanh
Vô lậu thân rốt sau
Cũng đầy mười phương cõi
Số đông như rừng tre
Hạng này chung một lòng
Trong vô lượng ức kiếp
Muốn xét Phật thật trí
Chẳng biết được chút phầnĐây là hàng Bích Chi Phật ở khắp mười phương đông như rừng tre, họp chung lại suy lường trong vô lượng ức kiếp, cũng không thể biết được một chút phần, nghĩa là trong một thời gian dài suy xét cũng không biết được trí Phật.
Bồ tát mới phát tâm
Cúng dường vô số Phật
Rõ thấu các nghĩa thú
Lại hay khéo nói pháp
Đông đầy mười phương cõi
Như lú, mè , tre , lau
Một lòng dùng trí mầu
Trải số kiếp hằng sa
Thảy đều chung suy lường
Chẳng biết được trí PhậtĐây là Bồ tát mới phát tâm đông nhiều ở khắp mười phương như lúa, mè , tre, lau mà cùng chung suy lường cũng không biết được trí Phật.
Hàng Bất thối Bồ Tát
Số đông như hằng sa
Một lòng chung suy cầu
Cũng lại chẳng biết đượcĐến hàng Bồ tát Bất thối chung nhau suy cầu cũng không hiểu được.
5- Lại bảo Xá Lợi Phất
Pháp nhiệm mầu rất sâu
Vô lậu khó nghĩ bàn
Nay ta đã đặng đủ
Chỉ ta biết tướng đó
Mười phương Phật cũng vậy.Ngài nói rằng, pháp mầu đó chỉ Ngài biết được thôi, và mười phương Phật cũng như vậy đó.
Đây đức Phật nhắc lại, lúc đầu tán thán pháp Phật sâu xa mầu nhiệm, rồi Ngài nói trong vô lượng kiếp Ngài tu hành, ở đạo tràng Ngài chứng được quả, vậy quý vị thấy Ngài có tu chứng hay không ? – Nếu có tu chứng thì có tạo tác, có làm ra rồi ! Ở trong kinh Kim Cang Phật nói:” Ta không có một chút pháp có thể được”, vậy là sao ? Ý nói đây không phải là điều nói suông hay chỗ luận rỗng mà được, mà phải trải qua nhiều kiếp công phu tu hành thực sự, khi công phu khế hợp thì tự chứng biết, không phải chỗ lý luận, người bên ngoài khó suy đến chỗ đó, phải người tri âm mới cảm thông được. Cho nên nói Phật cùng Phật mới biết, còn dùng trí lanh lợi của thế gian, dù cho lanh lợi cách mấy cũng đừng mong dò được chỗ này. Ý kế Ngài nhắc, phải đạt ý quên lời, Ngài nhấn mạnh dù trí tuệ như Tôn Gả Xá Lợi Phất nhiều vô kể đó, cùng nhau chung suy lường cũng không thể biết được. Hạng Bích Chi Phật vô số cùng suy chung so lường cũng không biết được, cho đến hàng Bồ tát mới phát tâm, Bồ tát bất thối mà cùng nhau chung suy cầu cũng không thể biết được, không thể hiểu được. Nếu như vậy Phật nói kinh này cho ai ? Mình học làm chi ? Mình vô phần sao ? Vậy lỗi này là tại chỗ nào ?
Ở đây mỗi người phải nghiệm cho thật kỹ mới thấy tại sao. Chính là tại chỗ “suy lường, xét biết”. Đó là chỗ trọng yếu mình phải thấy, lỗi chính là chỗ đó.
Suy lường xét nét làm sao biết được cái thật trí của Phật ? Vừa suy là suy cái gì ? Vừa xét là xét cái gì ? Suy là suy về cái gì đó, mình suy lường trí Phật thì thấy được trí Phật chưa ? Suy lường về nó là chưa đối diện với nó, xét nét về nó là còn cách với nó, chỉ hướng về nó thôi.
Trí tuệ Phật này chính là cái sẵn có nơi mình, chớ không có bên ngoài. Do đó mình suy xét vế nó thì biến nó thành cái thứ hai, có bóng dáng tức trong đó có hai Văn Thù rồi. Nếu có hai Văn Thù thì làm sao biết Văn Thù nào thật, Văn Thù nào giả ? Đây cũng vậy, khi suy lường thì có bóng dáng thứ hai, thành ra không thể biết được trí Phật.
Trong Tín Tâm Minh, Tam Tổ Tăng Xán chỉ rõ:
Chí đạo vô nan
Duy hiềm giản trạchChỗ tột cùng của Đạo nó không khó, chỉ hiềm là mình chọn lựa thôi. Đạo tột cùng đó, nó luôn hiện tiền nơi mình đây, chỉ cần tin nhận là xong. Nhưng lỗi là tại giản trạch, so đo, phân biệt chọn lựa thế này, thế kia, do đó nó thành xa cách. Nếu bặt được niệm phân biệt đó, ngay đây rõ ràng sáng suốt. Nên Ngài nói tiếp:
Đản mạc tằng ái
Đổng nhiên minh bạchChỉ dừng có khởi niệm yêu ghét, thì ngay đó rỗng rang sáng suốt, minh bạch rõ ràng. Bao nhiêu trí tuệ như Xá Lợi Phất hợp lại mà chung suy lường không thể biết được, bao nhiêu Bồ tát hợp lại suy lường không thể hiểu được, lỗi là tại đó.
Xá Lợi Phất phải biết
Lời Phật nói không khác
Với Pháp của Phật nói
Nên sanh sức tin chắc
Pháp của Phật lâu sau
Cần phải nói chân thật
Bảo các chúng Thanh Văn
Cùng người cầu Duyên giác
Ta khiến cho thoát khổ
Đến chứng đặng Niết Bàn
Phật dùng sức phương tiện
Dạy cho ba thừa giáo
Chúng sanh nơi nơi khắp
Dắt đó khiến ra khỏi.Ở trước Phật nói : Pháp của Phật sâu xa khó hiểu, không thể dùng lời nói mà diễn bày hết được, ở đây Phật nói:” Lời Phật nói không khác với pháp của Phật nói”, thì nó có mâu thuẫn không ? – Để nói rõ, đây là chỗ tu chứng của Ngài, Ngài nói ra, không phải là những lời suy tưởng, không phải là ngoài lời nói này, còn riêng có gì khác nữa, mình phải khéo léo rõ biết bao nhiều điều sai biệt đó, nhưng nó không rời thể chân thật này. Khéo ngay đây dừng được phân biệt thì ngay lời nói đó mình tự cảm nhận được cái sâu xa đó liền. Cho nên mỗi lời, mỗi lời mình “nghe biết rõ ràng” thì có ra khỏi chân thật không ?
Sỡ dĩ không thấy chân thật là vì mê theo từng lời, từng lời đó. Nghe đó liền chấp vào lời nói đó, rồi phân biệt thế này thế kia, chính như vậy lại bị lời đó dẫn đi nên quên mất chân thật. Quên niệm phân biệt thì nghe được từng lời, từng lời rõ ràng mà không rời cái thể chân thật, thì ngay lới nói đó liền tỏ ngộ chân thật.
Vây là lời Phật nói chắc thật, không hư dối phải tin chắc. Kế Ngài nhắc, dùng bao nhiêu sức phương tiện đó dạy cho ba thừa giáo để khiến chúng sanh ra khỏi chấp trước.
KINH PHÁP HOA - PHẨM PHƯƠNG TIỆN (tt)
CHÁNH VĂN:
6 - Khi đó trong hàng Thanh văn lậu tận A La Hán, Ngài A Nhã Kiều Trần Như, v.v… một nghìn hai trăm người và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam cùng Cận sự nữ, hạng người phát tâm Thanh văn Duyên giác đều nghĩ rằng: ‘Hôm nay, đức Phật cớ chi lại ân cần khen ngợi phương tiện mà nói thế này: "Pháp của Phật chứng rất sâu khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn cùng Duyên giác không thể đến được.’’ Đức Phật nói một nghĩa giải thoát chúng ta cũng chứng được Pháp đó đến nơi Niết bàn, mà nay chẳng rõ nghĩa đó về đâu ?
GIẢNG:
Đây là ở trong chúng, tất cả các người phát tâm Thanh văn, Duyên giác nghe Phật nói như vậy đều khởi nghi: Phật hôm này vì nhân duyên gì mà khen ngợi phương tiện, nói pháp Phật chứng rất sâu, khó hiểu, tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác không thể đến được. Trong khi đó, chúng ta chỉ cần nghe một nghĩa giải thoát thôi thì cũng chứng được pháp đó đến Niết bàn rồi. Vậy không biết còn gì nữa ?
CHÁNH VĂN:
7 – Lúc ấy, Ngài Xá Lợi Phất biết lòng nghi của bốn chúng, chính mình cũng chưa rõ, liền bạch Phật rằng: Thưa Thế Tôn, nhơn duyên gì mà Phật khen ngợi pháp phương tiện thứ nhất nhiệm mầu, rất sâu khó hiểu của các đức Phật ? Con từ trước đến nay chưa từng nghe Phật nói điều đó, hôm nay bốn chúng thảy đều có lòng nghi, cúi xin đức Phật Thế Tôn bày nói việc đó. Cớ gì mà đức Thế Tôn ân cần khen ngợi pháp nhiệm màu rất sâu khó hiểu ?
GIẢNG:
Ngài Xá Lợi Phất cũng nghi.
Ở trước, Phật phóng quang mà Phật không nói gì hết, có Bồ Tát Văn Thù giải nghi cho rồi – giải nghi lý do Phật phóng quang. Đến đây, Phật xuất định, không ai hỏi mà lại tán thán trí tuệ của Phật, cả hàng Thanh văn, Bích Chi Phật cũng không hiểu được; tán thán rồi Phật cản ngăn thôi không cần nói. Vậy đó là ý gì? – Bởi vì đó là chỗ chứng của Phật, người ngoài không sao biết được nên Phật tự tán thán thôi. Ở đây cần phải thấy rõ, nếu còn có thấy pháp Thanh văn, Duyên giác thì sao? – thì cái thấy đó chưa có tột đâu. Phát tâm Thanh văn, Duyên giác mà còn bám vào, chất vào trong đó tức là còn thấy có pháp này, pháp kia sai biệt thì chưa thấy được ý nghĩa sâu xa, lý rốt ráo mà Phật muốn chỉ. Chính cái "tâm không hiểu" đó mình khéo nhận ra thì liền thông chớ không phải có gì riêng khác.
Ngài Xá Lợi Phất thuật lại lời kể.
CHÁNH VĂN:
8 – Đấng Huệ Nhật Đại Thánh
Lâu mới nói phát này
Tự nói pháp mình chứng
Lực, vô úy, tam muội
Thiền định, giải thoát thảy
Đều chẳng nghĩ bàn được.
GIẢNG:Ngài tán thán Phật là bậc Huệ Nựt Đại Thánh.
Huệ nhựt: là trí tuệ sáng như mặt trời. Đại thánh: vì Phật là bậc thánh trên hàng Thánh nên xưng là Đại thánh.
Khi Phật chưa ra đời thì chúng sanh đang sống trong đêm dài vô minh tăm tối, Phật ra đời giống như mặt trời xuất hiện để phá bóng tối vô minh đó, nên mới xưng tán Ngài là Huệ Nhật. Ngài tự nói pháp mình chứng đều chẳng thể nghĩ bàn.
Pháp chứng nơi đạo tràng
Không ai hỏi đến đặng
Ý con khó lường được
Cũng không ai hay hỏi
Không hỏi mà tự nói
Khen ngợi đạo mình làm
Các đức Phật chứng đặng
Trí huệ rất nhiệm màuPháp đó không ai hỏi đến, Phật tự nói chỗ mình chứng, chỗ mình làm, bởi vì chỗ đó là chỗ sống của Phật, chỗ tự chứng của Phật, người ngoài không thể biết được. Do đó, Phật tự nói lên, rồi tự ngài khen ngợi để cho mọi người có lòng khao khát.
Hàng vô lậu La Hán
Cùng người cầu niết bàn
Nay đều sa lưới nghi
Phật cớ chi nói thế ?Ở đây bao nhiêu người khởi nghi.
Hạng người cầu Duyên giác
Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni
Các trời, rồng, quỷ, thần
Và càng thát bà thảy
Ngó nhau cưu lòng nghi
Nhìn trông đấng Túc Tôn
Việc đó là thế nào
Xin Phật vì dạy cho ?Đây là hàng Duyên giác, Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni đều ngó nhau khởi lòng nghi, cố nhìn đức Thế Tôn để trông chờ, khao khát muốn được nghe Phật chỉ dạy, Phật nói về nhân duyên đó.
Trong các chúng Thanh văn
Phật nói con hạng nhất
Nay con nơi trí mình
Nghi lầm không rõ được
Vì là pháp rốt ráo
Vì là đạo Phật làm
Con từ miệng Phật sanh
Chắp tay nhìn trông chờ
Xin ban tiếng nhiệm mầu
Liền vì nói như thiệtNgài Xá Lợi Phất là vị trí tuệ bậc nhất mà ngài vẫn còn nghi, ngài nói: "Vì là pháp rốt ráo, vì là đạo Phật làm". Đây là chỗ sống của Phật, chỗ hành của Phật nên Ngài phải chịu thôi. Ngài lại nói: "Con từ miệng Phật sanh", Ngài nói như thế là bởi vì Ngài lấy trí tuệ làm mạng sống, chứ không phải sống theo cái sống thường của mình đây. Trí tuệ đó từ nơi Phật, mà Ngài nhờ đó phát minh ra. Giờ đây, Ngài đang chắp tay nhìn trông chờ, sẵn sàng để tiếp nhận, cho nên "xin Phật ban tiếng mầu, liền vì nói như thiệt". Như vậy xưa nay không như thiệt hay sao mà bây giờ mới xin nói như thiệt? Đây là muốn cho Phật thổ lộ bản hoài chân thật của Ngài.
Các trời, rồng, thần thảy
Số đông như hằng sa
Bồ tát cầu thành Phật
Số nhiều có tám muôn
Lại những muôn ức nước
Vua chuyển luân vương đến
Đều lòng kính chắp tay
Muốn nghe đạo đầy đủĐó là mọi người dọn lòng sẵn sàng đón nhận, tới phiên Phật ngăn.
CHÁNH VĂN:
9- Khi đó đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: ”Thôi thôi ! Chẳng nên nói nữa. Nếu nói việc đó tất cả trong đời các trời và người đều sẽ kinh sợ nghi ngờ”
GIẢNG:
Ở trước Phật tán thán rất nhiều, tới đây Ngài Xá Lợi Phất cầu xin chỉ dạy, Phật lại ngăn và từ chối. Ngài Xá Lợi Phất lại cầu xin.
CHÁNH VĂN:
10- Ngài Xá Lợi Phất lại bạch Phật rằng: ”Thưa Thế Tôn! Cúi xin nói đó, Cúi xin nói đó, vì sao ? Trong hội đây có vô số trăm nghìn muôn ức A tăng kỳ chúng sanh đã từng gặp các đức Phật, các căn mạnh lẹ, trí tuệ sáng suốt, được nghe Phật dạy chắc có thể kính tin”.
Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng Pháp Vương vô thượng
Xin nói, nguyện đừng lo
Vô lượng chúng hội đây
Có người hay kính tinGIẢNG:
Ngài Xá Lợi Phất cầu xin, vì trong đây có nhiều chúng sanh gặp gỡ các Đức Phật, cũng từng nghe Phật dạy, có những người trí tuệ sáng suốt có thể tin nhận được, chớ không phải là không có ai để tin.
CHÁNH VĂN:
11- Đức Phật lại ngăn Xá Lợi Phất: “Nếu nói việc đó thì tất cả trong đời, trời, người, A tu la đều sẽ kinh nghi, Tỳ kheo tăng thượng mạn sẽ phải sa hầm lớn”.Khi đó đức Thế Tôn lại nói kệ rằng:
Thôi thôi !Chẳng nên nói
Pháp ta diệu khó nghĩ
Những kẻ tăng thượng mạn
Nghe ắt không kín tin
GIẢNG:
Phật lại ngăn lần nữaTăng thượng mạn: là những người chưa chứng mà cho là chứng, chưa được mà cho là được, tức là đối với những người này họ tự nói: ”Tôi đã đủ rồi, đâu cần nghe chi nữa”, đối với hạng người này nói chi cho uổng.
CHÁNH VĂN:
12- Lúc ấy Ngài Xá Lợi Phất bạch Phật rằng:” Thưa Thế Tôn ! cúi xin nói đó, cúi xin nói đó. Nay trong hội này hạng người sánh bằng con có trăm nghìn muôn ức, đời đời đã từng theo Phật học hỏi, những người như thế chắc hay kính tin lâu dài, an ổn nhiều đều lợi ích.
Khi đó Ngài Xá Lợi Phất, muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng Vô Thượng Lưỡng Túc
Xin nói pháp đệ nhất
Con là trưởng tử Phật
Xin thương phân biệt nói
Vô lượng chúng hội đây
Hay kính tin pháp này
Đời đời Phật đã từng
Giáo hóa chúng như thế
Đều một lòng chắp tay
Muốn nghe lãnh lời Phật
Chúng con nghìn hai trăm
Cùng hạng cầu Phật nọ
Nguyện Phật vì chúng này
Cúi xin phân biệt nói
Chúng đây nghe pháp ấy
Thời sanh lòng vui mừng
GIẢNG:Ngài Xá Lợi Phất ân cần thưa thỉnh thì Phật ngăn, đó là Phật muốn cho chúng thật lòng khao khát, tha thiết thưa thỉnh thì khi Ngài nói ra mới dễ tiếp nhận. Bởi vì việc sâu xa khó hiểu như vây, nếu nói dễ dàng thì dễ khinh thường, vì cái sâu xa khó hiểu đó cũng không ở đâu xa, mà chính ngay nơi mình thôi.
CHÁNH VĂN:
13 – Bấy giờ đức Thế Tôn bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Ông đã ân cần ba phen thưa thỉnh đâu đặng chẳng nói, ông nay lắng nghe khéo suy nghĩ nhớ đó, ta sẽ vì ông phân biệt giải nói”.
14 – Khi Phật nói lời đó, trong hội có các Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ, cả thảy năm nghìn người từ chỗ ngồi đứng dậy lễ Phật mà lui về. Vì sao? Vì bọn người này gốc tội sâu nặng cùng tăng thượng mạn, chưa đặng mà nói đã đặng, chưa chứng mà cho đã chứng, có lỗi dường ấy cho nên xin ở lại. Đức Thế Tôn yên lặng không ngăn cản.
15 – Bấy giờ, đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hột chắc. Xá Lợi Phất! Những gã tăng thượng mạn như vậy lui về cũng là tốt, ông nay nên khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói”.
Ngài Xá Lợi Phất bạch rằng: “Vâng thưa Thế Tôn, con nguyện ưa muốn nghe.”
GIẢNG:
Đến đây Phật hứa nói, rõ ràng Phật ngăn tới ngăn lui để cho chúng hết lòng thưa thỉnh. Mọi người đã sẵn sàng đón nhận, khi đưa ra họ nhận liền, còn họ nghe mà chưa thật lòng, chỉ nghe cho vui thôi thì sao? Thì nói ra họ chưa tiếp nhận, chưa có thể thấm sâu được.
Nhưng khi Phật hứa nói, thì trong hội có năm nghìn người đứng dậy lễ Phật lui về, quý vị thấy có buồn không? Đối diện với Phật, sắp nghe pháp mà đành đứng dậy bỏ về thì nói sao đây? Như vậy không phải đối diện mà lầm qua sao? Cho nên mình thấy, ngay thời của Phật mà cũng còn có chuyện như vậy, còn mình bây giờ ngồi nghe có ai muốn bỏ về chưa? Khi họ bỏ về, Phật không ngăn mà còn bảo họ về cũng tốt. Vậy Phật không từ bi hay sao, Phật không kêu những người đó ở lại nghe pháp?
Đây, cảnh tỉnh cho những ai có lòng tự mãn, đó là: “Những kẻ tăng thượng mạn, nghe ắt không kính tin.” Khi có niệm tự cho mình là đủ rồi, tự cho mình hiểu quá rồi thì đâu cần cầu thêm nữa. Chính như vậy là tự mình sẽ ngăn mình. Nói như vậy, Phật có bỏ hạng người này không?
Trong kinh Pháp Hoa nói mọi người đều sẽ thành Phật, ai cũng thành Phật. Tại sao Phật bỏ họ, có bỏ luôn hay không? Đây quý vị nhớ lại kỹ, sẽ thấy ánh sáng Pháp Hoa lúc Phật phóng ra, nó vẫn chiếu khắp nơi phải không? Nhưng Phật có thâu lại chưa? Trong kinh cũng chưa thấy chỗ nào Phật thâu lại hết. Như vậy là sao? Phật cũng còn để dành cho họ. Còn để dành thì có lúc họ sẽ bắt gặp, tuy họ bỏ về, Phật không ngăn nhưng cũng không gạt bỏ luôn. Bởi vì dù họ đi đâu cũng không ra ngoài ánh sáng đó, hiểu như vậy quý vị không có nghi.
Khi họ về rồi Phật bảo: "Trong chúng ta đây không còn cành lá, rặt có hột chắc." Cành lá là gì? – Là chỉ cho cái tâm kia đây, lăng xăng. Còn hột chắc là không có cái tâm kia đây, chỉ nhất tâm chân thật. Chính cái tâm này mới nghe được Pháp Hoa, vào được Pháp Hoa. Cho nên đến đây chuẩn bị nói Pháp Hoa, Ngài nói với Xá Lợi Phất: “Ông hãy khéo nghe, ta sẽ vì ông mà nói.” Ngài Xá Lợi Phất mới thưa rằng: “Vâng, bạch Thế Tôn, con nguyện ưa muốn nghe.” Đó là sẵn sàng nghe, đúng lúc, đúng thời!
CHÁNH VĂN:
16 – Đức Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: “Pháp mầu như thế, các đức Phật Như Lai đến khi đúng thời mới nói, như bông Linh Thoại đến thời tiết mới hiện một lần. Xá Lợi Phất! Các ông nên tin lời của Phật nói không hề hư vọng.
GIẢNG:
Phật nói rõ, pháp mầu sâu xa thì phải đúng thời mới nói, nếu nói dễ dàng, người sẽ khinh thường. Xưa, thị giả thiền sư Điểu Khòa là Hội Thông theo học với Thầy thời gian, một hôm từ giã Thầy đi nơi khác.
Sư hỏi:
- Ông đi đâu?
Hội Thông thưa:
- Hội Thông vì pháp mà xuất gia, song Hòa thượng chẳng từ bi chỉ dạy, nay con xin đi các nơi tham học Phật pháp.
Sư bảo:
- Nếu là Phật pháp, ta đây cũng có chút ít.
Hội Thông thưa:
- Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng?Sư bứt sợi lông vải trên thân đưa lên thổi. Ngay đó Hội Thông liền lĩnh hội huyền chỉ.
Chỉ một việc bứt sợi lông vải đưa lên thôi sao trước kia sư không làm, phải đợi đến lúc này mới làm? Tức phải chờ đúng lúc thời tiết nhân duyên đầy đủ, tâm người mới khế hợp mà cảm nhận được.
Trong đây, Phật ví dụ bông linh thoại, tương truyền ngàn năm mới nở một lần. Khi nó nở là có thánh nhân ra đời, tức chỉ việc ít có, khó gặp! Cho nên Phật ân cần nhắc người khéo tin nhận, chớ vội bỏ qua!
CHÁNH VĂN:
17 – Xá Lợi Phất! Các đức Phật theo thời nghi nói pháp ý thú khó hiểu. Vì sao? Ta dùng vô số phương tiện các món nhơn duyên lời lẽ thí dụ diễn nói các pháp. Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được. Vì sao? Các đức Phật Thế Tôn, chỉ do một nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
Xá Lợi Phất! Sao nói rằng các đức Phật Thế Tôn chỉ do một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời? Các đức Phật Thế Tôn vì muốn cho chúng sanh khai Tri Kiến Phật để đặng thanh tịnh mà hiện ra nơi đời, vì muốn cho chúng sanh chứng vào đạo Tri Kiến Phật mà hiện ra nơi đời.
Xá Lợi Phất! Đó là các đức Phật do vì một sự nhơn duyên lớn mà hiện ra nơi đời.
GIẢNG:
Các đức Phật theo thời nghi mà nói pháp là sao? Ngầm ý nói, nó không có cố định, không thể chấp vào lời nói đó, vì đó chỉ là phương tiện, chưa phải thật, phải thầm nhận ý thú ngoài lời, ngoài sự suy nghĩ, nên tiếp đó Phật bảo: “Pháp đó không phải là suy lường phân biệt mà có thể hiểu, chỉ có các đức Phật mới biết được”. Vậy mình làm sao hiểu? Phật nói cho ai? Bởi mình cầu hiểu nên không thể hiểu. Mình càng suy thì càng trái xa. Vì pháp đó ở đâu mà mình hiểu? Mình suy? Hiểu nó là nó ở ngoài mình rồi!
Tiếp đến Phật thổ lộ nhân duyên ra đời, tức chư Phật chỉ vì MỘT NHÂN DUYÊN VIỆC LỚN mà hiện ra đời!
Sao gọi là việc lớn? Bởi nó vượt qua thời gian, không gian, không cái gì trên đời có thể so sánh, nó là cái giải quyết cả kiếp người, cả sự luân hồi trong sinh tử từ vô thủy. Ai cũng có việc lớn đó mà bỏ quên, và nhân duyên việc lớn đó là gì?
Tức là KHAI THỊ cho chúng sinh TỎ NGỘ VÀO TRI KIẾN PHẬT. Tri kiến Phật là gì? Tức cái THẤY BIẾT GIÁC NGỘ hiện sẵn nơi sáu căn của mỗi người đây.
Chúng sinh luôn nhận theo trần mà quên nó nên sống hàng ngày trong đó mà không hề hay biết, đành chịu lưu chuyển trong luân hồi. Chư Phật khai, tức đánh thức cho người NHỚ LẠI, chứ không có khai cái gì mới. Bởi cửa đó sẵn mở rồi, chỉ cần người NHỚ lại, tin nhận là xong.
Lục Tổ nói: “Một niệm tâm sáng, đó là khai tri kiến Phật.” Ngay đây, một niệm sáng tỏ không mê, tức mở ánh sáng giác ngộ chứ gì? Cho nên nói Phật khai là một phần, một phần chính yếu là mỗi người phải TỰ KHAI.
CHÁNH VĂN:
18 – Đức Phật bảo Xá Lợi Phất: “Các đức Phật Như Lai chỉ giáo hóa bồ tát, những điều làm ra thường vì một việc: chỉ đem Ttri Kiến Phật chỉ cho chúng sanh tỏ ngộ thôi.”
Xá Lợi Phật! Đức Như Lai chỉ dùng một Phật thừa mà vì chúng sanh nói pháp, không có các thừa hoặc hai hoặc ba khác.
19 – Xá Lợi Phất! Pháp của tất cả các đức Phật ở mười phương cũng như thế.
Xá Lợi Phật! thuở quá khứ các đức Phật dùng vô lượng vô số phương tiện, các món nhơn duyên lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều đặng chứng “nhất thế chủng trí”.
Xá Lợi Phất! Thuở vị lại, các đức Phật sẽ ra đời cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều đặn chứng “nhất thế chủng trí”.
Xá Lợi Phất! Hiện tại nay, trong vô lượng trăm nghìn muôn ức cõi Phật ở mười phương, các đức Phật Thế Tôn nhiều điều lợi ích an vui cho chúng sanh. Các đức Phật đó cũng dùng vô lượng vô số phương tiện các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ mà vì chúng sanh diễn nói các pháp, vì pháp ấy đều là một Phật thừa, nên các chúng sanh đó theo chư Phật nghe pháp rốt ráo đều đặng chứng “nhất thế chủng trí.”
Xá Lợi Phất! Các đức Phật đó chỉ giáo hóa bồ tát, vì muốn đem Tri Kiến Phật mà chỉ cho chúng sanh, vì muốn đem Tri Kiến Phật cho chúng sanh tỏ ngộ, vì muốn làm cho chúng sanh chứng vào Tri Kiến Phật vậy.
Xá Lợi Phất! Nay ta cũng lại như thế, rõ biết các chúng sanh có những điều ưa muốn, thân tâm mê chấp, ta tùy theo bổn tánh kia dùng các món nhơn duyên, lời lẽ thí dụ cùng sức phương tiện mà vì đó nói pháp.
Xá Lợi Phất! Như thế đều vì để chính đặng một Phật thừa “nhất thế chủng trí.”
GIẢNG:
- Ở đây chú ý: Chư Phật đó có làm ra điều gì, đều là vì một việc: ĐEM TRI KIẾN PHẬT chỉ cho chúng sanh. Vậy còn nghi gì nữa? Phật có giấu giếm cái gì đâu. Trong đây Phật đã nói rõ, bao nhiêu việc làm sai biệt là đều hướng người về một việc: TỎ NGỘ TRI KIẾN PHẬT! Tức phải đến chư Phật, chớ không phải chỉ đạp theo dấu Phật cho là đủ! Đây là chỗ ba đời chư Phật đều chỉ dạy, không chỉ riêng Phật Thích Ca thôi.
Tại sao Phật chỉ nhắm đến việc này? Bởi các Ngài đều thấy rõ, TRI KIẾN PHẬT là cái ai ai cũng có đủ, không thiếu sót, mà không chỉ ra nó, không đánh thức nhớ lại nó, thì còn chỉ cái gì? Chính kinh Hoa Nghiêm Phật từng nói: “Lạ thay! Lạ thay! Tất cả chúng sanh đều có đủ đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp chước mà không thể chứng được. Nếu lìa vọng tưởng là trí thanh tịnh, trí tự nhiên, trí vô sự tự nhiên hiện tiền.”
Tóm lại, ý Phật muốn đưa người đến một Phật thừa, giác ngộ thành Phật, ngoài ra đều là phương tiện.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Khi đó Trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân mình mập đẹp có sức rất mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.
Nói về sự trang hoàng của chiếc xe báu.
Vì cớ sao? Vì ông Trưởng giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy lòng bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác".
Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy, các người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.
GIẢNG:
Phật ví dụ trước, nói về trong quốc ấp tụ lạc có vị đại trưởng giả tuổi già, của giàu, nhiều nhà ruộng tôi tớ, nhà đó lớn mà chỉ có một cửa ra vào thôi, trong đó có người rất đông hoặc hai trăm đến năm trăm người, nhà thì hư mục, trong khi đó đồng một lúc bốn phía nhà bỗng nhiên lửa nổi lên bốc cháy, người nhiều như vậy, nhưng có hai mươi, ba mươi người con ở trong đó. Đó là điểm thứ nhất, muốn nói lên cái gì?
Ông Trưởng giả: chỉ cho Đức Như Lai.
Quốc ấp tụ lạc: Quốc là nói cõi nước lớn. Ấp: là xóm làng lớn; tụ lạc: là thôn xóm trong đó, giống như một phường hay một huyện.
Nhà lửa: chỉ cho nhà lửa tam giới.
Vậy quốc ấp tụ lạc ở đây là chỉ cái gì? - Chỉ cho cảnh giới của Như Lai, nó bao trùm hết, nhà lửa này cũng nằm trong đó, cái nhà này ở trong quốc ấp tụ lạc đó, nó chỉ là một phần nhỏ trong đó thôi, cảnh giới Như Lai này trong đó đầy đủ vô lượng công đức không thể nghĩ bàn (của giàu vô lượng). Cho nên cảnh giới này ở trước gọi là chỉ Phật với Phật mới biết thôi. Bởi vì mấy người con ở trong nhà lẩn quẩn thì làm sao biết được ở ngoài. Ở ngoài là cõi nước thành ấp tụ lạc, chỉ có ông trưởng giả mới biết, chứ mấy người con đâu có biết, cũng như mình phải không?
Mình cũng chỉ biết lẩn quẩn trong nhà lửa này thôi, còn ở bên ngoài mình đâu biết được. Cảnh giới Như Lai này chỉ có người nào ra khỏi nhà lửa thì mới biết được thôi. Như vậy nhà lửa đã thêm mục nữa thì có đáng gì đâu, mà mình quý nó không chịu ra.- Bởi sống trong tình mê.
Trưởng giả nhiều nhà ruộng, tôi tớ, là muốn nói lên cái gì? Ông Trưởng giả tuổi già là chỉ cho cái gì? - Là chỉ cho Như Lai vô sự. Bởi vì Như Lai là chỉ cho người đã ra khỏi nhà lửa tam giới, đã giải thoát rồi, Ngài như người vô sự, không có việc bận rộn nữa. Nhưng Ngài phải vào trong nhà lửa là vì mình, nên Ngài mới vào đó. Và Như Lai ở đây không phải chỉ có một cái nhà này thôi mà nhiều nhà lắm,tức là chỉ Như Lai vô trụ mà mình học trong Kinh Kim Cang, Ngài hiện khắp nơi, không ở chỗ nào, không cố định ở nhà nào hết.
Của giàu vô lượng: Đó là chỉ cho trí tuệ không ngằn mé, cái kho Như Lai đầy đủ trí tuệ diệu dụng, không thể đếm được, đây ví dụ là của giàu vô lượng, hết tính kể, không có gì so sánh được, do đó mà phần trước Phật nói trí tuệ như Ngài Xá Lợi Phất nhiều vô lượng, cộng lại suy lường cũng không biết được.
Trưởng giả giàu vô lượng, làm chủ nhà này, là chỉ cái gì? - Là chỉ cho Như Lai Ngài hiện thân trong ba cõi này nhưng Ngài vẫn tự tại, không bị lệ thuộc vào trong ba cõi. Làm chủ trong nhà đó, tức là Ngài tự tại trong đó, chứ không phải như mình bị mắc kẹt trong đó. Nhưng cái nhà đó chỉ có một cửa ra vào thôi, cửa đó là cửa gì? - Đó là cửa Tâm, ba cõi lăng xăng đó nhưng có một tâm thôi, ra vào thì cũng một tâm thôi chớ không gì khác. Từ “tâm mê” đi vào ba cõi chịu luân hồi. Từ “tâm giác” đi ra ba cõi, giải thoát, an vui.
Cho nên chỉ có một cửa rõ ràng vậy thôi, còn nói bờ này bờ kia cũng là ngay một tâm này. Tâm này mê thì ở bờ này, giác thì qua bờ kia. Nhà to rộng vậy mà chỉ một cửa thôi, có ai thấy cửa đó chưa? Thấy cửa sao không chịu ra? Thêm điều nữa, nhà có một cửa thôi mà lại nhỏ hẹp nữa, vì sao lại nhỏ hẹp? - Đó là muốn nói lên chỗ chân thật này là chỗ rất khó tin, khó hiểu, ít người tin nổi, nên khó ra là vì chỗ đó. Quả thật cửa sẵn ở đó thôi đâu có giấu giếm gì ai, nhưng vẫn ít có người chịu ra, bởi vì vô minh che, do đó trong nhà Thiền có câu: “Nếu một bề đề cao việc này, thì cửa pháp đường cỏ cao một trượng!"
Vì nếu một bề đề cao việc đó tức là cứ nói thẳng chỗ đó thôi thì ít người tin nổi, hết người đến, thành ra pháp đường cỏ mọc cao một trượng. Vì vậy các Ngài phải dùng nhiều phương tiện nói thế này, nói thế kia, bao giờ sạch hết chấp mới sống được chỗ này. Phải sạch hết vô minh như Phật vậy đó. Phật đã sạch hết vô minh nên Ngài cần ra thì ra thôi, ra dễ dàng! Thật ra, nói ra hay vào chỉ là một lối nói, chứ nói thẳng đối với Như Lai thì Ngài không có gì ra vào nữa, vì tất cả đều ở trong tánh Như Lai, nói có ra có vào, cũng là thí dụ thôi, còn đã thấu triệt chỗ đó thì không có gì ra vào.
Ở đây Ngài thương nên vào đây để đánh thức mình, nhưng còn chưa chịu ra nữa, như những người con trong đây, ông trưởng giả thương kêu như vậy cũng không chịu ra, mấy người con đó là chỉ cho ai? Giống như mình không? Như vậy kêu hoài có ai chịu ra chưa? Nó chân thật sẵn đó nhưng lại khó tin, cho nên Ngài phải đánh thức mình, tin được thì mình ra chứ không gì khác. Rồi lầu gác hư mục, cùng một lúc lửa bỗng cháy lên, chỉ cho cái gì? - Lầu gác hư mục chỉ cho vô thường đeo đuổi tàn phá con người cũng như mọi vật ở trong ba cõi này tất cả đều chịu chung trong đó.
Dù cho Phật hay Bồ Tát hiện thân ở trong đây, mà mang cái thân này cũng phải chịu vậy thôi. Bởi vậy tám mươi tuổi Phật cũng nhập Niết Bàn. Thô thì sanh già bệnh chết nó ép ngặt, còn tế là sanh trụ dị diệt nó chi phối. Vi tế là trong tâm niệm mình, từng niệm, từng niệm nó sanh trụ dị diệt đó, nó chi phối trong từng niệm, luôn luôn vô thường.
Lửa bỗng nổi lên là sao? - Đó là muốn chỉ cho sự vô thường, nó không có gốc gác, không có cội rễ, chỉ do mê lầm mà thôi. Cho nên nó bỗng nổi lên không biết gốc gác từ đâu. Tìm gốc gác nhà lửa này tìm không ra, thấy được chỗ này, mới thấy cái sanh tử vô thường, cũng không phải có thật tánh, nên mình giác thì mình thoát được.
Trong nhà Thiền có câu chuyện Ngũ Tông đến hỏi Thiền Sư Duy Tuệ:
- Con đã học thiền nhiều năm, nhưng vẫn chưa thành tựu, bây giờ xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con.
Ngài Duy Tuệ bảo:
- Cũng không có bí quyết, vấn đề là giải thoát sinh tử thôi.
Ngũ Tông thưa:
- Nhưng làm sao thoát sinh tử?
Thiền Sư Duy Tuệ liền lớn tiếng bảo:
- Từng niệm tưởng trôi qua là sinh và tử.
Ngay đó Ngũ Tông tâm rỗng rang, cảm nhận thấy như mình vừa đặt gánh nặng xuống.
Đơn giản, nhưng mình mới nghe qua thấy lạ, vậy giải thoát sanh tử ở chỗ nào? Mình nghe nói sanh tử sự đại, mình nghĩ Phật, Tổ nhắc nhở mình quan tâm cho thật kỹ, mình liền tưởng sanh tử là cái gì quá sức tưởng tượng. Nhưng sanh tử không phải gì khác, là chính ngay nơi từng tâm niệm của mình đó, từng niệm từng niệm trôi qua đó là sanh tử chứ gì nữa? Sanh tử không là cái bên ngoài, do đó mình giác được nó tức thấu suốt được nó thì tâm rỗng rang, lửa này không chỗ khởi, là mình thoát sanh tử, nếu còn thấy sanh tử thật là mình bị chi phối trong đó.
Cho nên mình nghe giải thoát được Niết Bàn, mình tưởng Niết Bàn là cõi nào đó. Đâu biết rằng Niết Bàn là ngay tâm niệm mình thôi, tâm mình được lặng dừng, một niệm lặng thì một niệm là Niết Bàn, còn niệm niệm được lặng là niệm niệm Niết Bàn, chứ có gì đâu, thoát sanh tử là thoát nơi tâm niệm mình, chớ có gì thoát. Do đó Ngũ Tông nghe nói vậy liền cảm nhận được, tâm rỗng rang giống như buông gánh nặng xuống, thật nhẹ nhàng!
Thấy được như vậy, thì sanh tử tức vô sanh, không phải tìm vô sanh ở đâu. Thấu được chỗ này, thì thấy mình đang ngồi trên đất trống tự thuở nào rồi không chạy đi đâu hết, chạy ra ngoài đó là thí dụ.
Một hôm Ngài Dược Sơn muốn thử nghiệm Sa Di Cao có chỗ thấy hiểu chân thật chưa, Ngài mới nói với Sa Di Cao rằng:- Ta nghe nói ở Trường An ồn náo phải không? Sa Di Cao đáp:
- Riêng nước con thì an ổn.
Coi như mình ngồi chỗ chân thật an ổn sẵn rồi, có chạy đi đâu, chỉ tại mê thôi nên tạm gọi là kêu ra.
Ngài Dược Sơn gạn thêm nữa:
- Ông do xem Kinh mà được, hay thưa hỏi mà được?
Sa Di Cao đáp:
- Con không do xem kinh được, cũng không do thưa hỏi mà được.
Ngài Dược Sơn nói:
- Vậy nhiều người không xem kinh, cũng không thưa hỏi sao họ không được?
Sa Di Cao đáp:
- Chớ nói họ không được, chỉ vì họ không chịu nhận thôi.
Nó sẵn đó rồi, thì nói gì được với không được, chỉ tại chưa chịu nhận, nên còn lăn lộn mãi trong nhà lửa này.
Ở đây trở lại đoạn 13, nhà ông trưởng giả trong đó người rất đông, tức chỉ trong tam giới này có rất nhiều loại, nhưng trong nhà đó chỉ có mười, hai mươi, hoặc ba mươi người con thôi, đây chỉ cho trong tam giới này người rất đông nhưng người gặp Phật tu hành thì rất ít. (tiếp đoạn 14). Khi ông trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: ta dẫu có thể nơi cửa nhà này, ra ngoài rất an ổn, dễ dàng không có khó khăn gì hết, ta có thể dùng thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc ghế đẳng từ trong nhà mà ra ngoài, nhưng mà thương mấy người con trong này phải kêu ra. Đó là muốn nói lên cái gì? Đối với Như Lai Ngài có sức tự tại với sanh tử rồi, cho nên không thành vấn đề. Ngài ra dễ dàng thôi, Ngài cũng đầy đủ sức thần thông diệu dụng, nhưng sao Ngài không dùng thần thông diệu dụng đó đem mấy người con kia ra mà phải kêu, đó là điểm phải thấy cho kỹ! Đây là muốn nói lên cái gì? - Đó là Phật muốn đánh thức họ dậy để cho họ có niềm tự tin, tự mình nhận mới giải thoát được, chứ không có thể ỷ lại từ bên ngoài mà thoát được, đây là điểm căn bản. Trong nhà thiền có câu chuyện: có vị tín đồ, một hôm vị này đang tránh mưa dưới mái hiên của một căn nhà bên đường, ông thấy có một vị Thiền sư che dù đi ngang qua, ông liền gọi to:
- Xin Thiền Sư Ngài từ bi độ khắp chúng sanh, cho con được quá giang một khoảng đường xem thế nào?
Vị Thiền Sư bảo:
- Ta thì ở trong mưa, ông ở dưới mái hiên đâu có mưa, thì đâu cần ta độ.
Vị tín đồ nghe vị Thiền Sư nói như vậy, ông liền chạy ra đứng ngoài mưa và nói:
- Bây giờ con đang ở ngoài mưa xin Ngài độ con!
- Ta cũng ở trong mưa, ông cũng ở trong mưa, ta chẳng bị mưa ướt nhân vì ta có dù, còn ông bị mưa ướt vì ông không có dù. Do đó chẳng phải là ta độ ông, ở đây cây dù nó độ ta, ông muốn được độ, xin ông tự kiếm cây dù che. Nói xong Ngài đi.
Chuyện này quý vị thấy có lý không? Đây là nhắc mình cái gì? - Rõ ràng do cây dù độ Ngài, ông muốn không bị mưa ướt thì kiếm dù che là hết bị mưa. Đó chính là chỗ này, tự mình tin nhận, mình thoát ra thôi, còn nhờ ai nữa. Do đó ở đây Phật kêu ra mà không ra, Ngài cũng đành chịu thôi chứ biết sao. Tức là: "Người này ăn, không thể người kia no được".
Đến câu chuyện của Ngài Đạo Khiêm với Thiền Sư Tông Nguyên. Ngài Đạo Khiêm ở chỗ Thiền sư Đại Huệ tham thiền thời gian lâu mà không tỏ ngộ, một hôm Ngài Đại Huệ sai Đạo Khiêm đem một lá thư cho một người ở xa, hồi xưa kia không phải như bây giờ, lên xe đi một ngày thì tới, có khi đi phải mấy tháng trời, Đạo Khiêm nghe vậy không muốn đi, Ngài than: "Ta nghĩ là ở đây tham thiền bao nhiêu năm rồi, chưa được đắc lực gì hết, bây giờ phải đi trên một quãng đường dài như vậy, thì công phu không biết ra sao?” Ngài Tông Nguyên là bạn, mà cũng là người đã tỏ ngộ rồi, thấy Đạo Khiêm than như vậy thì Ngài Tông Nguyên thúc đẩy nói:
- Huynh hãy đi, tôi sẽ cùng đi với huynh, không thể bảo rằng: trên đường đi không có công phu tham thiền được, chỗ nào cũng là chỗ công phu được hết.
Trên đường đi Đạo Khiêm than lần nữa:
- Tôi tham thiền mấy mươi năm, công phu chưa đến đâu, không biết ra sao?
Ngài Tông Nguyên mới bảo:
- Thôi bây giờ đây, những điều gì ông học hỏi được từ các Lão Hoà thượng lâu nay, hãy gạt qua một bên hết đi, ngay đây những cái gì giúp được huynh thì tôi sẵn sàng giúp hết, nhưng có năm điều huynh phải tự làm đó là: thứ nhất là đi đại, thứ hai là đi tiểu, thứ ba là ăn cơm, thứ tư là mặc áo, thứ năm là tự huynh phải mang cái thây thúi này trên suốt quãng đường đi, không ai mang thế cho huynh được.
Đạo Khiêm nghe tới đó, liền tỏ ngộ.
Có người nào tỏ ngộ chưa? Ai có thể vào đây mà mang thế cái thây cho mình? - Chính mình phải mang chớ ai mang thay thế cho mình được! Cũng vậy, chính mình sáng chứ ai sáng cho mình. Phải tự mình mở sáng ra, tự mình giác ngộ, thấy được con người thật của chính mình, đó là mở sáng trí vô sư, từ trí vô sư đó nó giúp mình giải thoát sanh tử. Còn trí mình học được của Tổ, của Phật, cũng trả về Tổ Phật mà thôi. Ở đây Phật kêu mình, mình thức tỉnh được thì mình chạy ra thôi, Ngài không dùng thần thông đưa mình ra. - Mình đang ở trong nhà lửa là một cái đã thu hẹp rồi, lại còn bám vào cái thân này nữa, là thêm lớp thu hẹp thứ hai nữa. Trong khi đó tâm chân thật của mình thì nó thênh thang nhưng mình lại không ngó ngàng tới? - Cái tâm thể chân thật này không có chỗ nào thiếu nó. Bây giờ nói gần hơn, quý vị có thể cảm nhận được như mình còn tâm chúng sanh đây tức là tâm chưa thanh tịnh gì, mà thấy nó thênh thang rồi, ví dụ ngồi đây quý vị nghĩ tới Mỹ, nghĩ tới mặt trăng, nếu mình sống trở về được với tâm thanh tịnh thì nó còn rộng lớn thế nào nữa, nhưng mình lại không chịu nhận mà cứ Đông Tây chạy giỡn nhìn cha vậy thôi, cũng không biết gì là nhà? Gì là lửa? Gì là hại? Ở trên Phật kêu ra, đó là:
Đức Như Lai trong này luôn luôn thúc đẩy, mà mình không để ý, cũng giống như ở đây, Phật kêu ra mà mình cứ lo chạy giỡn thôi. Cũng vậy, tánh giác nó ngầm ngầm thúc đẩy, nếu không thì chắc là giờ này quý vị không ngồi đây; mà nó có thúc đẩy ngầm, nên mới tỉnh phần nào đó để mà học Đạo, nghe pháp nhưng còn chưa chịu ra, vì ham vui thôi. Tức là bị cái vô minh tham ái nó che mờ không sáng được, nên không biết gì lửa? Gì là nhà? Gì là hại? Chỉ biết vui trong ngũ dục mà thôi. Cha kêu mà cứ chạy giỡn, chạy một lúc va đầu, sứt trán chịu khổ, loanh quanh chạy trong nhà lửa đó, với con mắt Phật nhìn mới thấy mình đáng thương, còn mình ở trong cảnh đó lại thấy vui.
Trong lúc đông tây chạy giỡn nhưng nhìn cha là sao? Là loanh quanh trong đó cũng không rời Như Lai, chỉ cần biết nghe trở lại, tin nhận thì thoát ra thôi. Trong nhà Thiền có câu chuyện Ngài Huệ Tịch lúc làm Sa Di ở chỗ Thiền sư Tánh Không, Ngài nghe một vị tăng hỏi Tánh Không là:
- Thế nào ý Tổ Sư từ tây sang?
Thiền sư Tánh Không đáp:
- Như có người ở giếng sâu ngàn thước, không có một tấc dây gì hết, mà ra khỏi giếng được, thì người này đáp cho ông được ý Tổ Sư.
Một thời gian sau Huệ Tịch đi tham vấn nơi khác, Ngài đến Thiền Sư Đam Nguyên hỏi:
- Người ở giếng sâu như vậy, thì làm sao ra được?
Ngài Đam Nguyên bảo:
- Ôi ! Cái đồ ngốc, ai ở dưới giếng?
Mình nghe nói ở dưới giếng thì tưởng có người ở dưới giếng thật, đó là mê.
Lúc đó Huệ Tịch nghe nói như vậy nhưng chưa tỉnh lắm. Sau đó Ngài đến Thiền Sư Quy Sơn đem câu chuyện này hỏi lại, Ngài Quy Sơn liền gọi:
- Huệ Tịch!
Ngài nghe gọi liền: Dạ!
Ngài Quy Sơn bảo:
- Ra rồi!
Quý vị thấy ra dễ không? Mình nghe gọi, liền "Dạ". Vậy sắc thân năm ấm có ngăn che gì không? Nếu ngăn che thì đâu có "Dạ” được, vậy chỉ cần “nghe trở lại” thì ra liền chớ có gì đâu. Dù cho người có nghiệp chướng sâu dầy mà nghe kêu có biết dạ không? Vậy có che được nó không? Nhưng tại sao không ra được? Tại vì chưa chịu nghe lại thôi. Ở đây Phật kêu nhưng cứ đông tây chạy giỡn, tuy vậy mà vẫn không rời Như Lai, tức nhìn Như Lai mà chạy.
Ông trưởng giả liền nghĩ: nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy như vậy đó, mà các người con không biết lo sợ, cứ chạy giỡn hoài, ông bèn bày phương tiện, biết chúng nó ham đồ chơi, nếu đem đồ chơi ra dụ thì chúng nó sẽ chạy ra thôi. Cho nên ông bảo là để sẵn ở ngoài cửa các đồ chơi nào xe dê, xe hươu, xe trâu mà nói với các con rằng các con mau ra cha sẽ cho các con các thứ xe như thế. Mấy người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng tranh ra khỏi nhà lửa. Trước kia kêu gọi hết lời mà không ra, bây giờ nghe có xe đẹp thì chạy ra liền, giống mình chưa? Tức là nói cái gì? Ở đây dụ cho chúng sanh là luôn luôn ham thích được hưởng. Làm mà không hưởng đâu chịu làm, cũng như giờ nói tu đi thì đâu chịu, phải nói tu có phước, được quả này quả kia thì chịu lắm, bởi mình luôn luôn sống trong ngã tưởng, nên phải luôn có một cái gì đó để cho nó hưởng, nó được, mới chịu. Bây giờ bảo buông đi, buông chạy ra đây thôi, nhưng bỏ cái này thì uổng, cho nên không chịu ra, phải có được gì đó.
Do đó khi nghe nói cho ba xe liền tranh nhau chạy ra liền. Bởi vậy mà có câu: "Trước dùng dục mà dẫn dắt, sau mới đưa vào trí huệ Phật". Đối với người còn đam mê trong này nhiều quá, nếu Phật nói ráng tu để được giải thoát thì đâu chịu. Nhưng nếu bảo thôi ráng làm phước sau sanh lên cõi trời, được cái này cái kia như ý thì chịu liền dễ dàng. Như vậy cũng là cứu khổ, còn hơn là để bị đọa vào địa ngục biết bao giờ mới lên. Hoặc bảo ráng tu khổ nhọc, sau sẽ được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hà, A Na Hàm, A La Hán, nghe vậy thì cũng chịu. Ở đây Phật rất khéo là như vậỵ,
Nghe nói vậy cùng tranh nhau ra, khi đến ngã tư đường, ngồi nơi đất trống, tức là giải thoát tự tại rồi, không còn lo sợ gì nữa, nhưng mà chịu chưa? Chưa chịu, còn đòi xe. Cha đã hứa, bây giờ cho chúng con xe đi, đó là chỉ cho tâm trạng chưa quên được sở đắc, ra ngoài rồi tức là đã sáng được và hiểu được đạo, nhưng vẫn còn kẹt trong sở đắc, thấy mình có được, tức là còn kẹt trên phương tiện thứ lớp của Phật. Phật nói có quả này, quả kia, là trên phương tiện thôi, nhưng mình lại kẹt trên phương tiện, cho nên nói ba xe là dụ quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Xe dê dụ cho Thanh Văn, xe hươu dụ cho Duyên Giác, xe trâu dụ cho Bồ Tát, đó là phương tiện dẫn dắt tùy theo trình độ tâm chứng của người, do tâm chứng của người có cạn sâu sai biệt mà tạm lập vậy thôi, trên tâm thể rốt ráo có hai không? Thanh Văn cũng tâm thể này, Duyên Giác cũng tâm thể này, Bồ Tát cũng tâm thể này, và Phật cũng tâm thể này, có gì khác đâu. Cũng như mình, nếu nhìn bên ngoài thì thấy có vị A La Hán khác, Bồ Tát nhứt địa khác, Bồ Tát nhị địa khác, còn nếu như mình nhìn lại chính mình thì lúc ở nhứt địa là ai, nhị địa là ai trong đó, tam địa ai trong đó, tứ địa ai trong đó, có mấy người trong đó, có ai khác không? Mình không thấy chỗ đó, chỉ nhìn bên ngoài nên mắc kẹt trên phương tiện thứ lớp của Phật, rồi còn phân chia cao thấp nữa. Ở đây thấy rõ, sống trọn vẹn trong đây rồi, thì chỉ có một tâm thể đó thôi, còn có sự sai biệt là do mình sống trọn vẹn hay chưa trọn vẹn vậy thôi. Chưa trọn vẹn thì tạm lập ra lúc này thì như vầy, lên chút nữa thì như vầy, như vầy, … đó là lúc mình chưa sống trọn vẹn, còn nếu trọn vẹn thì chỉ cái đó thôi, chớ có gì khác đâu. Do đó kinh Kim Cang nói:
- Tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai khác thôi.
Như vậy còn đòi xe, đó là chưa quên được chỗ sở đắc, ra rồi còn đòi nữa tức là đòi “được”. Cho nên Phật cho đồng một thứ xe thôi, dù trước kia là nói ba xe, nhưng bây giờ cho một thứ xe là xe trâu trắng lớn, xe đó trang hoàng đầy đủ hết, đó là nói lên cái gì? Xe trâu trắng đây là nói lên Phật Tánh bình đẳng của tất cả, nghĩa là tất cả đều có Phật tánh bình đẳng chung đó, hay gọi là giác thể không hai. Nói rằng, dù cho cả nước cũng không thiếu nữa, bởi vì ai ai cũng đều đủ chỗ này hết, có ai thiếu đâu. Nói cho, mà thật ra có cho gì đâu, mà nói thiếu nói đủ. Mình mắc kẹt trên danh từ, nghe nói cho, tưởng đâu là có được, mới nghĩ đến thiếu đủ. Chính chỗ này, trong kinh Pháp Bảo Đàn Ngài Pháp Đạt cũng nghi và thưa với Lục Tổ rằng:
- Con tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu được nghĩa kinh, xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho.
Lục Tổ bảo:
- Ông đâu có biết, mình đang ngồi trên xe trâu trắng mà lại đi tìm ba xe ngoài cửa, ba xe là giả, là việc thuở xưa, còn một xe là thật, là việc hiện nay. Chỉ dạy ông dẹp các giả để trở về cái thật, sau khi trở về cái thật thì cái thật đó cũng không tên. Nên biết có những của báu, trọn thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi cái tưởng của cha, cũng không khởi tưởng của con, cũng không khởi tưởng dùng, đến đó mới thấu triệt được.
Rõ ràng tưởng có cho, có nhận đó là lầm! Đây là của báu sẵn trong nhà thôi.
Đức Sơn hầu Ngài Sùng Tín, đêm khuya đi ra ngoài thấy trời tối, đi vào thưa với Ngài Sùng Tín là:
- Bên ngoài trời tối đen.
Ngài Sùng Tín nói:
- Tối thì ta đưa đèn cho.
Ngài đốt đèn đưa cho, Đức Sơn vừa đưa tay tiếp lấy, thì Ngài Sùng Tín thổi tắt đi. Ngay đó Đức Sơn sáng tỏ liền.
Đưa đèn là cho. Cho, nhưng người ta vừa nhận thì thổi tắt, vậy có cho gì không? Chỉ là đánh thức cái có sẵn của mình thôi. Như Lục Tổ nói: "Bao nhiêu của báu đó đều có sẵn nơi mình rồi, là do mình thọ dụng thôi".Có gì là cho là nhận. Còn nghĩ có cho có nhận, đó là còn lớp mê, cho nên mình nghe nói ba xe kẹt theo lời nói đó, liền chấp có ba xe. Khi chấp có ba xe đó rồi, còn phân biệt là cao là thấp, là lớn, là nhỏ, tôi tu đại thừa, còn anh là tu theo tiểu thừa, tôi cao anh thấp, là mắc kẹt thêm một lớp nữa. Đó là chưa được vào nhà Như Lai, còn đứng ngoài cửa, bởi đứng ngoài cửa phỏng đoán nên mới phê bình kia đây. Biết rốt ráo rồi, như Lục Tổ nói ba xe cũng là giả, chỉ có một thừa, nhưng một thừa đó cũng không phải thật, bởi vì sao? - Bởi vì còn một, còn ba là cũng còn đối đãi, một hay ba đó cũng chỉ là phương tiện thôi, và còn giả mới tạm nói là thật, như vậy thật giả cũng là hai tên đối đãi thôi, một - ba cũng là hai tên đối đãi. Khi sống được trong đây rồi, thì còn tưởng thật tưởng giả gì nữa? Sống được đây rồi, ngay đó liền dùng thôi, cũng như tay mình đây, muốn quơ thì quơ, chớ còn nghĩ phải dùng cái tay để quơ thì sao? Thì giống như có cái tay thứ hai ở ngoài mình. Còn nghĩ là cha, là con, cũng chưa thật thấu, phải biết đó chỉ là thí dụ. Cũng như nghe kêu liền dạ, nó sẵn đó bật ra vậy thôi, còn nghĩ dùng cái đó là tự mình tách rời ra.
Đoạn cuối Phật giải thích rõ, Ngài nói cho ba xe, rốt cuộc lại cho một xe thôi, vì Ngài nghĩ rằng ai cũng là con hết, nên dùng lòng bình đẳng mà cho, vì sao? Dầu đem xe đó mà cho khắp cả nước cũng không thiếu, vì ai ai cũng đều đủ hết không phải là cái bên ngoài. Lúc ấy mấy người con ngồi trên xe lớn rồi, mới đặng điều chưa từng có, không phải là chỗ trước kia mình trông. Bây giờ mới thấy ngoài sức mong đợi của mình. Nghĩa là, không mong cầu mà được, tức là ngoài chỗ hiểu biết, ngoài chỗ mình nghĩ tới. Bởi vì sao? Bởi vì ngồi sẵn trong đó rồi còn nói được gì nữa. Mình cứ nghĩ tu sau đó sẽ được cái gì đó, mà không ngờ, khi mình sáng ra là cái mình có sẵn tự bao giờ, cho nên không cầu mà được, còn có cầu mà được là thuộc bên ngoài rồi, mà có được là có mất.
Đó mới thấy được niềm vui chân thật, còn niềm vui trong ba cõi này là niềm vui vô thường, có vui có khổ, vui được chút liền mất, rõ ràng không thật.
Vì chỗ đó khó chỉ, khó nói, cho nên Phật dùng thí dụ để cho mình nhân cái đó thấy cái này thôi, vậy có ai chịu ra chưa?
CHÁNH VĂN:Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ sao, ông Trưởng giả đó đồng đem xe trâu báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá Lợi Phất thưa: "Thưa Thế Tôn! Không, ông Trưởng giả đó chỉ làm cho các con đặng khỏi lửa, toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế Tôn! Dầu ông Trưởng giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng giả đó trước có ý nghĩ như vầy: ta dùng chước phương tiện cho các con đặng ra khỏi, vì nhơn duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống gì ông trưởng giả tự biết mình của giàu vô lượng, muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!
GIẢNG:
Đây Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất, ở trên ông Trưởng giả kêu ra cho ba xe, cuối cùng chỉ cho một xe thôi, vậy ông Trưởng giả đó có lỗi hư vọng không? Ngài Xá Lợi Phất thưa: Không có hư vọng, bởi vì ông Trưởng giả cứu được các người con bảo toàn thân mạng, đó là cái lợi ích lớn rồi, huống nữa là ông còn cho xe lớn, dù ông không cho xe nào cũng không hư vọng. Bởi vì sao? Bởi mục đích là cứu được thân mạng cho người con đó. Mục đích đó thành công, đâu phải là hư dối. Như Phật dùng phương tiện khiến cho mình ra khỏi nhà lửa, thoát được sanh tử luân hồi đó là lợi ích lớn rồi, chỉ bấy nhiêu đó thôi mình thấy quá vui rồi, huống nữa Phật còn chỉ ra cái tánh giác sẵn có cho mọi người, tức là Tri Kiến Phật, để cho mọi người tự nhận rồi sống với cái bất diệt đó, trong đó đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn, thì còn gì hơn nữa mà nói là hư dối. Tuy nói không được gì hết, nhưng mà tự mình được cái đã bỏ quên, mình sống lại với cái sẵn có đó, thì cái niềm vui này còn cái gì diễn tả nữa. Không có hư dối là vậy.
Cũng như ở trong nhà thiền, có người đến hỏi các Thiền Sư là:
- Thế nào là Phật?
Thì các Ngài đáp là:
- Ba cân gai!
Thì như vậy có hư dối không? Phật là ba cân gai sao? Ba cân gai không phải là Phật rồi, nhưng ở đây đánh thức ông Phật hiện tiền vô phân biệt của mình đó. Bởi vì mình đang sống trong phân biệt cho nên hỏi thế nào là Phật là cũng tìm Phật để hiểu, tức là phân biệt theo tình thức. Thiền sư muốn phá cái tình thức đó, đánh thức ông Phật hiện tiền vô phân biệt đây, cho nên nói ba cân gai mình hết nghĩ ngợi, như vậy mình mới nhận ra ông Phật thật của mình. Vậy nói ba cân gai không phải là nói suông, không phải luống uổng, không phải hư vọng. Đây cũng vậy, kêu ra cho ba xe, rốt cuộc chỉ cho một xe thôi, là chỉ cho chỗ chân thật đó, mình thấy như vậy là không hư dối, nhưng chỉ có người bắt chước nói bừa tức là mình không thấu được lẽ thật thì quả là hư dối.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hãi suy não lo buồn, vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, có sức đại thần thông cùng sức trí huệ, đầy đủ các món phương tiện, trí huệ ba la mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa, Sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm, ba độc, dạy bảo cho chúng sanh đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
GIẢNG:
Phật khen ngợi lời đáp của Ngài Xá Lợi Phất đó là đúng, Phật cũng như vậy. Đây là hợp pháp lại Phật có vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, dứt hết không còn thừa, đã ra khỏi sanh tử này rồi, nhưng mà bây giờ vì lợi ích cho mọi người, mọi chúng sanh, nên Ngài mới sanh trong nhà lửa này để mà độ.
CHÁNH VĂN:
Ta thấy, các chúng sanh bị những sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê theo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng không sinh lòng nhàm không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
GIẢNG:
Phật thấy các chúng sanh bị sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não nó đốt cháy. Vì sao lại có những cái này? Vì sanh, già, bệnh, chết là hiện tướng của vô thường; do vô thường mới có từ sanh đến già, cũng do vô thường mới có lúc mạnh, lúc bệnh rồi đến lúc chết, cũng do vô thường mà có thương yêu phải xa lìa. Người mình yêu mến đâu muốn xa lìa, chỉ muốn gần mãi, khi vô thường đến khiến cái duyên gì đó phải chịu xa lìa mà xa lìa thì khổ. Còn kẻ oán ghét, người mình không ưa thì đâu muốn gặp, nhưng vô thường đưa đến lại gặp nữa, cứ thế mà khổ mãi, cho nên cái khổ đã nằm sẵn trong vô thường. Phật thấy chúng sanh sống trong đó, Ngài thương nên vào đây để đánh thức; nhưng mình còn chìm trong đó không biết, không hay, cứ đông tây mà rảo chạy dầu bị khổ nhiều mà cũng không cầu giải thoát.CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Đức Phật thấy việc này bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.
GIẢNG:
Phật thấy ai cũng như con, tức là mọi người đồng ở trong cảnh giới Như Lai đó mà mê lầm không biết, cứ nhận nhà lửa tam giới vô thường này làm nhà của mình, sống loanh quanh trong đó rồi chịu khổ. Vì vậy Phật thường hiện thân trong tam giới để đánh thức mình, tức đánh thức bầy con đang mê chạy giỡn vui trong ngũ dục đó. Vui trong ngũ dục là vui trong khổ chứ có gì? Nhưng mình không xét thấu, mình tưởng là vui, sự thật chỉ là vui tạm thôi. Nếu thế gian thật là vui, thì chắc là ở trên cõi đời này, khỏi cần bày ra những trò vui giả tạo nữa, như cải lương, phim ảnh. Người chết đã mấy trăm năm, dựng lên tuồng hát cho vui, vậy có vui thật không? Bởi vì cuộc sống nhiều khi nhọc nhằn khổ quá, xem chút cho đỡ buồn, mượn đó để tạm vui chút vậy thôi, ngoài ra còn có cái vui như đá gà, vui này là vui trên cái khổ của chúng sanh. Hễ vỗ tay cười, nhìn lại con gà đã đổ máu; hoặc xem đấu võ, dưới này vỗ tay cười là có người bị đo ván rồi, đó là vui trên cái khổ của người, vậy có thật vui chưa? Hiểu rõ như vậy mới thấy Phật nói lẽ thật, vui trong thế gian là vui trong khổ, không vui thật. Cho nên Phật đánh thức cho mỗi người nhớ lại tánh giác sẵn có của mình, để mình sống trở lại trong Vô thượng Bồ đề, cái đó mới là cái vui thật, mà ở đây Phật nói:
Ngài là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí tuệ vui của Phật. Đó là cái vui chân thật.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Đức Như Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí tuệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như Lai, ăét chúng sanh chẳng có thể do đó mà đặng độ thoát.
Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật.
GIẢNG:
Tức là đang sống trong đau khổ phiền não, trong tâm sanh diệt, thì làm sao hiểu được tâm thật này. Cho nên tuy Phật có sức thần thông mà không dùng cái đó, phải dùng phương tiện kêu gọi; nghĩa là Phật thấy rõ chúng sanh lẩn quẩn trong ba cõi, thí dụ lên cõi trời tuy có vui nhưng khi hết phước rớt xuống lại khổ, vậy cũng chịu trong sanh tử vô thường thôi. Trong kinh nói mấy ông trời đó sống lâu, không có tướng già như mình, nên ít nhớ tới vô thường; đến khi tuổi thọ sắp hết, nó hiện ra tướng vô thường, như là thân ra mồ hôi, hoa trên đầu héo, các hiện tướng đó xuất hiện thì họ giật mình, biết sắp chết rồi, thấy khổ sở vô cùng vì họ ít thấy chết. Vì vậy sanh lên cõi trời cũng khổ, nên ở đây nói đông tây rảo chạy cũng không ra ngoài nhà lửa đó. Phật thấy họ sống khổ như vậy, còn vô minh, còn trong tâm sanh diệt, những phiền não còn đầy đó, mà bây giờ dùng thần thông cho ở cõi Phật đi nữa thì họ có hết khổ không?
Do đó, Phật không dùng thần thông, mà dùng phương tiện để đánh thức cho mình biết là khổ, mình tu hành cho hết tham, sân, si, dừng tạo nghiệp rồi mới chỉ ra cái thật thì mới được vui, mới hết khổ, lẽ thật là như vậy, Thí dụ con chó bị ghẻ nếu đem để trên lầu năm, rồi cho nó nằm nệm, nó hết khổ không? Nó còn đang ghẻ, thì dù có lên đó nó cũng không hết ngứa được, nên cũng khổ thôi. Điều quan trọng là phải trị cho nó hết ghẻ, thì nó ở dưới này nó cũng vui nữa.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu con thoát nạn nhà lửa, vậy sau đều cho xe trân báu lớn.
GIẢNG:
Phương tiện khiến cho mình quên cái thân tâm sanh diệt vô thường này, thì mới cảm nhận được chỗ vi diệu kia, còn bám chấp vào thân tâm sanh diệt hư giả này, và quý nó quá, mà bảo chỉ cái thật kia thì làm sao nhận nổi, đã không nhận nổi có khi còn chê bai nữa.CHÁNH VĂN:
Đức Như Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác cùng Phật thừa, mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham mê ắt sanh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt, các ngươi mau ra khỏi ba cõi, sẽ đặng chứng ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác và Phật Thừa.
GIẢNG:
Ở đây Phật nói thêm, Ngài dùng phương tiện nói ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Phật Thừa, mà bảo mình tỉnh lại, không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới này. Ở trong đó nếu tham mê thì sanh ái nhiễm, ái nhiễm là cái đốt mình khổ, cho nên phải mau ra, muốn mình tỉnh giác mà dứt cái niệm ái nhiễm, đây chính là tập nhân của khổ đế, là nhân của luân hồi sanh tử.Trong nhà Thiền có câu chuyện: Hòa thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư lại đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần nhân tuổi thọ sắp hết, Vua Diêm La sai quỷ đến bắt Sư, song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định xem Vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp Vua Diêm La!
Thiền sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong
Tạm dịch:Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ khi sắt luyện khóa hư không
Nếu hay khóa được hư không ấy
Trở lại bắt ta Kim Bích PhongĐó là vì có chút tình luyến ái vật sở hữa mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. Đây là Sư còn có sức định tỉnh mạnh nếu không đã bị trở lại trong sanh tử rồi!
Một câu chuyện khác, là có một ông tướng có bộ đồ trà cổ rất quý. Ông quý bộ tách cổ đó hơn những người quen thân. Một hôm ông đang cầm mân mê xem, bỗng sảy tay rớt, ông hoảng hốt chụp lấy, lúc đó mặt ông tái xanh sợ rớt bể, thì ngay đó ông chợt tỉnh, ông nghĩ: "Ta đã từng vào sanh ra tử, trước trận địa lớp lớp hàng hàng tên đạn, mà không có chút gì sợ sệt hết, hôm nay tại sao vì cái tách nhỏ mà sợ sệt như vậy?". Ông tỉnh lại biết vì do cái ái, thuận tay ông quăng bể luôn.
Quý vị thấy khổ trong ái luyến này chưa? Mà cái tham ái này là do si mê không thấy được lẽ thật nên mới ái thôi. Do đó mở sáng trí tuệ, thấy được lẽ thậtù, thì trừ những niệm này. Cho nên Phật kêu ra để tỉnh lại, để trừ cái tâm ái nhiễm này, phiền não này bớt, chỉ ra lẽ thật mình dễ thấy hơn. Nếu còn cái ái này, khi về cõi Phật thấy đẹp quá lại ái nữa.
CHÁNH VĂN:
Nay ta vì các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy.
Các ngươi chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành. Đức Như Lai dùng phương tiện ấy để dẫn dụ chúng sanh thẳng đến, lại bảo: Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh đạo, thiền định vô lậu, cùng giải thoát tam muội vv… để tự vui sướng, đặng vô lượng sự an ổn khoái lạc.
GIẢNG:
Ở đây Phật nói rõ ba thừa đều là pháp của bậc Thánh khen ngợi. Như vậy Phật có chê Thanh Văn Duyên Giác không? Nhiều khi mình học không tới, liền nói pháp này là pháp tiểu thừa, pháp kia là pháp đại thừa, rồi khen chê trong đó, chính tâm khen chê đó là tâm sinh diệt. Ở đây Phật nói ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, nhưng đó là phương tiện, chớ lầm kẹt trên đó. Mình phải khéo nhận đến chỗ chân thật không hai, thấy đến lẽ thật đó thì mới là điểm trọng yếu. Nghĩa là mình phải quên niệm kia đây để thấy nó đồng một thể, chứ không phân biệt pháp này pháp kia, Thanh Văn, Duyên Giác đều là phương tiện để đưa mình đến chỗ chân thật không hai thôi.CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Nếu chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết Bàn gọi đó là Thanh Văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG:
Thanh Văn thừa đó, là do tâm mong muốn chóng ra khỏi ba cõi, tự chứng Niết Bàn dụ cầu xe dê.CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẽ vắng lặng, sâu rõ nhơn duyên của các pháp, gọi đó là Duyên Giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG
Đây do tâm của người mong cầu trí tuệ tự nhiên, sâu về lý nhân duyên của các pháp, ưa thích ở nơi vắng lặng riêng lẽ một mình, thì thuộc về Duyên giác thừa. Tức cũng do tâm mong muốn của người, chứ không phải là do pháp.
CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, các món tri kiến lực, vô úy của Như Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích Trời, người độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại Thừa. Bồ Tát vì cầu đặng thừa này thời gọi là Ma Ha Tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG:
Bồ Tát thì cũng do tâm cầu trí huệ Phật rồi rộng độ chúng sanh. Như vậy tùy theo tâm lượng căn cơ mong muốn tu hành mà thành có sai khác, chứ không phải tại nơi pháp. Nhiều khi mình phân biệt
khen chê, đó là điều không hay. Nếu mình hiểu rõ khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế một cách thấu suốt, thì thấy rõ tứ đế đó không phải thuộc về tiểu thừa. Nếu nhìn bằng mắt đại thừa thì tứ đế cũng là đại thừa.Như Phật nói khổ đế, tập đế đó là để chi? Là để mình sáng tỏ không lầm lẫn cái nhân quả sanh diệt vô thường. Vì tập đế là nhân sanh diệt đưa đến khổ đế là quả sanh diệt mình không lầm nó với thật tướng thường trụ tức không lầm nhân quả sanh diệt với thật tướng thường trụ nơi mình. Biết như vậy thì không có diệt đế, đạo đế nào riêng khác để chứng, chỉ là sống trở về chân thật nơi mình, đó là khéo chuyển tứ đế thành ra đại thừa rồi. Như vậy mình đưa tứ đế đó về nhất thừa, không còn có niệm phân biệt pháp này cao, pháp kia thấp, mà đó là tùy theo căn cơ của mỗi người.
CHÁNH VĂN:
27- Cho nên Xá Lợi Phật !
Ta vì bày phương tiện
Nói các đạo dứt khổ
Chỉ cho đó Niết bàn
Ta dầu nói Niết bàn
Cũng chẳng phải thiệt diệtGIẢNG:
Niết bàn là tịch diệt vắng lặng. Nhưng Ngài nói Niết bàn đó không phải thiệt diệt, bởi vì nhiều người nghe nói Phật đến khi chết là nhập Niết bàn, cho nên mình mắc kẹt trên từ Niết bàn. Ở đây, Phật nói Niết bàn là chỉ Tâm lặng lẽ, dứt sạch những niệm phân biệt sanh diệt, thì ngay đó là Niềt bàn, chứ không phải đến Niết bàn là diệt tất cả, không còn gì hết, Phật nói rõ:
Ta dầu nói Niết bàn
Cũng chẳng phải thiệt diệt
Do đó, trong kinh Kim Cang, Phật nói: "Độ chúng sanh nào vào Niết bàn mà không có chúng sanh nào diệt độ", để chỉ rõ cái sanh tử này nó không thật, nhưng vọng tưởng này cũng không phải thật. Cho nên giác ngộ nó thì nó hết thôi, mà thể của nó vẫn sáng ngời, chớ không có vọng tưởng để diệt, cũng như không có cái sanh tử để diệt, mà ở đây nói Niết bàn là để đối với sanh tử. Vậy cũng là hai pháp đối đãi mà thôi, phương tiện mà dựng lập. Cốt yếu là mình nhận rõ lại bản tâm của mình, bản tâm vốn là sáng ngời lặng lẽ từ xưa, khi nhận rõ nó thì thấy sanh tử, Niết bàn chỉ là hai danh từ, nên không mắc kẹt trên đó. Chứ nghe nói nhập Niết bàn, rồi như vậy không biết đi đâu, không biết mình sống ra sao. Ở đây, nhập Niết bàn là sống với tâm chân thật của mình, không sanh không diệt đó, chứ không phải là đi đâu.CHÁNH VĂN:
Các pháp từ bổn lai
Tướng thường tự vắng lặng
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau đặng thành Phật
Ta có sức phương tiện
Mở bày khắp ba thừa
Tất cả các Thế Tôn
Đều nói đạo nhất thừaGIẢNG:
Ở đây Phật nói rõ:
Các pháp từ xưa nay
Tướng thường tự vắng lặngNhư vậy là để nói lên cái gì ? Quý vị nghe có nghe có nghi không ? Trong khi đó mình thấy nó lăng xăng đủ thứ hết, ra ngoài đường là thấy xe chạy, sao vắng lặng được ? Ở đây muốn chỉ cho thật tướng chứ không phải chỉ cho tướng hư dối này. Chính những tướng này là tướng thật tướng thôi, nhưng làm sao thấy được thật tướng này ? Mình thấy tất cả tướng hiện tại đó, nhưng không khởi tâm động niệm phân biệt trên đó, thì nó có động tịnh gì ? Có sanh có diệt gì ? Nói rõ hơn là, thấy tất cả mà không chen cái ngã này vào, dù cho có sanh diệt thì những sanh diệt này cũng như như thôi. Còn mình chen cái tôi vào mới sanh chuyện, chen cái tôi này mới có này có kia, có tôi có anh, có yêu có ghét, thì đó là sanh diệt. Còn thấy biết tất cả không chen cái tôi này vào, thấy nó là nó thôi, nó vắng lặng là như vậy, là không có niệm sanh diệt, nó là nó như vậy thôi, đó là thấy không sanh diệt. Vậy muốn nói lên ngay sanh diệt đó là vô sanh chứ không có gì khác, không phải chạy tìm cái vô sanh ở đâu, Do đó mà:
Phật tử hành đạo rồi
Đời sau đặng thành PhậtThành Phật là thành cái sẵn tự vắng lặng đó, chứ không phải có cái khác. Và tuy mở bày nói ba thừa đó là đạo nhất thừa thôi, cốt yếu là không ngoài đưa người trở về tri kiến Phật, cho nên nói gì thì nói, Ngài cũng nhấn mạnh chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Nay trong đại chúng này
Đều nên trừ nghi lầm
Lời Phật nói không khác
Chỉ một, không hai thừa
GIẢNG:
Phật nhấn mạnh lại khiến cho mọi người tin chắc chắn, ngài nói phương tiện chỉ để đưa về nhất thừa.CHÁNH VĂN:
28 – Vô số kiếp đã qua
Vô lượng Phật diệt độ
Trăm nghìn muôn ức Phật
Số nhiều không lường được
Các thế tôn như thế
Các món duyên ví dụ
Vô số ức phương tiện
Diễn nói các pháp tướng
Các đức thế tôn đó
Đều nói pháp nhất thừa
Độ vô số chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạoGIẢNG:
Bao nhiêu Phật quá khứ ra đời, cũng không ngoài nói về tri kiến Phật, mở sáng tri kiến Phật, mới là căn bản, chứ đừng kẹt trên hình thức sai biệt.
Lại các đại thánh chúa
Biết tất cả thế gian
Trời người loài quần sanh
Thâm tâm chỗ ưa muốn
Bèn dùng phương tiện khác
Giúp bày nghĩa đệ nhấtGIẢNG:
Đây nói các bậc đại thánh chúa là chỉ cho các đức Phật. Ngài biết được thâm tâm của mọi người ưa muốn cái gì đó, tùy chỗ ham muốn đó, ngài dùng phương tiện để giúp bày cho nghĩa đệ nhất này. Những phương tiện ngài đưa ra, là để thầm nhận cái này. Ngay đó, có ai cảm nhận được chỗ phóng quang chưa? Phật phóng quang đó cũng là cái gì? Đó cũng là phương tiện khác, để giúp bài cho nghĩa đệ nhất này, bởi vì nghĩa đệ nhất này không thể diễn tả được, cho nên phóng quang đó là nhắc cho mọi người nhớ ánh sáng đó. Hiểu được ý này, quý vị đọc sách thiền thấy các thiền sư cũng dùng cách này đánh thức mình. Chẳng hạn, các Ngài đưa ngón tay hay cúi đầu hoặc là tằng hắng, lè lưỡi cũng là cái gì? Cũng là những phương tiện khác để giúp bày cho nghĩa đệ nhất này. Đưa ngón tay lên để làm gì? Để đánh thức nghĩa đệ nhất ngay trước mắt đó. Các ngài tằng hắng, lè lưỡi để đánh thức chỗ không thể nói được đó. Mình phải khéo vượt qua phương tiện đó để sống lại chính mình, soi lại mình đó là gốc. Do đó, Ngài Bá Trượng nhắc là: “đọc kinh xem giáo lý phải luôn luôn soi lại mình.”
CHÁNH VĂN:
29 – Nếu có loài chúng sanh
Gặp các Phật quá khứ
Hoặc nghe pháp bố thí
Hoặc trì giới nhẫn nhục,
Tinh tấn, thiền, trí thảy
Các món tu phước huệ
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo.
Nếu người lòng lành dịu
Các chúng sanh như thế
Đều đã thành Phật đạoGIẢNG:
Ở đây nói về các chúng sanh gặp các đức Phật trong quá khứ đã tu hành lục độ, tâm được lành dịu thuần thục thì cũng trở về Phật đạo hết. Nghĩa là lục độ đó cũng là phương tiện khác của đạo Phật, cũng từ nơi tánh giác đó nó thúc đẩy, đánh thức mình trở về thôi. Tu lục độ là tu bố thí, trì giới, nhẫn nhục… như bố thí là buông xả hết cái chấp, bớt hướng về cái ngã này, để sống trở về với tánh giác. Đó cũng là phương tiện để đưa mình tới Phật thừa.
CHÁNH VĂN:
30 – Các Phật diệt độ rồi
Người cúng dường xá lợi
Dựng muôn ức thứ tháp
Vàng, bạc và pha lê
Xà cừ cùng mã não
Ngọc mai khôi, lưu ly
Thanh tịnh rộng nghiêm sức
Trau giồi nơi các tháp
Hoặc có dựng miếu đá
Chiên đàn và trầm thủy
Gõ mật cùng gỗ khác
Gạch ngói bùn đất thải
Hoặc ở trong đồng trống
Chứa đất thành miễu Phật
Nhẫn đến đồng tử giỡn
Nhóm cát thành tháp Phật
Những hạng người như thế
Đều đã thành Phật đạoGIẢNG:
Đây nói về cúng dường tháp miếu xá lợi, dựng miếu đá, v.v… Cho nên những đứa bé chơi giỡn nhóm cát thành miếu, dần dần công đức đầy đủ cũng thành Phật đạo hết.
Vậy có ai bị bỏ xót không? Những đứa bé giỡn chơi nhóm cát thành tháp Phật đó, tại sao nó không làm thứ khác mà làm tháp miếu? Tức mấy đứa bé đó nó cũng có chủng tử này, nó mới hiện ra hình tướng. Như vậy để thấy hạt giống Phật nó hiện ra rồi. Hoặc có những anh chàng say rượu vô chùa lại niệm Phật, tuy say rượu nhưng còn có hạt giống. Những vị như vậy dần dần chứa nhóm công đức đầy đủ cũng đều thành Phật đạo, chỉ là đủ duyên hoặc chưa đủ duyên phát hiện.
CHÁNH VĂN:
31 – Nếu như người vì Phật
Xây dựng các hình tượng
Chạm trổ thành các tướng
Đều đã thành Phật đạo
Hoặc dùng bảy báu là
Thau, đồng bạch, đồng đỏ
Chất nhôm cùng chì kẽm
Sắt, gỗ cùng với bùn
Hoặc dùng keo, sơn, vải
Nghiêm sức làm tượng Phật
Những người như thế đó
Đều đã thành Phật đạo.GIẢNG:
Nghĩa là dùng các hình tượng chạm trổ hoặc những chất kim khí, gỗ hoặc keo, sơn, vải, v.v… để làm thành tượng Phật đó thì cũng đều đầy đủ công đức thành Phật đạo hết.
CHÁNH VĂN:
Vẽ vời làm tượng Phật
Trăm tướng phước trang nghiêm
Tự làm vật bảo người
Đều đã thành Phật đạo
Nhẫn đến đồng tử giởn
Hoặc vỏ cây và bút
Hoặc lấy móng tay mình
Mà vẽ thành tượng Phật
Những hạng người như thế
Lần lần chứa công đức
Đầy đủ tâm đại bi
Đều đã thành Phật đạo
Chỉ dạy các Bồ Tát
Độ thoát vô lượng chúngGIẢNG:
Đây nói lên chạm trổ, vẽ tượng Phật, đó là những cái nhân lành, những hạt giống Phật nó biểu hiện ra, dần dần đầy đủ những công đức rồi cũng đều thành Phật đạo. Đây chú ý, Phật nói rõ: lần lần chứa đầy đủ công đức mới thành Phật đạo chứ không phải liền khi đó! Vậy để thấy rõ nhân quả phải được viên mãn mới thành Phật. Mình vẽ hay chạm trổ hình tượng Phật đó là cái nhân Phật biểu hiện ra, lần lần đầy đủ thì quả được viên mãn. Nhân và quả được viên mãn tương ứng với nhau thì thành Phật.
Cho thấy, đâu đâu cũng để cho mình chứa nhóm hạt giống Phật, không có chỗ nào bỏ qua. Cho nên mình không chấp cái này bỏ cái kia, hay là mình không chấp vào chút ít công phu của mình cho là đủ. Đây Phật nói rõ phải lần lần chứa những công đức đầy đủ tâm đại bi đó, chứ không phải nghe nói dùng cây bút vẽ hình tượng Phật thôi là đủ rồi, là lầm. Đó chỉ là một cái duyên, một cái nhân chứa nhóm hạt giống Phật của mình, mà còn phải bồi dưỡng những công đức cho được đầy đủ viên mãn thì mới thành tựu quả Phật.
CHÁNH VĂN:
32 - Nếu người nơi tháp miếu
Tượng báu và tượng vẽ
Dùng hoa, hương, phan, lọng
Lòng kính mà cúng dường
Hoặc khiến người trỗi nhạc,
Đánh trống, thổi sừng ốc
Tiêu, địch, cầm, không hầu
Tỳ bà, chụp chả đồng
Các tiếng hay như thế
Đem dùng cúng dường hết
Hoặc người lòng vui mừng
Ca ngâm khen đức Phật
Nhẫn đến một tiếng nhỏ
Đều đã thành Phật đạoGIẢNG:
Đây Phật nói về cúng dường hương hoa, ca nhạc, tức là dùng hoa, hương, ca nhạc để cúng dường cho Phật, cho đến một tiếng khen ngợi nhỏ thôi, cũng đều thành Phật đạo hết. Như vậy, trong mọi sinh hoạt hàng ngày, mình đang sống trong ánh sáng Phật, không rời Phật thật đó một giây phút nào hết, nhưng mình lại ít để ý, tự quên, rồi lang thang chạy theo trần cảnh trong sáu trần để chịu luân chuyển. Ở đây, từ chỗ sống hàng ngày, khéo tin nhận trở về là mình đang đi trên con đường giác ngộ. Vậy, thành Phật không phải là chuyện của ai khác, mà đây là việc bổn phận của mỗi người. Coi như không ai thiếu hết, chỉ mình khéo tin nhận thôi, khéo tin nhận nơi tâm của mình, đó chính là Phật thật.
CHÁNH VĂN:
Nếu người lòng tán loạn
Nhẫn đến dùng một bông
Cúng dường nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc có người lễ lạy
Hoặc lại chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo vô thượng
Rộng độ chúng vô số
Vào vô dư niết bàn
Như củi hết lửa tắtGIẢNG:
Những người lòng tán loạn, chỉ dùng một bông cúng dường tượng vẽ, lần lần gặp gỡ các đức Phật, cũng đều thành tựu được đạo vô thượng, cho đến hơi cúi đầu, giơ tay thôi, không có chỗ nào thiếu vắng. Đây quý vị đọc thấy rõ:
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo vô thượngThành đó là thành tự thân thôi chứ không có đạo gì ở bên ngoài mà thành. Đó là mình sống trở về với mình, cho nên những cái này là gợi cho mình sống trở lại thôi. Thành đạo vô thượng rồi thì độ vô số chúng và vô dư niết bàn, như củi hết lửa tắt.
Củi hết lửa tắt là nghiệp hết, không còn có tạo tác, không còn có chỗ để dẫn mình đi luân hồi, nên gọi là nhập niết bàn. Đây nói như củi hết lửa tắt vậy thôi chứ không nói ra sao, có người nghe nói vậy không biết nhập niết bàn ra sao, rồi suy nghĩ xem nhập chỗ nào, càng sai thêm. Nhập niết bàn là dứt nghiệp sanh tử thôi, ngay đó thì lặng lẽ, chứ không nói nhập thế nào, nhập đi đâu, còn nghĩ tới đi đâu là nghĩ tới sanh tử.
CHÁNH VĂN:
Nếu người lòng tán loạn
Vào nơi trong tháp miếu
Một xưng Nam mô Phật
Đều đã thành Phật đạo
Nơi các Phật quá khứ
Tại thế hoặc diệt độ
Có người nghe pháp này
Đều đã thành Phật đạoGIẢNG:
Vào trong tháp xưng Nam mô Phật thôi cũng không mất nhân đó, như vậy để thấy rõ, không có chỗ nào mà nó thiếu hế. Bao nhiêu phương tiện, bao nhiêu duyên lành đều là gợi lại cái sẵn có nơi mình, mà mình không dám nhận. Do đó, cúng dường hay làm các công đức khác cũng đều soi lại nó, đó mới là Phật chính.
Tóm kết lại đoạn này, là nói tất cả các đức Phật trong thời quá khứ đã khơi dậy cho những người đó cũng thành Phật đạo. Quý vị nghe như vậy còn mình thì sao ? Các vị có khen một tiếng nhỏ, chỉ chấp tay, hơi cúi đầu thôi, rốt ráo rồi cũng thành Phật Đạo hết. Mình ở đây có ai thành chưa ? Đó là khiến cho mọi người có đủ niềm tin nơi chính mình, ai ai cũng đều có hạt giống Phật đó. Tin nhận và sống trở về cái đó thì ai cũng đủ khả năng để giác ngộ. Nếu giác ngộ mà chưa đầy đủ thì mình từ phàm tiến lên bậc Hiền, rồi dần dần lên bậc Thánh, còn sống trọn vẹn thì thành một vị Phật. Vậy là ai ai cũng đều có những cơ hội để mình gặp gỡ lại ông Phật đó hết, nhưng mình đã bỏ qua rất nhiều cơi hội. Đưa ngón tay trước tượng Phật, thì cái gì thúc đẩy đưa ngón tay lên ? Ngay đó, nếu mình nhớ trở lại, thì mình có cơ hội sống trở về rồi.
CHÁNH VĂN:34- Các Thế Tôn vị lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như Lai đó
Cùng phương tiện nói pháp
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Vào trí vô lậu Phật.GIẢNG:
Các đức Phật Thế Tôn vị lại nói pháp cũng đều đưa người về trí tuệ vô lậu thôi. Nhưng quý vị biết Phật vị lai đó là ai không ?- Đó là những vị Phật đang ngồi nghe pháp này.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành Phật
Nếu có người nghe pháp thì không ai mà không thành Phật cả. Vậy quý vị đang nghe pháp đây thì không phải là Phật vị lai sao ?
Các Phật vốn thệ nguyện
Ta tu hành Phật đạo
Khắp muốn cho chúng sanh
Cũng đồng đặng đạo này
Tức muốn cho mọi người đều thể nhập vào tri kiến Phật thôi.Các Phật đời vị lai
Dầu nói trăm ngàn ức
Vô số các pháp môn
Kỳ thiệt vì nhất thừa
Ngài nhấn mạnh lại là tất cả cũng đưa về nhất thừa thôi.
Các Phật lưỡng túc tôn
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật theo duyên sanh
Cho nên nói nhất thừaGIẢNG:
Đây là điểm cần phải chú ý !
Lưỡng túc tôn: là đầy đủ cả hai: phước, trí trang nghiêm, tức hai điều phúc đức và trí tuệ. Một đức Phật là phải đầy đủ hai cái đó, còn thiếu một là chưa viên mãn và các Phật đó:
Biết pháp thường không tánh
Giống Phật theo duyên sanh
Đó là sao ? Giống Phật theo duyên sanh là nhờ duyên mà nó sanh, như vậy thành ra duyên sanh ra giống Phật sao ? Ở đây phải hiểu cho thật kỹ vì đây là lý sâu xa !
Giống Phật theo duyên sanh: cho thấy ở đây ai cũng có hạt giống Phật đó hết, nhưng mà theo duyên sanh tức là có duyên được gặp gỡ Phật, Bồ tát, Tổ, những vị Thiện tri thức nhắc lại, gợi lại mình, mình liền nhớ ra, sực tỉnh lại thì đó gọi là theo duyên sanh, chứ không phải nói cái duyên nó sanh ra hạt giống Phật.
Ngài nói các pháp không tánh, là - Không thật nhiễm hay là tịnh, không thật cố định là phàm hay là thánh, là chúng sanh hay là Phật. Mê thì gọi chúng sanh, giác thì gọi là Phật, không cố định là chúng sanh là chúng sanh thật, không cố định Phật là Phật thật. Nếu Phật cố định là Phật rồi thì mình không mong gì thành Phật được. Như vậy mê cũng không cố định là mê, ngộ thì hết mê. Vậy ngộ cũng không thật ngộ nữa, không thật có cái ngộ riêng. Do đó, nếu mình theo duyên nhiễm thì đi vào sanh tử, đó gọi là mê, còn theo duyên tịnh là trở về Niết bàn.
Vậy ngay nơi tâm thể chính mình, cái đó nó không có nhiễm-tịnh, sanh diệt gì. Khi đầy đủ nhân duyên tương ưng thì mình liền giác ngộ hạt giống Phật nơi mình, tức là tánh giác sẵn có chứ không phải cầu bên ngoài. Nó có sẵn đó, khi gặp duyên đầy đủ gợi lại thì mình nhớ lại, nó hiện ra, còn thiếu duyên thì nó ẩn.
Câu chuyện Ngài Nam Tuyền cúng trai Mã Tổ:Một hôm Ngài cúng kỵ Mã Tổ, Ngài thử trong chúng bèn hỏi:
- Hôm nay cúng trai Mã Tổ, vậy Mã Tổ có đến hay không ?
Trong chúng không ai đáp được, vì Mã Tổ đã tịch rồi, bây giờ cúng cơm hỏi Ngài có đến không. Nói sao đây ? Lúc đó Ngài Lương Giới bước ra thưa rằng:
- Đợi có bạn liền đến
Ngay đó Ngài Nam Tuyền liền khen:
- Chú nhỏ này tuy hậu sanh cũng khéo dũa gọt.
Hỏi cúng trai Mã Tổ, Mã Tổ có đến hay không, vậy đó là Mã Tổ gì ? – Muốn đến pháp thân chân thật sẵn có nơi mình, nó đâu có hình tướng gì. Cũng giống như Mã Tổ tịch rồi, để chỉ ra cái không hình tướng thì đâu có đến, đâu có đi. Không đến không đi, thì cúng cho ai đây ? Cho nên mọi người không ai thấy được ý đó. Ngài Lương Giới hiểu rõ được pháp thân chân thật đó nên Ngài nói “ Đợi có bạn liền đến”. Có bạn là đủ duyên, đủ duyên thì liền đến. Pháp thân của mình không có hình tướng gì, nhưng đủ duyên thì nó liền hiện. Mình tu hành, khi công phu tương ứng, hay được các bậc Thiện tri thức đánh thức, gợi lại, đủ duyên mình liền cảm nhận ngay. Cảm nhận tức là đến. Giống như đây Phật nói, các hạt giống Phật theo duyên sanh là như vậy.
CHÁNH VĂN:
Pháp đó trụ ngôi pháp
Tướng thế gian thường còn
Nơi đạo tràng biết rồi
Đức Phật phương tiện nóiGIẢNG:
Chỗ này mỗi người phải nghiệm cho kỹ, pháp đó là pháp gì mà nó trụ nơi ngôi pháp, mà tướng thế gian thường còn ? Nói vậy có trái với hiện tại không? Thế gian là sanh diệt, ở đây Ngài nói “tướng thế gian thường còn !” Muốn thấy được tướng thế gian thường còn này thì phải rõ được pháp đó, mà pháp đó là pháp gì ?- Đó là chỉ cho pháp thể vô tướng, hay gọi là tri kiến Phật. Nó ở ngay ngôi pháp tức là sao ? Đây muốn cho mình thấy rõ, sum la vạn tượng đầy dẫy nó đang sanh diệt lăng xăng chỉ là trên giả tướng thôi, còn trên pháp thể vô tướng nó vẫn hằng bất động.
Nghĩa là mình thấy tất cả mà không chen cái ngã vào, thì nó là nó thôi, nên pháp đó trụ ngôi pháp. Đây là cái nào mình trả về cái đó, đừng sanh thêm tâm phân biệt vào đó, như Ngài vân Môn nói:
- Cây gậy chỉ là cây gậy thôi.
Còn mình thêm “ cây gậy của tôi”, mới sanh chuyện! Cây gậy là cây gậy, có sanh diệt gì đâu. Như vậy nó trụ ngay nơi nó thôi, mình thấy cây gậy thì cái thấy nó trụ nơi cái thấy thôi, đừng có dẫm chân vào cái khác, ngay đó mình rõ được thế gian thường còn. Đây cho thấy ngay nơi tướng sanh diệt hiện tại, nó ngầm đầy đủ cái thể bất sanh bất diệt trong đó, nếu mình đừng được niệm phân biệt thì cảm nhận ngay cái chân thật hiện hữu. Kinh Hoa Nghiêm có bài kệ”
Nhất thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược nhơn như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.Nghĩa là:
Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Người hiểu được như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nếu thấy tất cả các pháp không sanh diệt, là mình sống trở về với tâm bất sanh bất diệt, thì ngay đó Phật hiện tiền. Còn mình theo tâm sanh diệt để sống, đem tâm sanh diệt nhìn tất cả, thì tất cả đều sanh diệt. Đó là nói về các vị Phật vị lai cũng nhắm thẳng vào việc chính đó. Bây giờ tới Phật hiện tại.
CHÁNH VĂN:Hiện tại mười phương Phật
Của trời, người cúng dường
Số nhiều như hằng sa
Hiện ra nơi thế gian
Vì an ổn chúng sanh
Cũng nói pháp như thế
Biết vắng bặt thứ nhất
Bởi dùng sức phương tiện
Dầu bày các món đạo
Kỳ thiệt vì Phật thừaGIẢNG:
Ở đây cần chú ý, Phật hiện ra đời cũng vì an ổn chúng sanh, nên nói pháp như thế thôi. Các Ngài biết vắng bặt thứ nhất, tức là các ngài biết, các pháp vốn là vắng bặt, nó bặt hết các nói năng suy nghĩ, vượt ngoài ngôn ngữ phân biệt, không thể bàn luận, cũng không thể dùng cái tình thức này để hiểu được. Nhưng chính vì không thể nói được, nên các Ngài phải dùng phương tiện để diễn bày, sự thật cũng vì một Phật thừa này thôi. Tùy theo tâm hạnh chúng sanh có sai biệt, nên các Ngài dùng phương tiện nói ra những phần sai biệt, hoặc nói quả này quả kia, nhưng cốt để đưa mọi người trở về tánh giác, tức một Phật thừa đây.
CHÁNH VĂN:
Biết các hạnh chúng sanh
Thâm tâm có nghĩ nhớ
Nghiệp quen từ quá khứ
Tánh dục, sức tinh tấn
Và các căn lợi độn
Dùng các món nhân duyên
Thí dụ cùng lời lẽ
Tùy cơ phương tiện nóiGIẢNG:
Phật biết chúng sanh có các nghiệp từ quá khứ, đã nghĩ nhớ cái gì, cho nên Ngài theo chỗ nghĩ nhớ đó mà dùng phương tiện để nói, để đánh thức trở lại. Bởi khi có nghĩ nhớ thì sao ? Nghĩ nhớ cái này, nghĩ nhớ cái kia tức quên mất cái hiện tiền, nên các Ngài mới phương tiện đánh thức mình trở lại.
CHÁNH VĂN:35 - Ta nay cũng như vậy
Vì an ổn chúng sanh
Dùng các món pháp môn
Rao bày nơi Phật đạo
Ta dùng sức trí tuệ
Rõ tánh dục chúng sanh
Phương tiện nói các pháp
Đều khiến đặng vui mừng
GIẢNG:Phật nói rõ, Ngài dùng sức trí huệ nên biết rõ tánh dục tức là lòng ham muốn của chúng sanh, mà dùng các phương tiện nói pháp khiến cho họ được vui mừng. Thí dụ như có người chưa chịu thành Phật, chưa chịu giải thoát, chỉ muốn đời sau sinh ra được sung sướng thôi, hoặc được được hưởng an vui, Phật nói thành Phật thì làm sao họ chịu, vì vậy Phật nói phải dùng phương tiện bảo họ là ráng tu tạo công đức, tu phước lành, giữ năm giới cho kỹ,thì đời sau sinh ra được tốt đẹp hoặc tu thập thiện đời sau sanh ra được lên cõi trời, khỏi rơi vào các đường dữ. Nói như vậy, đó là Phật cũng phương tiện thôi, để cho họ bắt đầu trở về dần dần, mà chưa thể nói thẳng được thành Phật.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất nên biết
Ta dùng mắt Phật xem
Thấy sáu đường chúng sanh
Nghèo cùng không phước huệ
Vào đường hẻm sanh tử
Khổ nối luôn không dứt
Sâu tham nơi ngũ dục
Như trâu “mao” mến đuôi
Do tham ái tự che
Đui mù không thấy biết
Chẳng cầu Phật thế lớn
Cùng pháp dứt sự khổ
Sâu vào các tà kiến
Lấy khổ muốn bỏ khổ
Phật vì chúng sanh bày
Mà sanh lòng đại biGIẢNG:
Phật dùng mắt Phật đó mà xem:
Thấy sáu đường chúng sanh
Nghèo cùng không phước huệ
Nghèo đây là nghèo gì ?- Nghèo phước, nghèo tuệ. Chúng sanh quá nghèo về phước đức và trì tuệ, nên mới chìm sâu trong vô minh. Chính chìm sâu trong vô minh mà luôn luôn tạo nghiệp, đi vào trong các khổ, giống như con trâu mao nó mến cái đuôi của nó. Người do tham ái nó tự che, đui mù, không có trí tuệ, nên không cầu Phật thế lớn để đi ra khỏi các khổ não đó.
Trâu mão là chỉ cho con bò rừng, lông đuôi của nó rất là dài, nó rất yêu quí giữ cái lông đuôi đó, khi đi nếu có cây gì móc vào thì nó liền dừng lại, không dám động đậy gì hết. Nhưng vì lông dài và đẹp nên cũng hay bị người bắt để lấy lông đuôi làm chui cờ, dải mũ .., vì tiếc giữ cái lông đuôi đó mà chịu khổ. Cũng giống mình đây, vì tham ái bám vào cái ngã này rồi cũng đi vào các khổ, bị những cái tham sân si nó dẫn mình đi vào trong sanh tử. Con bò rừng này bị người bắt, còn mình thì ai bắt đây ?- Bị sanh tử bắt vào trong luân hồi chịu khổ. Chính vì đó mà Phật gọi là đui mù không thấy biết.
Mình đây hai mắt mở sáng, nhưng ngài cũng nói là đui mù. Đui mù đây là thiếu trí tuệ, cho nên mở mắt mà vẫn đui là như vậy. Chính mình vì tham ái, yêu tiếc cái thân này, nên nó dẫn mình đi luân hồi hoài hoài không dứt. Thí dụ khi sắp chết, thân này nó sắp mất rồi, thì sao đây ? Bỏ không đành, vì mình đã sống với nó vài chục năm, bây giờ bỏ nó đâu đành. Cứ quyến luyến, tiếc không thể bỏ nó được, nhưng bất ngờ nó rã thì liền chụp cái khác để thế vào, có phước thì chụp được cái tốt tốt, nếu thiếu phước lỡ chụp vào có hai sừng thì mệt, vì lúc đó đụng cái gì chụp cái nấy thôi, đâu có lựa chọn được.
Chỉ người có trí tuệ, có đạo lực mạnh làm chủ được, thì mới có thể lựa chọn. Cho nên Phật mới sinh lòng đại bi mà giáo hóa để đánh thức mình trở lại.
CHÁNH VĂN:36 - Xưa, ta ngồi đạo tràng
Xem cây cùng kinh hành
Trong hai mươi mốt ngày
Suy nghĩ việt như vầy:
Đây Phật thuật lại, khi Ngài thành đạo, Ngài đi kinh hành, trong hai mươi mốt ngày đó Ngài suy nghĩ:Trí huệ của ta đặng
Vi diệu rất thứ nhứt
Chúng sanh các căn chậm
Tham vui si làm mù
Các hạng người như thế
Làm sao mà độ đặng ?GIẢNG:
Ngài thấy rằng, trí tuệ mà Ngài chứng được đó, nó quá vi diệu, khó nói, khó diễn tả được, trong khi đó chúng sanh căn chậm lụt, bi tham vui si mê che lấn nên bị mù. Tham vui mà si là sao ? – Tham vui theo ngũ dục, chìu theo cái ngã này, nên không thấy được lẽ thật, vọng chấp vào đó là si, hạng người như vậy, làm sao mà độ đặng đây, do đó Ngài muốn nhập Niết Bàn.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ các Phạm Vương
Cùng các trời Đế Thích
Bốn thiên vương hộ đời
Và trời Đại tự tại
Cùng các thiên chúng khác
Trăm nghìn ức quyến thuộc
Chắp tay cung kính lễ
Thỉnh ta chuyển pháp luânGIẢNG:
Đến đây các vị Trời Đế Thích , Phạm Vương, Tứ Thiên Vương, Trời Đại tự tại, cùng các quyến thuộc đó, cùng đến để thỉnh Ngài chuyển pháp luân.
CHÁNH VĂN:Ta liền tự suy nghĩ
Nếu chỉ khen Phật thừa
Chúng sanh chìm nơi khổ
Không thể tin pháp đó
Do phá pháp không tin
Rớt trong ba đường dữ
Ta thà không nói pháp
Mau vào cõi Niết Bàn
Liền nhớ Phật quá khứ
Thật hành sức phương tiện
Ta nay chứng đặng đạo
Cũng nên nói ba thừaGIẢNG:
Ngài thương xót, cho nên phương tiện nói. Như vậy ngay buổi đầu Phật đã thổ lộ cho mình thấy rõ, chỗ chân thật đó vượt ngoài ngôn ngữ, không thể diễn tả được, không thể nói bày được. Nhưng giờ đây, từ chỗ không thể nói đó, mới phương tiện nói ra, vậy có nói ra đều là phương tiện cả, mình chớ chấp theo phương tiện đó, mà phải thấy tột ý ban đầu kìa, ý sâu xa đó ! Chỗ này là chỗ Ngài ngầm đánh thức mình, phải thầm nhận ý ngoài lời.
CHÁNH VĂN:
37 - Lúc ta nghĩ thế đó
Mười phương Phật đều hiện
Tiếng phạm an ủi ta
Hay thay! Đức Thích Ca
Bực đạo sư thứ nhứt
Đặng pháp vô thượng ấy
Tùy theo tất cả Phật
Mà dùng sức phương tiện
Chúng ta cũng đều đặng
Pháp tối diệu thứ nhứt
Vì các loài chúng sanh
Phân biệt nói ba thừa
GIẢNG:Lúc đó thì mười phương, các đức Phật hiện ra khen ngợi ngài: hay thay! Đức Thích Ca, ngài đã đặng pháp vô thượng, mà các đức Phật đều chứng đặng như vậy, pháp đó là pháp tối diệu thứ nhất, nhưng vì các loài chúng sanh mới phân biệt nói ra ba thừa, nghĩa là, các pháp chứng nghiệm của các Ngài đó rất là khó nghĩ bàn được, chỉ tự thầm chứng thôi, nên mình vừa nghĩ đến nó là sai rồi. Bởi vậy trong nhà thiền hỏi: “thế nào là đại ý của Phật pháp?” Bị đánh liền. Muốn hiểu nó tức là biến nó thành ra cái bị hiểu rồi, nên các ngài chỉ đánh thôi, đánh cho mình bật suy nghĩ để tự thầm nhận, nhưng ở đây vì:
CHÁNH VĂN:
Trí kém ưa pháp nhỏ
Chẳng tự tin thành Phật
Cho nên dùng phương tiện
Phân biệt nói các quả
Dầu lại nói ba thừa
Chỉ vì dạy Bồ Tát
GIẢNG:Do mọi người trí còn kém nên ưa pháp nhỏ, ưa pháp nhỏ là sao? Cũng như mình nói tu giải thoát thành Phật chưa chịu, phải từ từ có được chút chút gì đó thì mình mới chịu. Ví dụ bảo: “tu phải tu rốt ráo viên mãn trở về chính mình thôi không được gì hết”. Thấy cũng hơi buồn. Tu năm ba năm thì chứng được cái quả gì đó, hoặc lên được bức tranh thứ ba thứ tư nào đó thì thấy an ủi, đó là ưa pháp nhỏ. Cho nên ở đây ngài nói rằng:
- Chẳng tự tin thành Phật.
Bởi vậy các ngài nói các quả, có quả Thanh Văn, Duyên Giác, Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm… nhưng sự thật chỉ một tâm này thôi, chớ có gì khác.
Thí dụ tu chứng Tu đà hoàn, thì Tu đà hoàn là ai? Tư đà hàm là ai? Có phải người nào khác không? Cũng một tâm này thôi, do phiền não của tâm mình nó bớt được bao nhiêu. Nếu bớt được một phần là chứng tu đà hoàn, bớt phần nữa thì chứng tư đà hoàn, bớt phần nữa chứng A Na Hàm, còn phiền não hết thì chứng A La Hán, đó là phương tiện chứ không phải thật. Cho nên ngài nói:
Dẫu lại nói ba thừa
Chỉ vì dạy Bồ TátDầu ngài nói ba thừa cũng chỉ dạy Bồ Tát thôi.
CHÁNH VĂN:
38 – Xá Lợi Phất nên biết!
Ta nghe các đức Phật
Tiếng nhiệm màu rất sạch
Xưng: “Nam mô chư Phật!”
Ta lại nghĩ thế này
Ta ra đời trược ác
Như các Phật đã nói
Ta cũng thuận làm theo
GIẢNG:Khi Ngài nghe chư Phật nói như vậy, Ngài nghĩ lại, Ngài ra đời trong đời ác trược này, cho nên Ngài cũng phải tùy thuận theo các Đức Phật đó.
CHÁNH VĂN:
Suy nghĩ việc đó rồi
Liền đến thành Ba Nại
Các pháp tướng tịch diệt
Không thể dùng lời bày
Bèn dùng sức phương tiện
Vì năm tỳ kheo nói.
GIẢNG:Từ chỗ không nói đó, ngài phải dùng phương tiện nói ra, nên mới vì năm tỳ kheo ở vườn Lộc Dã mà nói pháp.
CHÁNH VĂN:
Đó gọi chuyển pháp luân
Bèn có tiếng Niết Bàn
Cùng với A La Hán
Tên pháp, tăng sai khác.GIẢNG:
Từ đây mới có tên Niết Bàn, có tiếng A La Hán, có tiếng Pháp Tăng. Vậy Niết Bàn, A La Hán, Phật, Pháp, Tăng, những tên này là gì? Từ chỗ không tên mà tạm bày có tên. Ban đầu không thể nói, rồi đến vườn Lộc Dã Phật nói pháp Tứ Đế, mới có tên Niết Bàn. Nói Tứ Đế, khi dứt sạch được phiền não chứng được Niết Bàn có tên A La Hán, có được năm vị, tức năm vị đó là có tăng, gồm đủ Phật – Pháp – Tăng – Tam Bảo. Đó cũng là cái tên, mình phải thấy lại các gốc, chứ đừng mắc kẹt trên tên đó. Nghĩa là Phật hay Pháp hay Tăng đó là gốc từ đâu? – Phật là tâm sáng suốt, Pháp là tâm chân thật, Tăng là tâm thanh tịnh chới gì! Đó là cái chân thật nơi mình. Còn Phật, Pháp, Tăng, tên bên ngoài đó là những tên phương tiện.
CHÁNH VĂN:
Từ kiếp xa vẫn lại
Khen bày pháp Niết Bàn
Dứt hẳn khổ sống chết
Ta thường nói như thế
Do đó, ngài khen pháp Niết Bàn để giải thoát sanh tử.CHÁNH VĂN:
39 - Xá Lợi Phất phải biết
Ta thấy các Phật tử
Chí quyết cầu Phật đạo
Vô lượng nghìn vuông ức
Đều dùng lòng cung kính
Đồng đi đến chỗ Phật
Từng đã theo các Phật
Nghe nói pháp phương tiện
Ta liền nghĩ thế này:
Sở dĩ Phật ra đời
Để vì nói Phật huệ
Nay chính đã đúng giờGIẢNG:
Đây là Phật thuật lại, ngài thấy bao nhiêu người chỉ quyết cầu Phật đạo đó, đều dùng lòng cung kính đi đến chỗ Phật nghe pháp phương tiện từ đó tới nay, đến đây là đúng giờ rồi, đến đây tâm tâm được tương ưng. Như vậy, khi đúng thời, đúng lúc, hai bên tương ưng nhau, nói ra, gợi lại, thì mình liền cảm thông, cái này không phải do một bậc gì, hay do quyền lực tối cao đem đến cho mình mà nói sẵn nơi mình thôi, nhưng mình chưa nhận được, bởi vì chưa đúng thời, và mình chưa đủ lòng tin thuần thục, cho nên Phật phải chờ đúng giờ là như vậy.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất phải biết!
Người căn chậm trí nhỏ
Kẻ chấp tướng kiêu mạn
Chẳng thể tin pháp nàyGIẢNG:
Kẻ chấp tướng, kiêu mạn thì không thể tin nổi pháp này. Bởi vì sao? – Kiêu mạn, chấp tướng là muốn đưa nó lên thôi, thấy giả tướng này bám vào nó, đâu tin được chân thật kia, cho nên khó tin.
CHÁNH VĂN:
Nay ta vui vô úy
Ở trong hàng Bồ Tát
Chính bỏ ngay phương tiện
Chỉ nói đạo vô thượng
Bồ Tát nghe pháp đó
Đều đã trừ lưới nghi
Nghìn hai trăm La Hán
Cũng đều sẽ thành PhậtGIẢNG:
Đến đây là đã tự tin mình thành Phật rồi, trước là Thanh Văn nay thành Bồ Tát, vậy quý vị thấy sao? Trước là Thanh Văn tin được rồi thì đến: đây là Bồ Tát, như vậy các pháp thường không tánh rõ ràng, cũng như mình ở đây, tin được cái này thì mình chuyển phàm tiến lên thánh và
Nghìn hai trăm La Hán
Cũng đều sẽ thành PhậtLa Hán này cũng thành Phật hết, đâu phải A La Hán hoài
CHÁNH VĂN:
Như nghi thức nói pháp
Của các Phật ba đời
Ta nay cũng như vậy
Nói pháp không phân biệt.GIẢNG:
Phật kết lại, ngài cũng tuân theo nghi thức của chư Phật đó mà nói pháp, phương tiện nói thành ba thừa, nhưng rốt lại cũng đưa vào nhất thừa.
CHÁNH VĂN:
Các đức Phật ra đời
Lâu xa khó gặp gỡ
Chính sử hiện ra đời
Nói pháp này khó hơn
Vô lượng vô số kiếp
Nghe pháp này cũng khó
Hay nghe được pháp này
Người đó cũng lại khóGIẢNG:
Ở đây, khiến mình có thêm niềm tin, các đức Phật đó ra đời khó gặp gỡ rồi, Phật ra đời nói pháp này càng khó hơn, mình nghe được pháp này càng khó hơn nữa. Nghe đây có hai phần, nghe bằng lỗ tai là một, còn nghe thấu qua lỗ tai nữa. Hay nghe được pháp này tức tin nhận sâu xa tự tâm mình đó, thì người đó thật là ít có nữa.
CHÁNH VĂN:
Thí như hoa linh hội
Tất cả đều ưa mến
Ít có trong trời người
Lâu lâu một lần trổ.GIẢNG:
Đây là ngài nhắc nhở, mình được cái duyên lành đó không phải là dễ dàng, cho nên chớ bỏ qua cơ hội, nghe được, tin nhận được thì tin liền. Bởi vì từ vô lượng kiếp mình trầm luân trong sanh tử này, bây giờ chợt nghe được điều này, tức là hạt giống này đang sống dậy, không chịu tin nhận thì đợi gì nữa? Nếu tin nhận được cái này, còn gì vui sướng hơn! Cho nên ngài nói ít có.
CHÁNH VĂN:
Người nghe pháp mừng khen
Nhẫn đến nói một lời
Thời là đã cúng dường
Tất cả Phật ba đời.
GIẢNG:Nghe pháp tin nhận, mừng khen, thì ngài nói đó là cúng dường ba đời chư Phật rồi, quý vị cúng dường như thế này thì khỏe hơn đi mua đồ cúng dường không? Ở đây Phật muốn nói rằng: mình cúng dường Phật là tin nhận trở lại mình, nghe lời Phật ứng dụng thực hành sống trở về, đó mới là cúng dường chân thật. Còn cúng dường bằng hương hoa là để mình gieo duyên lành sống trở lại cái này.
Người đó rất ít có
Hơn cả hơn cả hoa Ưu Đàm
Các ông chớ có nghi
Ta là vua các pháp
Khắp bảo các đại chúng
Chỉ dùng đạo nhất thừa
Dạy bảo các Bồ Tát
Không Thanh Văn đệ tửGIẢNG:
Phật ân cần dặn đi dặn lại, quả là hết tình vì mình rồi đó. Ngài chỉ dùng đạo Nhất thừa để dạy thôi, chứ không Thanh Văn đệ tử. Như vậy ngài bác bỏ hàng Thanh Văn đệ tử hay sao? Đây nói Thanh Văn đệ tử đó, cũng là dẫn dắt trở về thôi, thật sự ý ngài không phải nằm chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất các ông!
Thanh Văn và Bồ Tát
Phải biết pháp màu này
Bí yếu của các Phật.
GIẢNG:Ngài nhấn mạnh, pháp này là bí yếu của chư Phật, bí yếu chỗ nào? – Đó là chỗ sống của chư Phật, chư Phật đều gìn giữ chỗ đó, gặp người tương ưng thì mới thâm trao cho, đó là chỗ sống ngay nơi nội tâm của mọi người, mà mọi người không hay biết. Nếu sống rời cái này tức là sao? – Tức là mê. Nhưng chỗ đó không phải riêng của chư Phật mà mọi người ai cũng đều có; mình phải dừng cái niệm lăng xăng, tìm cầu bên ngoài; thầm nhận trở lại thôi. Vì đó là chỗ khó diễn tả, cho nên gọi là chỗ bí yếu.
CHÁNH VĂN:
Bởi đời ác năm trược
Chỉ tham ưa các dục
Những chúng sanh như thế
Trọn không cầu Phật đạo.Theo các dục nên không thành giác ngộ.
Người ác đời sẽ tới
Nghe Phật nói nhất thừa
Mê lầm không tin nhận
Phá pháp đọa đường dữ.
Người tàm quý trong sạch
Quyết chí cầu Phật đạoNgười có lòng tàm quý trong sạch đó, thì quyết chí cầu đến Phật đạo tức cầu đến giác ngộ
Nên vì bọn người ấy
Rộng khen đạo nhất thừa
Xá Lợi Phất nên biết
Pháp các Phật như thế
Dùng muôn ức phương tiên
Tùy thời nghi nói pháp
Người chẳng học tập tu
Không hiểu đạo pháp này.GIẢNG:
Đây phải nhớ, pháp mà các Phật tùy nghi nói ra, người không có học tập tu, thì không hiểu đặng pháp này, vì sao hỏi? – Vì pháp này không phải pháp để nói suông trên văn tự, trên ngôn ngữ, mà phải thể nghiệm nơi chính mình mới có thể hiểu được pháp này.
CHÁNH VĂN:
Các ông đã biết rõ
Phật là thầy trong đời,
Việc phương tiện tùy nghi
Không còn lại nghi lầm
Lòng sanh rất vui mừng
Tự biết sẽ thành PhậtGIẢNG:
Rất vui mừng là sao? – Tự biết sẽ thành Phật, chứ không phải phỏng đoán lờ mờ, mà chắc chắn sẽ thành Phật, nói nhiều rồi cũng quy về chỗ tự biết thôi. Đó là điều mà mỗi người phải tự kiểm lại, từ trước đến nay Phật nói nhiều phương tiện rồi cũng để nhấn mạnh lại chỗ sống trở về tánh giác của mình, rốt cuộc là tự thầm nhận nơi chính mình. Mà cái thành Phật ở đây là thầm nhận lại cái sẵn có nơi mình thôi, chỗ này mình cảm nhận được rõ ràng, chứ không phải chỗ này do chư Phật, Chư Tổ bên ngoài nói, không thể nghiệm được, đó cũng thiếu thực tế. Mà đây mình tự biết được rõ ràng, đó là lẽ thật trăm phần trăm.
-
4. Phẩm Thí dụ
CHÁNH VĂN:
- Lúc bấy giờ Ngài Xá Lợi Phất hớn hở vui mừng, liền đứng dậy chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Đức Phật mà bạch Phật rằng: "Nay con theo đức Thế Tôn nghe đặng tiếng pháp này, trong lòng hớn hở đặng điều chưa từng có. Vì sao? Con xưa theo Phật nghe pháp như thế này, thấy các vị Bồ Tát được thọ ký thành Phật, mà chúng con chẳng được dự việc đó, tự rất cảm thương mất vô lượng tri kiến của Như Lai.
Thế Tôn! Con thường khi một mình ở dưới cây trong núi rừng, hoặc ngồi, hoặc đi kinh hành, hằng nghĩ như vầy: Chúng ta đồng vào pháp tánh, tại sao đức Như Lai lại dùng pháp tiểu thừa mà tế độ cho?
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ bốn bộ chúng: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Cận sự nam, Cận sự nữ và cả đại chúng: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà…..thấy Xá Lợi Phất ở trước Phật lãnh lấy lời dự ghi sẽ thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, lòng rất vui mừng hớn hở vô lượng. Mỗi người đều cởi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật.
GIẢNG:
Đây là nói về trong khi Ngài Xá Lợi Phất ở trước Phật, được lãnh lời thọ ký thành Phật, ai nấy cũng vui mừng hớn hở đều cổi y trên của mình đang đắp để cúng dường Phật. Vì sao mà các vị đó lại vui mừng như vậy? - Một là thấy Ngài Xá Lợi Phất được thọ ký là biết sau khi Phật diệt độ sẽ có người nối tiếp Phật, hai là Ngài Xá Lợi Phất được thọ ký rồi thì hy vọng mình cũng có phần. Còn nếu nói theo tâm trạng phàm phu thấy vậy thì có khi không được vui mừng.
Thí dụ: Như bây giờ ở trong một pháp hội có nhiều vị đệ tử lớn, nhưng thấy vị thầy truyền cho người kia còn mình không được truyền, thì mình lúc đó thế nào? Có sanh tâm đố kỵ không? Bởi vậy trong Pháp Bảo Đàn thấy Lục Tổ được truyền y thì sao? - Thì bị người đuổi theo, giành y bát Đó là nói về những người còn tâm phàm phu, thấy người khác được còn mình không được thì có tâm đố kỵ ganh ghét. Nhưng ở pháp hội này, các vị ở đây là những bậc hiền thánh đã thấy được ý sâu trong đó nên khi thấy Ngài Xá Lợi Phất được thọ ký thì ai cũng vui mừng hớn hở, mỗi người đều tự cởi y trên của mình dâng cúng Phật. Cởi y trên đó là chỉ cho cởi bớt lòng chấp, bớt chấp vào những phương tiện, tâm bắt đầu chuyển hướng, bởi vì y phục, áo mặc chỉ là lớp bên ngoài.
CHÁNH VĂN:
Thích Đề Hoàn Nhơn cùng Phạm Thiên Vương… và vô số Thiên tử cũng đem y đẹp của Trời, hoa trời Mạn đà la, Ma ha mạn đà la… cúng dường nơi Phật. Y trời tung lên liền trụ giữa hư không mà tự xoay chuyển. Các kỹ nhạc trời trăm nghìn muôn thứ ở giữa hư không đồng thời đều trổi. Rưới các thứ hoa trời mà nói lời rằng: "Đức Phật xưa ở thành Ba la Nại, ban đầu chuyển pháp luân, đến nay mới lại chuyển pháp luân rất lớn Vô thượng".
GIẢNG:
Thích Đề Hoàn Nhơn chỉ cho trời Đế Thích. Đây các vị trời đem y phục cõi trời dâng lên cúng dường, rồi mưa những hoa trời, trỗi kỹ nhạc để cùng cúng dường, đồng thời tán thán: "Trước kia Phật chuyển pháp luân lần đầu là nói pháp Tứ Đế, đó là một lần chuyển pháp luân, bây giờ lại thêm một lần chuyển pháp luân nói về pháp lớn vô thượng này". Đây là muốn nói lên, lần chuyển pháp luân đặc biệt hy hữu này, là một bước ngoặt của sự biến chuyển mới, và cũng là sự cảm nhận sâu ngoài sức tưởng tượng của các Ngài, nên các Ngài phấn khởi vô cùng. Lúc đó các vị Thiên tử muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
CHÁNH VĂN:Xưa ở thành Ba Nại
Chuyển pháp luân bốn đế
Phân biệt nói các pháp
Sanh diệt của năm nhóm.GIẢNG:
Tức ở thành Ba La Nại, Phật chuyển pháp luân lần đầu ở vườn Lộc Dã nói về Tứ Đế, thì phân biệt năm uẩn sanh diệt vô ngã, trừ vọng chấp mê lầm chấp ngã cho mọi người, nếu trừ diệt được lòng chấp ngã này thì giải thoát khỏi sanh tử. Bởi gốc sanh tử từ đâu mà ra? - Là chính vì chấp ngã này, mọi đau khổ cũng từ cái ngã này mà ra, cho nên chấp ngã là gốc của sanh tử, cũng là gốc của mọi đau khổ. Nhưng xét cho kỹ thì cái gì là cái ngã này? - Đó chỉ là vọng chấp thôi.
Đây quán rõ như sau:
Năm uẩn đó gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
- Sắc: là chỉ cho sắc ấm này, nó là bốn đại hoà hợp, nếu rời bốn đại thì cái gì là ngã trong đó, cái gì gọi là ta? Sở dĩ có sắc này là từ đâu mà có: - Là do Sắc đối với Tâm. Sắc - Tâm hoà hợp, là danh sắc. Có sắc là có tâm, ngược lại có tâm nên có sắc này. Nếu quý vị vị đang ngồi đây, có ai đó mà không có tâm thì sao? Thì ra nghĩa địa phải không? Như vậy Sắc - Tâm đối nhau mà tạm có thôi, rời ra thì không có, vậy thì cái ngã ở chỗ nào?
- Thọ: gồm những cảm thọ như khổ - vui, buồn, giận, sung sướng…Những cảm thọ đó nó có ngã không? Thọ thì luôn luôn phải thọ cái gì đó, có cái gì để thọ, hoặc thọ khổ, hoặc thọ vui, nếu rời đối tượng để thọ thì cái thọ đó ở chỗ nào? Như vậy là thọ cũng không thật, cũng là đối đãi thôi, thì cái ngã nằm ở đâu?
- Tưởng: Cũng phải có gì để tưởng, tưởng cái này tưởng cái kia, luôn luôn có đối tượng để tưởng, còn nếu không có đối tượng để tưởng thì tưởng cái gì? và tưởng là nó đi theo ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai. Bây giờ quý vị tưởng một cái gì mà không nằm trong ba thời xem? Làm sao tưởng! Như vậy tưởng cũng không thật thì cái ngã ở đâu?
- Hành: là những niệm niệm sanh diệt trong tâm mình đó, niệm cũng vậy, cũng phải niệm cái gì? Cũng có cái gì để niệm, còn nếu không có gì thì niệm cũng không có chỗ đứng.
- Thức: là phân biệt, suy nghĩ, mà suy nghĩ thì luôn luôn có đối tượng suy nghĩ, Phân biệt là phân biệt cái gì? Bây giờ thử phân biệt cái không có đối tượng xem! Không có đối tượng thì cũng không suy nghĩ phân biệt được, vậy thức cũng không thật.
Nếu khéo thấy chỗ này, rồi ứng dụng tu, thì tu dễ yên lắm. Thay vì phân biệt cái này, phân biệt cái kia, giờ hãy phân biệt lại chính nó xem! phân biệt ra sao? Cũng như suy nghĩ, thay vì suy nghĩ cái này suy nghĩ cái kia, bây giờ suy nghĩ lại chính nó thử xem! Ngay đó tâm được yên liền. Còn mình luôn luôn có chỗ suy nghĩ cho nên suy nghĩ hoài không dừng được.
CHÁNH VĂN:
Nay lại chuyển pháp luân
Rất lớn diệu vô thượng
Pháp đó rất sâu mầu
Ít có người tin được
Chúng ta từ xưa lại
Thường nghe Thế Tôn nói
Chưa từng nghe thượng pháp
Thâm diệu như thế này.GIẢNG:
Các vị Thiên tử thuật lại, trước Phật nói về Tứ Đế, về sự sanh diệt của năm nhóm đó nó vô ngã, đến đây Phật chuyển pháp luân lần nữa, nói về pháp vi diệu thì pháp này ít có người tin nổi. Trước thì nói năm ấm nó sinh diệt vô ngã, nhưng rồi không nói thêm nữa, như vậy năm ấm sanh diệt vô ngã, thì không có gì hết sao? Khi nói vô ngã đó, nếu thật sự hoàn toàn không có ngã gì hết, thì nói vô ngã chi nữa? Sở dĩ nó không phải là cái ngã thật mà mình chấp là thật, cho nên nói vô ngã để phá cho mình không lầm chấp cái ngã hư dối đó nữa, thì mới thấy được cái chân ngã. Nhưng trước kia chưa nói tới cái chân ngã này, mà chỉ nói năm ấm vô ngã thôi, các vị mới nghe nói năm ấm vô ngã thì ngay đó chứng Niết Bàn, và cho như vậy là đủ rồi, chưa thấy được trong đó còn có gì nữa. Như vậy năm ấm vô ngã không thật rồi thì còn lại là cái gì? Đến đây mới nói Tri Kiến Phật, là cái bất sanh bất diệt nó hằng hữu, sống với cái này thì vượt ngoài thời gian, không còn nói ngã hay vô ngã gì nữa.
Bởi vì Phật phải nói cái sanh diệt trước để cho mình nhận rõ cái sanh diệt đó, mình không lầm cái ngã sanh diệt, rồi chỉ ra cái thật thì mình mới không lẫn lộn. Ví dụ mình đang mê như vậy, mà chỉ ra cái thật liền, thì có khi mình nhận lầm, lầm qua cái giả. Như người chưa biết vàng thật, vàng giả gì hết, khi ra chợ thấy vàng giả cũng giống như vàng thật, người đó đâu nhận ra vàng thật để mua. Cho nên trước hết phải chỉ rõ thế nào là vàng giả, khi rõ cái giả rồi, nói cái thật mới không lầm. Ở đây cũng vậy, trước chỉ cho thấy cái ngã sanh diệt, cái ngã giả để nhận rõ rồi, sau chỉ cái thật mình nhận được không lầm.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn nói pháp đó
Chúng ta đều tùy hỉ
Đại trí Xá Lợi Phất
Nay được lãnh Phật ký
Chúng ta cũng như vậy
Quyết sẽ đặng thành PhậtGIẢNG:
Các vị Thiên tử cũng tin tưởng mình sẽ thành Phật, tin quyết chắc chắn như vậy.
Trong tất cả thế gian
Rất tôn không còn trênNghĩa là trong tất cả thế gian không còn gì trên cái này nữa, ngoài cái này còn có gì khác thì cũng đều như mộng như huyễn thôi, tức không có cái chân thật thứ hai.
CHÁNH VĂN:
Phật đạo chẳng thể bàn
Phương tiện tùy nghi nói
Ta bao nhiêu nghiệp phước
Đời nay hoặc quá khứ
Và công đức thấy Phật
Trọn hồi hướng Phật đạo
GIẢNG:
Đó các vị Trời, các Ngài thấy như vậy tin chắc mình sẽ thành Phật, cho nên bao nhiêu phước đức có từ trước đến giờ đều hồi hướng đến Phật đạo, tức là các Ngài có đầy đủ niềm tin để bây giờ quay trở về cố hương của mình. Các vị Trời ở đây đã thấy chỗ này rồi, thì dù cho có sanh lên được cõi trời, có được phước báo tốt đẹp gì đi nữa cũng nằm trong sanh tử, hết phước cũng rớt trở lại. Do đó sau này Phật mới dụ nhà lửa tam giới.CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Xá Lợi Phất bạch rằng: "Thế Tôn! Con nay không còn nghi hối, tự mình ở trước Phật đặng thọ ký thành vô thượng chánh đẳng chánh giác. Các vị tâm tự tại một nghìn hai trăm đây, lúc xưa ở bậc hữu học, Phật thường dạy rằng: "Pháp của ta hay lìa sanh, già, bệnh, chết, rốt ráo Niết Bàn. Các vị hữu học, vô học đây cũng đều đã tự rời chấp ngã cùng chấp có, chấp không… nói là đặng Niết Bàn, mà nay ở trước đức Thế Tôn nghe chỗ chưa từng nghe, đều sa vào nghi lầm. Hay thay Thế Tôn! Xin Phật vì bốn chúng nói nhân duyên đó khiến lìa lòng nghi hối.”
Khi ấy, Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất! Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế Tôn dùng các món nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác ư? Các điều nói đó đều vì dạy Bồ Tát vậy. Nhưng Xá Lợi Phất! Nay ta sẽ dùng một thí dụ để chỉ rõ lại nghĩa đó, những người có trí do thí dụ mà đặng hiểu".
GIẢNG:
Ở đây Ngài Xá Lợi Phất, bạch Phật xin Phật nói rõ thêm, để cho hàng hữu học và vô học cũng được tin nhận, riêng Ngài đã tin nhận rồi và cũng được thọ ký. Phật bảo Xá Lợi Phất là:- Ta trước đâu không nói rằng: "Các Phật Thế Tôn dùng các món nhân duyên lời lẽ thí dụ phương tiện mà nói pháp đều là đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác."
Ngài nhắc lại và nhấn mạnh điểm này. Vậy Ngài dùng bao nhiêu phương tiện lời nói từ trước đến giờ đều vìø đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thôi. Trước kia, mới vào thì Phật phóng quang, lúc đó mọi người trong chúng nghi, Ngài Văn Thù giải nghi cho mọi người rõ về việc phóng quang. Sau đó Phật xuất định, khi xuất định rồi Phật nói ra nghĩa lý, pháp này là pháp rất sâu xa, hàng nhị thừa không thể hiểu được, trí tuệ như Ngài Xá Lợi Phất nhiều vô lượng cộng lại mà suy lường cũng không thể hiểu được, chúng lại nghi nữa. Phật phương tiện dẫn chứng ba đời chư Phật có nói pháp ra cũng đều rốt ráo quy về nhất thừa thôi, chỉ có một việc này là thật, còn có hai là chẳng phải chân.
Như vậy, khiến cho mỗi người rõ biết được những điều nói trước đó, đều là phương tiện, mà phải tự mình sống dậy để vượt khỏi dấu vết của người, vì có nói ra tức là phương tiện. Ngài nhấn mạnh lại, bao nhiêu phương tiện đó đều không phải chỗ thật, nên nói: "Bao nhiêu những món nhân duyên, lời lẽ thí dụ phương tiện nói pháp đều là đạo Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác thôi". Nếu theo kinh Lăng Già Phật sẽ nói sao? - Phật nói: "Bốn mươi mấy năm thuyết pháp, chưa từng nói một chữ". Nói xong là quét sạch. Theo kinh Kim Cang thì Phật nói: - "Ta nói tất cả pháp, tức chẳng phải tất cả pháp, đó gọi là tất cả pháp". Ngài nói rồi, liền quét sạch không cho mình chấp vào đó, vì cái đó cũng là phương tiện thôi. Như vậy cho thấy rõ, những điều Ngài nói trước kia đều chưa phải chỗ thật.
Ngài Xá Lợi Phất tin nhận trước nên được thọ ký, trong chúng thấy Ngài được thọ ký thì vui mừng, vì thấy rằng hạt giống Phật được tiếp nối không có đoạn dứt, kế đó là cái nghi chấp đã nhẹ, nên mới cởi áo cúng dường như ở trước.
Trong chúng còn có người sẽ nghĩ : “Ngài Xá Lợi Phất là vị trí tuệ bậc nhất, đứng đầu trong hàng Thanh Văn, nên Ngài được Phật thọ ký là phải rồi, nhưng còn mình không biết sao đây?” Ngài Xá Lợi Phất biết ý đó, nên giờ đây Ngài thỉnh Phật nói rõ lại để giải sạch hết những nghi ngờ còn đọng lại, mới khiến cho mọi người tự nhận được lời thọ ký của Phật. Như vậy không phải riêng một mình Ngài được thọ ký thôi, mà Ngài muốn ai cũng được thọ ký hết, điều này muốn nói lên cái gì? - Đó là Ngài Xá Lợi Phất thấy được ai ai cũng đều có phần đó hết, nên Ngài muốn Phật giải rõ để mọi người hết nghi, để được tiếp nhận lời thọ ký cũng như Ngài vậy. Tức là Ngài đã thấy thấu được chỗ đó rồi. Nhưng lẽ thật này là lẽ thật khó nói, khó diễn tả được, dù nói cách mấy cũng không thể đến được chỗ thật này, cho nên Phật chỉ còn cách mượn thí dụ. Ngài tạm mượn thí dụ để khiến cho mọi người nhân thí dụ này mà hiểu được cái kia, gọi là nhân đây mà thấy được kia. Ngài nói: "Những người có trí do thí dụ mà đặng hiểu". Đùó là phương tiện khéo léo của Ngài. Sau đó Phật nói thí dụ nhà lửa ba xe.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Như trong quốc ấp, tụ lạc có vị Đại Trưởng giả tuổi đã già suy, của giàu vô
lượng có nhiều nhà ruộng và các tôi tớ. Nhà ông rộng lớn mà chỉ có một cửa để ra vào, người ở trong đó rất đông: hoặc một trăm, hai trăm cho đến năm trăm người, lầu gác đã mục, vách phên sụp đổ, chân cột hư nát, trính xiêng xiêu ngã, bốn phía đồng một lúc, lửa bỗng nổi lên đốt cháy nhà cửa.
Các người con của Trưởng giả hoặc mười người hoặc hai mươi người, hoặc đến ba mươi người, ở trong nhà đó.
GIẢNG:
Đoạn này nói về thí dụ như trong cõi nước, tụ lạc, thành ấp, xóm làng, có một vị đại trưởng giả, tuổi già, của giàu nhiều, có nhiều nhà ruộng, đông tôi tớ, nhà ông rộng lớn nhưng chỉ có một cửa ra vào thôi, người trong đó gồm một trăm, hai trăm, cho đến năm trăm, mà nhà thì lầu gác đã mục, sắp sụp đổ, rồi kế đó bốn phía lửa mỗi lúc bỗng nổi lên cháy, trong đó có hai mươi, ba mươi người con (quý vị nắm vững những điều đó, sẽ giải thích sau).
CHÁNH VĂN:Trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: Ta dầu có thể ở nơi cửa của nhà cháy này, ra ngoài rất an ổn, song các con ở trong nhà lửa ưa vui chơi giỡn không hay biết, không sợ sệt, lửa đến đốt thân rất đau khổ lắm, mà lòng chẳng nhàm lo, không có ý cầu ra khỏi.
Xá Lợi Phất! Ông Trưởng giả đó lại nghĩ: thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc dùng ghế đẳng từ trong nhà mà ra ngoài. Ông lại nghĩ: nhà này chỉ có một cái cửa mà lại hẹp nhỏ, các con thơ bé chưa hiểu, mê đắm chơi giỡn hoặc vấp ngã bị lửa đốt cháy, ta nên vì chúng nó mà nói những việc đáng sợ.
Nhà này đã bị cháy phải liền mau ra, chớ để bị lửa đốt hại. Nghĩ như thế rồi theo chỗ đã nghĩ đó mà bảo các con: "Các con mau ra!". Cha dầu thương xót khéo nói để dụ dỗ, mà các người con ưa vui chơi chẳng kham tin chịu, chẳng sợ sệt, trọn không có lòng muốn ra, lại cũng chẳng hiểu gì là lửa? Gì là nhà? Thế nào là hại? Chỉ cứ đông tây chạy giỡn nhìn cha mà thôi.
GIẢNG:
Đây nhà cháy, ông trưởng giả ra dễ dàng không khó khăn gì hết, nhưng thương các con ở trong đó, ông tìm cách kêu ra, mà kêu không chịu ra, cứ nhìn cha mà chạy giỡn.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, trưởng giả liền nghĩ, nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy, ta cùng các con nếu không liền ra chắc sẽ bị cháy, Vậy ta nay nên bày chước phương tiện khiến cho các con đặng khỏi nạn này.Cha biết các con đều vẫn có lòng thích các đồ chơi trân báu lạ lùng, nếu có chắc chúng nó ưa đắm, mà bảo các con rằng: "Đây này là những món ít có khó đặng mà các con có thể vui chơi, nếu các con không ra lấy sau chắc buồn ăn năn. Các thứ xe dê, xe hươu, xe trâu như thế, nay ở ngoài cửa có thể dùng dạo chơi, các con ở nơi nhà lửa nên mau ra đây, tùy ý các con muốn cha đều sẽ cho các con".Đây là dụ, kêu ra không chịu ra, bèn đem đồ chơi kêu ra mới chịu ra, giống như mình không? Lúc bấy giờ, các người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên lòng mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng đua nhau ruổi chạy, tranh ra khỏi nhà lửa. Khi đó trưởng giả thấy các con đặng an ổn ra khỏi nhà lửa đều ở trong đường ngã tư ngồi nơi đất trống không còn bị chướng ngại, tâm ông thơ thới vui mừng hớn hở.
Các người con nghe cha cho đồ chơi tốt đẹp mỗi người đều tranh nhau liền chạy ra khỏi nhà lửa, đến ngồi chỗ đất trống, người cha mừng hớn hở rồi. Bấy giờ, các người con đều thưa với cha rằng: "Cha lúc nãy hứa cho những đồ chơi tốt đẹp, nào xe dê, xe hươu, xe trâu xin liền ban cho".
Bây giờ đòi đồ chơi, mấy điểm này quý vị nghe cho kỹ, rồi giải thích mới thấy.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Khi đó Trưởng giả đều cho các con đồng một thứ xe lớn, xe đó cao rộng chưng dọn bằng các món báu lan can bao quanh, bốn phía treo linh, lại dùng màn lọng giăng che ở trên, cũng dùng đồ báu đẹp tốt lạ mà trau giồi đó, dây bằng báu kết thắt các dải hoa rủ xuống, nệm chiếu mềm mại trải chồng, gối đỏ để trên, dùng trâu trắng kéo, sắc da mập sạch, thân mình mập đẹp có sức rất mạnh, bước đi ngay bằng mau lẹ như gió, lại có đông tôi tớ để hầu hạ đó.
Nói về sự trang hoàng của chiếc xe báu.
Vì cớ sao? Vì ông Trưởng giả đó của giàu vô lượng, các thứ kho tàng thảy đều đầy ngập, ông nghĩ rằng: "Của cải của ta nhiều vô cực, không nên dùng xe nhỏ xấu kém mà cho các con, nay những trẻ thơ này đều là con của ta, đồng yêu không thiên lệch, ta có xe bằng bảy báu như thế số nhiều vô lượng nên lấy lòng bình đẳng mà đều cho chúng nó, chẳng nên sai khác".
Vì sao? Dầu đem xe của ta đó khắp cho cả người một nước hãy còn không thiếu huống gì các con. Lúc ấy, các người con đều ngồi xe lớn đặng điều chưa từng có, không phải chỗ trước kia mình trông.
GIẢNG:
Phật ví dụ trước, nói về trong quốc ấp tụ lạc có vị đại trưởng giả tuổi già, của giàu, nhiều nhà ruộng tôi tớ, nhà đó lớn mà chỉ có một cửa ra vào thôi, trong đó có người rất đông hoặc hai trăm đến năm trăm người, nhà thì hư mục, trong khi đó đồng một lúc bốn phía nhà bỗng nhiên lửa nổi lên bốc cháy, người nhiều như vậy, nhưng có hai mươi, ba mươi người con ở trong đó. Đó là điểm thứ nhất, muốn nói lên cái gì?
Ông Trưởng giả: chỉ cho Đức Như Lai.
Quốc ấp tụ lạc: Quốc là nói cõi nước lớn. Ấp: là xóm làng lớn; tụ lạc: là thôn xóm trong đó, giống như một phường hay một huyện.
Nhà lửa: chỉ cho nhà lửa tam giới.
Vậy quốc ấp tụ lạc ở đây là chỉ cái gì? - Chỉ cho cảnh giới của Như Lai, nó bao trùm hết, nhà lửa này cũng nằm trong đó, cái nhà này ở trong quốc ấp tụ lạc đó, nó chỉ là một phần nhỏ trong đó thôi, cảnh giới Như Lai này trong đó đầy đủ vô lượng công đức không thể nghĩ bàn (của giàu vô lượng). Cho nên cảnh giới này ở trước gọi là chỉ Phật với Phật mới biết thôi. Bởi vì mấy người con ở trong nhà lẩn quẩn thì làm sao biết được ở ngoài. Ở ngoài là cõi nước thành ấp tụ lạc, chỉ có ông trưởng giả mới biết, chứ mấy người con đâu có biết, cũng như mình phải không?
Mình cũng chỉ biết lẩn quẩn trong nhà lửa này thôi, còn ở bên ngoài mình đâu biết được. Cảnh giới Như Lai này chỉ có người nào ra khỏi nhà lửa thì mới biết được thôi. Như vậy nhà lửa đã thêm mục nữa thì có đáng gì đâu, mà mình quý nó không chịu ra.- Bởi sống trong tình mê.
Trưởng giả nhiều nhà ruộng, tôi tớ, là muốn nói lên cái gì? Ông Trưởng giả tuổi già là chỉ cho cái gì? - Là chỉ cho Như Lai vô sự. Bởi vì Như Lai là chỉ cho người đã ra khỏi nhà lửa tam giới, đã giải thoát rồi, Ngài như người vô sự, không có việc bận rộn nữa. Nhưng Ngài phải vào trong nhà lửa là vì mình, nên Ngài mới vào đó. Và Như Lai ở đây không phải chỉ có một cái nhà này thôi mà nhiều nhà lắm,tức là chỉ Như Lai vô trụ mà mình học trong Kinh Kim Cang, Ngài hiện khắp nơi, không ở chỗ nào, không cố định ở nhà nào hết.
Của giàu vô lượng: Đó là chỉ cho trí tuệ không ngằn mé, cái kho Như Lai đầy đủ trí tuệ diệu dụng, không thể đếm được, đây ví dụ là của giàu vô lượng, hết tính kể, không có gì so sánh được, do đó mà phần trước Phật nói trí tuệ như Ngài Xá Lợi Phất nhiều vô lượng, cộng lại suy lường cũng không biết được.
Trưởng giả giàu vô lượng, làm chủ nhà này, là chỉ cái gì? - Là chỉ cho Như Lai Ngài hiện thân trong ba cõi này nhưng Ngài vẫn tự tại, không bị lệ thuộc vào trong ba cõi. Làm chủ trong nhà đó, tức là Ngài tự tại trong đó, chứ không phải như mình bị mắc kẹt trong đó. Nhưng cái nhà đó chỉ có một cửa ra vào thôi, cửa đó là cửa gì? - Đó là cửa Tâm, ba cõi lăng xăng đó nhưng có một tâm thôi, ra vào thì cũng một tâm thôi chớ không gì khác. Từ “tâm mê” đi vào ba cõi chịu luân hồi. Từ “tâm giác” đi ra ba cõi, giải thoát, an vui.
Cho nên chỉ có một cửa rõ ràng vậy thôi, còn nói bờ này bờ kia cũng là ngay một tâm này. Tâm này mê thì ở bờ này, giác thì qua bờ kia. Nhà to rộng vậy mà chỉ một cửa thôi, có ai thấy cửa đó chưa? Thấy cửa sao không chịu ra? Thêm điều nữa, nhà có một cửa thôi mà lại nhỏ hẹp nữa, vì sao lại nhỏ hẹp? - Đó là muốn nói lên chỗ chân thật này là chỗ rất khó tin, khó hiểu, ít người tin nổi, nên khó ra là vì chỗ đó. Quả thật cửa sẵn ở đó thôi đâu có giấu giếm gì ai, nhưng vẫn ít có người chịu ra, bởi vì vô minh che, do đó trong nhà Thiền có câu: “Nếu một bề đề cao việc này, thì cửa pháp đường cỏ cao một trượng!"
Vì nếu một bề đề cao việc đó tức là cứ nói thẳng chỗ đó thôi thì ít người tin nổi, hết người đến, thành ra pháp đường cỏ mọc cao một trượng. Vì vậy các Ngài phải dùng nhiều phương tiện nói thế này, nói thế kia, bao giờ sạch hết chấp mới sống được chỗ này. Phải sạch hết vô minh như Phật vậy đó. Phật đã sạch hết vô minh nên Ngài cần ra thì ra thôi, ra dễ dàng! Thật ra, nói ra hay vào chỉ là một lối nói, chứ nói thẳng đối với Như Lai thì Ngài không có gì ra vào nữa, vì tất cả đều ở trong tánh Như Lai, nói có ra có vào, cũng là thí dụ thôi, còn đã thấu triệt chỗ đó thì không có gì ra vào.
Ở đây Ngài thương nên vào đây để đánh thức mình, nhưng còn chưa chịu ra nữa, như những người con trong đây, ông trưởng giả thương kêu như vậy cũng không chịu ra, mấy người con đó là chỉ cho ai? Giống như mình không? Như vậy kêu hoài có ai chịu ra chưa? Nó chân thật sẵn đó nhưng lại khó tin, cho nên Ngài phải đánh thức mình, tin được thì mình ra chứ không gì khác. Rồi lầu gác hư mục, cùng một lúc lửa bỗng cháy lên, chỉ cho cái gì? - Lầu gác hư mục chỉ cho vô thường đeo đuổi tàn phá con người cũng như mọi vật ở trong ba cõi này tất cả đều chịu chung trong đó.
Dù cho Phật hay Bồ Tát hiện thân ở trong đây, mà mang cái thân này cũng phải chịu vậy thôi. Bởi vậy tám mươi tuổi Phật cũng nhập Niết Bàn. Thô thì sanh già bệnh chết nó ép ngặt, còn tế là sanh trụ dị diệt nó chi phối. Vi tế là trong tâm niệm mình, từng niệm, từng niệm nó sanh trụ dị diệt đó, nó chi phối trong từng niệm, luôn luôn vô thường.
Lửa bỗng nổi lên là sao? - Đó là muốn chỉ cho sự vô thường, nó không có gốc gác, không có cội rễ, chỉ do mê lầm mà thôi. Cho nên nó bỗng nổi lên không biết gốc gác từ đâu. Tìm gốc gác nhà lửa này tìm không ra, thấy được chỗ này, mới thấy cái sanh tử vô thường, cũng không phải có thật tánh, nên mình giác thì mình thoát được.
Trong nhà Thiền có câu chuyện Ngũ Tông đến hỏi Thiền Sư Duy Tuệ:
- Con đã học thiền nhiều năm, nhưng vẫn chưa thành tựu, bây giờ xin thầy vui lòng chỉ dạy cho con.
Ngài Duy Tuệ bảo:
- Cũng không có bí quyết, vấn đề là giải thoát sinh tử thôi.
Ngũ Tông thưa:
- Nhưng làm sao thoát sinh tử?
Thiền Sư Duy Tuệ liền lớn tiếng bảo:
- Từng niệm tưởng trôi qua là sinh và tử.
Ngay đó Ngũ Tông tâm rỗng rang, cảm nhận thấy như mình vừa đặt gánh nặng xuống.
Đơn giản, nhưng mình mới nghe qua thấy lạ, vậy giải thoát sanh tử ở chỗ nào? Mình nghe nói sanh tử sự đại, mình nghĩ Phật, Tổ nhắc nhở mình quan tâm cho thật kỹ, mình liền tưởng sanh tử là cái gì quá sức tưởng tượng. Nhưng sanh tử không phải gì khác, là chính ngay nơi từng tâm niệm của mình đó, từng niệm từng niệm trôi qua đó là sanh tử chứ gì nữa? Sanh tử không là cái bên ngoài, do đó mình giác được nó tức thấu suốt được nó thì tâm rỗng rang, lửa này không chỗ khởi, là mình thoát sanh tử, nếu còn thấy sanh tử thật là mình bị chi phối trong đó.
Cho nên mình nghe giải thoát được Niết Bàn, mình tưởng Niết Bàn là cõi nào đó. Đâu biết rằng Niết Bàn là ngay tâm niệm mình thôi, tâm mình được lặng dừng, một niệm lặng thì một niệm là Niết Bàn, còn niệm niệm được lặng là niệm niệm Niết Bàn, chứ có gì đâu, thoát sanh tử là thoát nơi tâm niệm mình, chớ có gì thoát. Do đó Ngũ Tông nghe nói vậy liền cảm nhận được, tâm rỗng rang giống như buông gánh nặng xuống, thật nhẹ nhàng!
Thấy được như vậy, thì sanh tử tức vô sanh, không phải tìm vô sanh ở đâu. Thấu được chỗ này, thì thấy mình đang ngồi trên đất trống tự thuở nào rồi không chạy đi đâu hết, chạy ra ngoài đó là thí dụ.
Một hôm Ngài Dược Sơn muốn thử nghiệm Sa Di Cao có chỗ thấy hiểu chân thật chưa, Ngài mới nói với Sa Di Cao rằng:- Ta nghe nói ở Trường An ồn náo phải không? Sa Di Cao đáp:
- Riêng nước con thì an ổn.
Coi như mình ngồi chỗ chân thật an ổn sẵn rồi, có chạy đi đâu, chỉ tại mê thôi nên tạm gọi là kêu ra.
Ngài Dược Sơn gạn thêm nữa:
- Ông do xem Kinh mà được, hay thưa hỏi mà được?
Sa Di Cao đáp:
- Con không do xem kinh được, cũng không do thưa hỏi mà được.
Ngài Dược Sơn nói:
- Vậy nhiều người không xem kinh, cũng không thưa hỏi sao họ không được?
Sa Di Cao đáp:
- Chớ nói họ không được, chỉ vì họ không chịu nhận thôi.
Nó sẵn đó rồi, thì nói gì được với không được, chỉ tại chưa chịu nhận, nên còn lăn lộn mãi trong nhà lửa này.
Ở đây trở lại đoạn 13, nhà ông trưởng giả trong đó người rất đông, tức chỉ trong tam giới này có rất nhiều loại, nhưng trong nhà đó chỉ có mười, hai mươi, hoặc ba mươi người con thôi, đây chỉ cho trong tam giới này người rất đông nhưng người gặp Phật tu hành thì rất ít. (tiếp đoạn 14). Khi ông trưởng giả thấy lửa từ bốn phía nhà cháy lên, liền rất sợ sệt mà nghĩ rằng: ta dẫu có thể nơi cửa nhà này, ra ngoài rất an ổn, dễ dàng không có khó khăn gì hết, ta có thể dùng thân và tay của ta có sức mạnh, nên dùng vạt áo hoặc ghế đẳng từ trong nhà mà ra ngoài, nhưng mà thương mấy người con trong này phải kêu ra. Đó là muốn nói lên cái gì? Đối với Như Lai Ngài có sức tự tại với sanh tử rồi, cho nên không thành vấn đề. Ngài ra dễ dàng thôi, Ngài cũng đầy đủ sức thần thông diệu dụng, nhưng sao Ngài không dùng thần thông diệu dụng đó đem mấy người con kia ra mà phải kêu, đó là điểm phải thấy cho kỹ! Đây là muốn nói lên cái gì? - Đó là Phật muốn đánh thức họ dậy để cho họ có niềm tự tin, tự mình nhận mới giải thoát được, chứ không có thể ỷ lại từ bên ngoài mà thoát được, đây là điểm căn bản. Trong nhà thiền có câu chuyện: có vị tín đồ, một hôm vị này đang tránh mưa dưới mái hiên của một căn nhà bên đường, ông thấy có một vị Thiền sư che dù đi ngang qua, ông liền gọi to:
- Xin Thiền Sư Ngài từ bi độ khắp chúng sanh, cho con được quá giang một khoảng đường xem thế nào?
Vị Thiền Sư bảo:
- Ta thì ở trong mưa, ông ở dưới mái hiên đâu có mưa, thì đâu cần ta độ.
Vị tín đồ nghe vị Thiền Sư nói như vậy, ông liền chạy ra đứng ngoài mưa và nói:
- Bây giờ con đang ở ngoài mưa xin Ngài độ con!
- Ta cũng ở trong mưa, ông cũng ở trong mưa, ta chẳng bị mưa ướt nhân vì ta có dù, còn ông bị mưa ướt vì ông không có dù. Do đó chẳng phải là ta độ ông, ở đây cây dù nó độ ta, ông muốn được độ, xin ông tự kiếm cây dù che. Nói xong Ngài đi.
Chuyện này quý vị thấy có lý không? Đây là nhắc mình cái gì? - Rõ ràng do cây dù độ Ngài, ông muốn không bị mưa ướt thì kiếm dù che là hết bị mưa. Đó chính là chỗ này, tự mình tin nhận, mình thoát ra thôi, còn nhờ ai nữa. Do đó ở đây Phật kêu ra mà không ra, Ngài cũng đành chịu thôi chứ biết sao. Tức là: "Người này ăn, không thể người kia no được".
Đến câu chuyện của Ngài Đạo Khiêm với Thiền Sư Tông Nguyên. Ngài Đạo Khiêm ở chỗ Thiền sư Đại Huệ tham thiền thời gian lâu mà không tỏ ngộ, một hôm Ngài Đại Huệ sai Đạo Khiêm đem một lá thư cho một người ở xa, hồi xưa kia không phải như bây giờ, lên xe đi một ngày thì tới, có khi đi phải mấy tháng trời, Đạo Khiêm nghe vậy không muốn đi, Ngài than: "Ta nghĩ là ở đây tham thiền bao nhiêu năm rồi, chưa được đắc lực gì hết, bây giờ phải đi trên một quãng đường dài như vậy, thì công phu không biết ra sao?” Ngài Tông Nguyên là bạn, mà cũng là người đã tỏ ngộ rồi, thấy Đạo Khiêm than như vậy thì Ngài Tông Nguyên thúc đẩy nói:
- Huynh hãy đi, tôi sẽ cùng đi với huynh, không thể bảo rằng: trên đường đi không có công phu tham thiền được, chỗ nào cũng là chỗ công phu được hết.
Trên đường đi Đạo Khiêm than lần nữa:
- Tôi tham thiền mấy mươi năm, công phu chưa đến đâu, không biết ra sao?
Ngài Tông Nguyên mới bảo:
- Thôi bây giờ đây, những điều gì ông học hỏi được từ các Lão Hoà thượng lâu nay, hãy gạt qua một bên hết đi, ngay đây những cái gì giúp được huynh thì tôi sẵn sàng giúp hết, nhưng có năm điều huynh phải tự làm đó là: thứ nhất là đi đại, thứ hai là đi tiểu, thứ ba là ăn cơm, thứ tư là mặc áo, thứ năm là tự huynh phải mang cái thây thúi này trên suốt quãng đường đi, không ai mang thế cho huynh được.
Đạo Khiêm nghe tới đó, liền tỏ ngộ.
Có người nào tỏ ngộ chưa? Ai có thể vào đây mà mang thế cái thây cho mình? - Chính mình phải mang chớ ai mang thay thế cho mình được! Cũng vậy, chính mình sáng chứ ai sáng cho mình. Phải tự mình mở sáng ra, tự mình giác ngộ, thấy được con người thật của chính mình, đó là mở sáng trí vô sư, từ trí vô sư đó nó giúp mình giải thoát sanh tử. Còn trí mình học được của Tổ, của Phật, cũng trả về Tổ Phật mà thôi. Ở đây Phật kêu mình, mình thức tỉnh được thì mình chạy ra thôi, Ngài không dùng thần thông đưa mình ra. - Mình đang ở trong nhà lửa là một cái đã thu hẹp rồi, lại còn bám vào cái thân này nữa, là thêm lớp thu hẹp thứ hai nữa. Trong khi đó tâm chân thật của mình thì nó thênh thang nhưng mình lại không ngó ngàng tới? - Cái tâm thể chân thật này không có chỗ nào thiếu nó. Bây giờ nói gần hơn, quý vị có thể cảm nhận được như mình còn tâm chúng sanh đây tức là tâm chưa thanh tịnh gì, mà thấy nó thênh thang rồi, ví dụ ngồi đây quý vị nghĩ tới Mỹ, nghĩ tới mặt trăng, nếu mình sống trở về được với tâm thanh tịnh thì nó còn rộng lớn thế nào nữa, nhưng mình lại không chịu nhận mà cứ Đông Tây chạy giỡn nhìn cha vậy thôi, cũng không biết gì là nhà? Gì là lửa? Gì là hại? Ở trên Phật kêu ra, đó là:
Đức Như Lai trong này luôn luôn thúc đẩy, mà mình không để ý, cũng giống như ở đây, Phật kêu ra mà mình cứ lo chạy giỡn thôi. Cũng vậy, tánh giác nó ngầm ngầm thúc đẩy, nếu không thì chắc là giờ này quý vị không ngồi đây; mà nó có thúc đẩy ngầm, nên mới tỉnh phần nào đó để mà học Đạo, nghe pháp nhưng còn chưa chịu ra, vì ham vui thôi. Tức là bị cái vô minh tham ái nó che mờ không sáng được, nên không biết gì lửa? Gì là nhà? Gì là hại? Chỉ biết vui trong ngũ dục mà thôi. Cha kêu mà cứ chạy giỡn, chạy một lúc va đầu, sứt trán chịu khổ, loanh quanh chạy trong nhà lửa đó, với con mắt Phật nhìn mới thấy mình đáng thương, còn mình ở trong cảnh đó lại thấy vui.
Trong lúc đông tây chạy giỡn nhưng nhìn cha là sao? Là loanh quanh trong đó cũng không rời Như Lai, chỉ cần biết nghe trở lại, tin nhận thì thoát ra thôi. Trong nhà Thiền có câu chuyện Ngài Huệ Tịch lúc làm Sa Di ở chỗ Thiền sư Tánh Không, Ngài nghe một vị tăng hỏi Tánh Không là:
- Thế nào ý Tổ Sư từ tây sang?
Thiền sư Tánh Không đáp:
- Như có người ở giếng sâu ngàn thước, không có một tấc dây gì hết, mà ra khỏi giếng được, thì người này đáp cho ông được ý Tổ Sư.
Một thời gian sau Huệ Tịch đi tham vấn nơi khác, Ngài đến Thiền Sư Đam Nguyên hỏi:
- Người ở giếng sâu như vậy, thì làm sao ra được?
Ngài Đam Nguyên bảo:
- Ôi ! Cái đồ ngốc, ai ở dưới giếng?
Mình nghe nói ở dưới giếng thì tưởng có người ở dưới giếng thật, đó là mê.
Lúc đó Huệ Tịch nghe nói như vậy nhưng chưa tỉnh lắm. Sau đó Ngài đến Thiền Sư Quy Sơn đem câu chuyện này hỏi lại, Ngài Quy Sơn liền gọi:
- Huệ Tịch!
Ngài nghe gọi liền: Dạ!
Ngài Quy Sơn bảo:
- Ra rồi!
Quý vị thấy ra dễ không? Mình nghe gọi, liền "Dạ". Vậy sắc thân năm ấm có ngăn che gì không? Nếu ngăn che thì đâu có "Dạ” được, vậy chỉ cần “nghe trở lại” thì ra liền chớ có gì đâu. Dù cho người có nghiệp chướng sâu dầy mà nghe kêu có biết dạ không? Vậy có che được nó không? Nhưng tại sao không ra được? Tại vì chưa chịu nghe lại thôi. Ở đây Phật kêu nhưng cứ đông tây chạy giỡn, tuy vậy mà vẫn không rời Như Lai, tức nhìn Như Lai mà chạy.
Ông trưởng giả liền nghĩ: nhà này đã bị lửa lớn đốt cháy như vậy đó, mà các người con không biết lo sợ, cứ chạy giỡn hoài, ông bèn bày phương tiện, biết chúng nó ham đồ chơi, nếu đem đồ chơi ra dụ thì chúng nó sẽ chạy ra thôi. Cho nên ông bảo là để sẵn ở ngoài cửa các đồ chơi nào xe dê, xe hươu, xe trâu mà nói với các con rằng các con mau ra cha sẽ cho các con các thứ xe như thế. Mấy người con nghe cha nói đồ chơi báu đẹp vừa ý mình, nên mỗi người đều mạnh mẽ xô đẩy lẫn nhau, cùng tranh ra khỏi nhà lửa. Trước kia kêu gọi hết lời mà không ra, bây giờ nghe có xe đẹp thì chạy ra liền, giống mình chưa? Tức là nói cái gì? Ở đây dụ cho chúng sanh là luôn luôn ham thích được hưởng. Làm mà không hưởng đâu chịu làm, cũng như giờ nói tu đi thì đâu chịu, phải nói tu có phước, được quả này quả kia thì chịu lắm, bởi mình luôn luôn sống trong ngã tưởng, nên phải luôn có một cái gì đó để cho nó hưởng, nó được, mới chịu. Bây giờ bảo buông đi, buông chạy ra đây thôi, nhưng bỏ cái này thì uổng, cho nên không chịu ra, phải có được gì đó.
Do đó khi nghe nói cho ba xe liền tranh nhau chạy ra liền. Bởi vậy mà có câu: "Trước dùng dục mà dẫn dắt, sau mới đưa vào trí huệ Phật". Đối với người còn đam mê trong này nhiều quá, nếu Phật nói ráng tu để được giải thoát thì đâu chịu. Nhưng nếu bảo thôi ráng làm phước sau sanh lên cõi trời, được cái này cái kia như ý thì chịu liền dễ dàng. Như vậy cũng là cứu khổ, còn hơn là để bị đọa vào địa ngục biết bao giờ mới lên. Hoặc bảo ráng tu khổ nhọc, sau sẽ được quả Tu Đà Hoàn, Tư Đà Hà, A Na Hàm, A La Hán, nghe vậy thì cũng chịu. Ở đây Phật rất khéo là như vậỵ,
Nghe nói vậy cùng tranh nhau ra, khi đến ngã tư đường, ngồi nơi đất trống, tức là giải thoát tự tại rồi, không còn lo sợ gì nữa, nhưng mà chịu chưa? Chưa chịu, còn đòi xe. Cha đã hứa, bây giờ cho chúng con xe đi, đó là chỉ cho tâm trạng chưa quên được sở đắc, ra ngoài rồi tức là đã sáng được và hiểu được đạo, nhưng vẫn còn kẹt trong sở đắc, thấy mình có được, tức là còn kẹt trên phương tiện thứ lớp của Phật. Phật nói có quả này, quả kia, là trên phương tiện thôi, nhưng mình lại kẹt trên phương tiện, cho nên nói ba xe là dụ quả Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ Tát. Xe dê dụ cho Thanh Văn, xe hươu dụ cho Duyên Giác, xe trâu dụ cho Bồ Tát, đó là phương tiện dẫn dắt tùy theo trình độ tâm chứng của người, do tâm chứng của người có cạn sâu sai biệt mà tạm lập vậy thôi, trên tâm thể rốt ráo có hai không? Thanh Văn cũng tâm thể này, Duyên Giác cũng tâm thể này, Bồ Tát cũng tâm thể này, và Phật cũng tâm thể này, có gì khác đâu. Cũng như mình, nếu nhìn bên ngoài thì thấy có vị A La Hán khác, Bồ Tát nhứt địa khác, Bồ Tát nhị địa khác, còn nếu như mình nhìn lại chính mình thì lúc ở nhứt địa là ai, nhị địa là ai trong đó, tam địa ai trong đó, tứ địa ai trong đó, có mấy người trong đó, có ai khác không? Mình không thấy chỗ đó, chỉ nhìn bên ngoài nên mắc kẹt trên phương tiện thứ lớp của Phật, rồi còn phân chia cao thấp nữa. Ở đây thấy rõ, sống trọn vẹn trong đây rồi, thì chỉ có một tâm thể đó thôi, còn có sự sai biệt là do mình sống trọn vẹn hay chưa trọn vẹn vậy thôi. Chưa trọn vẹn thì tạm lập ra lúc này thì như vầy, lên chút nữa thì như vầy, như vầy, … đó là lúc mình chưa sống trọn vẹn, còn nếu trọn vẹn thì chỉ cái đó thôi, chớ có gì khác đâu. Do đó kinh Kim Cang nói:
- Tất cả Hiền Thánh đều do pháp vô vi mà có sai khác thôi.
Như vậy còn đòi xe, đó là chưa quên được chỗ sở đắc, ra rồi còn đòi nữa tức là đòi “được”. Cho nên Phật cho đồng một thứ xe thôi, dù trước kia là nói ba xe, nhưng bây giờ cho một thứ xe là xe trâu trắng lớn, xe đó trang hoàng đầy đủ hết, đó là nói lên cái gì? Xe trâu trắng đây là nói lên Phật Tánh bình đẳng của tất cả, nghĩa là tất cả đều có Phật tánh bình đẳng chung đó, hay gọi là giác thể không hai. Nói rằng, dù cho cả nước cũng không thiếu nữa, bởi vì ai ai cũng đều đủ chỗ này hết, có ai thiếu đâu. Nói cho, mà thật ra có cho gì đâu, mà nói thiếu nói đủ. Mình mắc kẹt trên danh từ, nghe nói cho, tưởng đâu là có được, mới nghĩ đến thiếu đủ. Chính chỗ này, trong kinh Pháp Bảo Đàn Ngài Pháp Đạt cũng nghi và thưa với Lục Tổ rằng:
- Con tụng kinh Pháp Hoa mà chưa hiểu được nghĩa kinh, xin Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho.
Lục Tổ bảo:
- Ông đâu có biết, mình đang ngồi trên xe trâu trắng mà lại đi tìm ba xe ngoài cửa, ba xe là giả, là việc thuở xưa, còn một xe là thật, là việc hiện nay. Chỉ dạy ông dẹp các giả để trở về cái thật, sau khi trở về cái thật thì cái thật đó cũng không tên. Nên biết có những của báu, trọn thuộc về ông, do ông thọ dụng, lại không khởi cái tưởng của cha, cũng không khởi tưởng của con, cũng không khởi tưởng dùng, đến đó mới thấu triệt được.
Rõ ràng tưởng có cho, có nhận đó là lầm! Đây là của báu sẵn trong nhà thôi.
Đức Sơn hầu Ngài Sùng Tín, đêm khuya đi ra ngoài thấy trời tối, đi vào thưa với Ngài Sùng Tín là:
- Bên ngoài trời tối đen.
Ngài Sùng Tín nói:
- Tối thì ta đưa đèn cho.
Ngài đốt đèn đưa cho, Đức Sơn vừa đưa tay tiếp lấy, thì Ngài Sùng Tín thổi tắt đi. Ngay đó Đức Sơn sáng tỏ liền.
Đưa đèn là cho. Cho, nhưng người ta vừa nhận thì thổi tắt, vậy có cho gì không? Chỉ là đánh thức cái có sẵn của mình thôi. Như Lục Tổ nói: "Bao nhiêu của báu đó đều có sẵn nơi mình rồi, là do mình thọ dụng thôi".Có gì là cho là nhận. Còn nghĩ có cho có nhận, đó là còn lớp mê, cho nên mình nghe nói ba xe kẹt theo lời nói đó, liền chấp có ba xe. Khi chấp có ba xe đó rồi, còn phân biệt là cao là thấp, là lớn, là nhỏ, tôi tu đại thừa, còn anh là tu theo tiểu thừa, tôi cao anh thấp, là mắc kẹt thêm một lớp nữa. Đó là chưa được vào nhà Như Lai, còn đứng ngoài cửa, bởi đứng ngoài cửa phỏng đoán nên mới phê bình kia đây. Biết rốt ráo rồi, như Lục Tổ nói ba xe cũng là giả, chỉ có một thừa, nhưng một thừa đó cũng không phải thật, bởi vì sao? - Bởi vì còn một, còn ba là cũng còn đối đãi, một hay ba đó cũng chỉ là phương tiện thôi, và còn giả mới tạm nói là thật, như vậy thật giả cũng là hai tên đối đãi thôi, một - ba cũng là hai tên đối đãi. Khi sống được trong đây rồi, thì còn tưởng thật tưởng giả gì nữa? Sống được đây rồi, ngay đó liền dùng thôi, cũng như tay mình đây, muốn quơ thì quơ, chớ còn nghĩ phải dùng cái tay để quơ thì sao? Thì giống như có cái tay thứ hai ở ngoài mình. Còn nghĩ là cha, là con, cũng chưa thật thấu, phải biết đó chỉ là thí dụ. Cũng như nghe kêu liền dạ, nó sẵn đó bật ra vậy thôi, còn nghĩ dùng cái đó là tự mình tách rời ra.
Đoạn cuối Phật giải thích rõ, Ngài nói cho ba xe, rốt cuộc lại cho một xe thôi, vì Ngài nghĩ rằng ai cũng là con hết, nên dùng lòng bình đẳng mà cho, vì sao? Dầu đem xe đó mà cho khắp cả nước cũng không thiếu, vì ai ai cũng đều đủ hết không phải là cái bên ngoài. Lúc ấy mấy người con ngồi trên xe lớn rồi, mới đặng điều chưa từng có, không phải là chỗ trước kia mình trông. Bây giờ mới thấy ngoài sức mong đợi của mình. Nghĩa là, không mong cầu mà được, tức là ngoài chỗ hiểu biết, ngoài chỗ mình nghĩ tới. Bởi vì sao? Bởi vì ngồi sẵn trong đó rồi còn nói được gì nữa. Mình cứ nghĩ tu sau đó sẽ được cái gì đó, mà không ngờ, khi mình sáng ra là cái mình có sẵn tự bao giờ, cho nên không cầu mà được, còn có cầu mà được là thuộc bên ngoài rồi, mà có được là có mất.
Đó mới thấy được niềm vui chân thật, còn niềm vui trong ba cõi này là niềm vui vô thường, có vui có khổ, vui được chút liền mất, rõ ràng không thật.
Vì chỗ đó khó chỉ, khó nói, cho nên Phật dùng thí dụ để cho mình nhân cái đó thấy cái này thôi, vậy có ai chịu ra chưa?
CHÁNH VĂN:Xá Lợi Phất! Ý của ông nghĩ sao, ông Trưởng giả đó đồng đem xe trâu báu lớn cho các người con, có lỗi hư vọng chăng? Xá Lợi Phất thưa: "Thưa Thế Tôn! Không, ông Trưởng giả đó chỉ làm cho các con đặng khỏi lửa, toàn thân mạng chúng nó chẳng phải là hư vọng. Vì sao? Nếu được toàn thân mạng bèn đã được đồ chơi tốt đẹp, huống nữa là dùng phương tiện cứu vớt ra khỏi nhà lửa.
Thế Tôn! Dầu ông Trưởng giả đó nhẫn đến chẳng cho một thứ xe rất nhỏ còn chẳng phải hư vọng. Vì sao? Vì ông Trưởng giả đó trước có ý nghĩ như vầy: ta dùng chước phương tiện cho các con đặng ra khỏi, vì nhơn duyên đó nên không hư vọng vậy. Huống gì ông trưởng giả tự biết mình của giàu vô lượng, muốn lợi ích các con mà đồng cho xe lớn!
GIẢNG:
Đây Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất, ở trên ông Trưởng giả kêu ra cho ba xe, cuối cùng chỉ cho một xe thôi, vậy ông Trưởng giả đó có lỗi hư vọng không? Ngài Xá Lợi Phất thưa: Không có hư vọng, bởi vì ông Trưởng giả cứu được các người con bảo toàn thân mạng, đó là cái lợi ích lớn rồi, huống nữa là ông còn cho xe lớn, dù ông không cho xe nào cũng không hư vọng. Bởi vì sao? Bởi mục đích là cứu được thân mạng cho người con đó. Mục đích đó thành công, đâu phải là hư dối. Như Phật dùng phương tiện khiến cho mình ra khỏi nhà lửa, thoát được sanh tử luân hồi đó là lợi ích lớn rồi, chỉ bấy nhiêu đó thôi mình thấy quá vui rồi, huống nữa Phật còn chỉ ra cái tánh giác sẵn có cho mọi người, tức là Tri Kiến Phật, để cho mọi người tự nhận rồi sống với cái bất diệt đó, trong đó đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn, thì còn gì hơn nữa mà nói là hư dối. Tuy nói không được gì hết, nhưng mà tự mình được cái đã bỏ quên, mình sống lại với cái sẵn có đó, thì cái niềm vui này còn cái gì diễn tả nữa. Không có hư dối là vậy.
Cũng như ở trong nhà thiền, có người đến hỏi các Thiền Sư là:
- Thế nào là Phật?
Thì các Ngài đáp là:
- Ba cân gai!
Thì như vậy có hư dối không? Phật là ba cân gai sao? Ba cân gai không phải là Phật rồi, nhưng ở đây đánh thức ông Phật hiện tiền vô phân biệt của mình đó. Bởi vì mình đang sống trong phân biệt cho nên hỏi thế nào là Phật là cũng tìm Phật để hiểu, tức là phân biệt theo tình thức. Thiền sư muốn phá cái tình thức đó, đánh thức ông Phật hiện tiền vô phân biệt đây, cho nên nói ba cân gai mình hết nghĩ ngợi, như vậy mình mới nhận ra ông Phật thật của mình. Vậy nói ba cân gai không phải là nói suông, không phải luống uổng, không phải hư vọng. Đây cũng vậy, kêu ra cho ba xe, rốt cuộc chỉ cho một xe thôi, là chỉ cho chỗ chân thật đó, mình thấy như vậy là không hư dối, nhưng chỉ có người bắt chước nói bừa tức là mình không thấu được lẽ thật thì quả là hư dối.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo Ngài Xá Lợi Phất: "Hay thay! Hay thay! Như lời ông nói, Xá Lợi Phất! Như Lai cũng lại như thế, Phật là cha của tất cả thế gian, ở nơi các sự sợ hãi suy não lo buồn, vô minh che tối hết hẳn không còn thừa, mà trọn thành tựu vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, có sức đại thần thông cùng sức trí huệ, đầy đủ các món phương tiện, trí huệ ba la mật, đại từ đại bi thường không hề lười mỏi. Hằng vì cầu việc lành lợi cho tất cả muôn loại mà sanh vào nhà lửa tam giới cũ mục này, để độ chúng sanh ra khỏi nạn lửa, Sanh, già, bệnh, chết, lo buồn khổ não, ngu si tối tăm, ba độc, dạy bảo cho chúng sanh đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
GIẢNG:
Phật khen ngợi lời đáp của Ngài Xá Lợi Phất đó là đúng, Phật cũng như vậy. Đây là hợp pháp lại Phật có vô lượng tri kiến, trí lực, vô sở úy, dứt hết không còn thừa, đã ra khỏi sanh tử này rồi, nhưng mà bây giờ vì lợi ích cho mọi người, mọi chúng sanh, nên Ngài mới sanh trong nhà lửa này để mà độ.
CHÁNH VĂN:
Ta thấy, các chúng sanh bị những sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não nó đốt cháy, cũng vì năm món dục tài lợi mà bị các điều thống khổ. Lại vì tham mê theo đuổi tìm cầu nên hiện đời thọ các điều khổ, đời sau thọ khổ địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Nếu sanh lên trời và ở trong loài người thời nghèo cùng khốn khổ, bị khổ về người yêu thường xa lìa, kẻ oán ghét lại gặp gỡ. Các món khổ như thế mà chúng sanh chìm trong đó vui vẻ dạo chơi, chẳng hay chẳng biết, chẳng kinh chẳng sợ, cũng không sinh lòng nhàm không cầu giải thoát, ở trong nhà lửa tam giới này đông tây rảo chạy dầu bị khổ nhiều vẫn chẳng lấy làm lo.
GIẢNG:
Phật thấy các chúng sanh bị sanh, già, bệnh, chết, lo buồn, khổ não nó đốt cháy. Vì sao lại có những cái này? Vì sanh, già, bệnh, chết là hiện tướng của vô thường; do vô thường mới có từ sanh đến già, cũng do vô thường mới có lúc mạnh, lúc bệnh rồi đến lúc chết, cũng do vô thường mà có thương yêu phải xa lìa. Người mình yêu mến đâu muốn xa lìa, chỉ muốn gần mãi, khi vô thường đến khiến cái duyên gì đó phải chịu xa lìa mà xa lìa thì khổ. Còn kẻ oán ghét, người mình không ưa thì đâu muốn gặp, nhưng vô thường đưa đến lại gặp nữa, cứ thế mà khổ mãi, cho nên cái khổ đã nằm sẵn trong vô thường. Phật thấy chúng sanh sống trong đó, Ngài thương nên vào đây để đánh thức; nhưng mình còn chìm trong đó không biết, không hay, cứ đông tây mà rảo chạy dầu bị khổ nhiều mà cũng không cầu giải thoát.CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Đức Phật thấy việc này bèn nghĩ rằng: Ta là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí huệ vui của Phật để chúng nó dạo chơi.
GIẢNG:
Phật thấy ai cũng như con, tức là mọi người đồng ở trong cảnh giới Như Lai đó mà mê lầm không biết, cứ nhận nhà lửa tam giới vô thường này làm nhà của mình, sống loanh quanh trong đó rồi chịu khổ. Vì vậy Phật thường hiện thân trong tam giới để đánh thức mình, tức đánh thức bầy con đang mê chạy giỡn vui trong ngũ dục đó. Vui trong ngũ dục là vui trong khổ chứ có gì? Nhưng mình không xét thấu, mình tưởng là vui, sự thật chỉ là vui tạm thôi. Nếu thế gian thật là vui, thì chắc là ở trên cõi đời này, khỏi cần bày ra những trò vui giả tạo nữa, như cải lương, phim ảnh. Người chết đã mấy trăm năm, dựng lên tuồng hát cho vui, vậy có vui thật không? Bởi vì cuộc sống nhiều khi nhọc nhằn khổ quá, xem chút cho đỡ buồn, mượn đó để tạm vui chút vậy thôi, ngoài ra còn có cái vui như đá gà, vui này là vui trên cái khổ của chúng sanh. Hễ vỗ tay cười, nhìn lại con gà đã đổ máu; hoặc xem đấu võ, dưới này vỗ tay cười là có người bị đo ván rồi, đó là vui trên cái khổ của người, vậy có thật vui chưa? Hiểu rõ như vậy mới thấy Phật nói lẽ thật, vui trong thế gian là vui trong khổ, không vui thật. Cho nên Phật đánh thức cho mỗi người nhớ lại tánh giác sẵn có của mình, để mình sống trở lại trong Vô thượng Bồ đề, cái đó mới là cái vui thật, mà ở đây Phật nói:
Ngài là cha của chúng sanh nên cứu chúng nó ra khỏi nạn khổ đó, ban vô lượng vô biên món trí tuệ vui của Phật. Đó là cái vui chân thật.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Đức Như Lai lại nghĩ: Nếu ta chỉ dùng sức thần thông cùng sức trí tuệ bỏ chước phương tiện, mà vì chúng sanh khen ngợi các món tri kiến, trí lực, vô sở úy của Như Lai, ăét chúng sanh chẳng có thể do đó mà đặng độ thoát.
Vì sao? Vì các chúng sanh đó chưa khỏi sự sanh, già, bệnh, chết, lo buồn đau khổ, đương bị thiêu đốt trong nhà lửa tam giới, làm sao có thể hiểu được trí huệ của Phật.
GIẢNG:
Tức là đang sống trong đau khổ phiền não, trong tâm sanh diệt, thì làm sao hiểu được tâm thật này. Cho nên tuy Phật có sức thần thông mà không dùng cái đó, phải dùng phương tiện kêu gọi; nghĩa là Phật thấy rõ chúng sanh lẩn quẩn trong ba cõi, thí dụ lên cõi trời tuy có vui nhưng khi hết phước rớt xuống lại khổ, vậy cũng chịu trong sanh tử vô thường thôi. Trong kinh nói mấy ông trời đó sống lâu, không có tướng già như mình, nên ít nhớ tới vô thường; đến khi tuổi thọ sắp hết, nó hiện ra tướng vô thường, như là thân ra mồ hôi, hoa trên đầu héo, các hiện tướng đó xuất hiện thì họ giật mình, biết sắp chết rồi, thấy khổ sở vô cùng vì họ ít thấy chết. Vì vậy sanh lên cõi trời cũng khổ, nên ở đây nói đông tây rảo chạy cũng không ra ngoài nhà lửa đó. Phật thấy họ sống khổ như vậy, còn vô minh, còn trong tâm sanh diệt, những phiền não còn đầy đó, mà bây giờ dùng thần thông cho ở cõi Phật đi nữa thì họ có hết khổ không?
Do đó, Phật không dùng thần thông, mà dùng phương tiện để đánh thức cho mình biết là khổ, mình tu hành cho hết tham, sân, si, dừng tạo nghiệp rồi mới chỉ ra cái thật thì mới được vui, mới hết khổ, lẽ thật là như vậy, Thí dụ con chó bị ghẻ nếu đem để trên lầu năm, rồi cho nó nằm nệm, nó hết khổ không? Nó còn đang ghẻ, thì dù có lên đó nó cũng không hết ngứa được, nên cũng khổ thôi. Điều quan trọng là phải trị cho nó hết ghẻ, thì nó ở dưới này nó cũng vui nữa.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả kia dầu thân và tay có sức mạnh mà chẳng dùng đó, chỉ ân cần phương tiện gắng cứu con thoát nạn nhà lửa, vậy sau đều cho xe trân báu lớn.
GIẢNG:
Phương tiện khiến cho mình quên cái thân tâm sanh diệt vô thường này, thì mới cảm nhận được chỗ vi diệu kia, còn bám chấp vào thân tâm sanh diệt hư giả này, và quý nó quá, mà bảo chỉ cái thật kia thì làm sao nhận nổi, đã không nhận nổi có khi còn chê bai nữa.CHÁNH VĂN:
Đức Như Lai cũng lại như thế, dầu có trí lực cùng sức vô úy mà chẳng dùng đến, chỉ dùng trí huệ phương tiện nơi nhà lửa tam giới cứu vớt chúng sanh, vì chúng sanh nói ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác cùng Phật thừa, mà bảo rằng: "Các ngươi không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới, chớ có ham mê các món sắc, thinh, hương, vị, xúc thô hèn, nếu tham mê ắt sanh ái nhiễm thời sẽ bị nó đốt, các ngươi mau ra khỏi ba cõi, sẽ đặng chứng ba thừa: Thanh Văn, Duyên Giác và Phật Thừa.
GIẢNG:
Ở đây Phật nói thêm, Ngài dùng phương tiện nói ba thừa Thanh Văn, Duyên Giác và Phật Thừa, mà bảo mình tỉnh lại, không nên ưa ở trong nhà lửa tam giới này. Ở trong đó nếu tham mê thì sanh ái nhiễm, ái nhiễm là cái đốt mình khổ, cho nên phải mau ra, muốn mình tỉnh giác mà dứt cái niệm ái nhiễm, đây chính là tập nhân của khổ đế, là nhân của luân hồi sanh tử.Trong nhà Thiền có câu chuyện: Hòa thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư lại đem cái bát cất kỹ gần bên mới an tâm. Có lần nhân tuổi thọ sắp hết, Vua Diêm La sai quỷ đến bắt Sư, song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười ngồi nhập định xem Vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý thổ địa. Thổ địa bảo:
- Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích cái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe bát động, động niệm liền xuất định giữ lại! Quỷ thấy Sư xuất định liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ đây xin mời Ngài theo tôi đến gặp Vua Diêm La!
Thiền sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất đi huệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại và để bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong
Tạm dịch:Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ khi sắt luyện khóa hư không
Nếu hay khóa được hư không ấy
Trở lại bắt ta Kim Bích PhongĐó là vì có chút tình luyến ái vật sở hữa mà tâm bị động, tâm động liền có tướng hiện, tức bị quỷ thần xem thấy. Đây là Sư còn có sức định tỉnh mạnh nếu không đã bị trở lại trong sanh tử rồi!
Một câu chuyện khác, là có một ông tướng có bộ đồ trà cổ rất quý. Ông quý bộ tách cổ đó hơn những người quen thân. Một hôm ông đang cầm mân mê xem, bỗng sảy tay rớt, ông hoảng hốt chụp lấy, lúc đó mặt ông tái xanh sợ rớt bể, thì ngay đó ông chợt tỉnh, ông nghĩ: "Ta đã từng vào sanh ra tử, trước trận địa lớp lớp hàng hàng tên đạn, mà không có chút gì sợ sệt hết, hôm nay tại sao vì cái tách nhỏ mà sợ sệt như vậy?". Ông tỉnh lại biết vì do cái ái, thuận tay ông quăng bể luôn.
Quý vị thấy khổ trong ái luyến này chưa? Mà cái tham ái này là do si mê không thấy được lẽ thật nên mới ái thôi. Do đó mở sáng trí tuệ, thấy được lẽ thậtù, thì trừ những niệm này. Cho nên Phật kêu ra để tỉnh lại, để trừ cái tâm ái nhiễm này, phiền não này bớt, chỉ ra lẽ thật mình dễ thấy hơn. Nếu còn cái ái này, khi về cõi Phật thấy đẹp quá lại ái nữa.
CHÁNH VĂN:
Nay ta vì các ngươi mà bảo nhiệm việc đó quyết không dối vậy.
Các ngươi chỉ nên siêng năng tinh tấn tu hành. Đức Như Lai dùng phương tiện ấy để dẫn dụ chúng sanh thẳng đến, lại bảo: Các ngươi nên biết rằng pháp ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, là pháp tự tại không bị ràng buộc không còn phải nương gá tìm cầu, ngồi trong ba thừa này dùng các món căn, lực, giác chi, thánh đạo, thiền định vô lậu, cùng giải thoát tam muội vv… để tự vui sướng, đặng vô lượng sự an ổn khoái lạc.
GIẢNG:
Ở đây Phật nói rõ ba thừa đều là pháp của bậc Thánh khen ngợi. Như vậy Phật có chê Thanh Văn Duyên Giác không? Nhiều khi mình học không tới, liền nói pháp này là pháp tiểu thừa, pháp kia là pháp đại thừa, rồi khen chê trong đó, chính tâm khen chê đó là tâm sinh diệt. Ở đây Phật nói ba thừa đó đều là pháp của các đấng Thánh khen ngợi, nhưng đó là phương tiện, chớ lầm kẹt trên đó. Mình phải khéo nhận đến chỗ chân thật không hai, thấy đến lẽ thật đó thì mới là điểm trọng yếu. Nghĩa là mình phải quên niệm kia đây để thấy nó đồng một thể, chứ không phân biệt pháp này pháp kia, Thanh Văn, Duyên Giác đều là phương tiện để đưa mình đến chỗ chân thật không hai thôi.CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Nếu chúng sanh nào bề trong có trí tánh, theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận ân cần tinh tấn, muốn chóng ra khỏi ba cõi tự cầu chứng Niết Bàn gọi đó là Thanh Văn thừa, như các người con kia vì cầu xe dê mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG:
Thanh Văn thừa đó, là do tâm mong muốn chóng ra khỏi ba cõi, tự chứng Niết Bàn dụ cầu xe dê.CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp, tin nhận, rồi ân cần tinh tấn, cầu trí huệ tự nhiên, ưa thích riêng lẽ vắng lặng, sâu rõ nhơn duyên của các pháp, gọi đó là Duyên Giác thừa, như các người con kia vì cầu xe hươu mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG
Đây do tâm của người mong cầu trí tuệ tự nhiên, sâu về lý nhân duyên của các pháp, ưa thích ở nơi vắng lặng riêng lẽ một mình, thì thuộc về Duyên giác thừa. Tức cũng do tâm mong muốn của người, chứ không phải là do pháp.
CHÁNH VĂN:
Nếu có chúng sanh nào theo đức Phật Thế Tôn nghe pháp tin nhận, siêng tu tinh tấn cầu nhứt thiết trí, Phật trí, tự nhiên trí, vô sư trí, các món tri kiến lực, vô úy của Như Lai, có lòng thương xót làm an vui cho vô lượng chúng sanh, lợi ích Trời, người độ thoát tất cả, hạng đó gọi là Đại Thừa. Bồ Tát vì cầu đặng thừa này thời gọi là Ma Ha Tát, như các người con kia cầu xe trâu mà ra khỏi nhà lửa.
GIẢNG:
Bồ Tát thì cũng do tâm cầu trí huệ Phật rồi rộng độ chúng sanh. Như vậy tùy theo tâm lượng căn cơ mong muốn tu hành mà thành có sai khác, chứ không phải tại nơi pháp. Nhiều khi mình phân biệt
khen chê, đó là điều không hay. Nếu mình hiểu rõ khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế một cách thấu suốt, thì thấy rõ tứ đế đó không phải thuộc về tiểu thừa. Nếu nhìn bằng mắt đại thừa thì tứ đế cũng là đại thừa.Như Phật nói khổ đế, tập đế đó là để chi? Là để mình sáng tỏ không lầm lẫn cái nhân quả sanh diệt vô thường. Vì tập đế là nhân sanh diệt đưa đến khổ đế là quả sanh diệt mình không lầm nó với thật tướng thường trụ tức không lầm nhân quả sanh diệt với thật tướng thường trụ nơi mình. Biết như vậy thì không có diệt đế, đạo đế nào riêng khác để chứng, chỉ là sống trở về chân thật nơi mình, đó là khéo chuyển tứ đế thành ra đại thừa rồi. Như vậy mình đưa tứ đế đó về nhất thừa, không còn có niệm phân biệt pháp này cao, pháp kia thấp, mà đó là tùy theo căn cơ của mỗi người.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả kia thấy các con được an ổn ra khỏi nhà lửa đến chỗ vô úy, ông tự nghĩ, ta của giàu vô lượng, nên bình đẳng đem xe lớn đồng cho các con. Đức Như lai cũng lại như thế, là cha của tất cả chúng sanh, nếu thấy có vô lượng, nghìn ức chúng sanh do cửa Phật giáo mà thoát khỏi khổ, đường hiểm đáng sợ của ba cõi đặng sự vui Niết bàn.
Bấy giờ, đức Như Lai bèn nghĩ: "Ta có vô lượng, vô biên trí huệ, lực vô uý…Tạng pháp
của các Đức Phật, các chúng sanh này đều là con của ta đồng ban cho pháp đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng, đều đem pháp diệt độ của Như Lai mà cho chúng sanh nó diệt độ.
Những chúng sanh đã thoát khỏi ba cõi đó, Phật đều cho món vui thiền định, giải thoát… của các Đức Phật, các món đó đều là một tướng, một thứ mà các đấng thánh khen ngợi, hay sanh ra sự vui sạch mầu bậc nhất”.
GIẢNG:
Đây Phật nói rõ, khi Ngài phương tiện đánh thức mọi người ra khỏi rồi, Ngài nghĩ ngài có trí huệ vô lượng vô biên đồng ban cho một pháp thôi, tức một pháp đại thừa, chẳng để có người được diệt độ riêng.
Đây là phá chỗ thấy có riêng khác, đã là diệt độ sạch hết phiền não thì phải sạch hết như nhau, không còn cấp bậc nào mới phải. Đến chỗ diệt độ sạch hết phiền não rồi, mà còn sạch hết phiền não của Thanh văn, sạch hết phiền não của Duyên giác, sạch hết phiền não của Bồ tát, như vậy đã sạch hết phiền não rốt ráo hoàn toàn chưa? Phật phá ý niệm thấy có cái diệt độ riêng đó. Trong nhà Thiền, Tổ Lâm Tế nói:" Theo chỗ thấy của sơn tăng thì cùng Phật Tổ không khác". Khi thấy lẽ thật đó rồi, thì nó phải không khác với Phật, không khác với Tổ. Nếu cái thấy còn có sai biệt, còn thấy khác với Phật Tổ, là cái thấy đó chưa đến chỗ rốt ráo rồi.
CHÁNH VĂN:
Xá Lợi Phất! Như ông Trưởng giả ban đầu dùng ba thứ xe dụ dẫn các con, sau rồi chỉ ban cho xe lớn, vật báu trang nghiêm, an ổn thứ nhất, song ông Trưởng giả kia không có lỗi hư dối. Đức Như Lai cũng như thế, không có hư dối, ban đầu nói ba thừa dẫn dắt chúng sanh sau rồi chỉ dùng đại thừa mà độ giải thoát đó.
Vì sao? Như Lai có vô lượng tạng pháp trí huệ, lực, vô sở úy, có thể ban pháp đại thừa cho tất cả chúng sanh, chỉ vì chúng sanh không thọ được hết.
GIẢNG:
Phật nói rõ, Ngài có vô lượng tạng pháp trí tuệù để ban hết cho chúng sanh, nhưng vì chúng sanh không thọ được hết thôi. Tại sao không thọ được hết? Bởi vì mình còn dùng tâm lượng nhỏ hẹp của mình cho nên không thọ được hết, nếu mở rộng tâm mình thì sẽ thọ được hết. Do đó Phật phải dạy mình trước hết phải thấu suốt vô ngã, có quên được cái ngã tướng nhỏ hẹp này, thì tâm mới mở rộng được để tiếp nhận cái sâu xa, nếu còn bao quanh trong cái ngã giới hạn này, thì tâm nhỏ hẹp không lãnh hội được hết chỗ sâu xa kia.
Như vậy ở trên Phật nói pháp ba thừa ra đó, đều là phương tiện không có pháp cố định, mà mình phải thấy cho tột chỗ tâm Phật giác ngộ, đó mới là chỗ tột.
CHÁNH VĂN:
Xá lợi phất! Vì nhơn duyên đó nên phải biết các đức Như Lai dùng sức phương tiện ở nơi Phật thừa phân biệt nói thành ba.
GIẢNG:
Chỉ ở một Phật thừa thôi mà phân biệt nói thành ba, nói ba đó là tuỳ theo tâm và căn cơ của mỗi người.
Tâm mà chỉ mong cho mình mau thoát khổ để chứng Niết bàn, đó là tâm của Thanh văn.
Tâm thích ở riêng một mình, để thấy rõ lý nhân duyên của các pháp, mở sáng được trí tự nhiên đó là tâm của Duyên giác.
Còn tâm mong mỏi được trí Phật, để độ thoát chúng sanh không bỏ sót ai hết, đó là tâm của Bồ tát.
Như vậy, tuỳ theo tâm mà phân là Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát, chứ không phải có pháp cố định. Bởi vậy Ngài Lâm Tế tuỳ theo người đến, có khi ngài đoạt người mà chẳng đoạt cảnh, trừ người không trừ cảnh, có khi đoạt cảnh chẳng đoạt người, lại có khi đoạt cả người và cảnh, có khi người và cảnh không đoạt, không trừ gì hết. Ở đây cũng vậy, Phật khi nói Tứ Đế, khi nói Nhân duyên, khi lại nói Lục độ, nói như vậy là tuỳ theo căn cơ thôi, mình phải thấy đến tột chỗ nguồn tâm chân thật của Phật đó, thấy được chỗ đó là thấy được chỗ gặp nhau, tức quên chỗ sai biệt. Cho nên cuối cùng Phật nói chỉ đồng một thể giác, cũng như Phật không khác. Mình mê là chúng sanh, giác là Phật, đâu có hai, ba, thứ lớp gì? Thấy được chỗ đó thì mới thấy được chỗ nhất thừa này. Đó là khiến cho mọi người tin nhận mà vươn lên, không có mắc kẹt, không có chết theo phương tiện thứ lớp của các Ngài, không có dẫm chân mãi trong dấu vết cũ đó. Nghe nói có thừa này, thừa kia rồi mắc kẹt theo các thừa đó, tức là mắc kẹt theo phương tiện, chữ nghĩa.
Trong nhà thiền có câu: "Cái thấy bằng thầy kém thầy nửa đức, cái thấy vượt thầy mới kham truyền trao".
Cái thấy mà vượt hơn Thầy là cái thấy sao? Đó là phải soi lại mình, mình sống dậy mà không kẹt nơi ông Thầy. Cái thấy mình còn nương ông Thầy, tức còn kẹt nơi ông Thầy, lệ thuộc nơi ông Thầy, tức còn bám theo dấu vết của ông Thầy. Còn đây mình nhân chỗ ông Thầy dạy đó, mình phải soi lại mình, từ chỗ mở sáng trí tuệ ngay chính mình đó, mình tự sống dậy, như vậy mới kham truyền trao được. Đó là chỗ mình làm cho Phật pháp sống động, nó truyền mãi không dứt.
Đó là phần hợp pháp trở lại về thí dụ nhà lửa ba xe- tiếp theo Đức Phật muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
CHÁNH VĂN:
Thí như ông Trưởng giả.
Có một nhà rất lớn
Nhà đó đã lâu cũ
Mà lại rất xấu xa
Phòng nhà vừa cao nguy
Gốc cột lại gãy mục
Trính xiêng đều xiêu vẹo
Nền móng đã nát rã
Vách phên đều sụp đổ
Đất bủn rơi rớt xuống
Tranh lợp sa tán loạn
Kéo đòn tay rời khớp
Bốn bề đều cong vạy
Khắp đầy những tạp nhơ
Có đến năm trăm người
Ở đổ nơi trong đó.
GIẢNG:Đây Phật nhắc lại, như có ông Trưởng giả là ông chủ nhà, mà chủ nhà đó là dụ cho Như Lai. Rồi nhà này là nhà đã lâu cũ, tức chỉ cho cái vô thường này là lẽ thật từ xưa đến giờ, chứ không phải mới có, không phải ai đặt ra. Phật ra đời Ngài giác ngộ, Ngài chỉ cho mình thôi, chứ không phải Ngài ra đời rồi mới có.
Ngài mới kể, phòng nhà vừa cao, gốc cột đó gãy mục, trính xiêng đều xiêu vẹo hết. Đó là dụ sự vô thường, không bền vững của ba cõi này, sự vô thường đó nó luôn luôn đeo đuổi tàn hại con người, dù cho vua chúa, tiên, hiền thánh gì ở trong đây cũng chịu chung lẽ đó hết cho nên gọi là:
Tam giới vô an
Du như hỏa trạch.Giống như nhà lửa, chỗ này không phải chỗ mình ở lâu, chớ có đắm mê, phải nhớ sanh tử là việc lớn để luôn luôn tỉnh mà thoát ra. Nhà này vách phên đều sụp đổ, đất bủn rơi rớt xuống, là nói lên nó sụp đổ bất cứ lúc nào, nhưng mình không hay; sống trong đó không biết mình chết lúc nào, không tính trước được. Song cần nhất là phải nhận ra được ông chủ trong đó, Ngài Lâm Tế nói:"Ở trong cục thịt đỏ có một vị Chơn nhơn không có ngôi thứ gì hết.” Trong cục thịt đỏ tức trong thân mình đây, có một vị Chơn nhơn là con người chân thật. “Con người đó thường ra vào ở ngay mặt các ông". Con người chân thật thường ra vào ngay trong mặt mình đây, mà mình không hay không biết gì hết. Sao là nó thường ra vào trong mặt mình? Tức luôn luôn nó thấy, nó nghe đủ thứ hết, nó ra vào đó mà mình không nhận được con người chân thật này, mình lại nhận cái bị thấy, bị nghe thôi. Nó thấy cái gì, nó nghe cái gì, mình theo đó mà nhận cái sắc, cái tiếng, quên mất người chân thật nó nghe, nó thấy hết tất cả kia kìa. Ở đây nhắc mình khéo thấy con người chân thật đó, thì mình mới giải quyết được cái khổ trong nhà lửa này. Ở trong nhà lửa này đầy những tạp nhơ, có đến năm trăm người ở trong đó, là để chỉ cho chúng sanh sống đông đầy ở trong đó.
CHÁNH VĂN:
Chim xi, hiêu điêu, thứu
Quạ, chim thước, cưu, cáp
Loài ngươn xà, phúc yết
Giống ngô công, do diên
Loài thủ cung, bá túc
Dứu, ly, cùng hề thử.GIẢNG:
Quạ, chim thước, cưu, cáp: đó là những loài chim dâm nhiều, sát nhiều, độc hại.
Loài ngươn xà, phúc yết: là loài rắn độc, giống ngô công là rắn rít.
Do diên là cuốn chiếu.
Loài thủ cung và tá túc: là thạch sùng, rít.
Dứu, ly, cùng hề thử: là chồn, cáo, chuột.
CHÁNH VĂN:Các giống độc trùng dữ
Ngang dọc xen ruổi chạy
GIẢNG:Ở trên nói chim cú, chim cưu, chim cáp, chim hiêu, chim điêu là những con sát sinh, những con dâm dục, và những loài độc hại như rắn rít. Coi như nhân quả ác nghiệt đầy dẫy trong đó, lấy ba độc làm chủ trì trong cuộc sống này, tức là sống trong ba độc. Các giống độc đó nó cứ ngang dọc xen ruổi chạy, là nói mình để buông thả cho ba độc mặc tình nó phát ra, mà không tự kiềm chế được.
CHÁNH VĂN:Chỗ phân giải hôi thối
Đồ bất tịnh chảy tràn
Các loài trùng khương lương
Bu nhóm ở trên đó
GIẢNG:Nói lên trong đó nó thải ra những đồ nhơ nhớp, thân bất tịnh, thân nam thân nữ cũng đều bất tịnh hết, nếu nói thật sự sạch thì không cần phải tắm, mấy tiệm xà phòng thơm cũng dẹp tiệm luôn, bởi sạch sẵn rồi, nhưng ở đây thì không phải vậy, phải cần những thứ đó, để cho nó bớt mùi dơ, mà do con mắt người phàm điên đảo, lấy cái dơ mà làm sạch, rồi tham đắm giành giựt trong đó, đây mới nói là những loài trùng khương lương, nó bu nhóm trên đó, giành giựt đểø làm vui. Như ngoài đời nam bu nhóm theo nữ rồi nữ bu nhóm theo nam, rồi cấu xé, đấu đá giết nhau hại nhau trên các nhơ nhớp, vì sao lại như vậy? Vì cái tưởng thôi, không có gì khác, bởi do cái tưởng lấy dơ làm sạch, rồi bu nhóm giành giựt trên cái thây dơ, có khi chết rồi mà cũng giành nữa, giành cái thây thối rữa.
Như con cháu trong nhà, cha mẹ chết rồi, giành giựt để chôn. Trong chùa cũng vậy, trong chùa Thầy chết thì đệ tử giành để nhập tháp ở chùa của tôi, nhưng cũng giành cái thây thối mà thôi, mới thấy điên đảo nhiều là như vậy đó! Cho nên nói bu nhóm, rồi giành giựt trên đó.
CHÁNH VĂN:
Cáo, sói, cùng dã can
Liếm nhai và dày đạp
Cắn xé những thây chết.
Xương thịt bừa bãi ra
Do đây mà bầy chó
Đua nhau đến ngoạm lấy
Ốm đói và sợ sệt.
Nơi nơi tìm món ăn
Giành giựt cấu xé nhau
Gầm gừ gào sủa rân
GIẢNG:Đây nói lên sự giành giựt nhau thật đáng ghê sợ trong tam giới này! Chó đua nhau ngoạm lấy, giành giựt, gào sủa vang lên, để chỉ tình trạng đua chen ghê gớm, hết còn sáng suốt, say mê trong đó càng sâu nó lại càng hăng. Đó là muốn nhắc, để mình bớt lòng tham mà tỉnh lại, nếu còn đắm trong đó thì không còn sáng suốt nữa. Cho nên cứ lo đua tranh giành giựt, đó là cái vô minh điên đảo, tưởng giành giật cái gì, chỉ là giành giật cái thây chết thôi.
CHÁNH VĂN:
Nhà đó sự đáng sợ
Những biến trạng dường ấy.
GIẢNG:Những biến trạng đó nói lên cái gì? Cái này nó không phải thật gì chỉ là biến trạng thôi, tức là do vô minh bất giác hiện ra, chớ không phải thật.
Ở đây tất cả những chúng sanh này, ai cũng đều có đủ ông chủ là Như Lai chân thật đó mà mình không sáng suốt thấy được, mình bỏ quên. Chính bỏ quên, bất giác mới sanh tâm gì?
CHÁNH VĂN:Khắp chỗ đều có những
Quỷ, ly, mỵ, vọng lượng
GIẢNG:
Đó là sanh những tâm quỷ quái, ly mị, vọng lượng rồi nó đưa mình đi vào chỗ tà động, ăn nuốt, giết hại lẫn nhau, càng đắm trong đó thì càng mê, mê càng nhiều thì càng hăng thêm nữa.CHÁNH VĂN:
Quỷ dạ xoa quỷ dữ
Nuốt ăn cả thịt người
Các loài trùng độc dữ
Những cầm thú hung hăng
Ấp, cho bú sản sanh
Đều tự giấu gìn giữ
Quỷ dạ xoa đua đến
Giành bắt mà ăn đó.
GIẢNG:Đây là nói cái nhân quả nó xoay vần, nhân ác chuốc quả ác. Cho nên ở trong đó loài trùng độc dữ, những loài cầm thú hung ác, sanh con, ấp cho con bú giữ gìn, thì quỷ dạ xoa lại đến giành bắt ăn, nhân ác đưa đến quả ác, nó cứ lẫn quẩn trong đó mà không ra khỏi được.
Dạ xoa là tên tiếng Phạn, Trung Hoa dịch làTiệp tật quỷ, lấy cái khổ mà làm sự sống, quên mất pháp thân chân thật của mình tự thuở nào, lo giành bắt ăn nuốt nhau.
CHÁNH VĂN:
Ăn đó no nê rồi
Lòng hung dữ thêm hăng.GIẢNG:
Say mê ngũ dục đó rồi, ba độc càng lẫy lừng, vô minh càng dày thêm nữa, cho nên gọi là lòng hung dữ thêm hăng.
CHÁNH VĂN:Tiếng chúng đánh cãi nhau
Thật rất đáng lo sợGIẢNG:
Tiếp là đánh đá cãi cọ, thì hết còn biết sáng suốt gì. Trong khi đó ngay đây nhớ lại thì sao? Thì biết rằng “Như Lai đang đứng nhìn mình đó”ù, ông Trưởng giả đang đứng nhìn kêu ra nhưng mà không hay!!!
CHÁNH VĂN:
Những quỷ cưu bàn trà
Ngồi xổm trên đống đất
Hoặc có lúc hỏng đất
Một thước hay hai thước
Qua rồi lại dạo đi
Buông lung chơi cùng giỡn
Nắm hai chân của chó
Đánh cho la thất thinh
Khủng bố chó để vui.GIẢNG:
Cưu bàn trà là loài quỷ hút tinh khí người, ở đây dụ cho quỷ vô thường, nó sát hại rất đáng sợ, bởi vậy mà nó ngồi xổm trên đống đất, qua lại dạo đi, là muốn nói lên cái gì? Đó muốn nói lên ở trong cõi dục giới, sắc giới và vô sắc giới, tức cả ba cõi đó đều không thoát khỏi con quỷ vô thường này. Nó qua lại khắp ba cõi, mặc tình mà khủng bố chúng sanh. Cho nên nói, ở trong đó dạo đi đùa giỡn nắm chân chó đánh la chơi.
CHÁNH VĂN:
Lại có các giống quỷ
Thân nó rất cao lớn
Trần truồng thân đen xấu
Thường ở luôn trong đó.GIẢNG:
Đây nói ngạ quỷ tướng đáng ghê sợ, vẫn ở luôn trong đó. Tức một khi vào trong này rồi khó mà ra được, nhất là sanh trong loài ngạ quỷ rồi muốn ra khỏi, thời gian càng lâu nữa. Như câu chuyện Tổ Xà Dạ Đa, một hôm đi khất thực đến một cửa thành, thấy có một con ngạ quỷ con đứng thất thểu, thấy vậy Ngài hỏi:
- Sao ngươi đứng đây thất thểu buồn vậy?
Con quỷ con đó nói:
- Tôi sanh ra mới mấy ngày, ở đây chờ mẹ vào trong thành kiếm món ăn ra, đứng chờ hoài lâu quá mà chưa thấy ra, xin Ngài có vào thành thì nhắn giùm.
Ngài Xà Dạ Đa đi vào thành gặp quỷ mẹ Ngài mới hỏi:
- Sao ngươi ở đây lâu quá vậy, con ngươi ở ngoài thành đang chờ ngươi?
Thì nó mới nói rằng:
- Tôi vào trong đây để kiếm đồ ăn đem về cho con, nhưng kiếm hoài không gặp, do cái thân mới sanh nên sức yếu, cho nên có được cái gì thì bị những loài quỷ mạnh hơn nó giành giựt hết rồi. Hôm nay có người bệnh khạc ra một ít đàm mới giựt được, mà bây giờ còn chưa dám ra vì sợ mấy quỷ thần có năng lực, đang giữ cửa thành, họ không cho ra. Vậy xin Ngài giúp đưa ra giùm để gặp con cho nó ăn.
Quý vị thấy, sanh trong ngạ quỷ là khổ rồi, mà ăn đâu phải đồ ăn như mình, chỉ ăn được máu, mủ, đồ dơ dư thừa thôi.
Khi đưa ra rồi Ngài mới hỏi tiếp:
- Bao giờ thì mới hết kiếp ngạ quỷ như vậy?
Ngạ quỷ đó nói:
- Thời gian bao lâu tôi không biết nữa, nhưng tôi sống đến nay thì thấy thành này nó thành nó hoại đã bảy lần rồi.
Vậy kiếp ngạ quỷ nó dài bao nhiêu? Đó là chỉ cái khổ trong ngạ quỷ, thuộc trong tam giới.
CHÁNH VĂN:
Rền tiếng hung ác lớn
Kêu la tìm món ăn
Lại có các giống quỷ
Cổ nó nhỏ bằng kim
Lại có các giống quỷ
Đầu nó như đầu trâu
Hoặc nó ăn thịt người
Hoặc lại ăn thịt chó
Đầu tóc rối tung lên
Rất ác lại hung hiểm
Bị đói khát bức ngặt
Kêu la vừa rong chạy
Dạ xoa cùng quỷ đói
Các chim muông ác độc
Đói gấp rảo bốn bề
Rình xem nơi cửa sổ
Các nạn dường thế đấy
Vô lượng việc ghê sợGIẢNG:
Cho thấy, một phen vô minh điên đảo rồi, thì quay cuồng trong sanh tử, tham sân, điên loạn, sát hại trong đó không còn biết đâu là bờ mé, không biết đâu là lối ra, lẩn quẩn để chịu khổ. Nếu không nhờ Như Lai kêu gọi đánh thức thì không biết bao giờ mới ra khỏi chốn này. Nhưng bây giờ Như Lai kêu gọi đánh thức như vậy đó mà còn không chịu ra nữa, cũng chưa chịu tỉnh giấc! Ở đây có câu này: “những loài chim ác độc đó, còn rình xem nơi cửa sổ nữa kìa". Cửa sổ đó là cửa sổ gì? Cửa sáu căn của mình đây, ngay nơi cửa sáu căn đủ mọi nguy hiểm trong đó, tức nguy hiểm đang rình ngoài cửa vừa phóng ra thì gặp liền! Cho nên người tu phải luôn tỉnh táo. Như mắt vừa phóng ra thấy sắc thì hoặc là sân hay tham, tức thấy đẹp thì tham, còn thấy xấu xí thì sân, là chim ác độc luôn rình xem ở ngoài cửa sổ đó. Bởi vậy Ngài Thạch Sương khi xưa có một câu nói:"Vừa ra khỏi cửa liền là cỏ". Mình vừa phóng ra là gặp cỏ ngay thôi. Đó là nói lên, phải tu thật kỹ, để không lầm trong từng tâm niệm của mình. Nếu vừa thấy, tỉnh liền, khéo như vậy mình sống trở lại, thì ngay đó là chỗ vô sanh chứ không có gì khác. Đây nói các nạn đó ghê như vậy, rất là đáng sợ phải khéo để mà tỉnh trở lại.
CHÁNH VĂN:
Nhà cũ mục trên đó.
Thuộc ở nơi một người
Người ấy vừa mới ra
Thời gian chưa bao lâu
Rồi sau nhà cửa đó
Bỗng nhiên lửa cháy đỏ
Đồng một lúc bốn bề.
Ngọn lửa đều hừng hực
Rường cột và trính xiêng
Tiếng tách nổ vang động
Nát gãy rơi rớt xuống
Vách phên đều lở ngã
Các loại quỷ thần thảy
Đồng cất tiếng kêu to
Các giống chim điêu, thứu
Quỷ cưu bàn trà thảy
Kinh sợ chạy sảng sốt
Vẫn không tự ra đặng.GIẢNG:
Ở đây lặp lại, nhà lửa cũ mục đó thuộc ở nơi một người, người đó là người nào? Phải thấy được người đó, nếu thấy người đó thì làm chủ trong nhà này, còn như quên người đó thì lăn lộn mãi trong nhà lửa, chịu khổ trong sanh tử luân hồi thôi.
Người ấy vừa mới ra, thời gian chưa bao lâu, bỗng nhiên lửa cháy đỏ. Nhà đó thuộc một người, người đó chỉ cho Như Lai. Như Lai đó không phải là Thích Ca Như Lai mình thờ ở trên bàn, mà Như Lai đây là của mỗi người. Nhưng người đó vừa mới ra, tức là sao? Tức là chỉ cho Như Lai thoát ra nhà lửa ba cõi, không thuộc trong vô thường sanh diệt. Ra thời gian chưa bao lâu, bỗng nhiên lửa đó cháy đỏ, thấy được chỗ này, ngộ đạo liền! Ra chút xíu chưa bao lâu, chỉ một niệm bất giác thì đi vào trong vô thường sanh diệt, chỉ một niệm bất giác đó thì ba cõi đều hiện. Tuy ba cõi hiện sanh tử vô thường, nhưng sanh tử đó vốn không tự tánh, cho nên nói bỗng nhiên lửa cháy đỏ, “bỗng nhiên” vậy thôi chứ không có tánh thật, không có ngã thật trong đó để mà sanh tử. Chính vì vậy mình giác được thì sao? Nếu ngay đó giác được liền gặp Như Lai. Như vậy, tuy là nhà lửa vô thường sanh diệt nó triền miên, nhưng nếu mình giác trở lại, thì ngay đó thấy rõ Như Lai ngay trong sanh diệt, chứ không phải là bỏ cái này tìm ở đâu khác. Mình không phải trừ bỏ nhà lửa này hay dẹp đi đâu để được giải thoát. Chỉ ngay trong nhà lửa này, giác là nhảy vào giải thoát.
Tóm lại, chỉ do một niệm bất giác quên tự tánh chân thật của mình thì ba cõi hiện rồi đi vào sanh tử vô thường, nếu giác trở lại, ngay đó liền giải thoát vậy thôi, chứ không nói gốc gác gì hết.
Đây nói nhà lửa cháy lên, rường cột trính xiêng rơi rớt xuống, các quỷ thần trong đó đều đồng cất tiếng kêu to lên, kêu cái gì? Ý nói nó đánh thức để cho mình thấy vô thường đang hiện bày rõ ràng khắp mọi nơi, mọi lúc. Nhưng mình vì vô minh quá sâu dầy nên cũng chưa tỉnh nổi. Rồi trong đó như là chim điêu, chim thứu, quỷ cưu bàn trà kinh sợ chạy sảng sốt, cũng không ra khỏi nhà lửa, tức là chạy tới chạy lui cũng chỉ lẩn quẩn trong nhà lửa đó thôi.
CHÁNH VĂN:
Thú dữ loài trùng độc
Chui núp trong lỗ hang
Các quỷ Tỳ xá xà
Cũng ở trong hang đó
Vì phước đức kém vậy
Bị lửa đến đốt bức
Uống máu ăn thịt nhau.GIẢNG:
Mình lẩn quẩn rồi cũng ở trong ba cõi này, khi thân chết thì sao? Khi mình chết thì phiền não tam độc này nó tàng ẩn trở lại trong cái nghiệp thức là tàng thức đó, rồi nó dẫn đi thọ sanh. Thọ sanh qua thân sau thì sao? Sanh ra, lớn lên gặp duyên nó khơi động ba độc nổi dậy, rồi chịu khổ, rồi tạo nghiệp và rồi đi đâu? Cũng lẩn quẩn trong đó không ra được. Nên những thú dữ trùng độc là chỉ cho ba độc phiền não nó chui núp trong hang thôi, chớ không mất đi đâu hết. Các quỷ Tỳ xá xà ở trong hang đó thôi. Quỷ Tỳ xá xà chỉ cho loại quỷ làm não hại người, vì phước nó kém, bị lửa đốt bức, rồi nó lại tàn hại lẫn nhau, uống máu, ăn thịt nhau. Là muốn chỉ mình sống mà không có tu phước, cho nên phước đức kém, khi chết phải chịu ở trong hang tối tăm u minh để chịu khổ. Nghĩa là thân này nó chết, nhưng trong chỗ tối tăm u minh, thì nghiệp thức nó vẫn tìm nhau để báo đáp. Cho nên bây giờ mình làm khổ ai đó, khi chết rồi qua đời sau thì không còn nhớ được, nhưng mà trong cái chỗ thầm thầm đó, nó cũng tìm đến mà nó đòi. Như trong đời sống hiện tại mình không làm ác, làm hại ai, nhưng lâu lâu cũng gặp chuyện khổ, những chuyện nghịch cảnh đưa đến. Chính là những cái đã tạo từ trước đó, bây giờ quên đâu có nhớ, nhưng nó cũng vẫn tìm tới chớ không phải không nhớ mà nó mất. Cho nên ở đây nói rằng, cũng ở trong hang đó thôi, trong đó lửa nó đốt bức tàn hại lẫn nhau, uống máu ăn thịt nhau, nó tìm đến nhau đòi để đáp lại không mất.
CHÁNH VĂN:
Những loại thú dã can
Thời đều đã chết trước
Các giống thú dữ lớn
Giành đua đến ăn nuốt
Khói tanh bay phùn phụt
Phủ khắp bít bốn bề
Loài ngô công, do diên
Cùng với rắn hung độc
Bị lửa lòn đốt cháy
Tranh nhau chạy khỏi hang
Quỷ bàn trà rình chờ
Liền bắt lấy mà ăn.GIẢNG
Thấy khổ liên tục không? Dã can chết trước thì thú dữ lớn dành lấy ăn nuốt lửa khói bay phùn phụt. Rồi loài ngô công, loài rắn độc, tranh nhau chạy khỏi hang, nhưng bên ngoài quỷ bàn trà rình chờ bắt ăn, khổ gặp khổ thôi. Đây nói lên cái ý: thú dã can chết trước chỉ cho ba độc thô, thì tạm dừng, nhưng cái ba độc căn bản, gốc ba độc nó lại khởi, cho nên dã can chết trước thì thú dữ lớn giành nó ăn. Tức những cái tham sân si thô thì tạm dừng đi, nhưng tham sân si sâu dầy trong này nó vẫn nổi dậy, rồi cũng dồn đến, nó bức ép mình. Bởi vậy còn trong vòng nhà lửa ba cõi này thì vẫn còn khổ liên miên không dứt. Nếu tạo ba nghiệp nặng thì sanh vào địa ngục, ra khỏi địa ngục thì sanh vào ngạ quỷ, súc sanh. Cũng vẫn chịu khổ thôi. Nếu hết ngạ quỷ súc sanh lên làm người cũng chịu khổ trong cõi người, lẩn quẩn vẫn bị quỷ vô thường nó theo đuổi nó bắt. Nên chạy ra khỏi hang thì bị quỷ bàn trà nó rình chờ sẵn đó, tức là vô thường nó luôn luôn chực sẵn bên, làm gì cũng không thoát khỏi vô thường.
Ở đây, không phải nói theo cái khổ thường của thế gian là thiếu ăn, thiếu mặc, mà khổ đây là chỉ cho cái khổ vô thường, còn sống trong vô thường là còn chịu khổ. Bởi tất cả những cái khổ cũng từ vô thường mà ra.
CHÁNH VĂN:
Lại có các ngạ quỷ
Trên đầu lửa rực cháy
Đói khát rất nóng khổ
Sảng sốt chạy quàng lên
Nhà lửa đó dường ấy
Rất đáng nên ghê sợ
Độc hại cùng tai lửa
Các nạn chẳng phải một
GIẢNG:Đây nói thêm những loài ngạ quỷ, lửa cháy phực trên đầu, nơi mình thì đói khát khổ sở. Nhà lửa đó có nhiều thứ đáng ghê sợ dường thế đó. Bởi vậy, không phải là một loài quỷ mà có rất nhiều, nên Phật nói đây không phải chỗ dừng ở lâu, nhưng mình thì mến tiếc. Tu mà bảo tu giải thoát ít có chịu. Tu để đời sau sanh ra được hưởng phước thì chịu, tức là sao? Tức là còn mến trong này chưa chịu ra. Cho nên Phật, Bồ tát luôn luôn nhắc nhở đánh thức hoài. Sau đây nói lên người chủ nhà.
CHÁNH VĂN:Lúc bấy giờ chủ nhà
Đứng ở nơi ngoài cửa
Nghe có người mách rằng:
Các người con của ông
Trước đây vì dạo chơi
Mà đến vào nhà này
Thơ bé không hiểu biết
Chỉ vui ham ưa đắm.
GIẢNG:Nghĩa là ông chủ nhà đó ra rồi đứng nơi ngoài cửa chỉ cho Như Lai thoát ra ba cõi đó. Nghĩa là Như Lai không còn chịu vô thường chi phối.
Nhưng Như Lai ra đứng ngoài cửa nghe có người mách rằng: các người con của ông trước đây vì dạo chơi mới đến nhà này, thì ai mách? Thấy được người mách này thì hay lắm? Người mách đó chính là lòng đại bi thúc đẩy, nhắc nhở, mà không bỏ chúng sanh. Nhắc là mấy người con của ông còn vui trong này, chứ không phải ra rồi hưởng vui một mình, mà còn phải nhớ đến để vào đây đánh thức và cứu giúp chúng, cho nên:
CHÁNH VĂN:
Trưởng giả vừa nghe xong
Kinh sợ vào nhà lửa
Tìm phương nghi cứu tế
Cho con khỏi thiêu hại
Mà dụ bảo các con
Nói rõ các hoạn nạn
Nào ác quỷ độc trùng
Hoả tai lan tràn cháy
Các sự khổ thứ lớp
Nối luôn không hề dứt
Loài độc xà, ngươn phúc
Và các quỷ dạ xoa
Cùng quỷ cưu bàn trà
Những dã can, chồn, chó
Chim điêu, thứi, xi, hiêu
Lại giống bá túc thảy
Đều đói khát khổ gấp
Rất đáng phải ghê sợ
Chỗ khổ nạn như thế
Huống lại là lửa lớn.
Các con nhỏ không hiểu
Dầu có nghe cha dạy
Cứ vẫn còn ham ưa
Vui chơi mãi không thôi.GIẢNG:
Trưởng giả nghe nói mới giật mình, mà vào lại trong nhà lửa để tìm phương cứu tế. Đó là nói lên, Như Lai không còn bị chi phối trong sanh tử nữa, nhưng mà Ngài phương tiện mới vào trong sanh tử. Đây cũng là ý ngầm nhắc mình, chớ lầm ba mươi hai tướng tốt đó mà cho là Như Lai. Ba mươi hai tướng tốt Phật hiện ra, cũng là phương tiện để vào đây đánh thức mình, mà phải thấy “Như Lai là cái bất sanh bất diệt kìa!” Còn nếu nhận Như Lai là ba mươi hai tướng đó, thì bây giờ tìm Như Lai ở đâu? Ba mươi hai tướng đó cũng nhập Niết bàn rồi.
Cho nên Tổ Lâm Tế có lần Ngài nói rất là mạnh: “Phật là thân huyễn hoá. Tổ là ông Tỳ kheo già". Mà quí vị thấy phải vậy không? Nếu mình nhìn Phật là ông già sanh ở Ấn Độ, đến tám mươi tuổi nhập Niết bàn, thì Phật đó rõ ràng là tướng huyễn hoá rồi. Nếu nhìn Tổ là ông Sa môn Ấn Độ, có râu, là không phải Tỳ Kheo già sao? Thấy Tổ là phải thấy cái gì kia. Đó là muốn nhấn mạnh, mình phải thấy được tâm chân thật Như Lai, như Kinh Kim Cang nói:" Nhược kiến chư tướng phi tướng, tức kiến Như Lai" nghĩa là nếu thấy các tướng chẳng phải tướng thì đó mới là thấy Như Lai. Còn thấy tướng mà bám vào tướng thì đó không phải là thấy Như Lai. Cho nên ở đây muốn nhắc mình là phải thấy như vậy, thì Như Lai đó mới vào trong này đánh thức mình được. Trong đây nào là quỉ, dã can, chồn, chó, bá túc, đều là đói khát, khổ gấp, đây là câu nhắc mình nó là chỗ đáng ghê sợ, chứ không phải chỗ dừng lâu trong đó cũng không nên mê đắm; vậy mà mình vẫn còn đam mê trong ngũ dục chưa có chịu tỉnh.
Cho nên các con nhỏ không hiểu, dầu có nghe cha dạy đó mà cũng còn ham ưa, vui chơi mãi không thôi.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ trưởng giả kia
Mới bèn nghĩ thế này:
Ở trên các con vẫn vui chơi trong nhà lửa mà không chịu ra, bởi vậy mà ở đây ông trưởng giả nghĩ:Các con như thế đó
Làm ta thêm sầu não
Nay trong nhà lửa này
Không một việc đáng vui
Mà các con ngây dại
Vẫn ham mê vui chơi
Chẳng chịu nghe lời ta
Toan sẽ bị lửa hại
Ông bèn lại suy nghĩ
Nên bày các phương tiện
Bảo với các con rằng:
GIẢNG:Bây giờ các người con ham chơi, ông bèn nghĩ phương tiện mà bảo ra ta cho đồ chơi. Cũng giống như mình vậy, đang vui trong này cho đó là vui, mà bây giờ bảo ra được giải thoát, thì giải thoát có cái gì vui hơn cái này không? Nói giải thoát khơi khơi không được! Bỏ cái vui này cần có cái vui khác thay thế thì mới chịu.
Cha có rất nhiều thứ
Các đồ chơi trân kỳ
Những xe báu tốt đẹp
Nào xe dê, xe hươu
Cùng với xe trâu lớn
Hiện để ở ngoài cửa
Các con mau ra đây
Cha chính vì các con
Mà sắm những xe này
Tuỳ ý các con thích
Có thể để dạo chơiGIẢNG:
Đây là đem những quả vị này, quả vị kia để mà dụ. Ví dụ như quả vị Thanh văn, tu lên kiến đạo chứng Tu đà hoàn, hay hay chút nữa chứng Tư đà hàm, lên lên chút nữa chứng A na hàm, hay chút nữa chứng A la hán. Rồi lên chút nữa chứng Duyên giác, Bồ tát. Nhưng rốt cuộc Phật nói sao? Rốt cuộc tới Phật thừa mới xong. Thay vì như vậy, ban đầu nói, ông tu gì thì tu tới Phật thừa là xong thì chịu không? Cho nên nói chứng này chứng kia mới chịu.
CHÁNH VĂN:
Các con nghe cha nói
Các thứ xe như vậy
Tức thời cùng giành đua
Rảo chạy ra khỏi nhà
Đến nơi khoảng đất trống
Rời những sự khổ nạn.
GIẢNG:Như vậy nói lên cái tâm có được có mất, còn kẹt trong đây kia, nhưng mà nói đến những quả vị đó để theo đó mà vượt ra, chạy ra cũng còn được đi, còn có những cái tệ hơn là sao? Có khi đua nhau chứng cao, chứng thấp! Cái đó mới là cái nguy! Tức là tôi chứng cao, anh chứng thấp, hoặc mình tu sao lâu quá còn anh kia mới tu mà chứng hơn mình, sao đây? Rồi sanh tâm ganh ghét, tìm cách nói xấu này kia thành xa với đạo. Mình phải biết để dừng tâm niệm hẹp hòi xấu dở, chướng đạo đó.
Ở đây khi chạy ra khỏi nhà lửa rồi đến nơi khoảng đất trống thì rời hết các khổ nạn, được an ổn.
CHÁNH VĂN:Trưởng giả thấy các con
Được ra khỏi nhà lửa
Ở nơi ngã tư đường
Đều ngồi toà sư tử
Ông bèn tự mừng rằng
Ta nay rất vui mừng
Những đứa con ta đây
Đẻ nuôi rất khó lắm
Chúng nhỏ dạy không hiểu
Mới lầm vào nhà hiểmGIẢNG:
Nó nhỏ nó không hiểu mới lầm vào trong đây,
chỗ này quí vị xét cho kỹ thấy cái lầm này thì xong. Mà cái lầm này là cái lầm gì? Đó là bất giác. Bất giác cái chân thật mới khởi sanh ra ba cõi. Cho nên thấy được niệm bất giác này, là mình sống trở về thôi, biết lầm thì hết lầm. Bởi lầm vào nhà lửa rồi, sau mới có nhiều loài trùng độc.
CHÁNH VĂN:
Quỷ lỵ mỵ đáng sợ
Lửa lớn cháy hừng hực
Bốn phía đều phực lên
Mà các trẻ con này
Lại ham ưa vui chơi
Nay ta đã cứu chúng
Khiến đều đặng thoát nạnĐến đây ông trưởng giả thấy mình đã cứu chúng thoát nạn rồi.
Vì thế các người ơi
Ta nay rất vui mừng
GIẢNG:
Có ai nghe thấy được tiếng kêu này chưa? Nghe được thì hay lắm! Đây là tiếng kêu nhiệm mầu của Như Lai! Nghe được tiếng kêu này, quý vị sẽ có niềm vui. Ai mà nghe được tiếng kêu này thì cười mãi thôi.CHÁNH VĂN:
Khi ấy các người con
Biết cha đã ngồi an
Đều đến bên chỗ cha
Mà thưa cùng cha rằng
Xin cha cho chúng con
Ba thứ xe báu lạ
Như vừa rồi cha hứa
Các con mau ra đây
Sẽ cho ba thứ xe
Tuỳ ý các con muốn
Bây giờ chính phải lúc
Xin cha thương cấp choRa rồi bây giờ đòi xe, đó nói lên còn muốn có cái được chưa quên cái được, chớ đáng lẽ ra rồi, thoải mái tự do rồi, còn đòi xe chi nữa.
Trưởng giả giàu có lớn
Kho đựng rất nhiều đầy
Vàng bạc cùng lưu ly
Xa cừ ngọc mã não
Dùng những món vật báu
Tạo thành các xe lớn
Chưng dọn trang nghiêm đẹp
Khắp vòng có bao lơn
Bốn mặt đều treo linh
Dây vàng xen thắt tụi
Lưới mành kết chơn châu
Giăng bày phủ phía trên
Hoa vàng các chuỗi ngọc
Lòng thòng rủ khắp chỗ
Các màu trang sức đẹp
Khắp vòng xoay quanh xe
Dùng nhiễu hàng mềm mại
Để làm nệm lót ngồi
Vải quí mịn rất tốt
Giá trị đến nghìn muôn
Bóng láng trắng sạch sẽ
Dùng trải trùm trên nệm.
GIẢNG:Quí vị nghe thích không? Ông trưởng già này của giàu như vậy đó, tức là ở trong tự tánh Như lai đó đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Không phải mình tu hành đến chỗ cuối đó rồi, thì coi như không còn gì hết. Nói đây để cho mọi người không sợ, nghe nói tu đến rốt ráo rồi nhập Niết bàn, không biết ra sao. Hoặc mình tu hết vọng tưởng rồi còn biết gì nữa không? Ở đây khi hết vọng tưởng lăng xăng sanh diệt này rồi, thì trong đó đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Tới đó cái biết còn lanh lợi hơn nhiều. Chính cái biết vọng tưởng này thôi mà mình nghĩ không tới nổi nó chế ra phi thuyền, vi tính, v..v.. Bây giờ những vọng tưởng đó dừng lại, thì những diệu dụng nó còn siêu đến thế nào nữa. Ngài Úc Sơn Chủ khi ngộ đạo có bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhứt loa
Cửu bị trần lao quan tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.Tức là:
“Ta có một viên minh châu”, là viên ngọc sáng tỏ đó, “lâu bị bụi đời vùi sâu”, là hạt minh châu đó từ lâu bị bụi trần lao này nó vùi lấp, “sáng nay bụi hết sáng tỏ”, tức là tỏ ngộ, thì nó “soi phá núi sông vạn đoá”. Khi hết lớp bụi rồi, ánh sáng soi khắp hết cả, chứ không phải tới đó rồi không còn gì hết. Cho nên đừng sợ hết vọng tưởng rồi không biết gì, chỉ sợ là nó không hết thôi, nó không dừng được. Vì thế ở đây mới nói là, ông Trưởng giả đó của giàu có như vậy.
CHÁNH VĂN:
Có trâu trắng to lớn
Mập khoẻ nhiều sức mạnh
Thân hình rất tươi tốt
Để kéo xe báu đó
Đông những tôi và tớ
Mà chực hầu giữ gìn
Đem xe đẹp như thế
Đồng ban cho các con
Các con lúc bấy giờ
Rất vui mừng hớn hở
Ngồi trên xe báu đó
Dạo đi khắp bốn phương
Vui chơi nhiều khoái lạc
Tự tại không ngăn ngại
GIẢNG:Ở trước hứa cho ba xe, đến đây cho một xe thôi, một xe trâu lớn, đó là nói lên cuối cùng đồng một tri kiến Phật, từ cái này nó phát khởi những diệu dụng không lường, không từng thiếu thốn gì hết. Cho nên quên cả niệm nghèo giàu luôn. Lúc kia ở trong nhà lửa chạy ra còn thấy thiếu thốn nên mới còn cầu còn xin.
Đây thấy rõ mình ngồi trong xe báu rồi, còn nghèo giàu gì nữa, quên hết thời lang thang làm khách phong trần, vui chơi tự tại không ngăn ngại.
Nói Trưởng giả cho xe lớn cũng là thí dụ, chứ không phải cho là được, quên cái niệm được mất, niệm cha con thì mới tự tại dạo chơi khắp nơi.
CHÁNH VĂN:Bảo Xá Lợi Phất này
Đức Phật cũng như vậy
Tôn cả trong hàng thánh
Cha lành của trong đời
Tất cả các chúng sanh
Đều là con của ta.
GIẢNG:Nói Đức Phật là bậc tôn quí trong hàng Thánh, là cha lành trong tất cả thế gian, mà tất cả chúng sanh đều là con Phật hết. Nghĩa là, tất cả chúng sanh ai ai cũng đều có phần giác ngộ đó, tức đều có phần Như Lai đó hết. Nhưng ở đây còn nói có cha, có con, còn nói có phàm, có thánh, là nói với người còn trong mê mà thôi. Chứ khi giác rồi thì thấy rõ, ai cũng đều có phần, ngay mình cũng tự có phần đó rồi.
CHÁNH VĂN:
Say mê theo thế lạc
Không có chút huệ tâm
Ba cõi hiểm không an
Dường như nhà lửa cháy
GIẢNG:Hai câu sau nguyên âm là:
Tam giới vô an
Du như hoả trạchTức là: Ba cõi này là chỗ hiểm nguy không an ổn gì hết, nó giống như nhà lửa, không phải là chỗ để mình ở lâu.
CHÁNH VĂN:
Các nạn khổ dẫy đầy
Rất đáng nên ghê sợ
Bệnh, chết và sầu lo
Các thứ lửa như thế
Cháy hừng chẳng tắt dứt.
GIẢNG:Ở trong nhà lửa này sanh, già, bệnh, chết luôn luôn sẵn đó, lửa cháy hừng không tắt dứt. Chỗ này là một ý nữa, nó cháy hừng mà không tắt dứt là sao? Lửa cháy đó là nói lên sự vô thường, mà nó cháy mãi không tắt dứt, tức vô thường là lý hằng thường, không phải là cái mới có, mà nó hằng như vậy từ xưa tới nay rồi.
CHÁNH VĂN:Đức Như Lai đã lìa
Nhà lửa ba cõi đó
Vắng lặng ở thong thả
An ổn trong rừng nội
Hiện nay ba cõi này
Đều là con của ta
Những chúng sanh trong đó
Cũng là con của ta
Mà nay trong ba cõi
Có nhiều thứ hoạn nạn
Chỉ riêng một mình ta
Có thể cứu hộ chúng
Dầu lại đã dạy bảo
Mà vẫn không tin nhận
Vì nơi các dục nhiễm
Rất sanh lòng tham mê
Vì chúng nói ba thừa
Khiến cho các chúng sanh
Rõ ba cõi là khổ
Mở bày cùng diễn nói
Những đạo pháp xuất thế
Các người con đó thảy
Nếu nơi tâm quyết định
Đầy đủ ba món minh
Và sáu món thần thông
Có người được Duyên giác
Hoặc bất thối Bồ tát
Xá Lợi Phất phải biết
Ta vì các chúng sanh
Dùng món thí dụ này
Để nói một Phật thừa
Các ông nếu có thể
Tin nhận lời nói đây
Tất cả người đều sẽ
Chứng thành quả Phật đạo.
GIẢNG:Trên nói rằng trong nhà lửa ba cõi, Như Lai đã ra khỏi nên được an ổn, trong ba cõi đó đều là của ta hết, chúng sanh trong đó cũng là con của Như lai. Trong đó bao nhiêu những thứ hoạn nạn, chỉ riêng một mình ta có thể cứu hộ chúng. Tức là trong mọi cái hoạn nạn khổ này, thì ngoài Như Lai ra không có một cái gì khác mà có thể cứu khỏi được. Cho dù mình có tu pháp gì, mà chưa nhận rõ được tự tánh Như lai bất diệt này, thì chưa đến chỗ rốt ráo viên mãn được, cho nên ở đây xác định rõ, chỉ mình ta cứu hộ chúng thôi.
Tin được cái này, là cái nhân chân thật để tu hành. Vì Như Lai là bất sanh bất diệt mà mình lấy cái nhân này để tu, thì sẽ được quả bất sanh bất diệt, không còn phải nghi ngờ gì nữa. Còn lấy nhân sanh diệt để tu mà muốn được quả bất sanh bất diệt thì hơi khó. Bây giờ nếu chưa thấy, chưa ngộ được, nhưng biết tin có cái đó, tức là đã có cái nhân, có hạt giống, đến khi đủ duyên thì hiện ra.
Cho nên Phật vì thương chúng sanh mà nói ba thừa thôi, nhưng cuối cùng chỉ quy về một Phật thừa
Ở đây ngài nói, nếu mọi người tin nhận được lời nói trên, thì tất cả đều chứng thành Phật đạo. Tức là tin chắc mình có hạt giống Phật thì sẽ thành Phật.
CHÁNH VĂN:Phật thừa đây vi diệu
Rất thanh tịnh thứ nhất
Ở trong các thế giới
Không còn pháp nào trên
GIẢNG:Phật xác định rõ, trên thế gian không có pháp nào hơn pháp này. Cho nên nếu mình còn thấy có đây kia sai biệt là chưa đến chỗ chân thật này, dù cho người có lý luận hay cách mấy đi nữa thì cũng là lý luận thôi, mà phải thấy đến chỗ này mới là chỗ chân thật. Bởi vậy các Tổ thường nói là:
- Nếu có pháp nào vượt hơn pháp này, thì ta cũng nói như mộng, như huyễn thôi.
Bởi vì sao? Vì thật thì đâu có hai cái thật, nếu có thêm cái thật nữa thì cũng như mộng như huyễn thôi. Rõ ràng như vậy.
CHÁNH VĂN:
Của các Phật vui ưa
Tất cả hàng chúng sanh
Đều phải nên khen ngợi
Và cúng dường lễ bái.
GIẢNG:
Ngài nhấn mạnh lại, mình phải khen ngợi cúng dường lễ bái, tức phải tin nhận thuận theo chớ có trái.
CHÁNH VĂN:Đủ vô lượng nghìn ức
Các trí lực giải thoát
Thiền định và trí tuệ
Cùng pháp khác của Phật
Chứng đặng thừa như thế
Khắp cho các con thảy
Ngày đêm cùng kiếp số
Thường đặng ngồi dạo chơi
GIẢNG:
Đây là khen ngợi chỗ chân thật này, trong đây đủ những diệu dụng, nên nói: Thiền định, trí lực, giải thoát đầy đủ trong đó, đều muốn cho hết các con. Ngày đêm cùng kiếp số, thường dạo chơi trên đó. Sống được chỗ này rồi mới thấy cái chân thật luôn luôn hiện tiền, trong nhà thiền gọi là: " Trâu trắng sờ sờ" lúc này đuổi không đi. Còn bây giờ mình lo giữ kỹ mà nó vẫn chạy, vì mình còn sống trong tâm vọng tưởng, còn nếu sống trong này rồi thì nó vượt ngoài thời gian,lúc nào cũng ngồi dạo chơi trên đó.
CHÁNH VĂN:Cho các hàng Bồ tát
Cùng với chúng Thanh văn
Nương nơi thừa báu này
Mà thẳng đến đạo tràng
GIẢNG:
Nói nương nơi thừa này mà thẳng đến đạo tràng, tức là đến chỗ tự chứng tự ngộ, không còn nghi ngờ.
CHÁNH VĂN:Vì bởi nhân duyên đó
Tìm kỹ khắp mười phương
Lại không thừa nào khác
Trừ Phật dùng phương tiện
GIẢNG:
Phật nói thừa này, hay thừa kia chưa phải là chân thật, mà chỉ có nhất thừa là chỗ chân thật thôi.
CHÁNH VĂN:Bảo với Xá Lợi Phất!
Bọn ông các người thảy
Đều là con của ta
Ta thời là cha lành
Các ông trải nhiều kiếp
Bị các sự khổ đốt
Ta đều đã cứu vớt
Cho ra khỏi ba cõi
Ta dầu ngày trước nói
Các ông được diệt độ
Nhưng chỉ hết sanh tử
Mà thiệt thời chẳng diệt
Nay việc nên phải làm
Chỉ có trí huệ Phật.
GIẢNG:
Ở trước nói ông được diệt độ đó, nhưng chỉ hết sanh tử, chứ chưa phải thật diệt, phải đến chỗ trí huệ Phật mới thật diệt. Hết sanh tử mà chưa phải thật diệt là sao? Thấy chỗ này quí vị mới thấy rõ giáo lý ban đầu, với giáo lý phát triển. Cái kia nói tu đến cuối cùng thì hết sanh tử nhập Niết bàn vậy thôi, mà hết sanh tử nhập Niết bàn thì cái gì hết sanh tử, nhưng chưa nói đến cái đó, cho nên có người sẽ nghi. Nếu đem tâm phàm của mình để mà suy, mà hiểu, thì hết sanh tử, cái gì đó hết cũng là cái ngã phải không? Còn thấy có cái gì đó để hết cũng là cái ngã, nhưng mà hết sanh tử rồi thì tu cuối cùng ra sao? Tức còn nhiều chỗ thắc mắc chưa giải đáp được. Cho nên ở đây phải nói đến chỗ " Nay việc nên phải làm" là " Chỉ có trí huệ Phật", mở sáng cái Tri kiến Phật, cái bất sanh bất diệt này, chính sống cái đó thì sanh tử làm sao đến, vì vậy hết sanh tử là sống cái chân thật thôi. Nhưng cái này phải là qua cái kia rồi, thì mới nói được cái này. Lúc đầu Phật chưa nói, nếu nói thì sợ người ta dùng tâm phàm phu này hiểu thì sẽ lầm. Nói cái này là cái chân thật của mình, nó cũng sẵn ở trong thân này, rồi có khi mình lầm với cái ngã thuộc thần ngã của ngoại đạo. Bởi vì ngoại đạo bên Ấn Độ nói: "Trong thân sanh diệt này cũng có thần ngã, thần ngã đó là bất sanh bất diệt, vì có thần ngã đó cho nên làm cho mình cử động, nháy mắt, nói năng", vậy làm sao phân biệt được? Cho nên ở đây ban đầu Phật chưa nói, khi mình dừng được những phiền não sanh diệt này, qua được cái này rồi thì mới nói đến tri kiến Phật, người ta nhận không lầm.
CHÁNH VĂN:Nếu có Bồ tát nào
Ở trong hàng chúng này
Có thể một lòng nghe
Pháp thật của các Phật
Các đức Phật Thế Tôn
Dầu dùng chước phương tiện
Mà chúng sanh được độ
Đều là Bồ tát cả
GIẢNG:
Ở đây Phật nói, nếu ở trong chúng ai mà một lòng nghe, chú ý pháp chân thật này, thì dù nghe các phương tiện cũng đều là Bồ tát. Nghĩa là nghe được ý nghĩa này, thấu được lý thật này, thì dù chỉ là những phương tiện nói ra, mà mình không kẹt trên phương tiện, nên cùng là Bồ tát. Cũng như bây giờ đây, mình nghe Phật nói phải dứt sanh tử, lìa khổ, liền hiểu là để muốn cho mình sống trở về với cái thật, chứ không phải nói dứt lìa sanh tử đó, là lấy cái này mà bỏ cái kia, biết đó là phương tiện, cùng đưa mình tiến tới chỗ giác ngộ.
CHÁNH VĂN:Nếu có người trí nhỏ
Quá mê nơi ái dục
Phật bèn vì bọn này
Mà nói lý khổ đế.
GIẢNG:
Đây là Phật phương tiện, người trí nhỏ, mê nơi ái dục này, Phật mới vì họ mà nói khổ đế, để cho bớt tham đắm.Chúng sanh nghe lòng mừng
Đặng đều chưa từng có.
Họ nghe, đúng theo chỗ mong muốn của mình, nên vui thích dễ nhận.CHÁNH VĂN:
Đức Phật nói khổ đế.
Chơn thật không sai khác
Nếu lại có chúng sanh
Không rõ biết gốc khổ
Quá say nơi khổ nhơn
Chẳng tạm rời bỏ được
Phật vì hạng người này
Dùng phương tiện nói dạy
Nguyên nhơn có các khổ
Tham dục là cội gốc
GIẢNG:Nói khổ đế là lẽ thật rồi, mà gốc khổ đó là gì? Phật nói gốc khổ đó là tham dục, là nói gọn còn nói đủ thì gồm có phiền não, tham, sân, si, mạn, nghi… Nhưng tham dục là căn bản. Tức là tham ái, chấp ngã, chính tham ái này là gốc sanh tử luân hồi, đó gọi là tập đế là cái nhân đưa đến các khổ. Bởi luyến ái cái ngã này và cộng thêm ngã sở, tức cái ta và của ta mà nó dẫn đi trong sanh tử luân hồi, bỏ cái này kiếm cái khác không thôi. Trong sử có ghi câu chuyện:
Ngài Đặng Ẩn Phong đem đi thiêu một ông tăng có một hôm Ngài thấy ông Tăng hiện về đòi:
- Hãy trả mạng cho ta!
Ngài mới bảo:
- Ông chết hay chưa?
Ông Tăng đó nói:
- Đã chết rồi.
Thì Ngài bảo:
- Ông đã chết rồi, vậy còn ai đòi mạng đó?
Ngay đó ông Tăng biến mất luôn.
Câu chuyện trên quý vị thấy ý nghĩa gì? Đã chết rồi còn đến đòi mạng thì là ai? Chính vì tham ái cái thân này, bám chắc nó nên chết rồi mà cũng còn nghĩ thân này,đến đòi. Nếu ngay khi đòi trả mạng cho ta, thì ai kêu đòi đó? Có chết đâu mà đòi? Nhận ra chỗ này thì đi tự do tự tại không sướng sao, mà còn đòi chui vào cái này nữa? Bởi vì lúc đó thân này đâu còn nữa, trong đó đi ở rất là tự tại có thể xuyên qua tường, qua vách một cách dễ dàng. Ở đây không nhớ cái ấymà chỉ nhớ đi đòi cái thân này thôi, là muốn vào cái khác nữa. Đó là gốc sanh tử luân hồi, là gốc khổ.
Đây làø tham ái về ngã. Còn tham ái về cái ngã sở tức cái của ta, cũng như câu chuyện Hoà thượng Kim Bích Phong vì luyến ái cái bát ngọc, mà đang ngồi thiền, quỷ sứ nó lại rung rung cái bát ngọc Ngài động niệm xả thiền để giữ cái bát lại, quỷ thấy. Đó là luyến ái ngã sở, chính cái đó cũng là cái đi vào trong luân hồi, trong cái khổ. Đã biết quả khổ, biết cái nhân đưa đến khổ rồi, thì sao? Phật dạy:
CHÁNH VĂN:Nếu dứt được tham dục
Khổ không chỗ nương đỡ
Dứt hẳn hết cái khổ
Vì chứng diệt đế vậy
Mà tu hành Đạo đế
Lìa hết các khổ phược
Gọi đó là giải thoát
GIẢNG:
Dứt được cái nhân khổ, chứng Niết bàn hết khổ, nhưng muốn chứng như vậy, thì không phải là nói suông mà phải thực hành Đạo đế, là con đường đưa đến Niết bàn đó. Con đường Đạo đế nói chung là Bát chánh đạo, nói rộng ra là 37 phẩm trợ đạo, tức con đường đưa đến dứt khổ. Khi khỏi các khổ rồi thì gọi đó là giải thoát.CHÁNH VĂN:
Người đó nơi pháp gì
Mà nói đặng giải thoát?
Chỉ xa rời hư vọng
Gọi đó là giải thoát
Kỳ thiệt chưa phải được
Giải thoát hẳn tất cảGIẢNG:
Giải thoát tới đây chưa phải là giải thoát tất cả. Đây là qua được hư vọng, dứt được sanh tử, nhưng chưa mở sáng Tri Kiến Phật. Khi mở sáng Tri Kiến Phật và sống được cái Tri kiến Phật, tức là vượt qua cái chân - vọng rồi, không còn cái gì giải thoát, thì mới thật sự giải thoát, còn có cái này đối với cái kia thì Ngài nói đó là chưa phải thật diệt.CHÁNH VĂN:
Đức Phật nói người đó
Chưa phải thiệt diệt độ
Vì người đó chưa được
Đạo quả vô thượng vậy.
GIẢNG:Quả vô thượng chưa xong, còn chưa phải thậtdiệt, như vậy giải thoát nhưng còn có cái trên, chưa phải là vô thượng, đến đạo quả vô thượng này không còn gì để trên nữa thì mới là thật sự giải thoát.
CHÁNH VĂN:Ý của ta không muốn
Cho đó đến diệt độ
Ta là đấng Pháp Vương
Tự tại nơi các pháp
Vì an ổn chúng sanh
Nên hiện ra nơi đời
Xá Lợi Phất phải biết
Pháp ấn của ta đây
Vì muốn làm lợi ích
Cho thế gian nên nói
Tại chỗ ông đi qua
Chớ có vọng tuyên truyền
GIẢNG:Đây muốn nhắc, pháp này không phải là pháp quảng cáo, nên không có vọng tuyên truyền. Mà phải gặp đúng người có lòng khao khát, thì nói ra dễ tin nhận, nếu nói bừa có khi không được lợi ích.
CHÁNH VĂN:Nếu có người nghe đến
Tuỳ hỷ kính nhận lấy
Phải biết rằng người ấy
Là bực bất thối chuyển
GIẢNG:
Nghe đây mà kính tin, nhận lấy thì Ngài nói là bậc bất thối chuyển, có chủng duyên sâu với Phật pháp, nhưng tin nhận gồm có hai: Nghe tin nhận có cái đó, thì cũng là tin nhận. Còn tin nhận sâu hơn là trực giác ngay nơi mình liền, thì cái tin nhận này là nhận ra được cái đó, nếu tin nhận được chỗ này rồi thì đến bậc bất thối chuyển. Quí vị thấu rõ chỗ này rồi, còn có cái gì ở thế gian này sánh kịp!Nên cứ thẳng tới mà đi thôi.
CHÁNH VĂN:Nếu có người tin nhận
Kinh pháp vô thượng này
Thời người đó đã từng
Thấy các Phật quá khứ
GIẢNG:
Phật nói:" Nếu có người tin nhận kinh pháp vô thượng này" Nhưng kinh ở đây là kinh gì? Có phải là kinh Pháp Hoa 28 phẩm này không? Tin được kinh pháp vô thượng này tức tin được Tri Kiến Phật đó, thì người đó đã thấy các Phật quá khứ.CHÁNH VĂN:
Cung kính và cúng dường
Cũng được nghe pháp này
Nếu người nào có thể
Tin chịu lời ông nói
Thời chính là thấy ta
Cũng là thấy nơi ông
Cùng các chúng tỳ kheo
Và các hàng Bồ tát
GIẢNG:
Tin được cái này có sung sướng không? Tin được nó tức là thấy Phật, thấy Xá Lợi Phất, thấy cả chúng Tỳ kheo trong hội Linh sơn, và thấy luôn các hàng Bồ tát nữa. Tin được cái này thì thấy pháp hội Linh Sơn đang còn diễn ra trước mắt, vì trước kia trên hội Linh Sơn Phật phóng ánh sáng từ chặng mày soi khắp cả mười tám ngàn cõi nước phương Đông đó, mà Phật chưa thâu lại. Phóng ra mà chưa thâu lại nên vẫn còn đó. Tức tin nhận rõ chỗ này rồi, mình thấy chỗ Phật, Bồ tát, chúng sanh không hai. Thì cái thấy của mình khế hợp với cái thấy của Phật, vậy ngay đây tức là cái gì rồi? Tức chỗ này Phật ngầm thọ ký rồi! Bởi vậy Ngài Lâm Tế dám nói mạnh mẽ:" Chỗ thấy của ta đây cùng Phật Thích Ca không khác" Ngài Lâm Tế sống cách Phật cả ngàn năm hơn, mà Ngài nói chỗ thấy của ta cùng Phật không khác, thì chính là thấy được chỗ này. Thấy chỗ không khác này là mới thấy chỗ chân thật rốt ráo. Còn thấy mình khác, Phật khác, Bồ tát khác, đó là còn cái thấy của chúng sanh, của tình thức sai biệt. Hiểu chỗ này, tin chắc được chỗ này, thì hết còn thối chuyển, đâu còn ai gạt được mình nữa.
CHÁNH VĂN:
Phật vì người trí sâu
Nói kinh Pháp Hoa này
Kẻ thức cạn nghe đến
Mê lầm không hiểu được
GIẢNG:
Đây muốn nhắc mình nghe kinh này phải nghe thật kỹ, không thể dùng tâm hời hợt hoặc là phân biệt theo cái phàm tình thông thường, mà phải lắng lòng nghe thì mới nghe đến chỗ sâu của Phật.
CHÁNH VĂN:Tất cả hàng Thanh văn
Cùng với Bích chi Phật
Ở trong kinh pháp này
Sức kia không hiểu được
Đây hàng Thanh văn, Bích chi cũng không hiểu được.Chính ông Xá Lợi Phất
Hãy còn nơi kinh này
Dùng lòng tin đặng vào
Huống là Thanh văn khác.
GIẢNG:
Chính Ngài Xá Lợi Phất cũng do lòng tin mà được vào, Ngài là trí tuệ bậc nhất, tại sao lại không do trí tuệ vào? Mà phải do lòng tin vào? Tức là chỗ này không phải là chỗ suy lường hay so tính mà hiểu đến được, không phải đem cái thông minh, cái biện luận giỏi ở thế gian mà hiểu được, trí thông minh của thế gian không thể đến được chỗ này. Cho nên ở đây Phật nói Ngài Xá Lợi Phất cũng do lòng tin đặng vào, huống là những Thanh văn khác, tức tin nhận ở ngay tâm mình chứ không do suy luận.
CHÁNH VĂN:Bao nhiêu Thanh văn khác
Do tin theo lời Phật
Mà tuỳ thuận kinh này
Chẳng phải trí của mình
GIẢNG:
Do tin theo lời Phật, mà tuỳ thuận kinh này, còn không phải là trí của mình, vậy thì mình làm sao đến được? Ở đây muốn nói phải thuận theo trí của Phật mà vào, không phải là đem trí thế gian này tức trí phân biệt của mình đây. Đây cũng là muốn nhắn nhủ mình, là muốn vào đây cần có cái nhảy. Là phải nhảy qua chữ nghĩa, nhảy qua văn tự, nhảy ra ngoài tình thức phân biệt này, phải có cái nhảy đó, thì mới vào được thôi.
CHÁNH VĂN:Lại này Xá Lợi Phất
Kẻ kiêu mạn biếng lười
Vọng so chấp lấy ngã
Chớ vì nói kinh này
GIẢNG:
Muốn nhắc, với người kiêu mạn khinh người, so đo chớ nói. Tại sao? Bởi vì so đo chấp ngã thì cứ so tính ta người, tính toán hơn thua, đem tâm đó mà nghe Pháp Hoa, thì Pháp Hoa này cũng thành phàm luôn, cho nên với người đó thì không nên nói kinh này.
CHÁNH VĂN:Hạng phàm phu biết cạn
Quá mê năm món dục
Nghe pháp không hiểu được
Cũng chẳng nên vì nói
GIẢNG:
Người quá cạn, vì đắm các món dục không nên vì nói, tại sao? Vì nói họ cũng chưa thấm được, với hạng người này thì trước hết dạy cho họ bớt lòng dục, bớt đắm mê ngũ dục này, rồi mới chỉ dạy, chứ không phải nói như vậy là bỏ gạt qua một bên.CHÁNH VĂN:
Nếu có người không tin
Khinh huỷ chê kinh này
Thời là dứt tất cả
Giống Phật ở thế gian.
GIẢNG:
Người khinh chê kinh này, dứt giống Phật ở thế gian. Tức là tự mình chôn lấp lấy mình, cũng là ý Phật ngầm muốn đánh thức mình phải nhớ tâm Phật sáng suốt nơi mình đó. Nếu không tin nhận mà lại khinh huỷ, chê bai, thì đó là đi vào trong vô minh tăm tối rồi.CHÁNH VĂN:
Nếu có người xịu mặt
Mà cưu lòng nghi hoặc
Ông nên lóng nghe nói
Tội báo của người đó
Hoặc Phật còn tại thế
Hoặc sau khi diệt độ
Nếu có người chê bai
Kinh điển như thế này
Thấy có người đọc tụng
Biên chép thọ trì kinh
Rồi khinh tiện ghét ganh
Mà cưu lòng kết hờn
Tội báo của người đó
Ông nay lại lóng nghe.
GIẢNG:
Đây là sắpø nói về tội báo của người không tin mà còn khinh chê kinh, và cũng là nhắc muốn nói kinh này, phải nói đúng người, còn người không tin mà chê bai đó sẽ mắc những tội báo.
CHÁNH VĂN:Người đó khi mạng chung
Sa vào ngục A Tỳ
Đầy đủ một kiếp chẵn
Kiếp mãn hết lại sanh
Cứ xoay vần như thế
Nhẫn đến vô số kiếp
Từ trong địa ngục ra
Sẽ đọa vào súc sanh
Hoặc làm chó, dã can
Thân thể nó ốm gầy
Đen đủi thêm ghẻ lác
Lại còn phải bị người
Gớm nhờm và ghét rẻ
Thường ngày đói khát khổ
Xương thịt đều khô khan
Lúc sống chịu khổ sở
Chết bị ném ngói đá
Vì đoạn mất giống Phật
Nên thọ tội báo đó.
GIẢNG:Người đó khi mạng chung, sa vào ngục A Tỳ, tại sao? Rồi khinh huỷ chê bai kinh này, đoạn mất giống Phật, là sao? Tức là tánh sáng suốt này mà mình không tin, lại còn sống trái với nó là đi vào chỗ tối
tăm, chịu lang thang đói khổ, chứ còn gì nữa. Ở đây nói chê bai kinh này là sống trái với tánh giác này, nên phải đi vào trong đói khổ tối tăm, là ý đó.
CHÁNH VĂN:Hoặc sanh làm lạc đà
Hoặc sanh vào loài lừa
Thân thường mang kéo nặng
Lại thêm bị đánh đập
Chỉ nhớ tưởng: Nước, cỏ
Ngoài ra không biết gì
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy.
GIẢNG:Khinh chê kinh này sanh làm lạc đà, lừa, phải kéo nặng mà còn bị đánh đập, và chỉ nhớ toàn nước với cỏ thôi. Chê kinh này tức là chê tâm thể chân thật sáng suốt, tức là đi theo tướng hư vọng rồi tạo nghiệp, khi theo tướng hư vọng tạo nghiệp thì sẽ có muôn ngàn tướng sai biệt khác, như là heo, chó, lừa, lạc đà, rồi chỉ nhớ theo cảnh thôi. Chỉ nhớ nước, nhớ cỏ tức là nói mình quên mất bản tâm chính mình.
CHÁNH VĂN:
Có khi làm dã can
Đi vào trong xóm làng
Thân thể đầy ghẻ lác
Lại chột hết một mắt
Bị bọn trẻ nhỏ vây
Theo đánh đập liệng ném
Chịu nhiều các đau khổ
Hoặc có lúc phải chết
Ở đây vừa chết rồi
Liền lại thọ thân rắn
Thân thể nó dài lớn
Đến năm trăm do tuần
Điếc ngây và không chân
Lăn lóc đi bằng bụng
Bị các loài trùng nhỏ
Cắn rúc ăn thịt máu
Bị khổ cả ngày đêm
Không tạm có ngừng nghỉ
Vì khinh chê kinh này
Mà mắc tội như vậy
GIẢNG:Ở đây nói thêm ý nghĩa về khinh chê kinh này, còn bị sanh vào trong loài dã can, lại bị chột mắt, bị kẻ đánh đập, rồi lại sanh làm thân rắn, mà là rắn lớn có thân cả năm trăm do tuần, không chân, đi bằng bụng, chịu bao nhiêu cái khổ này. Bởi vì đánh mất hạt giống giác ngộ, mà đành phải chịu sống trong vô minh tăm tối khổ sở như vậy. Nghe đến đây quí vị có thấy giật mình không? Cũng vì bỏ cái sáng suốt này, mà phải chịu bao nhiêu cái khổ sở đó.
CHÁNH VĂN:Nếu được sanh làm người
Các căn đều ám độn
Lùn xấu lại lệch què
Đui điếc thêm lưng gù
Có nói ra lời gì
Mọi người không tin nhận
Hơi miệng thường hôi thúi
Bị quỉ mỵ dựa nhập
Nghèo cùng rất hèn hạ
Bị người sai khiến luôn
Nhiều bịnh thân ốm gầy
Không có chỗ cậy nhờ
Dầu nương gần với người
Mà người chẳng để ý
Nếu có đặng điều chi
Thời liền lại quên mất
GIẢNG:
Ở đây nói lên những người không tin kinh này, thì có những tội nghiệp trước là bị sanh vào loài súc sanh, bây giờ làm người mà bị ám độn, lùn, xấu, lệch, què, đui, điếc, lưng gù, có nói ra lời gì thì người ta không tin nhận, thêm hơi miệng bị hôi thối, lại còn bị quỉ mỵ dựa nhập. Bởi vì không tin kinh này là trái bỏ tri kiến Phật, mà trái bỏ tri kiến Phật thì coi như là mất chủ, nhà không chủ nên mới bị người ngoài vào cướp phá, tức vào dựa nhập, cho nên những người bị dựa nhập là những người bị mất chủ, hay có chủ mà mất sáng suốt nên bị bên ngoài dựa vào làm chủ trở lại, tức là trong tâm nó có tà nên tà bên ngoài mới đến nhập được. Rồi thân bệnh ốm gầy, không có chỗ cậy nhờ, tức là không có chỗ nương tựa, gần người thì không ai để ý. Tại vì bỏ mất gốc sáng suốt, nên không có chỗ cậy nhờ, nếu có được điều gì lại là quên mất, là không có chánh niệm và rời bỏ mất tri kiến Phật, thiếu sáng suốt.CHÁNH VĂN:
Nếu học qua nghề thuốc
Theo đúng pháp trị bệnh
Mà bệnh người nặng thêm
Hoặc có khi đến chết
Nếu tự mình có bệnh
Không người chữa lành đặng
Dầu có uống thuốc hay
Mà bệnh càng thêm nặng
Hoặc người khác phản nghịch
Cướp giựt trộm lấy của
Các tội dường thế đó
Lại tự mang vạ lây
GIẢNG:Sanh làm người bị nhiều quả báo, là nói lên người thiếu phước trí, nên học nghề thuốc tuy học đúng phép, nhưng trị bệnh người ta thì bệnh lại nặng thêm. Ở đây cho thấy mình không có phước mấy, thì đừng vì cái thân này tức bản ngã này mà tự cao, tạo nghiệp để rồi chịu khổ. Đây là điểm nhắc mình phải khéo để tự tỉnh trở lại, đừng mãi chìm trong chỗ tối tăm này thì tối càng tối thêm. Thiếu phước làm đâu trật đó, nhiều khi than thân trách phận, rồi sanh ra oán hận người này, hờn người kia, trách cả trời, cả Phật, phước càng tổn thêm nữa.
CHÁNH VĂN:Những người tội như đây
Trọn không thấy được Phật
Là Vua trong hàng Thánh
Thường nói pháp giáo hoá
Những người tội như đây
Thường sanh chỗ hoạn nạn
Tâm cuồng loạn, tai điếc
Trọn không nghe pháp được
GIẢNG:Vì bỏ quên tánh giác hằng hữu của mình, cho nên không thấy được Phật là Vua trong hàng Thánh. Đã trái với tánh giác rồi cứ theo nghiệp mê lầm đó mà tạo tội, rồi bị thọ báo sanh trở lại, khi sanh trở lại thì tạo nghiệp khác nữa, rồi đi thọ báo nữa, nó cứ xoay vần mãi như vậy, nên mỗi ngày càng đi xa tánh giác không quay lại được. Do đó mà không thấy được Phật.
CHÁNH VĂN:Trải qua vô số kiếp
Như số cát sông Hằng
Sanh ra liền điếc câm
Các căn chẳng đầy đủ
Thường ở trong địa ngục
Như dạo chơi vườn nhà
Ở tại ác đạo khác
Như ở nhà cửa mình
Lạc đà, lừa, heo, chó
Là chỗ kia thường đi
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó
GIẢNG:
Sanh trong luân hồi này vô số kiếp, bị tật điếc câm, đi trong địa ngục cũng giống đi trong vườn nhà tức là thường xuyên ở trong đó, cứ lẩn quẩn trong sáu đường mà quên cả đường về. Tổ Quy Sơn nói là: "bò lên lết xuống". Tức là ở trong sáu đường này lâu lâu bò lên chút làm người, bò lên chút nữa làm trời, rồi ít bữa lết xuống trở lại làm súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục, rồi bò lên chút nữa, lại lết xuống trở lại. Cho nên gọi là bò lên lết xuống lẩn quẩn trong đó. Đó là mê lầm do khinh chê kinh này, tức là trái bỏ với tánh giác sáng suốt đó.
CHÁNH VĂN:Nếu đặng sanh làm người
Điếc, đui lại câm ngọng
Nghèo cùng các tướng suy
Dùng đó tự trang nghiêm
Bủng bệnh khô khát
Ghẻ, lác cùng ung thư
Các bệnh như trên đó
Dùng làm y phục mặc
Thân thể thường hôi hám
Nhơ nhớp không hề sạch
Lòng chấp ngã sâu chặt
Thêm nhiều tánh giận hờn
Tình dâm dục hẩy hừng
Đến chẳng chừa cầm thú
Vì khinh chê kinh này
Mắc tội dường thế đó.
GIẢNGĐây là nói lên cái khổ sống không giác ngộ, là chối bỏ tri kiến Phật này, nên đâu thấy được lẽ thật, vì không thấy được lẽ thật nên chìm trong mê lầm đó và bị những cái tối tăm nó che đậy. Do đó ở đây nói: "Lòng chấp ngã sâu chặt", cũng bởi chấp ngã quá sâu, quá dầy nên không thấy được chân thật, ngã này chỉ là giả ngã mà cho là thật, rồi bám chặt vào nó, do đó mà tham, sân si nổi dậy, lòng dâm dục, đến không chừa cầm thú, tức là hết sáng suốt. Khi chấp ngã sâu nặng rồi thì chỉ biết cái ta này thôi, hễ đụng đến là nóng thôi. Rồi tham cũng vậy, chỉ biết có nó thôi, cho nên lúc đó hết sáng suốt, cũng vì do tội khinh chê kinh này.
CHÁNH VĂN:Bảo cho Xá Lợi Phất!
Người khinh chê kinh này
Nếu kể nói tội kia
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Vì bởi nhân duyên đó
Ta vẫn bảo các ông
Trong nhóm người vô trí
Chớ nên nói kinh này
GIẢNG:
Ở đây Phật kết lại, răn nhắc cẩn thận khi nói kinh này. Mỗi người hãy tự xét lại mình, để mà vươn lên, chớ đừng để vướng vào tội này mà sống trong tối tăm vô minh đó mãi. Ở đây tuy nói như vậy, nhưng cũng không gạt bỏ những người này, người không nên nói thì gạt bỏ qua một bên, không phải như vậy. Nhưng muốn đem pháp này nói cho người thì thứ nhất phải nói đúng người, đúng thời, đúng lúc, phải chín chắn, thứ hai là mình phải tự kiểm lại mình, đừng để rơi vào những lỗi lầm trên. Thấy được ý đó tức là mình có lòng tin, để mình tiến lên, mà tránh rơi vào chỗ này.CHÁNH VĂN:
Nếu có người lợi căn
Sức trí huệ sáng láng
Học rộng và nhớ dai
Lòng mong cầu Phật đạo
Những hạng người như thế
Mới nên vì đó nóiGIẢNG:
Đây nói qua những người đáng nói đáng tin để nói kinh này, là người có trí tuệ sáng láng học rộng và nhớ dai, lại có lòng tin, thì mình nói họ dễ tiếp nhận.
CHÁNH VĂN:Nếu có người đã từng
Thấy trăm nghìn Đức Phật
Trồng các cội đức lành
Thâm tâm rất bền vững
Hạng người được như thế
Mới nên vì đó nói
GIẢNG:Người đã tu hành lâu, trồng các cội lành sâu ở
nơi các Đức Phật, đây là hạng người có đủ lòng tin. Vậy nếu mình nghe và tin được cái này là có duyên sâu với Phật pháp. Thấy như vậy để cho mình có lòng tin mạnh hơn, sâu hơn mà tiến lên.
CHÁNH VĂN:Nếu có người tinh tấn
Thường tu tập lòng từ
Chẳng hề tiếc thân mạng
Mới nên vì đó nói
GIẢNG:
Có người tinh tấn, từ bi quên mình, thì mới nên vì đó nói, người như vậy đó thì dễ khế hợp.Nếu có người cung kính
Không có sanh lòng khác
Lìa xa các phàm ngu
Những hạng người như thế
Mới nên vì đó nói
GIẢNG:
Đây đối với người nhất tâm tu hành, thì mới nên vì đó nói.
Lại Xá Lợi Phất này!
Nếu thấy có người nào
Rời bỏ ác tri thức
Gần gũi bạn hiền lành
Người được như thế này
Mới nên vì đó nói.
GIẢNG:
Đây nói về người tránh xa ác tri thức, tránh xa tà kiến mà thường gần gũi bạn hiền lành thì cũng nên vì họ mà nói kinh này.Nếu thấy hàng Phật tử
Giữ giới hạnh trong sạch
Như minh châu sáng sạch
Ham cầu kinh đại thừa
Những người được như thế
Mới nên vì đó nói
GIẢNG:Tức là người giữ gìn giới hạnh trong sạch, thanh tịnh, thì sẵn sàng tiếp nhận, cho nên nói có lợi ích.
Nếu người không lòng giận
Chắc thiệt ý dịu hoà
Thường thương xót mọi loài
Cung kính các đức Phật
Hạng người tốt như thế
Mới nên vì đó nói.Đây là người mà tâm ý dịu hoà, lại có lòng đại bi, thì cũng nên vì họ nói.
Lại có hàng Phật tử
Ở tại trong đại chúng
Thuần dùng lòng thanh tịnh
Các món nhơn cùng duyên
Thí dụ và lời lẽ
Nói pháp không chướng ngại
Những người như thế ấy
Mới nên vì đó nói.Người có tâm thanh tịnh, thì cũng nên nói pháp.
Nếu có vị tỳ kheo
Vì cầu nhứt thiết trí
Khắp bốn phương cầu pháp
Chắp tay cung kính thọ
Chỉ ưa muốn thọ trì
Kinh điển về đại thừa
Nhẫn đến không hề thọ
Một bài kệ kinh khác
Hạng người được như thế
Mới nên vì đó nói.Đây nói về người mà tâm hướng thẳng đến đại thừa, người này nói ra họ dễ tin nhận.
Như có người chí tâm
Cầu xá lợi của Phật
Cầu kinh cũng như thế
Đặng rồi đảnh lễ thọ
Người đó chẳng còn lại
Có lòng cầu kinh khác
Cũng chưa từng nghĩ tưởng
Đến sách vở ngoại đạo
Người được như thế ấy
Mới nên vì đó nói
GIẢNG:Ở đây nói hạng người hết lòng khao khát cầu kinh, giống như cầu xá lợi của Phật, người như vậy đó không có tâm kia đây, mà đem nói với người này thì họ sẽ tiếp nhận dễ dàng. Cầu xá lợi Phật thì cầu sao? Bây giờ cầu xá lợi nhưng chưa có tâm bằng người xưa.
Ngày xưa như Ngài Khương Tăng Hội, nhìn sang nước Trung Hoa, Ngài thấy có ánh sáng năm màu, nó soi sáng lên cả bầu trời, thấy như vậy thì Ngài biết có xá lợi Phật ở bên đó, cho nên Ngài theo ánh sáng đó đến ở tại một làng tên là làng Phật Đà (Phật Đà này là do sau này Chúa Tôn Quyền đặt cho) Làng đó thuộc về Giang Đông của Trung Quốc. Ngài thiết am, lập tượng thờ, ở đó hành đạo nhưng mới qua chưa ai biết gì hết. Có người thấy vậy tâu lên Ngô Tôn Quyền, cho Ngài là một vị sư ngoại quốc, đem những điều lạ lùng đến mê hoặc người (dị đoan). Bởi vì lúc đó Phật giáo chưa qua tới chỗ đó, họ thấy lạ, Ngô Tôn Quyền cho gọi Ngài lại và hỏi:
Ông là vị sư nào?
Ngài đáp:
- Tôi là đệ tử của Phật
Ngô Tôn Quyền hỏi:
- Phật ở đâu?
Ngài nói:
- Phật đã tịch diệt lâu rồi, nhưng còn có xá lợi chứng nghiệm được.
Tôn Quyền hỏi tiếp:
- Có thể thấy được chăng?
Ngài đáp:
- Lòng tin tâm chí thành mong cầu mới có thể thấy được.
Nghe nói như vậy ông cười và bảo Ngài:
- Vậy ông hãy lập đàn tràng cầu xá lợi đi, nếu cầu không được ông sẽ bị giết chết.
Khi về am, Ngài Khương Tăng Hội nói với mấy vị trong chúng rằng:
- Đây là một nhân duyên mà chúng ta phải hết lòng thành kính cầu xá lợi, nếu cầu mà được chứng thì Phật pháp được truyền rộng rãi ở đây, còn nếu không được thì phải chịu chết chung tại đây thôi.
Sau đó Ngài lập đàn tràng, tắm rửa sạch sẽ thanh tịnh, Ngài hẹn với Tôn Quyền là bảy ngày sau. Mấy thầy trò thành kính cầu suốt bảy ngày mà không thấy ứng gì hết. Còn Ngô Tôn Quyền sai người đến hỏi thăm hoài, Ngài xin thêm bảy ngày nữa, nhưng cũng không thấy ứng nghiệm, Ngài lại nói: "Chúng tôi phước còn mỏng nên cầu chưa được chứng, xin cho tôi thêm bảy ngày nữa là 21 ngày, lần thứ ba này mà không được thì chịu chết thôi". Lần này thầy trò cầu nguyện đến ngày thứ bảy rồi, mà cũng không có gì hết, các đệ tử xanh mặt hết. Ngài Khương Tăng Hội chí thành cầu nguyện, lúc đó Ngài bạch thầm với Phật rằng:
- Con có chết thân này cũng không tiếc gì hết, nhưng chúng sanh ở cõi này sẽ dứt duyên Phật pháp!
Vào giữa đêm thứ bảy này, Ngài đem hết lòng tín tâm chí thành, dùng hết sức mình đọc to lên danh hiệu Phật ba lần, lúc đó mồ hôi Ngài chảy ra như máu vì hết lòng thành kính. Bấy giờ bỗng nghe có tiếng vang động ở trong bình, thấy ánh sáng trong bình rọi ra sáng rực cả phòng, lúc đó thầy trò mừng quá lại đảnh lễ, hôm sau đem dâng cho Ngô Tôn Quyền, ông thấy vậy mới kính tin Phật pháp. Theo sử ghi lại còn thử nữa: Là khi dâng xá lợi ông lấy búa đập xem có bể không, nhưng búa đập không bể ông mới tin.
Sau khi đã tin, ông đổi tên làng đó là Phật Đà, tức làng của Đức Phật, và lập chùa đầu tiên của vùng Giang Đông, gọi là chùa Kiến Sơ.
Đó là nói lên lòng tín thành cầu Xá lợi, người cầu kinh này mà có lòng tín thành như vậy thì dễ lãnh hội tri kiến Phật.
CHÁNH VĂN:Bảo cùng Xá Lợi Phất!
Ta nói các sự tướng
Của người cầu Phật đạo
Cùng kiếp cũng chẳng hết
Những người như thế đó
Thời có thể tin hiểu
Ông nên vì họ nói
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
GIẢNG:
Kết lại nói về sự tướng của người cầu Phật đạo cùng kiếp cũng không hết. Cho nên nói, tội khinh khi không tin kinh này cũng nhiều không nói hết, mà phước của người tin được kinh này cũng không thể kể hết. Ở đây gồm có hai phần là:- Thứ nhất, là nói về quả báo của người khinh chê kinh này, vì khinh chê kinh này mà chịu quả báo
khổ sở, sống trong tối tăm, là vì chối bỏ con đường giác ngộ tức con đường sáng suốt, phải sống trong vô minh đen tối, phải chịu khổ sở luân hồi dài dài.
- Thứ hai, là nói kinh này với những người có thể tin nhận được. Tức là muốn nhắn đến mọi người, tin được kinh này là đã có trồng sâu hạt giống Phật, chứ không phải thường, không phải là chuyện ngẫu nhiên, cho nên mình có lòng tin sâu vững chắc, ngay đó mình có thể cảm nhận được những điều sâu xa không thể nghĩ bàn của kinh Pháp Hoa.
Như vậy, người tin nhận kinh này là người đã trồng sâu duyên lành với Phật pháp, với Pháp Hoa, có gieo hạt giống Phật đã nhiều rồi chứ không phải ít, nên vì người đó nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này.
Tóm lại: qua ba phẩm này, từ phẩm Tựa tới phẩm Thí Dụ, Phật nhắc rõ bản hoài ra đời của Phật. Phật thí dụ nhà lửa ba xe đó cho mình thấy rõ là:- Thứ nhất: Là mình phải tin nhận rõ Tri Kiến Phật của chính mình, ai ai cũng đều có đủ hết, tin chắc điều này đó là chúng ta đã có nhân thành Phật, gieo nhân thành Phật. Dù cho tu hành pháp gì, rốt cuộc rồi cũng đến chỗ chân thật không hai này thôi, nếu rời bỏ
cái này mà có cái khác, là cái bên ngoài mình rồi. Cho nên nhận được chỗ này, gọi là chỗ Phật thọ ký chứ không gì khác.
- Thứ hai: mình tin nhận chính mình có khả năng nhận ra Tri kiến Phật này và sống được với nó, bởi vì đây là cái của mình, không phải của ai, đã là của mình thì mình có quyền nhận, có quyền sống.
Thứ ba: là tin chắc, nhớ rõ Tri kiến Phật là cái không hình tướng, không nam nữ, không trí, ngu, già, trẻ gì hết. Như vậy ai cũng có quyền nhận được hết, không phân biệt già, trẻ.Cho nên Ngài Huệ Năng đến chỗ Ngũ Tổ. Ngũ Tổ hỏi:
- Ông đến đây để làm gì?
Thì Ngài nói:
- Con đến đây để cầu làm Phật.
Ngũ Tổ mới thử:
- Ông là người mọi, làm sao làm Phật?
Ngài thưa:
- Người có Nam Bắc, nhưng Phật tánh thì không hai. Phật tánh của con với Phật tánh Hoà thượng cũng đồng nhau không khác.
Ngũ Tổ nghe nói như vậy biết đây là người khác thường. Lúc đó trong chúng đông người, Ngài sợ họ biết được, người có tâm không tốt sẽ đố kỵ, họ hại. Ngũ Tổ mới bảo:
- Thôi, đi xuống nhà sau đi!
Như vậy Ngài Huệ Năng thấy được Phật tánh đó Ngài cũng có, Tổ cũng có, đó là không hai không khác, thấy được như vậy, tin nhận được chỗ đó, là chỗ chân thật, là đã có hạt giống sâu với Phật pháp.
- Thứ tư: là biết rõ Tri Kiến Phật thì không thứ lớp cấp bậc. Cho nên ở trước Phật nói là Ngài có nói tam thừa Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thừa, nhưng cũng qui về một Phật thừa thôi. Tin nhận như vậy, đó là mình đã gieo cái nhân giác ngộ. Là đáng nghe được kinh Pháp Hoa này và nếu khéo chút nữa, ngay đâymột niệm tâm mình mở sáng, tâm niệm này không kẹt nơi căn, không trụ nơi trần. Tức là nơi mắt này thấy biết tất cả nhưng không kẹt nơi mắt tai này, cũng không trụ nơi sắc, thinh, hương bên ngoài, mà nó vẫn thấy, vẫn biết thì cái đó là cái gì? Thì ngay đó khai Tri Kiến Phật liền; chính đó liền thấy đức Như Lai ở trong nhà lửa. Cho thấy rõ, kinh Pháp Hoa ở ngay chính mình, không từ đâu khác và như vậy cũng quên niệm cầu ra khỏi ba cõi nữa. Mình trong tình mê thấy ba cõi là thật, nên cầu ra ba cõi để giải thoát. Nếu cầu ra ba cõi thì ở đâu mà giải thoát.
Bởi vậy Ngài Lâm Tế có lần bảo:
- “Các ông từ nhiều nơi đến đây đều có tâm cầu Phật cầu pháp, cầu giải thoát ra ba cõi, kẻ si, các ông muốn ra khỏi ba cõi rồi đi đâu đây? Phật và Tổ là cái tên thuộc về khen tặng”. Nói Phật, nói Tổ đó là cái tên để mình tôn kính Ngài, chứ cái gì là Phật, là Tổ? Phật Tổ chính là cái tâm giác ngộ sáng suốt của mọi người. Nhận rõ, sống được chỗ đó, là Phật Tổ sống. Còn nói Phật Tổ bên ngoài đó cũng là cái tên. “Các ông muốn biết ba cõi chăng? Tức chẳng lìa chỗ tâm nghe pháp này đây”.
Quí vị thấy cái tâm này thế nào đủ ba cõi?
Ngài bảo:- “Một niệm tâm tham của ông chính là cõi dục.
Một niệm tâm sân của ông chính là cõi sắc.
Một niệm tâm si của ông chính là cõi vô sắc.
Đó là đồ dùng của ông thôi. Ba cõi chẳng tự nói ta là ba cõi, chính là người sáng rỡ rõ ràng ở trước mắt huynh đệ biết soi sáng muôn thứ, xét nét thế giới, người đó đặt tên cho ba cõi. Ba cõi không tự có, do tâm đặt mà hiện ra, nếu không có tâm này thì ba cõi không có chỗ đứng”.
Ngài nói một niệm đang nghe pháp đây đủ hết. Khi một niệm tâm tham nổi lên thì cõi dục hiện liền, một niệm tâm sân thì cõi sắc nó hiện, hiện sân thì tóe lửa liền, còn một niệm tâm si cõi vô sắc hiện, si tức là nó lờ mờ. Cho nên một niệm đây rõ ba cõi, mà cũng đủ luôn cả cõi Phật nữa. Quí vị biết cõi Phật sao không? Thì một niệm thanh tịnh tức cõi Phật hiện thôi. Nhưng một niệm hiện tiền sáng rỡ chưa từng mê đây, thì nó thuộc cõi nào? Không có cõi nào hết, ngay đó là giải thoát rồi. Cầu ra ba cõi thì ở chỗ nào nữa? Cho nên chỉ cần nhận ra một niệm sáng rỡ này, sống ngay đây thì giải thoát liền. Sống trong ba cõi mà tự tại. Còn bỏ ba cõi này để tìm giải thoát thì cũng là lẩn quẩn còn có tâm lấy bỏ, chưa thật giải thoát. Bởi vậy mới có câu "Hồi đầu thị ngạn", tức là quay đầu lại là bờ mé liền, khỏi phải đi đâu hết. Bây giờ mình cứ lo bỏ bờ này đến bờ kia, mà bờ kia ở đâu nữa? Chính đó là cái tâm lấy bỏ. Ở đây nếu khéo soi trở lại, nhớ trở lại là giải thoát ngay chỗ này.
Cho thấy việc này là việc ở ngay nơi mình, chính mình có thể nhận và sống được, không ai làm thay thế cho mình.Có một tín đồ đến Hoà thượng Triệu Châu hỏi:
-Xin hỏi Hoà thượng, làm thế nào tham thiền mới hay ngộ đạo được?
Triệu Châu liền rời chỗ ngồi đứng dậy nói:
- Tôi đang cần đi tiểu một chút.
Sư bước xuống đi vài bước, rồi quay đầu lại bảo:
- Đó ông hãy xem, chỉ một việc nhỏ này là đi tiểu thôi, mà tôi cũng phải tự mình đi, người khác không thể thay thế được.
Còn việc kia, ông biết rồi. Đó là việc ngay nơi mình, mình làm chứ không cầu người khác làm thay được. Thí dụ Thầy gọi, ai dạ thay cho mình được đây? Gọi mình thì mình dạ thôi, mình nhớ ra, mình nhận ra cái đó cũng mình thôi, chứ ai nhận thế được, khéo thấy như vậy là thấy rõ Tri kiến Phật sẵn nơi mình. Tin nhận được như vậy, đó là mình có hạt giống giác ngộ sâu.
Mong rằng mỗi người nhớ rõ ngay trong nhà lửa vô thường này còn có một đức Như Lai đang ngự trong đó, mình phải khéo nhớ lại, sống với đức Như Lai đó, đừng quá bám vào cái lăng xăng ở trong nhà lửa, cứ vui chơi chạy giỡn như mấy đứa con trong kia, mà bỏ quên đức Như Lai này thì đáng buồn lắm! Ngài Hàn Sơn có bài thi:
Từ xưa bao thánh nhân
Dặn dò hãy tự tinNghĩa là: Bao nhiêu vị thánh nhân từ xưa thường thường dặn dò mình hãy tự tin.
Người chẳng đồng căn tánh
Cao thấp có chậm nhanhMỗi người căn tánh không đồng, có người cao hoặc thấp, cho nên có chậm có nhanh, chậm nhanh đó là do căn cơ của người, chứ còn Phật tánh này không có chậm nhanh, cao thấp.
Phật thật không chịu nhận.
Đem sức luống nhọc nhằnĐức Phật đó không chịu nhận, rồi ra sức, ra công tìm đâu đâu nhọc nhằn.
Chẳng biết tâm thanh tịnh
Chính là ấn Pháp Vương
Chính tâm thanh tịnh là ấn Pháp Vương chứ không gì khác. Vậy mình lo tìm Phật đầu này, đầu kia, mà quên mất tâm thanh tịnh đó là Phật nơi mình, cũng là chỗ Phật thọ ký. Mình khéo sống trở lại, ngay trong vô thường có cái không sanh diệt, chớ lầm mê!Ngài Ưu Ba Cúc Đa lúc còn nhỏ thôi, gặp Tổ Thương Na Hoà Tu hỏi Ngài:
- Chú năm nay mấy tuổi?
Ngài thưa là:
- Con mười bảy tuổi.
Tổ hỏi tiếp.
- Tánh ông mười bảy tuổi, hay thân ông mười bảy tuổi?
Ngài không trả lời mà hỏi lại Tổ:
- Đầu Hoà thượng bạc, vậy tóc Hoà thượng bạc hay tâm Hoà thượng bạc?
Ngài Thương Na Hoà Tu trả lời:
- À, tóc ta bạc chứ tâm ta không bạc.
Thì Ngài Ưu Ba Cúc Đa nói:
- Cũng vậy, thân con mười bảy tuổi, chứ không phải tánh con mười bảy tuổi.
Ngay đó Tổ thấy chú bé này không phải thường, rồi dẫn theo, sau đó truyền y bát cho Ngài Ưu Ba Cúc Đa.
Cho thấy thân vô thường này lớn lên có trẻ, có già, có tóc đen, tóc bạc còn tánh đó thì đâu có già trẻ gì? Cái nào có già, trẻ, đen bạc, có lớn có nhỏ thì cái đó là thuộc về vô thường thuộc về sanh diệt. Còn cái không có già, trẻ, không có đen bạc gì hết, thì nó đâu có vô thường, mà không vô thường tức là không sanh diệt, sống với cái đó phải sướng hơn không? Nhưng mình lại chịu sống với cái sanh diệt này hơn là sống với cái kia, bởi vì cái kia không thấy.
Ở đây nhớ được như vậy, sống được như vậy, thì từ trong cái vô thường giả dối đó, mình vươn lên, giống như cá nhảy khỏi lưới, ở trong lưới mà nhảy ra được là cái hay, cái giỏi. Trong kinh Pháp Cú, Phật nhắc:
Như giữa đống rác nhớp
Quăng bỏ ngoài đường lớn
Chỗ ấy hoa sen nở
Thơm đẹp sạch lòng ngườiNhư đống rác người ta bỏ ngoài đường lớn, chỗ nhơ nhớp đó, có hoa sen mọc, vì sen thường mọc trong bùn nhơ.
Cũng vậy giữa quần sanh
Uế nhiễm, mù, phàm tục.
Đệ tử bậc chánh giác
Sáng ngời với trí tuệ.
Cũng như vậy đó, giữa đám quần sanh này, vừa là uế nhiễm, vừa là mù tối, phàm tục, nhưng mà đệ tử của bậc chánh giác, tức đệ tử của Đức Phật thì sáng ngời với trí tuệ.Ở trong phàm tục mê mờ này, nhưng người đệ tử Phật phải sáng suốt trí tuệ, ở trong đó mà vươn lên, cũng giống hoa sen từ trong bùn nhơ mà vượt lên khỏi bùn. Đó là cái khéo léo của người biết học Phật, tu Phật, và cũng là ý nghĩa của kinh Pháp Hoa này.
Thấy được như vậy, tin được như vâïy đó, quí vị thấy sống trong cuộc sống vô thường, nhưng mình bớt đau khổ. Bởi vì trong cái vô thường sanh diệt, mình biết có cái không sanh diệt; như vậy tuy nó có vô thường nhưng mình còn có chỗ sống kia. Song phải thường nhớ, chứ không phải học qua hiểu vậy thôi, phải có sự luôn chiêm nghiệm lại. Học vậy mới là khéo học kinh điển. Bởi vậy Ngài Hoàng Bá thường nhắc:
- “Đọc kinh xem giáo lý đều phải uyển chuyển, xoay lại chính mình. Tất cả ngôn ngữ giáo lý chỉ là tấm gương soi lại chính mình hiện nay”. Nếu cứ học theo chữ nghĩa bên ngoài, nhiều khi bị chữ nghĩa đó làm lầm, nghe chuyện trong kinh nói quá sức tưởng tượng, mình lại tưởng tượng thêm nữa, thì nó càng xa.
Như kinh Pháp Hoa này nói Phật phóng hào quang, rồi soi khắp phương Đông, thấy cõi này, cõi kia; nghe như vậy, mình cũng muốn tu cho nó phóng hào quang ra để mà soi thấy chỗ này chỗ kia, thì càng vọng tưởng thêm. Phải soi lại cho rõ, đó là ánh sáng nơi chính mình đây, nó thấy suốt mọi thứ bên ngoài, không lầm lẫn, đó là chỗ sống hàng ngày của mình, vượt qua hết ngôn ngữ chữ nghĩa. Học kinh Đại thừa phải khéo như thế
-
5. Phẩm Tín giải
CHÁNH VĂN:
1. Lúc bấy giờ, các Ngài Huệ Mạng Tu Bồ Đề, Đại Ca Chiên Diên, Đại Ca Diếp, Đại Mục Kiền Liên, từ nơi Phật được nghe pháp chưa từng có. Đức Thế Tôn dự ghi cho Ngài Xá Lợi Phất sẽ thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sanh lòng hi hữu hớn hở vui mừng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, sửa y phục, trịch bày vai hữu, gối hữu chấm đất, một lòng chắp tay cúi mình cung kính chiêm ngưỡng dung nhan Phật mà bạch cùng Phật rằng:" Chúng con ở đầu trong hàng tăng, tuổi đều già lụn, tự cho đã được Niết bàn không kham nhiệm gì nữa, chẳng còn thẳng cầu thêm đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: Không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh của Bồ Tát, lòng chúng con không ưa thích.
GIẢNG:
Tín: là tin. Giải: là hiểu. Tín giải là tin hiểu, thông thường là nghe rồi tin hiểu, nhưng cái tin hiểu này còn cạn. Tín giải ở đây là tin nhận rõ ràng có việc đó, tức có tri kiến Phật. Cho nên tin nhận như vậy liền được Phật thọ ký, còn mình tin hiểu thường thường, chưa sâu. Tức nhân ở phần trước, Phật nói về thí dụ nhà lửa ba xe, như xe dê, xe huơu, xe trâu, ba xe này là chỉ cho ba thừa thanh văn, duyên giác, Bồ Tát tuy có sai biệt, nhưng gốc là ở Phật thừa thôi.
Ngài Xá Lợi Phất đại diện cho hàng thượng căn, mới nghe thì tin nhận liền, nên được Phật thọ ký trước, còn mấy vị này, đến đây mới được thọ ký. Các vị này đại diện cho hàng trung căn, đến đây các ngài đều tin nhận và lãnh hội được chính mình cũng có phần thành Phật, tức có tri kiến Phật.
Tại sao tin nhận lại không trình thẳng chỗ tin nhận của mình, mà lại nói thí dụ? Ý đó rất sâu xa! Bởi vì chỗ tin nhận đó là tin nhận ở đâu? Là ở nơi tâm mình chớ không phải bên ngoài, cái đó không phải là ở chỗ ngôn ngữ, cho nên không thể diễn bày bằng ngôn ngữ cho ta hiểu được, mà phải dùng thí dụ để tỏ bày thôi, người hiểu thì phải thầm hiểu, đó là cái khéo của các Ngài.
Ở đây các Ngài như Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Đại Ca Chiên Diên, Ngài Đại Ca Diếp, Ngài Đại Mục Kiền Liên, từ chỗ Phật nghe việc chưa từng có, là thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác nên các Ngài vui mừng đến đảnh lễ Phật thưa rằng:" Chúng con là những vị ở đầu trong hàng tăng, tuổi đã già nua, tự cho đã chứng Niết bàn rồi, không kham muốn làm gì nữa, tức là không còn cầu thêm đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác". Đó là các Ngài thuật lại tâm của các Ngài từ trước đến giờ. Song đây nói Ngài Tu Bồ Đềà trước, đáng lý ra nói Ngài Ca Diếp trước. Bởi vì Ngài Tu Bồ Đề là vị giải lý không bậc nhất trong hàng Thanh văn, mà đây muốn chỉ cho xả bỏ cái không, gọi là cái không một bên của hàng Thanh văn đó, để vào đạo Nhất thừa chân thật, nên lấy Ngài Tu Bồ Đề trước, mà không để Ngài Ca Diếp trước. Bởi vì cái không của Thanh văn chỉ có một bên Thể mà thiếu Dụng. Còn cái không của Đại Thừa gọi là chân không mà diệu hữu, nghĩa là cái không mà trong đó có đầy đủ diệu dụng, không phải chỉ nghiêng bên không khô khan thôi, nên cái không đó nó thành tựu vô lượng muôn ngàn cái diệu dụng mà độ thoát chúng sanh, chứ không phải là cái không một bề không tịch vắng lặng. Cũng như thấy mình được Niết bàn, còn có người chưa được, đó là chưa thấy tột ai ai cũng đều có Phật tánh, mọi người đều có tự tánh Niết Bàn. Cho nên ở đây là muốn cho mọi người đều tiến lên.
Do đó nghe hàng Thanh Văn được thành Phật, các Ngài mừng rỡ, tin nhận mình cũng có phần đó, không còn bị bỏ sót nữa. Cho thấy trước kia Phật quở các hàng Thanh Văn là mầm chết, là tiêu nha bại chủng, là vì sao? Đó là muốn khuyến khích thúc đẩy hàng Thanh văn không chấp chỗ Niết Bàn đó mà tiến lên nữa, không phải quở như vậy là gạt bỏ qua một bên. Bởi vì Phật thấy rõ ai ai cũng đều có phần đó, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có thì Thanh Văn tại sao không có? Mình phải hiểu ý đó.
Bây giờ các Ngài thuật lại: Chúng con đứng đầu trong hàng tăng, tuổi già nên các Ngài cho được Niết Bàn là đủ rồi, không muốn cầu thêm gì nữa. Nói như vậy là có ý ngầm nhắc cho mọi người đừng có vội tự mãn, mới được mà đã tự hài lòng, như vậy là cái thấy còn hạn hẹp. Nếu thật sự với tâm Bồ Tát thì sao? Ví dụ như Ngài Địa Tạng phát nguyện là:
- Chúng sanh độ tận phương chứng Bồ Đề, Địa ngục vị không thệ bất thành Phật.
Nghĩa là Ngài nguyện rằng:
- Độ hết chúng sanh Ngài mới chứng Bồ Đề, còn địa ngục chưa không, Ngài thề không thành Phật.
Ai dám phát nguyện như Ngài? Tâm như vậy mới là tâm rộng lớn, không ngằn mé. Bởi, các Ngài thấy rõ chúng sanhø vốn Niết Bàn rồi, tất cả chúng sanh vốn có Phật tánh, nói độ chứ thật sự có độ gì đâu, chỉ nhắc lại thôi. Do đó các Ngài không còn sợ nữa, còn mình vì thấy chúng sanh thật, thấy địa ngục thật, cho nên phát nguyện kiểu đó đến bao giờ cho hết, chẳng lẽ ở đó hoài sao? Đó là cái thấy còn giới hạn.
Ở đây các Ngài nói thêm:"Đức Thế Tôn thuở trước nói pháp đã lâu, lúc đó chúng con ngồi nơi toà thân thể mỏi mệt, chỉ nhớ nghĩ ba pháp: không, vô tướng, vô tác, đối với các pháp du hí thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh thì không còn ưa thích nữa".
Tức nói lên tâm trạng các Ngài chán nản sanh tử, lăng xăng trong này lâu dài quá rồi, được Niết Bàn nghỉ ngơi là vừa, chỉ muốn an ổn ở trong đó, chỉ nhớ ba môn giải thoát không, vô tướng, vô tác.
- Không là sao? Là do các Ngài quan sát lý tứ đế, thấy các pháp là không có ngã, ngã sở gì hết, các pháp đều rỗng lặng, không có chủ thể, cho nên không có chỗ gì để tham luyến, tất cả đều là không. Thấy rõ như vậy, không còn chỗ nào để bám, đó là thấy được pháp không giải thoát môn.
- Vô tướng là sao? Vì tất cả tướng đều là không, là rỗng, không có thật gì hết. Như tướng nam tướng nữ, tướng một tướng khác những tướng đó nó nương cái gì mà có? Nam nữ theo mình nhìn trên con mắt của phàm phu, thấy nam thật là nam, nữ thật là nữ. Còn các Ngài thấy sở dĩ có tướng nam tướng nữ là tuỳ theo nghiệp mà nó hiện ra thôi. Do nghiệp người nam nó hiện ra tướng người nam, còn nghiệp nữ thì hiện ra tướng người nữ, như bây giờ đây đang mang tướng người nữ mà có nghiệp nam rồi, sau sanh ra thành người nam thì nói sao? Vậy thì tướng nam nữ đó chỉ là tạm thời một lúc thôi, còn cái thật thì không có nam nữ. Trong kinh Duy Ma Cật có đoạn nói về Ngài Xá Lợi Phất và Thiên nữ.
Trong hội Ngài Xá Lợi Phất hỏi Thiên nữ:
- Thần lực của cô thật bất tư nghì, sao cô không biến thành người nam tu hành cho dễ, mà mang thân nữ hoài vậy
Thiên nữ trả lời:
- Trong mười hai năm tìm tướng nữ không thể được. Rồi cô biến Xá Lợi Phất thành Thiên nữ và tự hoá mình thành Xá Lợi Phất mà hỏi rằng:
- Tại sao Ngài không chuyển thân nữ đi?
Ngài Xá Lợi Phất trả lời:
- Tôi cũng không biết tại sao lại biến thành người nữ này nữa.
Lúc đó Ngài Xá Lợi Phất dùng thần lực chuyển nhưng chuyển hoài không được. Sau đó cô dùng thần thông thâu lại tướng nữ, Xá Lợi Phất trở lại thân nam.
Vậy tướng nam, nữ đó là sao? Là giả tướng thôi Còn cái thật là tri kiến Phật của mỗi người thì có nam nữ gì? Thấy rõ như vậy, thì tướng nam tướng nữ là tướng giả tạm, tuỳ theo nghiệp nó hiện ra thôi, do đó không còn tâm chấp trước vào các tướng đó.
- Vô tác là sao? Có chỗ cũng gọi là vô nguyện, đây là vì biết rõ các pháp đều không có tướng thật, cho nên không có tâm chấp trước vào các tướng đó để tạo tác, mong cầu trong ba cõi nữa. Tướng nam nữ không thật và các tướng có ra cũng đều là không thật, vậy thì cầu sanh vào đâu nữa? Cầu để cho ai hưởng? Cầu tướng tốt đẹp lên cõi trời thì Trời cũng là do nghiệp hiện ra thôi, hết nghiệp cũng rớt lại, vậy cũng không thật luôn, mọi tướng đó có gì là ta để mà cầu? Biết rõ điều này là hết lòng mong cầu trong ba cõi, không còn lầm các tướng sanh diệt đó nữa. Trong sử có ghi chuyện Ngài Thích Pháp Hỷ, lúc đó ngài lớn tuổi, sắp tịch, vào đầu mùa xuân năm Trinh Quán thứ VI khoảng năm 632 Tây lịch, Ngài có chút bệnh, tự biết không còn bao lâu nữa thì hết duyên đời. Thấy Ngài bệnh, trong chúng ép Ngài uống thuốc để trị liệu nhưng Ngài không uống, vì Ngài biết thế nào cũng chết thôi. Đến ngày 12 tháng 10, Ngài mới bảo trong hàng môn nhân đệ tử rằng:
- Thôi vô thường đã đến, các ông chớ có ồn náo, phải giữ im lặng ngồi thiền, để giúp ta bỏ thức này đi và cũng chớ cho người lạ vào phòng! Ngài xướng lên nói: "Ba cõi là hư vọng, chỉ một tâm thôi".
Lúc đó đại chúng chợt nghe ở phía Bắc khu rừng có tiếng âm nhạc vang lên, mọi người thấy vậy ai cũng mừng, đem chuyện này trình lên cho Ngài, Nhưng Ngài bảo rằng:
- Quả báo vui ở thế gian, ta đã bỏ từ lâu rồi, thế nào còn sanh ở chỗ vui đó nữa, đểø phải chịu ràng buộc.
Ngài không nghe theo, cứ lờ đi, và nhập định trở lại, một lúc sau những tiếng đó nó dừng hết, sau đó nghe mùi hương toả khắp trong phòng, Ngài ngồi ngay ngắn đến canh năm thì tịch.
Để thấy rõ, tuy Ngài nghe được tiếng âm nhạc, nhưng Ngài không lầm theo tiếng nhạc đó, chứ còn theo người khác khi nghe tiếng âm nhạc, tiếng kèn trống thì mừng lắm, coi như là sắp được rước về cõi trời tốt đẹp rồi, và nếu theo đó là đã đánh mất cái chân định của mình. Ở đây các Ngài rõ được vô tác, nên không còn có tâm niệm cầu sanh trong ba cõi nữa. Khi các Ngài chứng được ba môn giải thoát đó rồi, thì tự an ổn trong Niết Bàn không còn mong cầu gì nữa. Đó là tam giải thoát môn, nói theo Thanh Văn, còn nói theo Đại thừa thì sao ?
Không: Là rõ các pháp đều là duyên sanh, không có tự tánh. Từ cái nhỏ cho đến cái lớn đều như vậy. Nhỏ thí dụ như nguyên tử, trong nguyên tử thì có các âm điện tử và dương điện tử chung hợp tạo thành, chứ trong đó không có cái thể cố định là nguyên tử. Rồi cho đến cái to lớn như quả địa cầu, cũng do nhiều nhân duyên hợp lại thành. Nhân duyên thì không có tự tánh, do không có tự tánh nên tất cả phân biệt kia đây, đều là không thật, bặt được những tâm sở đắc, ngay đó tâm lặng lẽ, ngay đó Niết Bàn, khỏi cầu Niết Bàn đâu nữa, vì đâu đâu cũng là Niết Bàn. Cho nên với tinh thần của Đại thừa, thì thấy rõ đâu đâu cũng là Niết Bàn, chứ không phải bỏ sanh tử mới có Niết Bàn. Nghĩa là ngay đây mà tâm nó bặt niệm kia đây, không động, không sanh diệt, thì ngay đây là Niết Bàn. Do đó tam giải thoát môn của Đại thừa có phần sâu hơn.
Ở đây các Ngài thấy các môn giải thoát đó, các Ngài an ổn trong Niết Bàn rồi, cho nên đối với pháp Du hý thần thông, tịnh cõi nước Phật, độ thoát chúng sanh thì các Ngài không còn muốn nữa. Bởi Phật gọi chúng sanh là cang cường khó độ, có người tâm thuần thục rồi, nói đâu nghe đó, còn có người đâu có dễ dàng, nếu mà không có tâm đại nguyện của Phổ Hiền, thì khó mà chịu nổi, độ một lúc thấy chán. Ở đây các Ngài nói, các pháp du hý này các Ngài không ham muốn chút nào. Còn các vị Bồ Tát dùng thần thông du hý, tức là thần thông dạo chơi, bởi sao? Bởi vì các Ngài qua lại trong ba cõi sanh tử này giống như dạo chơi vậy thôi. Là vì các vị Bồ tát này thấy rõ sanh tử Niết Bàn này đều là giả danh, đều là hai tên đối đãi tạm lập, sanh tử không thật là sanh tử, Niết Bàn không thật có Niết Bàn riêng nữa. Chính ngay sanh tử là Niết Bàn rồi, ở trong đó các Ngài thấy sanh tử không thật thì có gì đâu mà mỏi mệt, do đó các Ngài qua lại như đi dạo chơi, đó gọi là du hý thần thông. Rồi độ chúng sanh cũng vậy, các Ngài thấy rõ chúng sanh vốn không thật là chúng sanh, chúng sanh cũng chỉ là giả tướng, mà tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, nên không sợ độ chúng sanh không hết, do đó không có nản.
Còn thanh tịnh cõi Phật cũng vậy thôi, các Ngài thấy rõ thanh tịnh cõi Phật hay độ thoát chúng sanh cũng chính là thanh tịnh độ thoát tự tâm thôi, không riêng có một pháp thật gì, cho nên các Ngài làm tất cả mà không thấy có mình làm, không thấy có gì để làm, thường gọi là làm Phật sự trong mộng, đến đó mới thật là vô ngã. Vì vậy đâu còn có mệt mỏi, nếu thấy mệt mỏi thì sao? Thì cái gì mệt mỏi? Đó là ngầm chỉ có tập khí ngã trong đó, bởi vậy mới có mệt mỏi, chớ không có ngã thì lấy gì mệt mỏi, ai mệt mỏi? Do đó trong kinh Viên Giác có một đoạn Phật dạy Bồ Tát Phổ Giác rằng:
- Này thiện nam! Chúng sanh đời sau muốn cầu Viên giác, thì phải phát tâm như thế này:" Tôi nguyện độ tất cả chúng sanh tột trong hư không đều được rốt ráo vào Viên giác, người được Viên giác không chấp ở nơi Viên giác, trừ hết các tướng nhơn và ngã v.v… phải phát tâm như vậy mới khỏi đọa vào tà kiến".
Nghĩa là tất cả chúng sanh trong hư không, Ngài phát nguyện độ hết vào trong cứu cánh Viên giác, nhưng đối trong Viên giác, không có người nào nhận lấy cái Viên giác đó, rồi trừ hết tất cả tướng kia đây, ta - người thì phát tâm như thế, chẳng có rơi vào tà kiến.
Ai dám phát tâm như vậy? Không phải độ một số chúng sanh thôi, mà tất cả chúng sanh tột trong hư không đó, phát nguyện độ vào cứu cánh Viên giác hết. Nhưng ở trong Viên giác không có người nào nhận lấy cái giác tức là sao? Bởi vì thấy rõ ai cũng đều sẵn có cái đó rồi, chỉ nhắc lại, đánh thức cho họ thôi. Phát tâm như vậy là các Ngài thấy rõ tột hết các chúng sanh đều có tánh giác, mà khi thấy được như vậy mới là thấy tột được chỗ Viên giác. Còn thấy có một chúng sanh nào chưa thành Phật, là còn thấy có chúng sanh thật, tức cái thấy chưa viên mãn. Tâm mình mở rộng, không có giới hạn và như vậy mới quên cái ta này được. Các vị Bồ Tát có thể phát tâm độ hết chúng sanh, không có mỏi mệt là vì thấy tột được lý chân thật đó. Khi mình có bám vào tướng sai biệt này thì có giới hạn, rồi phát tâm cũng có giới hạn. Đây các Ngài nói vì sao các Ngài an lòng như vậy.
Vì sao? Đức Thế Tôn khiến chúng con ra khỏi ba cõi đặng chứng Niết Bàn, lại nay đây chúng con tuổi đã già nua ở nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác của Phật dạy Bồ Tát không hề sanh niệm ưa thích.
GIẢNG:
Ở đây các Ngài nói rõ lý do, sở dĩ không ưa hạnh Bồ Tát đó là tuổi già rồi, đã giải thoát ba cõi nữa rồi, vậy còn gì nữa, chỉ mong vô sự thôi. Nhưng nếu thấy cái Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cái riêng của Phật và Bồ Tát, thì cái thấy đó đủ chưa? Cái đó là cái thấy chưa tột, do đó các Ngài nói:- Chúng con hôm nay ở trước Phật nghe thọ ký cho Thanh văn sẽ đặng vô thượng chánh đẳng chánh giác lòng rất vui mừng đặng pháp chưa từng có, chẳng ngờ hôm nay bỗng nhiên đặng pháp hy hữu, tự rất mừng đặng lợi lành lớn, vô lượng trân báu chẳng tìm cầu mà tự đặng.
GIẢNG:
Bất ngờ không có lòng mong cầu bây giờ lại được, chính đó là điểm có ý nghĩa sâu. Không cầu mà tự được, nói lên ý gì?
-Thứ nhất: Đây là cái sẵn trong mình rồi, không phải do tìm cầu bên ngoài, do đó nhớ lại nó liền có thôi. Nó có sẵn không phải từ Phật đem cho mình, nên nói không cầu mà tự được. Ở đây Phật nhắc lại cho mình nhớ, rồi tin nhận điều đó, Phật chứng minh: À, ông tin nhận như vậy là đúng, là phải, là thật, vậy thôi, chứ không phải Phật đem cái đó trao cho mình, nên các Ngài nói rõ bỗng nhiên mà được, không cầu mà được, chứ nếu cầu mà được thì sao? Thì cái đó là thuộc cái bên ngoài rồi, mà cái bên ngoài là có được, có mất, đó là ý nghĩa thứ nhất. Bởi vậy khi các vị tin nhận điều đó rồi được Phật thọ ký, sẽ thành Phật. Ngài nói thọ ký thành Phật chớ có đem cái gì để thọ ký đâu, phải thấy rõ điều đó.
- Thứ hai: Vô lượng trân báu không cầu mà tự được, là để nói lên trong tự tánh đó có đầy đủ công đức, đầy đủ diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nghĩa là trong tự tánh hay là trong Niết Bàn, nó có đủ diệu dụng không lường được, chứ không phải nói chứng Niết Bàn đến đó là không tịch, rỗng không, không có gì hết.
Cho nên ở trong nhà Thiền có câu chuyện bà già đốt am là: Có một ông Tăng tu thiền, được một bà già phát tâm ủng hộ, hằng ngày bà thường sai đứa cháu gái đem cơm cúng dường, thời gian gần hai chục năm. Một hôm bà muốn thử xem, ông tu có kết quả gì không. Bà mới bảo cô cháu là:
- Hôm nay con vô đưa cơm xong rồi ôm cứng ông Tăng hỏi: "ngay lúc này thì thế nào?"
Cô gái đem cơm và làm đúng y như lời bà già đã dặn, vị Tăng chỉ đáp hai câu kệ:
Khô mộc ỷ hàn nham
Tam đông vô noãn khí.Tức là:
Cây khô tựa núi lạnh.
Ba tháng mùa đông không chút hơi ấm.
Nghĩa là Ngài nói tâm Ngài lúc đó hoàn toàn trơ lặng không một chút động niệm gì hết. Nhưng cô về kể lại cho bà già nghe, bà nói:- Uổng công cho ta lâu nay cúng dường cho một vị phàm tăng thôi.
Bà sai đốt am và đuổi ông tăng đi. Vị tăng đó đi một thời gian xin tu trở lại, bà ủng hộ lần nữa. Trải qua một thời gian sau, bà thử lần thứ hai. Khi cô cháu gái ôm ông tăng rồi hỏi:
- Như vậy ngay đây thế nào?
Thì ông tăng nói:
- Tôi biết, cô biết, đừng cho bà già đó biết.
Khi về, cô thuật lại cho bà nghe, thì bà gật đầu.
Có ý sâu gì trong đó? Nếu mình không hiểu được ý sâu đó, rồi mình đem tâm phàm phu hiểu méo mó ý nghĩa trong nhà Thiền. Ở ngoài đời nghe kiểu đó liền suy luận cho ông tăng có ý riêng gì với cô, nên mới nói:" Tôi biết, cô biết, đừng cho bà già biết", như vậy là suy hiểu theo tâm phàm tục. Còn ở đây là muốn nói lên ý nghĩa sâu xa đó là:
- Trước kia vị Tăng nói: "Cây khô tựa đá lạnh. Ba tháng mùa đông không chút hơi ấm" Đó là chỉ cho tâm khô lặng, không có động niệm gì, chỉ có một bề lặng thôi, nhưng chưa có sáng.
- Nhưng sau vị Tăng nói:" Tôi biết, cô biết, đừng cho bà già biết". Tức là không cho cái thứ ba chen vào, đây là sáng ngời biết đó, nhưng chỉ thầm biết thôi, gọi là người tri âm trong cảnh mới cảm nhận được, chứ không thể diễn tả cho người bên ngoài biết, như vậy ý nghĩa của nó rất là sâu xa. Nhưng người thường khó hiểu nỗi, bởi vậy đem tâm phàm của mình hiểu qua cách đó thì cũng phàm luôn.
Có câu chuyện ông Tô Đông Pha với Ngài Phật Ấn. Ông thường hay đối đáp qua lại với Ngài Phật Ấn, nhưng bị thua luôn. Có lần ông đến chùa Kim Sơn để ngồi thiền với Ngài Phật Ấn, hôm đó ngồi Thiền ông có niềm vui thấy phấn khởi, sau khi xả Thiền xong, ông hỏi Ngài Phật Ấn:
- Hôm nay Thầy thấy dáng tôi ngồi như thế nào?
Ngài Phật Ấn nói:
- Giống như một vị Phật.
Nghe Phật Ấn nói vậy, ông thấy rất phấn khởi.
Sau đó Ngài Phật Ấn hỏi lại ông:
- Ông thấy tôi ngồi như thế nào?
Khi nghe Phật Ấn hỏi như vậy, ông nghĩ đây là dịp để ông trả đũa, vì lâu nay đều bị thua Ngài hoài, cho nên ông nói:
- Giống như đống cứt trâu.
Ngài Phật Ấn nghe vậy Ngài chỉ cười, không tỏ vẻ gì là không hài lòng. Nhưng ông nghĩ Ngài Phật Ấn cười mà không trả lời gì hết, như vậy là Ngài Phật Ấn thua rồi nên không đáp được. Do đó đi đâu ông cũng rao lên: "Hôm nay ngài Phật Ấn thua tôi rồi". Nghe thế mọi người đồn ra, sau đến tai cô em gái của ông tức cô Tô Tiểu Muội, cô này rất thông minh, khi cô nghe như vậy cô hỏi lại ông:
- Anh à, nghe anh thắng Ngài Phật Ấn mà anh thắng như thế nào kể lại nghe coi?
Ông kể lại chuyện ngồi Thiền đó cho cô em nghe, nghe xong, cô em gái liền nghiêm mặt lại nói với ông:
- Thôi rồi, anh thua Ngài Phật Ấn rồi anh ơi! Bởi vì Ngài Phật Ấn tâm Ngài giống như Phật cho nên nhìn anh cũng như Phật, còn tâm anh giống như cứt trâu nên thấy Ngài như đống cứt trâu.
Ngay đó ông xịu mặt liền, thì ra ông thấy rõ là cái công phu Thiền định của ông còn thua Ngài Phật Ấn rất xa.
Đó là ý muốn nói lên cái gì? Là tâm không thanh tịnh thì nhìn theo cái không thanh tịnh của mình. Bởi vậy lấy tâm phàm của mình nhìn trong cảnh giới Phật, thì nó cũng phàm theo mình luôn. Nhưng với người tâm thật sự sáng rồi, mới thấy rõ nó sâu xa, nhiều khi với tâm sáng rồi chỉ nhìn cảnh giới phàm thôi cũng là sâu nữa. Kế tiếp các ngài nói ví dụ:
CHÁNH VĂN:
2. Thế Tôn chúng con hôm nay xin nói thí dụ để chỉ rõ nghĩa đó. Thí như có người tuổi thơ bé, bỏ cha trốn đi qua ở lâu nơi nước khác, hoặc mười, hai mươi đến năm mươi năm, người đó tuổi đã lớn lại thêm nghèo cùng khốn khổ, rong ruổi bốn phương để cầu đồ mặc, vật ăn, dạo đi lần lần tình cờ về bổn quốc.
Người cha từ trước đến nay, tìm con không đặng bèn ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu có của báu vô lượng, các kho đụn, vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, pha lê, châu báu v.v… thảy đều đầy tràn, tôi tớ, thần tá, lại dân rất đông, voi, ngựa, xe cộ, bò, dê nhiều vô số. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán cũng rất đông nhiều.
GIẢNG:
Đây nói thí dụ một người cùng tử tuổi thơ bé nhỏ, bỏ cha tìm qua nước khác xin ăn. Khi vắng con, người cha cho người đi tìm con nhưng tìm hoài không được, nên ông ở lại một thành, nhà ông giàu có nhiều của báu, tôi tớ đầy đủ. Cho vay thâu vào lời lãi khắp đến nước khác, khách thương buôn bán đông nhiều.Đây thứ nhất nói về đứa trẻ tuổi thơ, bỏ cha trốn đi qua nước khác, đó là muốn nói ai? Tuổi thơ là chỉ cho mê mờ thiếu trí tuệ, còn đứa trẻ chỉ cho mình đó. Ở đây dùng hình ảnh bỏ cha đi lang thang qua nước khác, nước khác là chỉ cho quê người. Mình đây cũng vậy, bỏ tánh giác của mình, đi lang thang bên ngoài là sáu trần, là ở nước người. Tức là ai ai cũng đều có một ông cha hết, mà ông cha đó là ông cha gì? Là ông cha bản giác, đó là chỗ nương tựa vững chắc lâu bền của mỗi người, nhưng lại đành bỏ quên, rồi xây lưng với ông cha đó, để lang thang khổ sở nơi xứ người. Đây gọi là rong ruổi khắp bốn phương, nay đây mai đó xin ăn, thấy đau không? Vua Trần Thái Tông trong bài nói về bốn núi, bài núi thứ nhất Ngài nói:
Chỉ sai hữu niệm, quên vô niệm
Liền trái không sanh nhận có sanh.Nghĩa là mình chỉ cần sai một niệm, tức là có niệm (hữu niệm) thì quên cái thể vô niệm chân thật đó. Cho nên liền trái cái thể không sanh của mình, đi vào trong sanh tử gọi là nhận có sanh, khi nhận có sanh thì:
Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị
Mắt mờ chúng sắc, tai mê thinh.Rồi từ đó mũi đắm mùi hương, tai theo tiếng, tức gọi là lang thang nước người, lúc ở bên nước sắc, nước hương, nước vị, nước xúc cứ mãi theo sáu trần đó mà quên mất cả đường về. Đến đây quí vị nhớ đường về chưa? Hay là còn lang thang ở xứ người? Ngài nói tiếp:
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.Càng đi, càng xa, vì xây lưng rồi, nên mỗi bước đi thì mỗi bước xa, cứ xa hoài quên mất đường về. Nhưng sự thật quê hương đó nó ở đâu? Cũng ở ngay trước mặt thôi, mà quên mất đường về thì thấy sao? Đó mới đáng thương! Bởi vì ai ai cũng đều có tâm hết, mà có tâm tức có giác, chính đó là quê nhà chứ gì. Nhưng quên tâm sáng suốt chỉ nhớ sáu trần thôi, nên đành lang thang xứ người.
Lại còn ở lâu nơi nước khác nữa, đến mười, hai mươi hoặc năm mươi năm, tức là sao? Tức là chìm đắm trong năm đường, trong bốn loài sanh, cứ luân hồi trong đó mãi, nên mỗi ngày một sâu thêm. Rồi sao nữa? Ở trong đó nghèo cùng khốn khổ, đi xin, cầu đồ mặc vật ăn. Lâu lâu xin ăn được một chút là thấy vui rồi, cũng giống như mình đây, lang thang mãi trong địa ngục, ngạ quỷ súc sanh, lâu lâu được lên cõi trời, như xin được món ăn ngon, nhưng ăn hết bữa đó thì sao? Hôm sau cũng đi xin nữa. Cũng vậy, lâu lâu lên được cõi trời, đến khi hết phước đó thì rớt trở lại, rồi cũng xin ăn, rồi lại lang thang nữa. Cái gốc đó từ đâu mà có? Là do quên mình theo vật. Cho nên xin ăn được no một chút, bị đói trở lại, rồi xin nữa, vì cái đó là cái bên ngoài, do đó có được rồi nó cũng mất, lại chịu khổ thôi. Bởi vậy cái khổ quên mình theo vật là cái khổ lớn, thường thường mình nói khổ này, khổ kia, cũng là cái khổ tạm thời thôi, còn cái khổ quên mình theo vật đó mới là cái khổ đời đời, vì vậy có câu chuyện Ngài Cảnh Thanh thử ông Tăng là:
Thiền sư Cảnh Thanh ngồi trong thất, có vị tăng đứng bên cạnh, Sư hỏi:
- Bên ngoài có tiếng gì?
Tăng thưa:
- Tiếng con nhái bị con rắn bắt kêu.
Sư nói:
- Sẽ bảo chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh.
Nghĩa là:
- Chúng sanh khổ: Là con nhái bị con rắn bắt ăn, vì con lớn hiếp con bé đó là chúng sanh khổ.
- Khổ chúng sanh: Chính là người quên mất mình chạy theo ngoại cảnh, đó là ông tăng đang quên mình theo vật, chỉ nhớ theo tiếng nhái kêu vì bị rắn bắt, mà quên mất cái "đang nghe hiện hữu" đây. Ngài hỏi như vậy đâu phải là Ngài không biết là tiếng con nhái kêu nhưng Ngài muốn thử xem ông Tăng có nhớ đến tánh nghe sáng suốt hiện hữu này không. Do đó Ngài nói: "Chúng sanh khổ, lại có khổ chúng sanh". Chính đó là cái khổ của mình, mình thường thường cũng giống như vậy. Ví dụ mình ngồi đây, mà nghe ngoài kia có người cãi lộn, thì mình cũng lắng tai nghe, nếu ngoài kia có người quen mình chửi mà thua thì sao? Mình tức theo rồi ra ngoài giúp họ thêm nữa, thì có chúng sanh khổ lại có thêm khổ chúng sanh nữa không? Rõ ràng là như vậy, cho nên cái khổ chính của mình là quên mình theo vật đó là cái khổ lớn nhất, mà ở đây khi theo tiếng, thì cứ nghe tiếng này lại bắt qua tiếng kia.
Thí dụ như nghe tiếng rắn bắt nhái, nhái kêu, qua tiếng đó thì sao? Thì lóng nghe tiếng khác, rồi lại lóng nghe tiếng khác nữa, nên cứ đói hoài thôi. Lúc nào không có tiếng nghe thì cảm thấy buồn, phải mở radio ra nghe đỡ buồn. Nếu không còn tiếng gì để nghe, là lúc đó mình đang sống trở về với mình thì sung sướng biết mấy, nhưng đâu có chịu, cho nên chạy theo bên ngoài phải chịu đói mãi, trong khi đó nơi mình có đủ hết không thiếu gì.
Có một lần vị tăng tên Thanh Nhuệ đến thưa với Ngài Tào Sơn rằng:
- Con nghèo cùng xin Thầy cứu giúp cho.
Ngài Tào Sơn mới gọi:
- Xà Lê Nhuệ, hãy lại gần đây.
Thanh Nhuệ lại gần, Sư bảo:
- Kẻ nhà nghèo ở Tuyền Châu, đã uống xong ba chén rượu, lại nói chưa dính môi.
Tức là: nghèo đây không phải nghèo tiền, nghèo bạc, mà chỉ cho nghèo trí tuệ, đang còn mê chưa biết, nên xin Thầy cứu giúp, thì Ngài Tào Sơn bảo:" Xà Lê Nhuệ! Hãy lại gần đây!" Khi nghe gọi Thanh Nhuệ liền đến, vậy lúc đó có nghèo không? Nghe kêu liền "biết nghe" còn biết lại gần thì có thiếu gì đâu mà bảo là nghèo? Cho nên Tào Sơn nói: "Kẻ nhà nghèo ở Tuyền Châu, đã uống xong ba chén rượu rồi, mà còn nói chưa dính môi". Đã có sẵn đó mà còn than nghèo, thật là đáng tức cười. Cũng vậy, mình đây, đi tới quí thầy này thầy kia để cầu đạo, giống như nghèo mà đi xin. Ngày xưa không giống như bây giờ, các Ngài đánh thức ngay mình, nếu khéo soi lại thì có đủ hết, đâu nghèo.
Ở đây nói rằng, trong khi cùng tử đi lang thang xin ăn tình cờ về trúng ngay bổn quốc, tức quê nhà ngày xưa. Có lúc nào quí vị tình cờ trở về bổn quốc không? Quả thật tình cờ trở về nhiều lắm, nhưng về mà không hay thôi, rồi bỏ đi nữa! Thí dụ có những lúc tâm thanh tịnh, ngồi nghỉ ngơi mà không nghĩ ngợi gì hết, thì trong lúc đó cái gì có mặt mà nó không chết đi? Như vậy ngồi yên vô sự, không nghĩ ngợi gì nhưng mình vẫn còn sống thì lúc đó là cái gì? Có phải quê nhà ngay chỗ đó không? Cho nên cái bản giác đó là cái nó vẫn ngầm sẵn trong thân mê của mình đây thôi không thiếu. Trong chúng sanh vẫn có Phật là như vậy đó, nhưng mình tới lúc đó không nhận còn chối bỏ nữa. Ngài Bàn Khuê nói: "Tất cả quí vị từ xa đến đây với ý định rõ rệt là để nghe những gì tôi nói, nên quí vị đương nhiên phải lắng tai nghe giảng. Thế nhưng trong khi nghe giảng, có tiếng chó sủa bên ngoài, quí vị cũng nhận ra được đó là tiếng chó sủa, quạ kêu nhận ra là quạ kêu, tiếng người lớn nhận ra là tiếng người lớn, tiếng trẻ con nhận ra là tiếng trẻ con. Khi từ nhà đến đây nghe pháp, quí vị không định trước rằng: "Nếu trong khi nghe giảng, bên ngoài có chó sủa, chim kêu, có tiếng người lớn, tiếng trẻ con, thì mình phải cố lắng tai nghe". Thế mà lúc tụ họp tại đây, quí vị vẫn nhận ra được tiếng ồn của chó, quạ bên ngoài, tiếng nói của người lớn và trẻ con. Mắt quí vị vẫn phân biệt được màu sắc, mũi vẫn phân biệt được các mùi. Quí vị không tính trước sẽ gặp những tiếng gì, màu gì, mùi gì. Sự kiện quí vị nhận ra được những gì mình không chờ đợi để thấy nghe, chứng tỏ quí vị đang thấy nghe với tâm Phật Bất sinh".
Đó Thiền sư Bàn Khuê chỉ rõ ngay cái thấy nghe của mình hiện hữu đây, vốn có đủ tâm Phật Bất Sinh, mà nơi đó là gì? Chính là bổn quốc của mình đó! Vậy quí vị tình cờ mà trở về bổn quốc, ngày chừng mấy lần? Đếm không hết, nhưng mà không nhận nổi. Như hiện tại, tôi nói đây quí vị ở dưới cũng nghe rõ ràng, có ai không nghe như vậy ai cũng có đủ, chỉ vì không chịu nhận thôi. Ngài Tử Hồ có lần trong giữa đêm, Ngài bỗng đến trước tăng đường la:"Ăn trộm, ăn trộm". Trong chúng tăng hoảng hồn tưởng ăn trộm thật, ai nấy đều tung mền chạy ra lúc đó có một vị Tăng chạy ra trước đụng phải Ngài, Ngài liền nắm áo ông Tăng và bảo:
- Bắt được rồi, bắt được rồi!
Ông Tăng nói:
- Thưa Hoà thượng! Không phải, con.
Thì Ngài bảo:
- Phải tức phải, chỉ là không chịu nhận thôi.
Tức là ngay nơi mình có đủ hết, nhưng mình không chịu nhận, nếu nhận thì xong, không chịu nhận nên nó chạy ra bên ngoài thành ăn trộm.
Đây nói, tình cờ trở về bổn quốc, người cha từ trước đến nay tìm con không đặng cho nên ở lại tại một thành trong nước đó. Nhà ông giàu có, đủ hết tôi tớ thần dân, buôn bán cho vay thâu vào lời lãi khắp hết qua các nước khác.
Tại sao cha tìm con không được? Cha tìm con không được là để chỉ cho bản giác luôn luôn ngầm đánh thức bên trong của mình, nhưng cái vô minh lâu quá nó che không nhớ, do đó gọi là cha tìm con, tìm hoài không được. Tìm không được thì sao? Mới ở lại một thành trong nước, thành đó là thành gì? Là chỉ cho cái thành Bồ Đề, cho nên phát tâm Bồ đề sẽ khéo vào thành đó. Khéo phát tâm Bồ đề là tâm gì? Là tâm giác thôi chứ gì! Phát tâm giác trở lại vào thành thì gặp cha, tức là thấy trở lại bản giác chứ không đâu xa. Rồi người cha của giàu vô lượng tức là chỉ trong bản giác đó đầy đủ công đức, những diệu dụng không thể nghĩ bàn. Nghĩa là cái thật trí của Phật đó, nó có đủ những diệu dụng không tính kể. Nhiều tôi tớ xe cộ, đó là chỉ cho những phương tiện trí, trong đây có đủ. Rồi trong đó cho vay lời lãi khắp đến nước khác, nghĩa là từ một vốn cho vay ra lời lãi đến các nước khác nữa, là chỉ rộng ra các căn cơ của ngũ thừa: Nhân thừa, Thiên thừa, Thanh văn thừa, Duyên giác thừa và Bồ Tát thừa, mọi căn cơ đều được hưởng, đều có đủ bản giác đó và cũng qui về một chân thật đó chớ không gì khác. Khách thương buôn bán là chỉ cho ứng thân hiện chỗ này, hiện chỗ khác, tức hiện khắp nơi, nghĩa là chỗ nào, đâu đâu cũng có duyên cho mình trở về, khi tâm thuần thục, thì nghe tiếng, hoặc thấy sắc đều có thể tỏ ngộ được, như các Ngài có người nghe tiếng chim kêu cũng tỏ ngộ, có người thấy hoa đào nở cũng tỏ ngộ. Ởû đây có vị nào chịu theo khách buôn để về gặp chủ chưa? Khách buôn đủ đây, mà thường theo lời lãi nó dẫn đi mãi. Ngay đó mà biết trở về, thì đều gặp chủ hết, lời lãi cũng từ một cái vốn đó mà có ra, mà bây giờ chỉ theo cái lời lãi tức là theo cái phân biệt thôi.
Trong nhà Thiền có một vị Tăng hỏi Ngài Nam Nhạc là:
- Thế nào là đại ý Phật pháp?
Ngài Nam Nhạc không trả lời, mà hỏi lại:
- Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu?
Như mình ở đây hỏi: "Thế nào là đại ý Phật pháp", hỏi lại: "Gạo ở Cần Thơ giá bao nhiêu?".
Đó là Ngài trả lời đại ý Phật pháp rồi. Nếu theo giá cả có mắc rẻ tức là theo tâm phân biệt hai bên là không thấy được đại ý Phật pháp. Còn muốn thấy đại ý Phật pháp thì sao? Thì phải bặt niệm phân biệt hai bên mắc rẻ, nghĩa là ở đây không theo lời lãi đó, còn theo lời lãi là theo cái phân biệt hai bên thì xa dần, nếu khéo thì từ chỗ đó trở về, tức từ phân biệt đó mà quên nó, thì trở về gặp chủ. Cho thấy Ngài thí dụ đó đều có ý nghĩa để nhắc mình trở về.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, gã nghèo kia dạo đến các tụ lạc, trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở.
GIẢNG:Người cùng tử đó bỏ đi thời gian tình cờ trở về bổn quốc, trở về bổn quốc rồi mà chưa tới thành của cha, bấy giờ đi xin ăn dạo đến các tụ lạc trải qua xóm làng, lần hồi đến nơi thành của người cha ở, tức là sao? Tức là chỉ cho tu hành từ từ theo thứ lớp, sau thời gian mới đến chỗ thật, đến thành cha ở, bây giờ thành đó ở đâu! Ở ngay thân tâm mình đây chứ không đâu khác, mình theo sáu trần là đi xa thành ấy, còn trái với sáu trần thì trở lại thành ấy, tức là trở về ngay thân tâm mình thôi. Vậy thân tâm mình gặp Phật pháp là sao? Là trở về thành của cha rồi. Bây giờ còn điều nữa, là phải vào cửa để gặp cha, nhưng gặp cha cũng chưa đủ, mà còn có nhận cha hay không. Đó là chuyện còn đang chờ mình.
CHÁNH VĂN:
Người cha hằng nhớ con, cùng con biệt ly hơn năm mươi năm mà ông vẫn chưa từng đối với người nói việc như thế, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn. Ông tự nghĩ, già nua và có nhiều của cải, vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, không có con cái, một mai mà chết mất thời của cải tản thất không người giao phó. Cho nên ân cần nhớ luôn đến con. Ông lại nghĩ: Nếu ta gặp đặng con ủy phó của cải, thản nhiên khoái lạc không còn sầu lo.
GIẢNG:
Ở phần trước người cùng tử đi dạo đến các tụ lạc rồi trải qua các xóm làng, lần lần đến nơi thành của người cha ở, bây giờ đây người cha hằng nhớ con, biệt ly hơn năm mươi năm, nhưng cũng vẫn chưa từng nói với những người khác, chỉ tự suy nghĩ lòng rất ăn năn thôi và nghĩ mình của cải nhiều, kho báu đầy đủ, không có ai giao phó thì của cải tan mất. Cha hằng nghĩ nhớ đến con, là ý nghĩa gì? Đó là ngầm dụ cho Phật hằng nhớ chúng sanh (Vị trưởng giả là chỉ cho Phật) mà cũng có nghĩa là chỉ cho tánh giác đó nó luôn luôn hằng thôi thúc bên trong của chúng ta, ai ai cũng có tánh giác ở bên trong nó thôi thúc, nó ngầm ngầm đó, chúng ta nhớ lại liền gặp. Vị Thiền Sư Việt Nam là Khuông Việt nói:
Trong cây vốn có lửa
Có lửa, lửa lại sanh
Nếu bảo cây không lửa
Cọ xát làm gì sanh?Ngày xưa lấy lửa phải cọ cây, trong cây đó vốn có lửa, khi mình cọ xát nóng thì mới phát sanh ra lửa, nếu trong cây không lửa thì cọ cách mấy cũng không sanh ra lửa được. Cũng vậy trong thân của mình có tánh giác sẵn, cho nên mình khéo soi nhớ trở lại thì liền gặp nó rồi phát hiện ra, nếu thật sự trong thân mình không có tánh giác, thì dù mình tu cách mấy đi nữa cũng không hiện nổi.
Ông trưởng giả hằng nhớ như vậy mà chưa từng nói với người, sao không nói cho người khác biết để người ta nhắc giúp cho mà lại không nói? Bởi đây là việc của trong nhà, tức là việc trong nhà ông làm sao nói được? Cũng vậy, việc giác ngộ này là của ai? Đó cũng là việc trong nhà mình, nên khó diễn tả cho người hiểu, mà chỉ người nào khéo thầm cảm thông thôi. Do đó ngày xưa khi Tổ Đạt Ma qua Trung Quốc chưa gặp người khế hợp thì Ngài ngồi xoay mặt vô vách chín năm chờ đợi.
Rồi ông thường tự nghĩ rất ăn năn, sao tự nghĩ ăn năn? Thấy được chỗ nầy mới là khéo! Nghĩa là ai ai cũng có sẵn việc đó, đáng lẽ phải sống trong đó, tại sao không chịu sống, lại bỏ quên không tự giữ gìn? Nên ông suy nghĩ tự rất ăn năn mà cũng đáng thương nữa, có sẵn nhưng không chịu nhận! Vì vậy Thiền Sư Nhân Dũng ở Bảo Ninh, nhân dịp Tết đến Ngài dạy chúng bài kệ:
Hôm qua năm cũ đi
Ngày nay năm mới đến
Năm cũ đi chẳng đi
Năm mới đến chẳng đến.
Nghĩa là:
Ngài nói hôm qua thì năm cũ qua rồi, sáng nay năm mới đến, với con mắt người thường thấy là năm cũ đi, năm mới đến, nhưng với con mắt của Thiền Sư năm cũ đi mà không đi đâu hết, cũng như năm mới đến, cũng không có gì để đến, mà có đến có đi đó chỉ là thời gian giả tạm thôi, trong đó còn cái gì không đến không đi. Ngài nói thêm.Khắp đồng đầy thước tuyết
Đại địa bặt mảy trầnKhắp đồng đầy thước tuyết: Nghĩa là khắp cả ngoài đồng tuyết phủ đầy hết, tức đâu đâu cũng thấy tuyết sáng ngời hết.
Đại địa bặt mảy trần: Tức là khắp cả quảû đất không có mảy trần nào, vậy tại sao không ai sáng được? Ngài nói tiếp:
Người không tên không tuổi
Đưa mắt nhìn bồi hồi.Như vậy là nhân năm mới, Ngài thấy trong cái đến đi đó có cái không đến đi, cái này bày khắp mọi nơi, tạm diễn tả bằng cách là khắp đồng tuyết nó phủ đầy hết, đâu đâu tuyết cũng phủ trắng sáng ngời đó, không có một mảy bụi nào che hết, nhưng tại sao không ai thấy được? Cho nên ngay đó Ngài nói: "Người không tên không tuổi, đưa mắt nhìn bồi hồi". Tại sao nhìn bồi hồi? Tức là ông ngồi sẵn đó nhưng không ai nhớ, không ai ngó ngàng, chỉ đành đưa mắt nhìn bồi hồi! Hiện giờ có người nhìn bồi hồi không? Người đó vẫn ngồi đó bồi hồi không biết nói sao. Cũng là để chỉ cho, tánh giác luôn luôn sẵn đó, nó hằng ngầm ngầm thúc đẩy bên trong, nhưng mình chưa chịu nhớ lại, nếu nhớ lại liền gặp ngay.
Rồi nói: "Ông tự nghĩ của giàu mà không có con cái, thì khi chết mất sẽ sao đây", đó là muốn nói lên cái gì? Đây muốn nói, trí Phật là không cùng tận, dụ cho của báu kho đựng tràn đầy, phải không? Nhưng thân này lại hữu hạn, tám chín chục năm cũng bỏ lại. Như vậy trí Phật thì vô hạn, còn thân mạng này lại hữu hạn, nếu không gặp được người căn cơ khéo khế hợp thì làm sao tiếp nối huệ mạng Phật này? Cho nên ân cần nhớ luôn đến con, nhớ đến người để mà giao phó, tức là luôn luôn có lòng đại bi để đánh thức cho mọi người không có gián đoạn.
Nếu mà được một điều nữa thì hay biết mấy! Cha hằng nhớ con, còn con thì sao? Con thì không nhớ cha, nên đi lang thang, chứ con mà hằng nhớ cha nữa thì quá hay. Ở trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn nói về Ngài Đại Thế Chí niệm Phật. Ngài nói: Phật hằng nhớ mình, cũng như mẹ thường nhớ con, mình niệm Phật nếu khéo luôn luôn lúc nào cũng nhớ Phật, thì Phật nhớ mình, mình cũng nhớ Phật, là thấy Phật hiện tiền. Nhưng đây khổ nỗi là không chịu nhớ, nên nhọc lòng cho ông Trưởng giả.
CHÁNH VĂN:
3. Thưa Thế Tôn! Bấy giờ gã cùng tử làm thuê làm mướn lần hồi tình cờ đến nhà người cha bèn đứng lại bên cửa, xa thấy cha ngồi giường sư tử, ghế báu đở chân, các hàng bà la môn, sát đế lợi, cư sĩ đều cung kính bao quanh. Trên thân ông đó dùng chuỗi ngọc chn châu giá trị nghìn vạn để trang nghiêm, kẻ lại dân tôi tớ cầm phất trần trắng đứng hầu hai bên. Màn báu che trên, những phan đẹp thòng xuống, nước thơm rưới đất, rải các thứ danh hoa, các vật báu chưng bày, phát ra, thâu vào, lấy cho v.v… có các sự nghiêm sức dường ấy, oai đức rất tôn trọng.
Gã cùng tử thấy cha có lực thế lớn liền sanh lòng lo sợ, hối hận về việc đến nhà này, nó thầm nghĩ rằng: "Ông này chắc là vua, hoặc là bậc đồng vua, chẳng phải chỗ ta làm thuê mướn đặng tiền vật. Chẳng bằng ta qua đến xóm nghèo có chỗ cho ta ra sức để đặng đồ mặc, vật ăn, nếu như ta đứng lâu ở đây hoặc rồi họ sẽ bức ngặt ép sai ta làm. Gã nghĩ như thế rồi liền chạy mau đi thẳng".
GIẢNG:
Quí vị thấy đáng tức không? Thấy được cha rồi, không dám nhận mà bỏ chạy đi.Thấy cha mà chưa dám nhận, là sao? Là cũng còn tưởng mình là khách, chứ không phải người nhà, tuy là biết có việc đó nhưng còn đứng bên ngoài nhìn. Cho cái đó là thuộc các hàng Bồ tát, các hạng bậc thượng thôi, mình làm sao mà có? Tổ Lâm Tế từng bảo: "Làm thân sư tử không kêu tiếng sư tử, mà lại kêu tiếng dã can, là bậc trượng phu mà chẳng có hơi hám của trượng phu, vật trong nhà mình mà chẳng chịu tin nhận, chạy ra bên ngoài tìm kiếm, thế ấy là đạp lên trên chữ nghĩa chết của người xưa, nương âm hiểu dương chẳng thể tự thông suốt".
Nghĩa là việc chân thật đó là cái của mình, ở nơi mình mà không chịu nhận lại nhận cái của người. Ngài nói là đạp lên trên chữ nghĩa chết của người xưa.
Gia tài sự sản đó chính là của mình chứ không ai khác, lại tự chối bỏ đi tìm trên chữ nghĩa, phân tích trên văn tự, lấy đó làm vui, lâu lâu phân tích câu nào hay thấy hài lòng vậy là đủ, thì đó không là đạp lên trên cái người xưa hay sao? Trong khi đó tu là phải sáng tỏ nơi mình, thì cho đó là chuyện xa vời, chuyện đó là chuyện của Phật, Tổ ngày xưa thôi.
Do đó ở đây nói cùng tử đến gặp cha rồi mà chưa chịu nhận, ở xa thấy cha ngồi đó đủ thứ trang nghiêm, oai đức rất tôn trọng. Nghĩa là nghe trí Phật bất khả tư nghì, thần thông diệu dụng của Phật, của Bồ tát đó là của các ngài thôi. Đây chỉ đứng xa nhìn không dám nhận. Đâu ngờ cái đó là cái người người đều có. Phật sở dĩ thành Phật là từ đâu? Là cũng từ nơi chúng sanh này đi lên mà thành Phật, Bồ tát cũng vậy. Do đó có lần Ngài Huệ Hải đến tham vấn với Mã Tổ. Tổ hỏi:
- Ông đến đây làm gì?
Ngài Huệ Hải đáp:
- Con đến cầu Phật pháp.
Tổ hỏi:
- Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?
Huệ Hải thưa:
- Cái gì là kho báu của Huệ Hải?
Tổ nói:
- Chính ngay cái ông hỏi ta là kho báu của ông.
Cũng vậy Ngài Huệ Siêu đến Ngài Pháp Nhãn hỏi:
- Thế nào là Phật?
Ngài bảo:
- Ông là Huệ Siêu.
Ngay đó Ngài liền ngộ
Nếu hỏi mình thế nào là Phật? Thì mình giải thích Phật là tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn, giải một hơi cuối cùng không biết Phật đâu hết, tức là chạy sang nhà người để tìm! Còn ở đây Ngài chỉ thẳng: "Ông là Huệ Siêu", ngay đó nhận ra thấy Phật liền.
Đây nói đứng bên cửa, nhưng đứng xa xa thấy, không dám đứng gần, tức là không dám đụng đến ánh sáng đó, chứ còn sự thật thì sao?. Ánh sáng đó luôn luôn phát ra sáu cửa này, nhưng không dám đụng đến, ở ngay chỗ đó mà lờ qua, lờ qua không biết bao nhiêu lần. Nếu khéo thì ngay chỗ sáu căn, thấy nghe đó khéo nhận trở lại thì liền thấy mình có đủ hết. Đây nói không nhận mà hối hận về việc đến nhà cha, rồi phải qua xóm nghèo để làm thuê mướn, bỏ chạy đi. Tức là nghe nói Phật đạo sâu xa khó hiểu khó đến, thuộc về ở đâu đó nên sanh lòng lo sợ. Thường thường nghe nói tu thành Phật ít dám nghĩ tới, do đó mà tìm chỗ làm thuê mỗi ngày kiếm chút ít ăn thực tế hơn. Ý nói mình tu hành chỉ thích đời nay tu gieo duyên, để đời sau có phước báu được hưởng vui sướng, còn tu thành Phật thấy xa quá.
Nhưng trong kinh nói, dù có phước báu sanh lên cõi trời sắc giới, được ở đó đến hàng triệu năm, cuối cùng hết phước cũng rớt xuống. Giống y như đây mỗi ngày đi làm thuê, làm mướn, ăn hết rồi cũng phải đi làm nữa. Hoặc người chứng được quả này quả kia cũng là cái tạm thời thôi. Thí dụ như Thanh văn chứng được A Na Hàm sau cũng bỏ, qua chứng A La Hán. Giống như đây làm thuê làm mướn vậy thôi, được rồi thì cũng hết. Còn tu trở về chỗ chân thật thì tu tới vô sở đắc, bởi vì cái đó là cái ở ngay nơi mình, còn cái ngoài mình chỉ là cái tạm.
CHÁNH VĂN:
Khi đó, ông trưởng giả ngồi nơi toà sư tử thấy con bèn nhớ biết, lòng rất vui mừng và tự nghĩ rằng: "Của cải kho tàng của ta nay đã có người giao phó rồi, ta thường nghĩ nhớ đứa con này làm sao gặp đặng, nay tự nó bỗng đến rất vừa chỗ muốn của ta, ta dầu tuổi già vẫn còn tham tiếc". Ông liền sai người hầu cận đuổi gấp theo bắt lại.
Lúc ấy, kẻ sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc lớn tiếng kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?" Kẻ sứ giả bắt đó càng gấp cưỡng dắt đem về. Khi đó gã cùng tử tự nghĩ không tội chi mà bị bắt bớ đây chắc định phải chết, lại càng sợ sệt mê ngất ngã xuống đất.
Người cha thấy vậy liền nói với kẻ sứ giả rằng: "Không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, đừng nói chi với nó".
GIẢNG:
Đến đây còn thêm cái đáng tức cho mình, nghĩa là giáp mặt cha, mà còn chưa chịu nhận! Ông Trưởng giả thấy con liền nhớ biết, ông rất vui mừng coi như có người giao của cải rồi, nhưng nó không chịu nhận. Như vậy thấy con bèn nhớ biết nhận ra liền là nói lên ý gì? Là nhận được tánh giác đó ở ngay nơi mình trong mọi hành động tại đây, cho nên thấy đó là nhớ biết liền, nghĩa là mọi hành động đây đều có sự biểu hiện tánh giác đó hết. Bởi vì có biết tức là có giác, mọi hành động gì cũng có biết, vậy không hành động nào lọt qua tánh giác đó hết. Do đó, có câu chuyện ông vua Dị Kiến hỏi đệ tử Ngài Đạt Ma là Ngài Ba La Đề:- Thế nào là Phật?
Ngài Ba La Đề đáp:
- Thấy tánh là Phật.
Ông hỏi tiếp:
- Thầy thấy tánh chăng?
Thì Ngài đáp:
- Tôi thấy Phật tánh
Vua hỏi tiếp:
- Như vậy tánh ở chỗ nào?
Ngài đáp:
- Tánh ở ngay tác dụng chớ không đâu hết.
Ông vua hỏi thêm:
- Tác dụng thế nào mà tôi chẳng thấy?
Tổ đáp:
- Tác dụng hiện tiền tại Ngài không thấy thôi.
Vua hỏi tiếp:
- Nơi ta có hay không?
Tổ đáp:
- Bệ hạ mà khởi tác dụng thì đâu lại chẳng có, nếu không khởi tác dụng thì thể cũng khó nhận thấy, nghĩa là có khởi tác dụng thì có, còn không khởi thì không thấy được.
Vua hỏi thêm:
- Vậy khi khởi tác dụng có mấy chỗ xuất hiện?
Ngài đáp:
- Có tám chỗ xuất hiện.
Vua hỏi tiếp:
- Vậy xin Ngài vì tôi mà nói tám chỗ ấy?
Ngài Ba La Đề liền nói bài kệ:
Tại nơi thai là thân
Tại nơi đời là người
Ở nơi mắt là thấy
Ở nơi tai là nghe
Ở nơi mũi là ngửi
Ở nơi miệng thì nói bàn
Ở nơi tay thì nắm bắt
Ở chân thì đi lại
Buông ra trùm khắp pháp giới
Thu lại chẳng đầy hạt bụi
Người nhận rõ đó là Phật tánh
Người không biết gọi là tinh hồn.
Ngay đó ông vua nghe liền có cảm hiểu.Đó là thấy rõ Phật tánh hiện ngay nơi mọi tác dụng của mình đầy đủ không thiếu sót, nhưng mình lại không khéo nhận. Ở đây Ngài Ba La Đề đáp: "Ở nơi thai là thân: hiện nơi thai là hiện ra có thân. Tại đời là người: nếu không có nó thì không có hiện ra đời. Rồi ở nơi mắt thì thấy. Ở nơi tai nghe, có cái nào thiếu đâu. Thấy nghe rõ ràng là có biết trong đó, có biết là có giác. Do đó khi xưa các Ngài tu hành mà khế hợp, thì thấy cái hoa trước mắt cũng ngộ được hay nghe tiếng chim cũng ngộ. Có người cưỡi ngựa qua cầu té cũng ngộ. Tức trong mọi tác dụng đó có hiện đủ hết, nếu mình khéo thì thấy rõ cả, nhưng mình không khéo thì thôi. Cho nên ở đây nói:" Ông Trưởng giả đó ngồi thấy con thì liền nhớ biết, xác định chắc chắn như vậy, là có người giao phó rồi. Ông nói đứa con này ta thường nhớ đến nó, bỗng nó liền tự đến, đó là nói lên chúng sanh với Phật vốn không có thật thể sai biệt, trong chúng sanh vốn có Phật rồi, do đó nó mới "bỗngï nhiên tự đến", mà không từ đâu đến. Tức ngay nơi mình đã có đủ rồi, nếu mình khéo nhận thì thấy trong mọi tác dụng đều hiện rõ, còn ngồi đó mà cầu ở đâu đâu thì khó thấy được.
Ông đã già mà còn tham tiếc, là tham tiếc cái gì? Đó là nói lên ý chỉ, tánh giác nó vẫn niệm niệm không có tạm rời nơi mình, trong niệm niệm đều có tánh giác đầy đủ không thiếu, khi nhân duyên đến thì liền gặp. Ông sai người hầu cận đuổi gấp bắt lại là dụ cho cái gì? Là dụ cho dùng pháp đốn giáo mà thu về đó, đốn giáo là ngay đó nhận được liền thôi. Nhưng người cùng tử thì sao? Lúc đó ông Trưởng giả sai sứ giả chạy mau qua bắt, gã cùng tử kinh ngạc kêu oan: "Tôi không hề xúc phạm, nhân sao lại bị bắt?". Không hề xúc phạm tức là không hề cầu cái đó, nó quá sức tưởng tượng, do đó cùng tử mới kinh ngạc kêu oan. Nhưng kẻ sứ giả đó nghe thì càng gấp cưỡng dắt đem về.
Gấp cưỡng bắt đó, là chỉ cho lý thật đốn giáo thì ngay phiền não tức Bồ Đề, sanh tử tức Niết Bàn, chớ không có chỗ để cho mình kịp suy nghĩ, nhưng người cùng tử này căn cơ chưa đến được, chưa tiếp nhận nổi cái lý này, do đó ngất xỉu. Ngất xỉu đó là mình đối diện mà tự mê, có mắt tai đầy đủ mà không thấy không nghe, đó mới là chuyện đau, nếu ngay đó mà nhận là cha tôi thì hay quá! Đó là nói lên duyên chưa đến, dù cho cưỡng hợp cũng không hợp nổi, công phu mình chưa tương ứng thì cố gượng hợp cũng không thể được.
Khi ngất xỉu như vậy người cha mới nói với kẻ sứ giả: "không cần người đó, chớ cưỡng đem đến, lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại, cũng đừng nói chi với ai hết". Tại sao gặp con rồi mà không dám nói, cha chỉ xa thấy con? Là để nói lên, nhân Phật có đủ rồi, nhưng chưa sống được còn cách đạo quả rất xa. Cũng như mình ở đây nghe biết có tánh Phật đó rồi, nhưng chưa sống được, như vậy mình còn cách đạo quả rất xa, Phật cũng còn từ xa thấy mình. Xa đó là muốn nhắc nhở cho mọi người, nhất là người học pháp Đại thừa, học pháp Thiền, không thể bảo cái đó là cái có sẵn rồi không cần phải tu gì hết. Tuy là nó có sẵn đó nhưng công phu mình chưa đến, thì nó chưa có hợp được, cho nên đây nói người cha còn xa thấy vậy thôi. Rồi bảo sứ giả hãy lấy nước lạnh rưới lên mặt cho nó tỉnh lại đừng nói gì với nó hết, đó là muốn nói chỉ dùng phương tiện, để khiến cho người sẽ tự nhận tự ngộ thôi chứ không thể áp đặt được, bởi vì nó không chịu nhận thì dù cho có áp đặt cách mấy cũng không được. Mặc dù biết nó sẵn sàng trước mặt đó, nhưng bảo ngộ đi, ngộ không nổi?
CHÁNH VĂN:
Vì sao? Cha biết con mình y chỉ hạ liệt, tự biết mình giàu sang làm khiếp sợ cho con. Biết chắc là con rồi mà dùng phương tiện chẳng nói với người khác biết là con mình. Kẻ sứ giả nói với cùng tử: "Nay ta thả ngươi đi đâu tuỳ ý".Gã cùng tử vui mừng đặng điều chưa từng có, từ dưới đất đứng dậy, qua đến xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc.
GIẢNG:
Biết chắc là con mình rồi nhưng không nói với người, đó là muốn nói lên ai ai cũng có ông chủ chân thật đó, biết chắc như vậy 100% không nghi ngờ gì hết, nhưng lẽ thật đó mình chỉ có thể thầm hội thôi chứ không thể suy nghĩ để hiểu, cũng không thể nói năng được. Cho nên ở đây nói biết chắc như vậy mà không nói cho người khác nó là con mình. Hiểu chỗ này quí vị đọc trong sách Thiền thì thấy Lâm Tế hỏi Ngài Hoàng Bá: "Thế nào là đại ý Phật pháp?" Ngài Hoàng Bá đánh cho một gậy. Tại sao không giải thích mà chỉ đánh thôi? Nếu nói theo đây thì không thể nói với người khác được, chỉ để cho mình tự nhận. Thì đây, biết chắc chúng sanh có tánh giác đó rồi, không lo gì mà không được giác, nếu khéo dùng phương tiện đánh thức họ thì có lúc họ sẽ tỉnh. Ngài Lâm Tế nói:- Ở ngay trong cục thịt đỏ có vị chân nhân vô vị, tim, gan, tỳ, phổi nó không biết thuyết pháp, nghe pháp, hư không cũng không biết thuyết pháp, nghe pháp, chỉ có cái riêng sáng tỏ rõ ràng trước mắt các ông đó, nó biết thuyết pháp, nghe pháp.
Nghĩa là: Ở trong thân xác thịt này, có một vị chân nhân không có ngôi thứ gì hết, tức là trong thân này có ông Phật, tim, gan, tỳ phổi nó không biết nói pháp, nghe pháp. Vậy cái gì biết thuyết pháp nghe pháp? Thì chính là nó thôi chớ còn gì nữa. Đó là Ngài chỉ rõ ngay trong thân chúng sanh có Phật tánh sáng ngời đó, nó chưa từng mê nhưng mình không chịu nhận thôi. Nên sứ giả nói với cùng tử:
"Nay ta thả ngươi đi đâu tuỳ ý".
Gã cùng tử được thả rồi đi qua xóm nghèo để tìm cầu sự ăn mặc được chút ít cho là đủ. Được thả đi qua xóm nghèo đó là gì? Tức là được chút thảnh thơi là tự hài lòng, nhưng quên rằng vẫn còn làm công kiếm ăn từng buổi, nếu ngay đó mà nhận cha mình thì sướng biết mấy, hết đời làm mướn rồi. Đó là muốn nói lên công phu của mình thuộc về những công phu tạo tác hữu vi, là công phu sanh diệt, chưa phải thật. Tại sao ở đây gã cùng tử này nhận chút ít tự cho là đủ? Là bởi do cái tập khí nhiều đời, cho nên tuy gặp đó mà cũng không sống được, người có duyên lành nhận được, nhưng chưa sống được, cũng còn phải thời gian, bởi vì tập khí nó huân tập từ vô lượng kiếp đến giờ rồi, do đó muốn bỏ một lần không dễ gì bỏ hết được mà phải có thời gian lâu ngày, ở đây ông Trưởng giả cũng biết như vậy.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ ông Trưởng giả toan muốn dụ dẫn người con mà bày chước phương tiện, mật sai hai người, hình sắc tiều tuỵ không có oai đức: "Hai người nên qua xóm kia, từ từ nói với gã cùng tử, nơi đây có chỗ làm trả giá gấp bội. Gã cùng tử nếu chịu thời dắt về đây khiến làm. Nếu nó có hỏi muốn sai làm gì? Thời nên nói với nó rằng " Thuê người hốt phân, chúng ta hai người cũng cùng ngươi chung nhau làm". Khi đó hai người sứ liền tìm gã cùng tử, rồi thuật đủ việc như trên.
GIẢNG:
Ở đây nói rằng, ông Trưởng giả dùng phương tiện, sai người đến nói với gã cùng tử đó là thuê mướn đến hốt phân, đây là muốn nói lên Phật dùng phương tiện ngầm ngầm đánh thức mình, vì chỉ thẳng không chịu nhận. Phật dùng phương tiện sai hai người đó là hai người gì? Cũng như bảo: Thôi, bây giờ ông hãy dẹp phiền não đi sẽ được giải thoát, sẽ được Bồ đề, tức là bỏ cái này sẽ được cái kia, đó là hai bên, giống như hai người mà ngầm ngầm thôi. Bởi bảo dẹp phiền não đi sẽ được Bồ đề, nghe như vậy thì thấy dễ làm, còn bảo ngay phiền não tức Bồ đề thì không biết sao. Nhưng phiền não dẹp đi đâu? Bỏ nó chỗ nào? Mới thấy đó là phương tiện của Phật, chứ sự thật phiền não có ngoài mình đâu, dẹp nó rồi bỏ nó đi đâu đây? Mà bỏ cho ai? Thì chính mình khởi chính mình dừng là xong chứ có dẹp đi đâu. Mình khởi được thì mình dừng được. Thí dụ như ai nói nặng mình, mình giận thì đó là phiền não.Còn biết giận là bậy, dừng lại thì thôi, có bỏ đi đâu? Cho nên đó là phương tiện còn đối đãi.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ gã cùng tử trước hỏi lấy giá cả liền đến hốt phân. Người cha thấy con, thương xót và quái lạ. Lại một ngày khác ông ở cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tuỵ, phân đất bụi bậm dơ dáy không sạch. Ông liền cởi chuỗi ngọc, áo tốt mịn màng cùng đồ trang sức, lại mặc áo thô rách trỉn dơ, bụi đất lấm thân, tay mặt cầm đồ hốt phân, bộ dạng đáng nể sợ, bảo những người làm rằng: "Các ngươi phải siêng làm việc chớ nên lười nghỉ!" Dùng phương tiện đó đặng đến gần người con.
GIẢNG:
Quí vị ở đây cho hốt phân thì chịu hay cho vàng bạc chịu? Gã cùng tử hốt phân thì chịu, nhưng trước hỏi lấy giá cả, tức là trả giá, thấy đáng thương không? Cả kho báu đó là của ai? Là của mình lại đi trả giá từng ngày thì mới thấy đau không? Trả giá, là nói lên cái gì? Đó là mong có được, tu mà có đắc quả có được đạo thì mới chịu, cho nên phải trả giá. Do đó người cha thấy con thương xót, cả gia tài đó vốn của mình không ai khác mà không dám nhận, bây giờ còn trả giá đi làm công!!! Trong nhà Thiền có câu chuyện Sơ Sơn đến hỏi Ngài Quy Sơn Đại An là:
-Câu có câu không như bìm nương cây, khi cây ngã bìm khô thì thế nào?
Câu có câu không tức là hai bên có không, giống như dây bìm leo bám vào cây, nhưng khi cây ngã rồi bìm khô tức là hai bên có - không nó ngã hết, dứt sạch hết thì thế nào? Bặt hết cả có - không thì còn gì nữa? Ngay đó Ngài Quy Sơn Đại An cười ha hả. Nếu ngay đây quí vị bặt hết có - không thì sao? Thì sung sướng biết mấy. Nhưng Sơ Sơn chưa hiểu, mới thưa:
- Con đã lặn lội từ xa ngàn dặm đến đây để học đạo. Hoà thượng đâu được đùa như vậy? Là còn trả giá, chớ ngay đó khéo nhận thì sung sướng quá rồi! Hai bên có - không mà bặt hết đó là gì? Là chân thật hiện tiền rồi, ngay đó nhận là xong, nhưng không chịu nhận, cho nên Ngài Quy Sơn nghe nói tới đó cười ha hả. Cười đó là nhắn ông ngay đó nhận là xong, nhưng Sơ Sơn chưa chịu, nên kể công đi từ xa ngàn dặm đến, đáng lẽ Hoà thượng phải dạy thế nào chứ!
Ngài Quy Sơn Đại An mới bảo thị giả:
- Hãy lấy mấy đồng tiền trả công giày cỏ cho Thượng tọa này đi.
Cho nên cái cười đó là đánh thức mình ngay đó phải tự nhận thôi. Đợi nói tức là trả giá, như ở đây gã cùng tử đó hỏi lấy giá cả rồi mới chịu hốt phân.
Rồi sao? Người cha thấy con thương xót, lại một ngày khác ông ở trong cửa sổ xa thấy con ốm o tiều tuỵ, phân đất bụi bặm dơ dáy, ông mới cởi chuỗi ngọc, áo tốt, mặc áo rách dơ giống nó gần nó thì nó mới chịu.
Đứng cửa sổ xa thấy con đó là ý gì? Đó là nói lên ngay cửa sáu căn này Phật tánh luôn luôn hằng hiển lộ, luôn luôn phóng quang, nếu không có nó mỗi người đâu có nghe, đâu có thấy; có nghe, có thấy rõ ràng là nó luôn phóng quang đó, nhưng mỗi người lại không chịu nhận.Cũng như ở đây ông Trưởng giả ở cửa sổ đứng nhìn đó, mà đứa con này có dám nhận đâu? Nhưng vì sao lại không chịu nhận? Bởi vì lo sống theo bụi trần, bị bụi bậm đó nó che. Mà che đó là che cái gì? Sự thật che đó là chỉ che bên ngoài thôi, chớ không làm nhiễm được Phật tánh đó. Nếu ai khéo nhận thì thấy rõ nơi các căn của mình thấy nghe hiểu biết đây, Phật tánh luôn luôn phóng hào quang sáng ngời mỗi ngày, chưa từng thiếu vắng. Ở trong sách Thiền có đoạn nói về Ngài Thần Tán lúc đầu ở với vị Bổn Sư tại một chùa nơi quê hương, nhưng vị Bổn Sư này tu hành chưa ngộ đạo nên Ngài bỏ đi học đạo, gặp Tổ Bá Trượng dạy cho. Sau đó Ngài ngộ đạo rồi, trở về với Bổn Sư ở nơi chùa cũ. Khi về Ngài cũng không nói học được gì hết, mà vẫn hầu hạ Thầy như cũ. Một hôm hầu Thầy tắm, Ngài kỳ lưng cho Thầy, khi kỳ lưng, Ngài lấy tay vỗ vỗ lưng vị Bổn Sư nói:
- Điện Phật đẹp mà Phật không thánh.
Vị Bổn Sư nghe nói vậy liền ngoái đầu ngó lại. Ngài Thần Tán mới bảo:
- Phật tuy không thánh, nhưng vẫn phóng quang.
Khi Ngài vỗ vỗ cái lưng đó nói: Điện Phật đẹp nhưng không thánh. Tức là ngay thân này có Phật, nhưng Phật không hiện được. Khi nghe nói như vậy, vị Bổn Sư ngoái đầu ngó lại, thì Ngài nói tiếp: "Tuy không thánh mà vẫn thường phóng quang". Vậy phóng ở chỗ nào? Nếu không có nó thì cái gì biết ngoái đầu ngó lại? Ngay đây mà nhận được thì thấy Phật liền. Cho nên Ngài nói không thánh mà thường phóng quang. Thấy được chỗ này là thấy Phật tánh hiện khắp nơi, cũng như ánh sáng thiền đó ở chỗ nào cũng có hết, ngay trong nhà tắm cũng có luôn. Nhưng ở đây còn chưa chịu nhận, cho nên ông Trưởng giả đứng cửa sổ dòm thôi, dòm rồi thì sao?
Bấy giờ ông mới cởi chuỗi ngọc châu báu đó, mặc áo dơ xấu, để cho gần với các tướng của nó, đến gần nó mới dễ nhận, đó là muốn nói lên cái gì? Cởi áo trân báu mặc áo thô xấu, đó là muốn nói Phật tánh sáng suốt nó ẩn trong thân nhơ nhớp của mình, Phật tánh thì nó không có những tướng sanh diệt này, nó cũng không có những tướng nhơ nhớp này, nhưng mà nó ẩn trong đây, trong thân chúng sanh này có Phật tánh. Đến gần đó mới bảo: "các ngươi phải siêng làm chớ có lười nghỉ, tức là nhắc: Thôi phải luôn tinh tấn để trở về với ông Phật đó, mà đây gọi là ráng siêng năng làm. Đó là Ngài dùng phương tiện để đến gần con khiến cho người con đó tin nhận, tức là muốn nói lên. Phật cũng là người, Tổ cũng là người, mà Ngài đã giác ngộ được, thì mình cũng là người, tại sao mình lại không? Cho nên ở đây Ngài mặc áo nhơ tức là áo người cũng như mình đó. Chính chỗ đó là chỗ ngầm đánh thức mọi người có niềm tin mạnh nơi mình, đều có đủ khả năng để giác ngộ. Trong đây cũng ngầm nói lên một ý nghĩa nữa là, nhắc cho mọi người khéo quên cái niệm nhơ-sạch đó, thì liền thấy Phật pháp thân sẵn nơi mình thôi. Nếu còn phân biệt là nhơ là sạch thì khó thấy được, bởi vì còn có niệm nhơ-sạch là còn thấy hai bên. Do đó có vị Tăng hỏi Ngài Vân Môn là:
- Thế nào là Phật?
Thì Ngài đáp:
- Que cứt khô!
Nếu hiểu theo phàm phu thì nghĩ, Ngài nói sao hỗn láo quá, nghĩ như vậy tức là sao? Là mình còn niệm nhơ-sạch. Ở đây Ngài đáp như vậy là khiến cho người đối diện đó quên cái niệm nhơ sạch, mà quên được niệm nhơ sạch thì ngay đó chính là Phật rồi .
Rồi Điều Ngự Giác Hoàng, cũng có lần vị Tăng hỏi Ngài là:
- Thế nào là pháp thân thanh tịnh?
Thì Ngài đáp:
Đục vàng rơi trong phân sư tử
Gã đen đúa vác bó hương thơm.Nghĩa là:
Cái đục vàng nó rơi trong đống phân sư tử, còn người nhơ nhớp lại vác bó hương thơm.
Đục vàng là chỉ cho nó thanh tịnh, nó sạch, còn phân là chỉ cho cái nhơ. Cũng vậy, gã đen đúa vác bó hương thơm, hương thơm tức chỉ cho sạch, còn đen đúa chỉ cho dơ. Tức ngay đó mà quên niệm nhơ sạch thì thấy pháp thân, Ngài đáp khéo như vậy, mà người thường nghe những câu như vậy nói rằng: Ngài đáp sao mà có vẻ thô phải không? Nhưng khi mình nghĩ thô đó thì chính mình còn niệm thô-tế, nên không thấy được ý Ngài muốn chỉ. Như vậy ông Trưởng giả cởi áo tốt mà mặc áo nhơ là muốn đánh thức mọi người nhớ nơi mình, có Phật tánh sẵn nơi cái thân nhơ nhớp này, nếu khéo quên được niệm nhơ sạch thì thấy được pháp thân chân thật đó, nhưng muốn thấy được cái đó, thì cũng phải khéo tinh tấn mà sống trở về, nên ông nhắc là lo siêng năng.
Lúc sau lại bảo con rằng: "Gã nam tử này ngươi thường làm ở đây đừng lại đi nơi khác, ta sẽ trả thêm giá cho ngươi, những đồ cần dùng như loại bồn, chậu, gạo, bột, muối, dấm, người chớ tự nghi ngại. Cũng có kẻ tớ già hèn hạ, nếu cần ta cấp cho, nên phải an lòng, ta như cha của ngươi chớ có sầu lo".
Vì sao? Vì ta tuổi tác già lớn mà ngươi thì trẻ mạnh, ngươi thường trong lúc làm việc không lòng dối khi trể nãi giận hờn nói lời thán oán, đều không thấy ngươi có các điều xấu đó như các người làm công khác. Từ ngày nay nhẫn sau như con đẻ của ta. Tức thời Trưởng giả lại đặt tên cho cùng tử gọi đó là "Con".
GIẢNG:
Đến đây thấy vui được một phần và được Phật đặt tên cho là "Con". Bây giờ ông Trưởng giả bảo: Thôi ngươi đừng đi đâu nữa, ở đây làm rồi ta sẽ trả thêm giá cho ngươi. Đó muốn nói lên ý gì? Đây muốn nói, chỉ nên hằng sống ngay đây thôi, đừng cầu thêm gì khác nữa, và cũng là muốn cho mình quên chỗ cũ đi, tức là những tập khí cũ, quên cái mình có sở đắc, cái học hiểu những kiến giải, mà hãy nhận ngay đây, chớ đừng thêm gì nữa. Chỗ này cũng giống như trong nhà Thiền có đoạn Ngài Tông Nguyên bảo với Ngài Đạo Khiêm. Ngài Đạo Khiêm ở với Ngài Đại Huệ một thời gian dài mà chưa ngộ đạo. Một hôm Ngài Đại Huệ sai đem thơ cho một người ở xa, thì Ngài Đạo Khiêm mới than: "Ta cả đời học đạo mà chưa có xong gì hết, nay lại phải đi trên đường xa nữa thì công phu tu sẽ bị tổn thất đi!" Cho nên Ngài Đạo Khiêm không muốn đi, thấy vậy Ngài Tông Nguyên là bạn mới khích lệ nói rằng:
- Không thể nói trên đường đi lại không có thể tham thiền được, huynh hãy đi tôi sẽ cùng đi với huynh.
Trên đường đi Ngài Đạo Khiêm lại than lần nữa:
- Tôi cả đời học đạo mà chưa được gì hết, bây giờ còn phải đi đường dài xa như vầy, thì công phu bị tổn thất hết, không biết rồi sẽ ra sao đây!
Nghe nói vậy Ngài Tông Nguyên mới bảo:
- Từ trước đến giờ có điều gì mà huynh nhận từ các Ngài, như Ngài Viên Ngộ v.v… thì bây giờ chẳng cần nhận đến nữa mà hãy gạt qua một bên đi, ở trong đây có việc gì cần giúp thì tôi sẽ làm giúp hết cho huynh. Nhưng chỉ có năm việc huynh phải tự làm là đi đại, đi tiểu, ăn cơm, mặc áo, "chính huynh là người phải tự mang lấy thây thúi này trên suốt quãng đường đi". Khi nghe tới đó Ngài Đạo Khiêm liền tỏ ngộ. Ở đây muốn nói lên cái gì? Khi Ngài Tông Nguyên nói: Có những điều gì mà huynh nhận được từ các Ngài như Ngài Viên Ngộ và những việc mà tôi giúp huynh được nhưng cũng là được những cái bên ngoài. Còn những cái ăn cơm, mặc áo, đi đại, đi tiểu thì chính huynh phải tự nhận thôi và nhất là huynh phải mang cái thây thúi này trên suốt quảng đường đi. Là Ngài muốn nói chính mình phải tự nhận, chính mỗi người phải mang cái thây thối này trên suốt quảng đường đời này, chớ không ai mang thế cho mình hết, thì phải nhận ra cái đó thôi, cái đó phải chính mình nhận không ai nhận cho mình được; hiểu cái đó thì thấy được ở đây, bảo là thôi ông đừng đi nơi khác, đừng nhận gì khác nữa mà phải khéo dừng nơi đây thôi.
Rồi ông nói thêm còn có cần gì đó thì ta sẽ cho ngươi hết, bây giờ an lòng đi, coi ta như cha đẻ, tức là sao? Tức là muốn nói lên nếu mình chịu dừng lại đó, là được thầm thọ ký cho rồi, cũng như đây bảo dừng lại đó, coi ta như cha đẻ của ngươi, là nhận làm con rồi, nghĩa là thôi thôi đừng chạy lang thang nữa thì ngay đó là chỗ thầm thọ ký của Phật! Kế đặt tên cho cùng tử là "con", thành ra nói cha, nói con là sao? Đó cũng là phương tiện đặt tên thôi. Ở đây nói con chỉ là cái tên đặt cho thôi, mình phải thấy được ý đó, khiến cho chúng ta phải có cái nhảy, tức là phải nhảy qua ranh giới cha con đó, còn thấy có cha, có con là còn thấy có mình, có Phật, có chúng sanh, có mê, có ngộ, cũng còn chưa hết lầm. Bởi vì sao? Bởi vì Thanh văn, Duyên giác hay Bồ Tát, thì cũng đồng một pháp tánh chân thật đó thôi, nghĩa là cho dù có nói là Thanh văn, là Duyên giác hay là Bồ Tát, thì cũng đồng một nguồn bất sanh bất diệt đó, đồng một nguồn sáng ngời từ muôn thuở đó, không ai thiếu hết thì nói gì là cha là con?
Khi đó gã cùng tử, dầu mừng việc tình cờ đó song vẫn còn cho mình là khách là người làm công hèn vì cớ đó mà trong hai mươi năm thường sai hốt phân, sau đó lòng gã mới lần thể tin ra vào không ngại sợ, nhưng chỗ gã ở cũng vẫn nguyên chỗ cũ.
GIẢNG:
Được gọi là con rồi, cũng còn tự thầm thầm cho mình là khách, chưa dám nhận gia tài đó là của mình nữa, rồi cũng phải chịu hốt phân, đó là ý nghĩa rất là sâu xa! Sao vẫn gọi là con rồi mà còn coi là khách? Hai mươi năm đó cũng sai hốt phân, chỗ ở cũng nguyên chỗ cũ, chỗ cũ là chỗ nào? Ý nói tuy thầm được thọ ký rồi, nhưng mà cũng còn nhiều năm công phu, còn phải gạn lọc rồi mới dần dần tự tại ra vào được, chớ không phải được thọ ký là xong. Ở đây tuy gọi là con nhưng tập khí cùng tử vẫn còn, cũng còn cho mình là khách, nghĩa là tư cách của người làm công đó chưa quên được, vẫn còn tư cách thói quen của người làm công, cho dù muốn làm ra vẻ ông chủ có giống không? Có khi làm dáng ông chủ còn thấy tức cười, lố bịch nữa, làm không tự nhiên. Đây là điều răn mình chưa thật tự tại thì đừng làm ra vẻ tự tại, để người ta thấy mình không thật tự tại thì thành lố bịch. Bởi tập khí của người làm công nó quen rồi, bây giờ tuy được nhận là con, nhận thì nhận chớ còn những thói quen đi đứng nói năng giống như người làm công thôi. Mình cũng vậy, ngay đây có tỏ ngộ được thọ ký đó, nhưng tập khí chúng sanh vẫn còn, lâu lâu cũng hiện ra nên phải gạn lọc thời gian mới xong. Ông Trưởng giả biết được điều đó, nên ngay đó ông không giao gia tài cho liền, nghĩa là phải đợi thời gian là còn sai hốt phân. Hốt phân tức là gạn lọc những tình chấp, những kiến giải hai bên, gạn hết mấy cái đó đi rồi mới được giao gia tài cho. Do đó trong nhà Thiền khi có người tỏ ngộ rồi thì các Tổ thường dặn: "Ông khéo hộ trì, khéo bảo dưỡng".
Khéo hộ trì, khéo bảo dưỡng đó là khéo giữ gìn cho nó không bao giờ mất, cho nó được sống trọn vẹn trong đó không chạy lọt, thì mới thật là viên mãn.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn! Bấy giờ Trưởng giả có bệnh, tự biết mình không bao lâu sẽ chết mới bảo cùng tử rằng: "Ta nay rất nhiều vàng bạc, trân báu, kho đụn tràn đầy, trong đó nhiều ít chỗ đáng xài dùng, ngươi phải biết hết đó. Lòng ta như thế, ngươi nên thể theo ý ta".
Vì sao? Nay ta cùng ngươi bèn là không khác nên gắng dụng tâm chớ để sót mất.
Khi ấy cùng tử liền nhận lời bảo lãnh biết các của vật, vàng, bạc, trân báu và các kho tàng, mà trọn không có ý mong lấy của đáng chừng bữa ăn, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được.
GIẢNG:
Từ trước đến giờ tuy nhận là con mà chưa cho biết, bây giờ tập cho quen dần biết hết những cái đó, nhưng gã cùng tử tuy được như vậy, mà cái mừng đó cũng không có ý mong lấy, giá trị đó đáng chừng bữa ăn thôi, chỗ của gã ở vẫn tại chỗ cũ, tâm trí hạ liệt cũng chưa bỏ được hết, tức là sao? Tức là chỗ này đã thực có sức thọ dụng rồi, là có phần đạo lực trong đó, nhưng cũng không có ý mong cầu, lấy của đó giá trị đáng chừng bữa ăn thôi, vì cái này là cái đã từng sống trong đó, sống hàng ngày không phải cái gì khác mới có. Tuy vậy mà còn chưa quên được chỗ cũ, nghĩa là ở đây tuy có chỗ thọ dụng đó rồi mà chưa quên được chỗ dùng. Cho nên còn phải giữ gìn nữa, giữ gìn không để cho nó sót mất. Tức là khi tu đến chỗ thường giác, người bình thường tu đến đây là hay rồi, nhưng còn cái thường giác là sao? Còn có cái giác để thường giác là giác cái gì? Giác là giác cái mê mà còn thường giác là còn chưa hết mê cho nên mới thường giác, như vậy là chưa thật tột. Người tu thiền phải hiểu thật kỹ để không có lầm lẫn. Thiền Sư Hân ở Dũng Tuyền, một hôm Ngài thượng đường bảo:
- Ta 49 năm ở tại chỗ này mà còn có lúc chạy lọt, bọn các ông chớ có mở miệng to, kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một.
Ngài nói trong 49 năm ở tại chỗ này có lúc còn chạy lọt nữa, huống nữa là mình, cho nên bọn ông chớ ăn to nói lớn. Nhiều khi có những vị học thiền sáng được chút ít gì đó, rồi liền ăn to nói lớn, thấy giống như mình là Tổ rồi, sự thật có lúc nó cũng chạy lọt, mà cái gì chạy lọt? Tức “tâm trộm” của mình, nó lén lén nó chạy, nên Ngài nói kiến giải thì nhiều mà hạnh giải thì ít, nghĩa là thấy được thì nhiều nhưng mà sống được thì ít, chớ không phải đơn giản, đó là nhắc nhở mình.
Cũng vậy Hoà thượng Quy Sơn có lần hỏi Ngài Ngưỡng Sơn:
- Này Huệ Tịch, tâm thức của ông nó vi tế lưu chú không đến đã được mấy năm rồi?
Ngưỡng Sơn chưa vội đáp, hỏi lại:
- Hoà thượng không đến đã được mấy năm rồi?
Ngài Quy Sơn đáp:
- Lão Tăng không đến đã bảy năm rồi.
Ngài Quy Sơn lúc đó đã bảy mươi tuổi.
Ngài Ngưỡng Sơn thưa:
- Huệ Tịch con chính đang náo loạn.
Đó là lời nói thật thà, đây là chỗ sống thực chớ không phải là chỗ muốn nói sao cũng được. Ví dụ nói tự tại mà có thật là tự tại không đó là chuyện khác.
Ở chỗ này Ngài Đại Huệ có lời bình:
Lấy đây mà xét chỗ này lấy thô tâm nói không để mà dối nhau được chăng? Thật ra phải là người có lực lượng lớn mới được.
Mình hời hợt bảo tâm thức đó không đến, nói vậy được chăng? Quả thật người có lực lượng lớn mới được, nghĩa là phải có đạo lực thật sự, chớ không phải chuyện đơn giản. Đây là muốn nói lên hạnh và giải phải tương ứng, tức là cái hiểu và cái sống phải hợp với nhau mới được, chớ đừng vội nói lên lý suông, mở miệng nói ra như là Thánh, nhưng sự thật thì hạnh vẫn là phàm phu thì chưa phải. Do đó cùng tử tuy được như vậy mà chỗ ở vẫn tại chỗ cũ, tâm chí hạ liệt cũng chưa bỏ được tức là những tập khí cũ chưa sạch hết.
CHÁNH VĂN:
Lại trải qua ít lâu sau, cha biết ý chí con lần đã thông thái trọn nên chí lớn, tự chê tâm ngày trước. Đến giờ sắp chết, ông gọi người con đến và hội cả thân tộc, quốc vương, quan đại thần, dòng sát lợi, hàng cư sĩ, khi đã nhóm xong, ông liền tự tuyên rằng: "Các Ngài nên rõ, người này là con ta, của ta sanh ra, ngày trước sanh trong thành nọ, bỏ ta trốn đi, nỗi trôi khổ sở hơn năm mươi năm, nó vốn tên ấy, còn ta tên ấy. Xưa ta ở thành này lòng lo lắng tìm kiếm, bỗng ở nơi đây gặp đặng nó. Nó thiệt là con ta, ta thiệt là cha nó. Nay ta có tất cả bao nhiêu của cải, đều là của con ta có, trước đây của cải cho ra thâu vào, con ta đây coi biết".
Thế Tôn! Khi đó gã cùng tử nghe cha nói như thế, liền rất vui mừng được điều chưa từng có, mà nghĩ rằng: Ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho báu này tự nhiên mà đến.
GIẢNG:
Đến đây là trao gia tài. Trải qua thời gian, khi cha biết ý chí của con có chí lớn, tự chê tâm ngày trước, tức là quên tâm hẹp đó, bây giờ sắp chết ông liền hội hết bà con thân tộc đại thần để tuyên bố: đây chính là con thật của ta, không phải như trước kia nhận làm con thôi. Con mà có chí lớn tự chê tâm ngày trước là chỉ cho quên những tập khí cũ, quên tâm sai biệt, tâm nhỏ hẹp đó, thực sống với tâm Phật này, nên bây giờ mới hội họp thân tộc vua quan để tuyên bố, “nó chính là con ta”. Tới đây là thời tiết đã chín mùi, nghĩa là cái tâm đã thuần thục rồi, đến chỗ này cũng giống như là trâu trắng sờ sờ đuổi cũng không đi, như vậy mới thật là tự tại, sử dụng được kho báu của mình. Còn bây giờ không đuổi mà nó chạy hồi nào mất rồi. Ở đâây đuổi cũng không đi nữa. Nhưng để chứng minh cho việc này thì phải hội họp bà con thân tộc vua quan lại, mà hội họp bà con thân tộc lại là chỉ cho cái gì? Thứ nhất là chỉ cho mọi niệm thu hết trở về một chỗ, thì mới chứng minh cho việc đó. Thứ hai đây là lẽ thật hiện bày sờ sờ đó, không có chút gì giấu giếm mập mờ nữa hết. Đêán đây mới thật sự là an tâm.
Quí vị thấy, nghe dễ mà sống được thật không đơn giản chút nào phải không? Nếu ban đầu nói kiểu này không ai dám tu, cho nên phải nói chính ông là Phật đó thôi. Nhưng mà sống được chỗ đó thì cần có thời gian.
Rồi thì sao nữa? Vị cùng tử đó mừng chưa từng có mà nghĩ rằng: ta vốn không có lòng mong cầu, nay kho tàng báu này tự nhiên mà đến. Tức ở đây là chỉ cho chỗ tự chứng, tự cảm thông thôi không thể nghĩ bàn đến được. Cái này không phải do mình tạo tác mà thành. Nói tự nhiên đến, không phải là để tự nhiên thôi không cần tu hành gì, mà đây nói lên chỗ sẵn nơi mình không phải do tạo tác, đó là cái sẵn ở ngay tự tánh và như vậy thì còn gì mà có được có mất? Còn thấy có được có mất là còn thấy có cái bên ngoài, còn đây là sẵn nơi mình rồi thì không còn có niệm được mất nữa. Do đó Ngài Nham Đầu bảo Tuyết Phong là:
- Phải từ hông ngực mà lưu xuất, thì sau này ông sẽ cùng ta che trời che đất mà đi.
Từ trong hông ngựa mà tuôn ra: Tức là phải vượt qua tất cả những cái bên ngoài, từ bên trong sống dậy không còn có cái gì để nương tựa hết, thì đến đó mới thật sự là ứng dụng một cách tự nhiên, không còn tưởng là cha là con gì nữa, cũng không còn tưởng dùng, bao nhiêu của báu đó sẵn nơi mình thôi, là sẵn dùng cần gì phải tưởng dùng. Còn tưởng dùng, là cũng còn có một niệm nhỏ cách biệt trong đó. Giống như cái tay của mình đây, cần cầm gì thì cầm thôi, chớ mình nghĩ tôi dùng tay này để cầm ly, thì như vậy là sao? Thì biến cái tay thành ra cái thứ hai rồi, mình nghĩ phải dùng tay này để cầm ly thì còn một lớp cách, còn sẵn có tay rồi khi cần thì cầm thôi, mới thật sự là tự nhiên. Chỗ đó là chỗ chưa từng có, ngoài tưởng tượng phân biệt. Như vậy các ngài nói lên thí dụ này, là để trình chỗ tín giải của mình với Phật. Đoạn kế là đoạn các Ngài hợp pháp lại thí dụ đó, qua phần hợp pháp rồi phần kế mới đến Phật thọ ký.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn! Ông phú Trưởng giả đó là Đức Như Lai, còn chúng con đều giống như con của Phật. Đức Như Lai thường nói chúng con là con.
Thưa Thế Tôn! Chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay Đức Thế Tôn khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân dơ các pháp hí luận. Chúng con ở trong đó siêng gắng tinh tấn đặng đến Niết Bàn, cái giá một ngày. Đã đặng đây rồi lòng rất vui mừng tự cho là đủ, mà tự nói rằng: Ở trong pháp của Phật, do siêng năng tinh tấn nên chỗ đặng rộng nhiều.
Nhưng Đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, chúng con bèn bị Phật buông bỏ chẳng vì phân biệt rằng: Các ông sẽ có phần bửu tàng tri kiến của Như Lai.
Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai. Chúng con theo Phật đặng giá Niết bàn một ngày, cho là đặng nhiều rồi, đối với pháp đại thừa này không có chí cầu. Chúng con lại nhơn trí huệ của Phật, vì các vị Bồ Tát mà chỉ bày diễn nói, nhưng chính tự mình lại không có chí muốn nơi pháp đó.Vì sao? Đức Phật biết chúng con ưa nơi pháp tiểu thừa, nên dùng sức phương tiện thuận theo chúng con mà nói pháp, chúng con không tự biết thật là Phật tử. Ngày nay chúng con mới biết Đức Thế Tôn ở nơi trí huệ của Phật không có lẫn tiếc.
Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, nếu chúng con có tâm ham đại thừa thời Phật vì chúng con mà nói pháp đại thừa. Ở trong kinh này chỉ nói pháp nhứt thừa. Lúc xưa Đức Phật ở trước Bồ Tát chê trách Thanh văn ham pháp tiểu thừa. Nhưng Đức Phật thiệt dùng đại thừa để giáo hoá, vì thế nên chúng con nói vốn không có lòng mong cầu mà nay báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ nên đặng của Phật tử đều đã đặng đó.
GIẢNG:
Đây là phần hợp pháp lại.
Ông phú Trưởng giả đó là đức Như Lai, còn chúng con là con của Phật, cho nên đức Như Lai thường nói chúng con là con. Như vậy Trưởng giả là chỉ cho Như Lai, nhưng cũng chỉ cho tâm chân thật. Còn con Trưởng giả chỉ cho các Ngài mà cũng chỉ cho chúng ta nữa. Về lý, tâm lang thang đây đó của mình là chỉ cho con, còn tâm chân thật đó gọi là cha, là Trưởng giả.
Đây chúng con vì ba món khổ nên ở trong sanh tử chịu các sự đau đớn mê lầm không hiểu biết, ưa thích các pháp tiểu thừa. Ngày nay Thế Tôn dạy khiến chúng con suy nghĩ dọn trừ những phân nhơ các pháp hí luận.
Ở đây chỉ cho chúng ta luôn mắc kẹt trong ba món khổ, vì kẹt trong khổ đó, nên trước tiên là mong thoát khổ trước đã rồi sau đó muốn nói gì thì nói. Ba món khổ đó là ba món gì? Tức là khổ khổ, hoại khổ và hành khổ.
- Khổ khổ là sao? Nó mang hai chữ khổ luôn. Tức mình mang cái thân hữu lậu vô thường này là cái khổ rồi, trong đó còn có pháp bất như ý luôn luôn nó bức bách thân tâm của mình nữa.
- Hoại khổ là sao? Là chỉ cho pháp gọi là lạc thọ, cái kia khổ thọ là mình thọ nhận cái điều bất như ý là khổ rồi. Nhưng cái lạc thọ cũng là cái khổ nữa. Vì theo đây cái lạc thọ là điều như ý nhưng mà nó sanh thì mình vui, khi nó hoại thì cũng bức bách thân tâm mình khổ nữa, lúc có nó thì mình vui, khi nó qua rồi lại khổ nữa. Thấy tưởng đâu là vui, nhưng sự thật nó là gốc đưa đến cái khổ. Thí dụ như quí vị gặp cái gì vui quá khi qua rồi nhớ lại còn tiếc nên thấy khổ.
- Hành khổ là sao? Là pháp chỉ cho xả thọ, ở trên nói khổ, vui cũng đều là khổ hết. Ở đây xả là bình thường không khổ không vui, nhưng cũng do duyên mà tạo tác, nên nó cũng dời đổi, nó không luôn luôn ở trạng thái xả thọ hoài, mà nó là sanh diệt. Cho nên có lúc nó cũng bức bách thân tâm này, vì vậy đối với bậc thánh thì thấy cũng đều là khổ hết. Tóm lại thọ khổ, thọ vui hay là thọ bình thường không khổ không vui đều là khổ hết. Dù nó bình thường thì cũng bình thường trong một giai đoạn nào đó thôi, là cũng trong giai đoạn chuyển biến, chuyển biến rồi cũng đưa đến vô thường nó bức bách thân tâm mình, vậy cho nên đều là khổ hết.
Người học Phật ban đầu học đến đây, thấy đạo Phật nói cái gì nghe cũng khổ hết, thấy chán hết muốn sống phải không? Hiểu kiểu đó là hiểu một bên, chưa hiểu hết được của đạo Phật. Bởi vì đây trước tiên là Phật chỉ ra lẽ thật, nói ra lẽ thật cho mình thấy rõ cuộc đời thế gian nó là khổ như vậy đó, mình nhận rõ một cách đúng đắn rồi, sau đó Phật mới chỉ ra con đường thoát khổ. Còn như mình chưa nhận đúng đắn, thì dù cho có chỉ ra mình cũng chưa tin nữa, bởi vì cho nó là vui rồi thì đâu chịu nghe nữa. Cho nên ở đây trước tiên là phải nhận rõ một cách kỹ càng thấy khổ là chân thật khổ rồi, thì Phật mới chỉ ra con đường thoát khổ. Bởi vậy nói khổ là để đưa đến chỗ dứt khổ, chớ không phải nói vậy để mình chán. Nhưng người nghiên cứu học Phật hiểu một bên tức hiểu theo một chiều thì thấy đạo Phật nói cái gì cũng khổ hết, khiến cho người ta nghe thành chán đời, đó là chưa hiểu hết đạo Phật.
Thì ở đây các Ngài nói rõ, tất cả mình vì ba món khổ đó, cho nên chịu trong sanh tử, bây giờ đây căn bản ban đầu chỉ là thoát khổ. Tu để thoát khổ thôi, ít ai nghĩ tu là giải thoát để giáo hoá chúng sanh. Tức giải thoát cái khổ của mình trước. Nên ở đây các Ngài cũng nói lên tâm trạng đó, là ưa thích pháp tiểu thừa thôi.
Do đó mà bấy giờ Thế Tôn dạy cho chúng con dọn trừ những phân dơ các pháp hý luận, cho nên chúng con trong đó siêng năng tu hành được Niết Bàn, nhưng Niết Bàn cái giá một ngày thôi. Dọn phân dơ hý luận đó là gì? Đó là những tâm phân biệt: Lấy - bỏ, phải - quấy, hơn - thua đó, những phân dơ hý luận đó dẹp sạch rồi thì mới sống trong chỗ chân thật được. Cho nên ở đây Ngài ví dụ rõ ràng cho thấy chúng ta bởi vì tập khí sai lầm đó, nó mê lầm lâu đời, nên bây giờ đây tuy là gặp Phật, biết có sẵn tâm chân thật đó, nhưng mà còn phải dọn những cái phân nhơ hý luận, chớ đâu phải liền đó sống ngay được. Nghĩa là gặp được rồi đó, nhưng mà còn phải dọn dẹp, chớ không phải gặp rồi là sống được liền. Vì những thứ lâu đời tập quen rồi, không thể một sớm một chiều mà dứt được, do đó phải siêng năng tinh tấn. Siêng năng tinh tấn được đến Niết Bàn, nhưng trong đây Niết Bàn cái giá có một ngày. Tức đây chỉ là phương tiện thôi, thật sự tự tánh nó vốn Niết Bàn rồi, thì đâu có gì được có gì mất, nhưng ở đây do mình mê lâu đời rồi, không nhận ra được, bây giờ do công phu siêng năng tu hành mới chứng nhận được điều đó, rồi mình tưởng đâu là do công phu mình tu nên chứng được Niết Bàn đó. Nhưng muốn chứng Niết Bàn đó sống cho trọn vẹn thì phải cần có thời gian. Cho nên ở đây nói như vậy đó chỉ cái giá một ngày, muốn sống được trọn vẹn là sao? Tức là phải lo dọn dẹp những phân nhơ đó thì mới sống trọn vẹn được. Thì ở đây để mình thấy rõ được chỗ đó, nghĩa là Niết Bàn này không phải chỗ mình dừng ở lâu được, nó mới có một bên, mà ở trong đó mình còn khởi lên cái thần thông diệu dụng mình đi khắp trong sanh tư,û qua lại cả trong sáu trần thật tự tại mà vẫn không rời Niết Bàn, thì đó mới là thật sự. Đâây là ngăn ngừa cái niệm mới được đã cho là đủ, là nhắc nhở người tu mới được chút ít mà tự mãn là không phải.
Các Ngài nói: “Ở trong pháp của Phật, do siêng năng tinh tấn nên chỗ đặng rộng nhiều”, tức là sao? Tức các Ngài thấy do công phu siêng năng mới được, mà như vậy là nói lên điều gì? Do công phu siêng năng tinh tấn cho nên được, là do công phu mà được thì cái được đó chưa phải thật, nên mới gọi Niết Bàn cái giá một ngày, chứ còn tự tánh Niết Bàn nó sẵn tự bao giờ rồi, thì do công phu gì được, nhưng bởi vì chưa tới thời nên Thế Tôn chưa nói.
Vì vậy đây mới nói là Đức Thế Tôn trước biết chúng con lòng ưa muốn sự hèn tệ, ham nơi pháp tiểu thừa, cho nên chúng con bị Phật buông bỏ, chẳng có phân biệt mà nói rằng: các ông sẽ có phần bửu tàng tri kiến của Như Lai. Thế Tôn biết trước nhưng mà chưa có nói liền, tức là Ngài biết trước mình có đủ cái đó chớ không thiếu, nhưng phải đúng thời, mới khéo nhận được, đây các Ngài nói thêm:
“Đức Thế Tôn dùng sức phương tiện nói bày trí huệ của Như Lai, rồi chúng con theo Phật được Niết Bàn giá một ngày đó, cho là đặng nhiều rồi, đối với pháp đại thừa không có lòng mong cầu, tuy rằng cũng nhơn trí huệ Phật đó nói cho các vị Bồ Tát, nhưng mình không muốn”. Chỗ này nghe có lạ không? Tại sao nói cho các vị Bồ Tát tu mà mình thì không muốn? Nói nhưng chưa sống đến chỗ đó còn cho là của người. Như Lai dùng phương tiện nói bày trí huệ Phật là luôn luôn có gợi ý cho mình mà mình không nhận, nhưng mình vẫn sống trong đó mà không hay, rồi có khi mình nói gần gần giống như vậy đó, mà cũng chưa sống được.
Các Ngài giải thích vì sao? Vì Đức Phật biết chúng con ưa pháp tiểu thừa nên dùng sức phương tiện thuận theo mà nói thôi. Tức là Phật biết mình còn có tâm hạn hẹp đó, bây giờ nói thẳng ra thì chưa nhận được, cho nên phương tiện nói như vậy. Bây giờ mới biết đức Thế Tôn ở nơi trí huệ Phật không lẫn tiếc, Ngài không giấu giếm gì hết, chỉ là mình không khéo nhận vì tâm hạn hẹp này chưa đến được, nhưng khi đến được rồi thì thấy rõ ràng. Các Ngài mới nói thêm:
Vì sao? Chúng con từ xưa đến nay thật là Phật tử mà chỉ ưa nơi pháp tiểu thừa, ưa pháp nhỏ, tâm còn hạn hẹp đó, cho nên không có tâm ham đại thừa, do đó mà Phật chưa nói thôi, chớ không phải Phật giấu. Rồi mới thuật lại: Lúc xưa Phật ở trước Bồ Tát chê trách Thanh Văn ham pháp tiểu thừa.
Đọc chỗ này nhiều vị hiểu lầm, cho Phật chê trách Thanh văn tu mà còn nghiêng một bên, trầm không trệ tịch, như mất phần hạt giống Bồ Đề, là Phật gạt bỏ qua một bên, nhưng không phải, ở đây Phật chê trách đó là để chi? Đó là khích lệ để cho mình bỏ tâm niệm đó mà vươn lên, chớ không phải chê trách là gạt bỏ coi như mình vô phần, hiểu như vậy mới thấy được ý của Phật. Như vậy rõ ràng ai ai cũng đều có hết, Phật không giấu gì hết, đó là cái sẵn nơi mình mà mình không tự nhận, mình mê tự chối bỏ thôi. Đây coi như một lẽ thật mà lẽ thật này không của riêng ai, vậy thì Phật giấu giếm cái gì? Đâu phải cái đó của riêng Ngài đâu mà Ngài giấu. Trong sử có ghi có lần Ngài Pháp Hội hỏi Mã Tổ:
- Thế nào là ý Tổ Sư từ tây sang?
Mã Tổ bảo:
- Ông hãy nói nhỏ, lại gần đây ta nói cho nghe!
Mình nghe như vậy tưởng đâu có cái gì quí Ngài giấu, nói lớn sợ người khác nghe nên mới bảo nói nhỏ.
Pháp Hội đến gần, bất ngờ Tổ tát cho một tát, bảo:
- Chẳng thể nói cho người thứ ba biết, thôi ông hãy đi, ngày mai đến.
Hôm sau Pháp Hội một mình vào trong pháp đường thưa:
- Bây giờ xin Hoà thượng nói.
Tổ bảo:
- Ông hãy đi, đợi lão Tăng thượng đường, ông hỏi, ta sẽ vì ông chứng minh cho.
Bỗng nhiên Pháp Hội liền tỉnh ngộ thưa:
- Xin lễ tạ đại chúng chứng minh.
Câu chuyện đơn giản, người ngoài đọc thấy giống như Tổ nói chuyện đâu đâu, có gì đó Ngài giấu, tại sao không chịu nói thẳng, cứ nói bóng gió, hỏi như vậy không chịu nói hẹn ngày mai, ngày mai hẹn nữa, đợi ra thượng đường rồi ra hỏi, nhưng Ngài Pháp Hội nhận lãnh được ý đó liền, cho nên Ngài thưa là: "Xin lễ tạ đại chúng chứng minh".
Khi nghe Tổ bảo “ông hãy nói nhỏ lại gần đây ta nói cho nghe”, Ngài Pháp Hội tới, Tổ tát cho một tát rồi nói tiếp: “chẳng có thể cho người thứ ba biết”. Tức là sao? Tức là cái này không phải là cái để diễn tả, mà không cho người thứ ba biết, vì cái này không để cho tình thức phân biệt chen vào được, như câu chuyện bà già đốt am đó. Ông Tăng nói:" Tôi biết, cô biết, đừng cho bà già đó biết". Tức không cho người thứ ba biết, không cho tình thức phân biệt xen vào. Đâây là nói lên sự thật rõ ràng bày trước mắt mình nó sờ sờ đấy thôi, không giấu giếm gì hết, nhưng mình không nhận, do đó Tổ bảo rằng:
- Hãy đợi ta thượng đường, tức là khi lên thuyết pháp, giữa có đại chúng, thì ta chứng minh cho ông.
Là ý Ngài nói: Cái đó nó hiện bày trước mặt không giấu giếm gì hết, nó không phải của riêng ai, mà tất cả ai ai cũng có.
Do đó, khi nghe Tổ nói vậy thì Ngài Pháp Hội lãnh hội được ý đó nên Ngài nói: "Xin lễ tạ đại chúng chứng minh".
Như vậy để thấy Phật Tổ không giấu giếm gì mình, chỉ vì mình còn mê thôi. Do đó ở đây khi các Ngài nhận rõ điều đó rồi, rất vui mừng nên nói rằng:
- Chúng con nay không có lòng mong cầu, mà nay báu lớn của đấng Pháp Vương tự nhiên đến, như chỗ nên đặng của Phật tử đều đã đặng đó.
Chữ Phật tử ở đây nghĩa rộng hơn nhiều, không phải Phật tử thường thường như mình bây giờ, mà chỉ cho các vị Bồ Tát, bởi vì các Ngài là Thanh văn ở đây chưa dám nhận mình là Phật tử. Ở trước thấy, Bồ Tát mới đích thân là con Phật, còn các Ngài là Thanh văn chưa có phần đó. Nhưng bây giờ Phật nói tất cả Thanh văn đều được thọ ký có phần đó, nên bây giờ các Ngài mới nói mình thật sự là Phật tử. Phật tử có nghĩa sâu như vậy. Bây giờ các Ngài mới trùng tuyên lại nghĩa đó.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ Ngài Ma Ha Ca Diếp muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Chúng con ngày hôm nay
Nghe âm giáo của Phật
Lòng hớn hở mừng rỡ
Đặng pháp chưa từng có
Phật nói hàng Thanh văn
Sẽ đặng thành quả PhậtĐống châu báu vô thượng
Chẳng cầu tự nhiên đặng.GIẢNG:
Đoạn này các Ngài nói lên lòng vui mừng của mình, nghĩa là ở trước quên mất, rồi bữa nay bây giờ đây coi như nhớ lại tự được, nên thấy quá đỗi vui mừng, một cái xưa nay chưa từng mất, nhưng mà mình cứ tưởng là mất, tức là trước quên mà nay được, nhưng mà được đó là được cái gì? Được cái đã quên chớ có gì đâu! Nhưng mà người thường nghe thì nghe vậy, chớ không cảm thấy vui mừng như các Ngài, chỉ ai đã từng có một phen cảm được niềm vui này, thì mới thật sự cảm thông được. Mới thấy được kinh Pháp Hoa đó là bộ kinh của mỗi người, chớ không phải là của riêng ai, mỗi người đều có bộ kinh Pháp Hoa, như vậy mới thấy niềm vui khó diễn tả này! Đâây các Ngài nói thí dụ.
Ví như gã đồng tử
Thơ bé không hiểu biết
Bỏ cha trốn chạy đi
Đến cõi nuớc xa khác
Nỗi trôi khắp nước ngoài
Hơn năm mươi năm dài.Đoạn này dụ cho người cùng tử lang thang xa quê nhà bỏ cha, xin ăn ở xứ người một thời gian dài. Tức muốn nói lên tình trạng của người mê, gọi là bối giác mà hợp trần, tức là xoay lưng với tánh giác mà đi theo các trần cảnh, cho nên gọi là bỏ cha trốn đi xứ người, do đó đi lang thang xin ăn, tưởng mình nghèo cùng khổ sởù, chúng ta cũng giống y như vậy, đang ngồi rõ ràng ở đây mà tâm đi lang thang ở đâu.
Cha gã lòng buồn quá
Kiếm tìm khắp bốn phương
Kiếm tìm đó đã mỏi
Liền ở lại một thành
Xây dựng nên nhà cửa
Năm món dục tự vuiĐoạn này là dụ cho người cha luôn hằng nhớ đến con, nghĩa là con bỏ cha đi, nhưng cha thì luôn luôn nhớ con không bao giờ quên, ông tìm kiếm, không ra, thì sao? Bèn ở lại thành đó thôi, ở đó chờ. Đó là ý nghĩa nhắc mình: Ông cha đó là chỉ cho bản giác của mình, bản giác đó luôn luôn ngầm đánh thức mình, nhưng mình không nhớ. Thành đó chỉ cho thành Bồ Đề ở đâu cũng có nó hết, bất cứ chỗ nào mình cũng gặp thành đó, nên không nói cố định ở đâu.
Nhà ông giàu có lớn
Nhiều những kho vàng, bạc
Xa cừ, ngọc mã não
Chơn châu, ngọc lưu ly
Voi ngựa cùng trâu dê
Kiệu cáng đủ xe cộ
Ruộng đất và tôi tớ
Nhơn dân rất đông nhiều
GIẢNG:Đây nói lên nhà ông giàu có, đủ những của báu. Tức là nói lên tánh giác đầy đủ những công đức nhiều vô lượng, những phương tiện sai biệt đó nó không có thiếu, ở trong đó không phải một bề trống không. Mình khỏi phải sợ tu hành buông hết rồi trở về đó thì trống không, mà trái lại khi trở về đó rồi thì đầy đủ những diệu dụng. Cũng như ngay ngôi nhà sắc thân mình đây, nó có đủ hết kho tàng Tri Kiến Như Lai trong đó, nhưng mình không chịu nhận, để đi lang thang xin ăn, đó là cái lỗi của mình.
Xuất nhập thâu lời lãi
Bèn khắp đến nước khác
Khách thương người buôn bán
Không xứ nào không có
Nghìn muôn ức chúng hội
Vây quanh cung kính ông
Thường được bậc vua chúa
Mến yêu nhớ tưởng đến
Các quan, hạng hào tộc
Đều cũng đồng tôn trọngGIẢNG:
Đây dụ cho bản giác đó ứng dụng ra khắp nơi, mọi căn tánh đều được thu về trong gốc đó hết, cho nên xuất nhập lời lãi cho đến các nước khác, khách buôn bán ở xứ nào cũng đều có hết, tức là không ai rời mất bản giác này, từ bản giác đó có đủ hết, nó thu về hết tất cả mọi căn tánh, người ngu, người khôn, người thượng trí, người hạ căn gì cũng đều có đủ hết, chớ không phải nói người thượng trí mới có, còn người hạ căn thì không có, nhưng người hạ căn chậm lụt chưa nhận ra, bởi vì tập khí mê lầm còn sâu dầy, không có bén nhạy nhận ra liền như các bậc thượng trí, chớ không phải là không có. Nói như vậy không phải bậc thượng trí đó hay hơn mình, nhưng người thượng trí đó có duyên gặp Phật sớm, huân tập lâu rồi, mình chưa có duyên huân tập nhiều sâu như các Ngài, thì bây giờ huân tập, khi mình huân tập sâu như vậy, thì khi nghe được mình cũng có sự tin nhận bén nhạy như vậy, so với những người ít huân tập hơn mình, mình nhanh hơn. Như vậy để thấy rằng không ai hơn ai hết hiểu được điều đó, mình không có tâm mặc cảm tự ti, tự chê mình là thấp hèn.
Vì có các sự duyên
Người đến lui rất đông
Giàu mạnh như thế đó
Có thế lực rất lớn
Mà tuổi đã già nua
Lại càng buồn nhớ con
Ngày đêm luống suy nghĩ
Giờ chết toan sắp đến
Con thơ dại bỏ ta
Hơn năm mươi năm tròn
Các của vật kho tàng
Sẽ phải làm thế nào?
GIẢNG:Ở đây thuật lại ông Trưởng giả mà có thế lực lớn như vậy, nhưng mà tuổi già nhớ con, tìm chưa ra, giờ sắp chết thì không biết giao phó cho ai. Tức là muốn nói lên cái thân của mình đây nó vô thường nó hữu hạn, còn cái huệ mạng đó, cái tri kiến Như Lai đó thì vô hạn, nhưng giờ đây nếu không có người tiếp nhận, thì cái huệ mạng đó nó sẽ ra sao? Ai tiếp nối đây? Tuy nhiên nói đến chỗ này thì mình cũng phải thấy vượt ngoài lời nói một chút, nếu không thì thấy cái huệ mạng của Phật thì nó có đứt đoạn hay sao? Đâây muốn đánh thức mọi người nhớ lại huệ mạng Phật nó luôn luôn có đó, mình phải ráng tiếp nối đừng để cho gián đoạn. Nếu mà huệ mạng Phật có đoạn dứt thì nó thuộc về cái sanh diệt rồi. Cho nên xưa Thiền Sư Động Sơn Lương Giới khi sắp tịch, Ngài sai vị Sa Di đến báo tin cho Vân Cư, là vị đệ tử được nối pháp của Ngài, và dặn vị Sa Di rằng: "Ông đến đó báo tin, nhưng khi Vân Cư có hỏi ông là Hoà thượng có an vui chăng? Thì ông nói rằng: Con đường Vân Nham sắp dứt ?.
"Nhưng nói xong ông phải đứng xa ra, nếu đứng gần, coi chừng ông sẽ bị đánh đó".
Ông Sa Di vâng lời đi đến báo tin cho Ngài Vân Cư, thì quả nhiên nói chưa dứt lời liền bị đập một gậy.
Đây muốn nói rằng: Ngài Động Sơn sắp tịch, nên mới nói: Con đường Vân Nham sắp dứt, nhưng huệ mạng kia dứt được sao? Nên dặn ông Sa di nói xong phải đứng xa, nhưng chưa kịp thì bị ăn gậy liền.
Để thấy rằng, nói huệ mạng mà có đứt đoạn chỉ là phương tiện nói thôi, chứ sự thật huệ mạng Phật thì không có dứt, nhưng chỉ dứt là do mình mê, vì mê nên giống như có dứt, nếu nhớ lại thì luôn luôn nó sẵn đó chưa từng dứt bao giờ.
Bấy giờ gã cùng tử
Đi tìm cầu ăn mặc
Ấp này đến ấp khác
Nước này sang nước nọ
Hoặc có khi đặng của
Hoặc có lúc không đặng
Đói thiếu hình gầy gò
Thân thể sanh ghẻ lác
GIẢNG:Đây là nói lên tình trạng nghèo cùng khốn khổ của người cùng tử lang thang xin ăn xứ này xứ nọ, lúc no lúc đói. Là nói lên tình trạng của mình đó, duyên theo các trần cảnh bên ngoài, vừa thọ sanh đây lại đến kia, chỗ này chỗ nọ, lúc khổ, lúc vui, lúc được, lúc mất, lúc đói, lúc no, xin được chút ít lại thấy thiếu nữa rồi cũng đi xin.
Lần lựa đi trải qua
Đến thành cha gã ở
Xoay vần làm thuê mướn
Bèn đến trước nhà chaGIẢNG:
Nói lên gã cùng tử lần lần đến nhà cha ở, rồi đứng trước cửa nhà cha nữa. Tức là dụ cho mình tu hành dần dần nó gần với cái giác thể, nhưng mà chưa dám nhận.
Lúc ấy ông Trưởng giả
Đang ở trong nhà ông
Giăng màn châu báu lớn
Ngồi toà sư tử cao
Hàng quyến thuộc vây quanh
Đông người đứng hầu hạ
Hoặc có người tính toán
Vàng, bạc cùng vật báu
Của cải ra hoặc vào
Biên chép ghi giấy tờ
Gã cùng tử thấy cha
Quá mạnh giàu tôn nghiêm
Cho là vị quốc vương
Hoặc là đồng bực vua
Kinh sợ tự trách thầm
Tại sao lại đến đây?
GIẢNG:Đây là chỉ cùng tử thấy ông Trưởng giả giàu có và sang trọng quá cho nên sợ. Tức là chỉ cho giác thể là tánh giác đó với tâm phàm phu của mình, mình nghe tới đó thì mình tưởng đâu là cái đó nó cao vút, nó thật là khó hiểu khó biết, nó cao xa cho nên sợ. Do đó có nhiều người tu mà nghe nói tu đến giác ngộ, thì không dám phát nguyện tới đó, nhất là còn nghe nói thời này là thời mạt pháp thì một ngàn người tu không có một người chứng, càng thấy xa vời với mình hơn. Cho nên ở đây thấy ông cha sang giàu quá đâm ra sợ. Thì cũng như cái tâm thức của mình nó cạn hẹp, sống với tâm thức cạn hẹp này, nên nghe tới chỗ đó mình thấy nó xa xôi, bởi vì nó ngoài sức tưởng tượng của mình. Nhưng có một điều nếu nghe mà biết được điều này thì sao? Nghe biết có nó thì cũng có chủng tử trong đó rồi, tức có giống Phật trong đó.
Có nhiều vị đọc kinh Pháp Hoa, rồi lấy tâm phàm của mình suy, rồi chê trách nữa tức đem tâm phàm của mình hiểu qua tâm Phật, thì tâm Phật đó cũng thành phàm luôn. Chớ sự thật nếu mình chịu quên cái tâm hạn hẹp này mà nhìn với tâm rộng lớn, thì thấy Phật ở sát bên mình.
Cho nên các Tổ thường thường là phá chấp. Ví dụ như hỏi: Phật là gì?. Thì “chính ông đó”ù, hoặc “ba cân gai “hay “que cứt khô”â. Tức là phá chấp cái hiểu theo tâm phân biệt của mình đó, dừng được tâm đó thì Phật gần gũi kế bên. Ở đây thuật lại gã cùng tử thấy cha sang như vậy sợ bỏ chạy.
Lại thầm tự nghĩ rằng
Nếu ta đứng đây lâu
Hoặc sẽ bị bức bách
Ép buộc sai khiến làm
Suy nghĩ thế đó rồi
Rảo chạy mà đi thẳng
Hỏi thăm xóm nghèo nàn
Muốn qua làm thuê mướn
GIẢNG:Tới nhà cha rồi mà không dám vào, chạy đi chỗ khác làm thuê, làm mướn ăn từng ngày, nhưng mà như vậy thì lại chịu. Đó là ý nói dù cho đối diện trước mắt, nhưng còn cái tâm phân biệt này, nên cũng không nhận ra được, gọi là đối diện mà lầm qua, làm thuê mướn được chút ít gì đó thì tự vui.
Lúc bấy giờ Trưởng giả
Ngồi trên toà sư tử
Xa trông thấy con mình
Thầm lặng mà ghi nhớ
Ông liền bảo kẻ sứù
Đuổi theo bắt đem về
Gã cùng tử sợ kêu
Mê ngất ngã trên đất
Người này theo bắt tôi
Chắc sẽ bị giết chết
Cần gì đồ ăn mặc
Khiến tôi đến thế này!GIẢNG:
Đây thuật lại ông Trưởng giả ngồi trên toà thấy con thì biết, mới sai người sứ chạy theo bắt, nhưng mà người cùng tử lại sợ, khi người sứ đó đến bắt thì chết giấc ngã trên đất. Như vậy để cho thấy Phật biết chắc “tất cả mọi chúng sanh đều có tánh Phật”, xác định rõ ràng coi như một trăm phần trăm đó. Nghĩa là tánh giác đó nó luôn luôn thầm theo sát bên mình, không có một phút giây nào nó thiếu vắng, nhưng có một điều là không thểø gượng bắt cho mình nhận được, mà chỉ khi nào tâm của mình gạn lọc bớt những mê lầm cho nó cạn mỏng bớt, rồi đúng thời tiết thì nó mới khế hợp.
Cho nên ở đây ông Trưởng giả kêu kẻ sứ đuổi theo bắt đem về, nhưng gã cùng tử chết giấc thôi chớ không thể nhận. Đó là muốn cho nó mau hợp nhưng øcũng không hợp được, không thể nôn nóng được. Bởi vì muốn là muốn một điều, nhưng những cái lăng xăng này nó không chịu dừng thì sao? Chỉ biết một điều là khéo làm cho những lăng xăng đó dừng, lúc đó không muốn hợp nó vẫn hợp như thường, còn bây giờ muốn cách mấy nó cũng không hợp được vì còn nhiều thứ quá.
Trưởng giả biết con mình
Ngu dại lòng hẹp hèn
Chẳng chịu tin lời ta
Chẳng tin ta là chaTức là biết chắc là có đó rồi, nhưng phải đợi thời, chứ còn chưa chịu tin được.
Ông liền dùng phương tiện
Lại sai hai người khác
Mắt chột, thân lùn xấu
Hạng không có oai đức
Các ngươi nên bảo nó
Hốt dọn các phân nhỏ
Trả giá bội cho nó
GIẢNG:Đoạn này nói ông Trưởng giả dùng phương tiện sai hai người một mắt thân lùn xấu theo dụ về để mà thuê hốt phân, thì gã đó lại chịu, trong khi đó bảo đến đây giao gia tài này cho thì không chịu, thấy tâm trạng mình thiệt là đau làm sao! Đây gọi là tạm ẩn cái thể nhất như đó không thể nói thẳng được, bây giờ phải phương tiện nói từ từ, thôi bảo các ông về đây tu hành gạn lọc những tâm tham, sân, si phiền não này cho nó bớt đi, đó gọi là quét dọn phân nhơ thì chịu liền. Còn nếu mà ngay đây bảo nhận cái chân thật nhất như đó, nó sẵn đây thôi khỏi phải làm gì hết khó chịu nổi.
Gã cùng tử nghe rồi
Vui mừng theo sứ về
Vì dọn các phân nhơ
Sạch sẽ các phòng nhà
Trưởng giả trong cửa sổ
Thường ngó thấy con mình
Nghĩ con mình ngu dại
Ưa thích làm việc hèn
Lúc đó ông Trưởng giả
Mặc y phục cũ rách
Tay cầm đồ hốt phân
Qua đến chỗ con làm
Phương tiện lần gần gũi
Bảo rằng: ráng siêng làm!
Trả thêm giá cho ngươi
Và cho dầu thoa chân
Đồ ăn uống đầy đủ
Thêm nệm chiếu đầy ấm
Cặn kẽ nói thế này
Ngươi nên siêng làm việc!
Rồi lại dịu dàng bảo
Như con thiệt của ta.GIẢNG:
Gã cùng tử được thuê hốt phân trả giá cao thì chịu, vui mừng theo sứ về dọn dẹp nhà cửa, đó là chỉ cho tâm trạng của mình là dọn dẹp những tâm phân biệt kia đây, lấy bỏ, hơn - thua vậy đó. Nhưng trong khi lo làm như vậy thì ông Trưởng giả thường thường đứng trong cửa sổ nhìn thấy con mình thiệt là tội, sao mà nó lại đành chịu làm như vậy, đó là đang nhắc nhở chúng ta cái gì? Ông Trưởng giả luôn luôn đứng cửa sổ nhìn mình mà mình thì không ngó ngàng tới, tức là chỉ cho tri kiến Phật luôn luôn hiện rõ ở sáu căn này, luôn luôn đứng dòm đó thôi, mà mình không nhớ tới nó, chỉ là dọn dẹp những phân dơ thôi. Tức ngầm nói lên trong lúc mình đang còn mê là còn tâm phân biệt này, mà tánh giác vẫn ngầm có ở trong đây không mất.
Do đó trong nhà Thiền có câu nói: "Vọng tâm mà không chỗ nơi, thì tức là Bồ Đề". Bây giờ mình xét cho thấu vọng tâm mà không chỗ nơi thì ngay đó Bồ Đề. Còn mình thường thường thì thấy vọng tâm nó có chỗ nơi không? Mình nghe nói vọng thì lo cố mà dẹp vọng, nhưng sự thật nếu xét cho thật kỹ càng, thì vọng đó ở đâu? Nằm ở chỗ nào moi ra thử coi? Nếu thật sự cái vọng đó có chỗ nơi thì mình khỏi cần phải tu. Bởi vì nó có chỗ nơi thì không gọi là vọng, giống như ngủ mình chiêm bao, thì gốc gác nó từ chỗ nào? Không có gốc gác gì như vậy mới gọi là chiêm bao. Đâây cũng vậy cái vọng không có chỗ nơi nhưng lâu lâu bất chợt nó tới, thì rõ ràng nó là không thật. Mà thấy được nó không thật thì ngay đó là Bồ Đề. Như vậy trong lúc mình mê, trong lúc vọng phân biệt đó, thì tánh giác vẫn có sẵn trong đó không thiếu, nhưng mà không chịu nhận.
Nên ông Trưởng giả thấy vậy mới thương, rồi ông cởi hết áo tốt, trân bảo, mặc y phục cũ rách, tay cầm đồ hốt phân lần lần đến gần nó thì nó mới chịu, đó là muốn nói lên cái gì? Dụ cho thân Như Lai nó ngầm hiện trong thân nhơ nhớp của mình. Đểå cho thấy nó gần gũi mình, cho mình dễ nhận, dễ tu, mà sự thật nó là như vậy đó. Nghĩa là ngay trong mỗi chúng sanh đều có sẵn ông Phật, tức là có Phật tánh đó.
Ông Trưởng giả phương tiện lần gần gũi, bảo rằng: Ráng siêng làm, trả thêm giá cho ngươi là sao? Tức là nói lên nó có sẵn nơi mình đó, nhưng mình cũng phải ráng tu chứ không phải nói sẵn như vậy rồi thôi.
Rồi cho dầu xoa chân, cặn kẽ nói nên siêng làm việc, ở đây làm đừng đi đâu hết, rồi lại dịu dàng bảo coi như con của ta vậy thôi, coi như con của ta là sao? Tức là chỉ mới giống vậy thôi chứ chưa có xác nhận, và nói lên ngay chỗ bình thường hằng ngày của mình đó có đầy đủ tánh giác, tức là đầy đủ Như Lai diệu giác trong đó, nhưng mà mình còn nhiều cái gọi là rác rến ở trong này, nên phải lo dọn dẹp những rác rến này thì mới nhận được cái kia.
Ông Trưởng giả có trí
Lần lần cho ra vào
Trải qua hai mươi năm
Coi sóc việc trong nhà
Chỉ cho biết vàng, bạc
Ngọc trân châu, pha lê
Các vật ra hoặc vào
Đều khiến gã biết rõ
Gã vẫn ở ngoài cửa
Nương náo nơi am tranh
Tự nghĩ phận nghèo nàn
Ta không có vật đó.GIẢNG:
Đây là ông Trưởng giả khéo léo bây giờ cho nó lần lần ra vào coi sóc việc trong nhà, trước kia nhận là con, mà chỉ giống như là con vậy thôi chứ chưa xác nhận, bây giờ cho ra vào từ từ để cho quen việc tức là sao? Đây là phương tiện để cho mình dần dần sống trong đó, sống cho nó quen dần, quen dần lần lần mình có sức làm chủ, rồi chỉ ra một cái thì mới chịu nhận.
Người con này khi được như vậy, nhưng vẫn ở ngoài cửa, vẫn nương náu am tranh, nghĩ mình phận nghèo hèn, những vật đó không phải là vật của mình, cũng chưa dám nhận.Tức là nói lên vẫn còn những tập khí cũ đó, còn những tập khí của chúng sanh đó. Nghĩa là nhận thì nhận đó, nhưng những tập khí cũ vẫn còn đó chưa thật sạch.
Cha biết lòng con mình
Lần lần đã rộng lớn
Muốn giao tài vật cho
Liền nhóm cả thân tộc
Quốc vương các đại thần
Hàng sát lợi cư sĩ
Rồi ở trong chúng này
Tuyên nói chính con ta
Bỏ ta đi nước khác
Trải hơn năm mươi năm
Từ gặp con đến nay
Đã hai mươi năm rồi
Ngày trước ở thành kia
Mà mất đứa con này
Ta đi tìm khắp nơi
Bèn đến ngụ nơi đây
Phàm của cải ta có
Nhà cửa cùng nhơn dân
Thảy đều phó cho nó
Mặc tình nó tiêu dùng
Người con nhớ xưa nghèo
Chí ý rất kém hèn
Nay ở nơi cha mình
Đặng quá nhiều châu báu
Và cùng với nhà cửa
Gồm tất cả tài vật
Lòng rất đỗi vui mừng
Đặng đều chưa từng có.
GIẢNG:Giờ mới xác nhận. Đêán đây là người cha biết rằng con lần lần nó đã có tâm rộng lớn bây giờ nó biết chê tâm ngày trước rồi, tức là nó đã quên những tập khí cũ đó, nó thấy rằng “xưa sao mình ngu quá mình lầm như vậy đó”, quên được tâm đó rồi, mở được tâm rộng lớn, thì ông cha liền nhóm họp thân quyến, quốc vương, đại thần lại “xác nhận chính nó là con ta”, xác nhận rõ ràng, chứng minh giữa mọi người, tức là sao? Tức là cái chân thật đó nó hiện tiền không còn nghi ngờ nữa, đến lúc này mình mới chuyển thức thành trí, sống trong trí, đến đây mình đủ cái sức đảm nhận được cái gia sản không còn sợ mất nữa. Đêán đây mới gọi là trâu trắng sờ sờ đuổi không đi, bây giờ khỏi cần phải nhớ, dù muốn quên nó cũng không quên nữa. Còn mình bây giờ cố nhớ thì nó lại quên. Người con bây giờ nhớ xưa nghèo, ý chí của mình kém hèn, nay được của báu này thật là vui mừng chưa từng có. Tức là đến đây mới bặt chỗ nghĩ tưởng, lăng xăng kia đây. Tự thầm nhận thôi.
Đức Phật cũng như thế
Biết con ưa tiểu thừa
Nên chưa từng nói rằng
Các ngươi sẽ thành Phật
Mà chỉ nói chúng con
Đặng có đức vô lậu
Trọn nên quả tiểu thừa
Hàng Thanh văn đệ tửGIẢNG:
Bây giờ Ngài mới hợp pháp lại, Đức Phật cũng như vậy đó, biết mình ưa các pháp nhỏ, tâm còn phân biệt, cho nên chưa vội nói tới thành Phật, tức biết có nhưng mà chưa vội nói. Đôái với trong nhà Thiền, nếu mà tâm chưa quyết chí, chưa hết lòng thì chưa có nói hết, bởi vì nhiều khi nói hết thì nhận lầm.Có câu chuyện ông cư sĩ Trạm Nhiên, ông này là quân sư của nhà Nguyên, ông có tự thuật nói rằng: Ban đầu thì ông có chỗ sở đắc đối với trong những ngữ lục, tức là đọc trong ngữ lục của Tổ, ông có những cái sở đắc. Cho nên ông mới đem trình hỏi với Thầy Thánh An, Thầy Thánh An cũng hứa khả: Ừ! Thì coi như cũng có chỗ được, nhưng mà qua một thời gian sau, trải qua nhiều hoạn nạn trên đường quan, ông thấy như không còn ham muốn gì nữa, nên tâm công danh gác qua một bên đi. Bây giờ mới thật sự gấp cầu nơi Tổ đạo, nghĩa là bây giờ mới thật sự hết lòng để mà tìm hiểu đạo. Thì bây giờ ông mới đem những việc trước kia hỏi lại với Ngài Thánh An. Ngài Thánh An mới kiểm xét trở lại, Ngài bảo rằng:
- Chỗ thấy của ông chưa thật đúng.
Thì ông mới sanh nghi ngờ, sao trước kia thì hứa khả, còn bây giờ nói chưa thật đúng? Khi đó Ngài Thánh An thong thả mới bảo:
- Bởi vì trước kia vị trí của ông đang ở vào trong yếu địa, yếu địa là ông đang ở chỗ quan trọng, ông quan mà lại trong nhà Nho nữa, hiểu thì hiểu vậy nhưng chưa thật sự hết lòng, người nhà Nho phần nhiều không có tin sách Phật, chỉ tìm tòi góp nhặt những cái ngữ lục để mà giúp thêm cho sự bàn bạc thôi. Tức là đọc đó để cho có vốn đi nói thôi, vì thế tôi chẳng có hết lòng nhồi đập gạn luyện để cho đến chỗ tột. Còn giờ đây xét cái tâm của ông quả là vì cái việc bổn phận mà hỏi tôi, thì tôi đâu thể mà theo cái lỗi trước, chẳng có vì đó mà nói thẳng ư?
Tức lúc đầu hỏi Ngài Thánh An thì Ngài hứa khả, nhưng mà về sau khi hỏi lại, thì Ngài Thánh An nói chưa phải, nên ông nghi: Tại sao trước thì nhận còn sau thì không nhận, thì Ngài Thánh An mới bảo:
- Bởi vì trước kia ông còn ở trong địa vị gọi là quan trọng, rồi tâm cầu học đạo cũng chưa thật sự thiết tha lắm, bây giờ đây ông đã hết lòng vì đạo, cho nên bây giờ đây tôi mới nói thẳng.
Cho thấy khi chưa hết lòng, chưa nhận được tới chỗ đó, cho nên Ngài chưa nói, chứ không phải Ngài giấu, phải đợi cái tâm mình nó thuần thục đến chỗ đó rồi thì các Ngài mới nói
Đức Phật bảo chúng con
Nói đạo pháp tối thượng
Người tu tập pháp này
Sẽ đặng thành Phật quả
Chúng con vâng lời Phật
Vì các Bồ Tát lớn
Dùng các món nhơn duyên
Cùng các môn thí dụ
Bao nhiêu lời lẽ hay
Để nói đạo vô thượng
GIẢNG:Đoạn này là Ngài thuật lại. Đức Phật bảo các Ngài nói pháp tối thượng cho các vị khác tu tập được chứng thành Phật quả, nhưng chính các Ngài lại không có lòng mong cầu, nghĩa là dạy cho các vị Bồ Tát thôi.
Các hàng Phật tử thảy
Từ nơi con nghe pháp
Ngày đêm thường suy gẫm
Tinh tấn siêng tu tập
Bấy giờ các Đức Phật
Liền thọ ký cho kia
Các ông ông ở đời sau
Sẽ đặng thành Phật đạo
Pháp mầu rất bi tàng
Của tất cả các Phật
Chỉ để vì Bồ Tát
Mà dạy việc thiệt đó
Nhưng chẳng vì chúng con
Nói pháp chơn yếu này
GIẢNG:Đây nói rõ, dù cho các Ngài nhân nơi Phật dạy, rồi nói cho các vị Bồ tát, nhưng mà các Ngài không có mong cầu đến chỗ đó, khéo nói nhưng mà không ham chỗ này. Muốn nhắc, chỗ đó dù nói khéo cũng không nói đến chỗ này, mà chỗ này phải sống, phải thầm nhận nơi chính mình, chớ không phải là nói đến được, đó là tinh thần đặc biệt trong nhà Thiền, cũng là trong Phật pháp. Phải chứng nghiệm mới cảm nhận được, không phải là dùng ngôn ngữ lý luận mà nói đến được, nếu mà dùng ngôn ngữ lý luận được thì cần phải tu chi cho mệt. Rồi những vị học giả, họ thông minh lanh lợi hơn mình biết bao nhiêu, nếu nghiên cứu được thì họ nghiên cứu tới rồi. Nhưng sự thật đối với Phật pháp thì không thể có, dù cho họ thông minh cách mấy nữa cũng đứng ngoài cửa, nếu không có tu tập. Đây nhắc nhở là phải sống.
Như gã cùng tử kia
Đặng gần bên người cha
Dầu lãnh biết các vật
Nhưng lòng chẳng mong cầu
Chúng con dầu diễn nói
Tạng pháp báu của Phật
Tự mình không chí nguyện
Cũng lại như thế đóGIẢNG:
Thuật lại các Ngài nói cho các vị Bồ Tát, nhưng mình chưa có nhận, cũng như gã cùng tử gần bên cha, lãnh biết các vật, nhưng lòng cũng không mong cầu. Tức là những tập khí thấp hèn đó chưa sạch, tuy được gần gũi đó, thấy mình có chân thật đó, nhưng mà tập khí cũ đó còn chưa hết.Chúng con diệt bề trong
Tự cho là đã đủ
Chỉ xong được việc này
Lại không biết việc khác
Chúng con dầu có nghe
Pháp tịnh cõi nước Phật
Cùng giáo hoá chúng sanh
Đều không lòng ưa vui
GIẢNG:
Thuật lại tâm trạng của các Ngài lo việc bề trong, tức là sao? Tức là tự mình sạch những phiền não của mình thôi, còn chuyện giáo hoá chúng sanh tịnh cõi Phật đó không thích. Trước tiên cần tự mình giải thoát xong, nên nói các vị Thanh văn đó thì sạch phiền não, nhưng trần sa hoặc, vô minh hoặc chưa hết, sạch phiền não gọi là sạch kiến hoặc, tư hoặc.- Kiến hoặc: Là những kiến chấp sai lầm.
- Tư hoặc: Là những cái suy nghĩ, những tư duy sai lầm.
Tức là sạch hết phiền não nhưng đối với trần sa hoặc là thấy chúng sanh nhiều vô lượng, là còn thấy chúng sanh thật, nên chưa có tâm dám phát nguyện đời đời kiếp kiếp giáo hoá chúng sanh.
Còn các vị Bồ Tát phá trần sa hoặc thì thấy chúng sanh vốn không thật là chúng sanh, dù cho có vô lượng chúng sanh đi nữa thì những chúng sanh đó vốn tự là Niết Bàn rồi, thành ra các Ngài sẵn sàng giáo hoá hết, giáo hoá nhưng không có gì giáo hoá, chỉ nhắc họ thôi, nên không sợ giáo hoá không hết. Còn sợ giáo hoá không hết là còn thấy có chúng sanh thật trong đó, cho nên còn cái hoặc. Ở đây sạch hết bên trong thì đạt được cái thể, còn thiếu dụng. Cho nên tịnh cõi Phật, cùng giáo hoá chúng sanh thì chưa có ham.
Như thế là vì sao?
Vì tất cả các pháp
Thảy đều là không lặng
Không sanh cũng không diệt
Không lớn cũng không nhỏ
Vô lậu và vô vi
Suy nghĩ thế nào đó
Chẳng sanh lòng ưa muốn.
GIẢNG:Đây các Ngài thấy rõ ràng tất cả các pháp đều là không, lặng, không sanh, không diệt, không lớn không nhỏ, vì vậy không còn muốn gì thêm nữa, nhưng cái đó chỉ có một bên lặng thôi, tức là chỉ có một bên thể. Còn quên là trong lặng đó đầy đủ cái diệu dụng trong đó. Trong nhà Thiền có câu: "Nước chết không chứa được rồng". Nghĩa là nước chết chỉ cho nước đứng, nó không chứa được rồng. Nếu là rồng là phải tung bay trên mây, làm mây làm mưa, cũng như vậy, nếu mình chìm trong chỗ lặng đó, thì chưa được tròn đầy, phải ở trong cái lặng đó mà sống dậy, trong cái lặng đó mà mình ứng dụng khắp trong mọi sai biệt, gọi là đi trong sanh tử, mà vắng lặng, đó mới là Phật khen ngợi.
Chúng con đã từ lâu
Đối với trí huệ Phật
Không tham không ưa thích
Không lại có chí nguyện
Mà đối với pháp mình
Cho đó là rốt ráo
GIẢNG:
Đối với trí Phật không ưa thích, đối với pháp thì cho đó là rốt ráo rồi, được như vậy là đủ rồi, hết còn mong gì nữa. Nhưng mà thấy ngoài trí mình còn có trí Phật, là còn có gì khác nữa, gọi là chưa rốt ráo.Chúng con từ lâu nay
Chuyên tu tập pháp không
Đặng thoát khỏi hoạn nạn
Khổ não của ba cõi
Trụ trong thân rốt sau
Hữu dư y Niết Bàn
Đức Phật dạy bảo ra
Chứng đặng đạo chẳng luống
Thời là đã có thể
Báo được ơn của Phật.
GIẢNG:Đây nói lên tâm trạng các Ngài, giải thoát ra ba cõi chứng được Niết Bàn đó đủ rồi, coi như vậy là báo được ân Phật rồi. Tức là ngay trong thân này, chứng được hữu dư y Niết Bàn, là Niết Bàn ngay còn đang mang thân này, nhưng thân này các Ngài gọi là thân rốt sau thôi, bỏ thân này là vào vô dư y Niết Bàn.
Chúng con dầu lại ví
Các hàng Phật tử thảy
Tuyên nói pháp Bồ Tát
Để cầu chứng Phật đạo
Mà mình đối pháp đó
Trọn không lòng mong muốn
GIẢNG:Đây là nói nhưng mà nói lại thôi, theo trí Phật mà nói, chứ mình chưa tự nhận sống trong đó.
Đấng Đạo sư buông bỏ
Vì xem biết lòng con
Ban đầu không khuyên gắng
Nói những lời có thiệt
Như ông Trưởng giả giàu
Biết con chí kém hèn
Bèn dùng sức phương tiện
Để hoà phục tâm con
Vậy sau mới giao phó
Tất cả tài vật báu
Đức Phật cũng thế đó
Hiện ra việc ít có
Biết con ưa tiểu thừa
Bèn dùng sức phương tiện
Điều phục tâm của con
Rồi mới dạy trí lớn
Chúng con ngày hôm nay
Được pháp chưa từng có
Chẳng phải chỗ trước mong
Mà nay tự nhiên được
Như gã cùng tử kia
Đặng vô thượng của báu
GIẢNG:Đây nói lên các Ngài dạy cho các vị Bồ Tát, nhưng mình không có lòng mong muốn, cho nên Đức Phật biết được tâm đó, mà chưa vội nói liền. Cũng như ông Trưởng giả biết con có trí kém hèn, cho nên phương tiện điều phục nó lần lần, chưa có giao phó của cải liền, đợi khi nó đầy đủ sức làm chủ rồi, thì mới giao phó. Tức là trước dùng phương tiện để dạy mình bỏ những tập khí, quên được tâm hẹp hòi sai biệt, rồi từ đó nhận ra cái tâm thể thênh thang rộng lớn, tâm chân thật sẵn nơi mình, sống được trong đó, từ đó mới có thể đảm nhận được gia tài này.
Thế Tôn! Chúng con nay
Đặng đạo và chứng quả
Ở nơi pháp vô lậu
Đặng huệ nhãn thanh tịnh
Chúng con từ lâu nay
Gìn tịnh giới Phật chế
Mới ở ngày hôm nay
Đặng hưởng quả báo đó.
GIẢNG:Tức đây muốn nói rằng, chỗ này không phải tu hành mà được, cũng không phải không tu hành mà được. Nó sẵn nên không phải do tu hành mà được, nhưng nó sẵn mà mình chưa thật sự sống được với nó, còn những tâm mê lầm nên phải tu hành. Tu hành đây là gạn lọc cái mê chấp thôi, mà nhận rõ cái sẵn có. Cho nên các Ngài nói rằng bấy lâu nay, những công phu chứng quả, huệ nhãn, gìn giữ tịnh giới của Phật chế, hôm nay mới thật sự được hưởng cái quả đó.
Trong nhà Thiền có câu chuyện của Ngài Động Sơn ở chỗ Ngài Vân Nham, khi Ngài ngộ được câu: "Vô tình thuyết pháp" thì Ngài mới thưa với Ngài Vân Nham là:
- Con còn tập khí dư thừa chưa hết.
Ngài Vân Nham bảo:
- Ông từng làm việc gì?
Động Sơn thưa:
- Thánh Đế cũng chẳng làm.
Thánh Đế tức là Thánh Đế đệ nhất nghĩa, đến chỗ tột lý đó cũng không làm nữa.
Ngài Vân Nham hỏi:
- Được hoan hỷ chưa?
Động Sơn thưa:
- Hoan hỷ thì chẳng không, nhưng giống như trong đống rác mà lượm được hòn ngọc sáng.
Tức là sao? Hoan hỷ thì chẳng phải không tức là nhận được cái đó thì rất là vui mừng rồi, nhưng mà giống như trong đống rác mà lượm được hòn ngọc sáng thì sao? Hòn ngọc mà lượm trong đống rác thì xài được chưa? Nhận được thì vui rồi đó, nhưng còn phải lau chùi mới dùng được, mà dùng được là mình có đạo lực làm chủ, khi mình dùng được thì cái sức đó nó giúp mình thắng được phiền não.
Trong pháp của Pháp vương
Lâu tu hành phạm hạnh
Ngày nay được vô lậu
Quả báo lớn vô thượng
GIẢNG:Tức ở trong pháp Phật tu hành phạm hạnh rồi, ngày nay mới được quả báo vô thượng này.
Chúng con ngày hôm nay
Mới thiệt là Thanh văn
Đem tiếng đạo của Phật
Cho tất cả đều nghe
Chúng con ngày hôm nay
Thiệt là A La Hán
Ở nơi các thế gian
Trời, người và ma, phạm
Khắp ở trong chúng đó
Đáng lãnh của cúng dường
GIẢNG:Bây giờ đây mới thật là Thanh văn, mới thật là A La Hán, chỗ này thì mình phải nhận cho thật kỹ. Nếu nhận là Thanh văn mà chưa biết được việc này thì chưa phải là Thanh văn thật, cũng như A La Hán mà không tin việc này thì ở đây chưa phải thật. Đây là điểm nhắc nhở cho người sau, nếu ai tự xưng mình là A La Hán thì phải coi chừng lại đừng vội mà nghe liền.
Ơn lớn của Thế Tôn
Đem việc ít có này
Thương xót dạy bảo cho
Làm lợi ích chúng con
Trải vô lượng ức kiếp
Ai có thể đền được.GIẢNG:
Nếu thấy được chỗ này rồi, mới thấy ân Phật to lớn vô cùng. Một cái lẽ thật mà mình từ vô lượng kiếp đến bây giờ đã mê lầm, nay được chỉ ra, nhận được hết đời lang thang trong luân hồi này, thì còn cái ân gì lớn nữa, thế gian này còn gì so sánh được? Cho nên đến đây thì thấy được ân Phật quá lớn.
Tay lẫn chơn cung cấp
Đầu đảnh lễ cung kính
Tất cả đều cúng dường
Đều không thể đền đặng
Hoặc dùng đầu đội Phật
Hai vai cùng cõng vác
Trong kiếp số hằng sa
Tận tâm mà cung kính
Lại đem dâng đồ ngon
Y phục báu vô lượng
Và các thứ đồ nằm
Cùng các món thuốc thang
Gỗ ngưu đầu chiên đàn
Và các vật trân báu
Để dựng xây tháp miếu
Y báu lót trên đất
Như các việc trên đây
Đem dùng cúng dường Phật
Trải số kiếp hằng sa
Cũng không đền đáp được
GIẢNG:Đây tán thán ân Phật khó có thể nói hết, không thể dùng lời nói mà diễn tả hết, tức là muốn nói lên cái gì? Đó là điều có ý sâu trong đó. Tức phải là người sống đến chỗ này thì mới thấy ân Phật lớn đó, chớ còn không thể nói năng được, dù cho mình đem thân tâm hữu hạn này, đầu đội Phật, vai cõng vác, những vật cúng dường, cũng là vật hữu hạn, đem hữu hạn này đền đáp ân lớn đó thì không thể đền đáp được; mà muốn đền đáp được chỗ đó thì phải làm thế nào? Tức là muốn đền đáp chỗ không ngằn mé, thì phải đem tâm không ngằn mé để đền đáp. Cái tâm không ngằn mé đó thì phải sao? Thì phải tu, phải sống, phải sáng được chỗ đó, cho nên chỗ này không phải là chỗ ngôn ngữ diễn tả được.
Các Phật thật ít có
Đấng vô lượng vô biên
Đến bất khả tư nghì
Đủ sức thần thông lớn
Bậc vô lậu vô vi
Là vua của các pháp
Hay vì kẻ hạ liệt
Nhẫn việc cao thượng đó
Hiện lấy tướng phàm phu
Tuỳ cơ nghi dạy nói.
GIẢNG:
Nghĩa là các Đức Phật đó ít có, vô lượng bất khả tư nghì, tức không thể diễn tả được hết, cái sức thần thông đó cũng là lớn, mà vì kẻ hạ liệt, nên nhẫn việc cao thượng đó, hiện lấy tướng phàm phu, tức là muốn nói lên cái gì? Chỗ này là phải nhận kỹ, chớ không thì dễ lầm. Tại sao Ngài phải hiện tướng phàm phu này? Trong khi đó Ngài đủ hết những cái bất khả tư nghì kia. Đó là muốn nói lên phải thấy suốt qua sắc thân của Phật để thấu qua chỗ chân thật kia. Nghĩa là Phật thật không phải chỉ có bấy nhiêu tướng sanh diệt đó thôi, mà trong đó còn có những cái vượt ngoài suy nghĩ phân biệt của mình, cho nên gọi là bất khả tư nghì, ngay cái sanh diệt mà chẳng phải sanh diệt, thấy như vậy mới thấy Phật thật, chớ không thì thấy Phật tu khổ hạnh bao nhiêu năm thành đạo dưới cội Bồ Đề, rốt cuộc rồi cũng nhập Niết Bàn như ai. Vì vậy, có người hiểu lầm Phật, nói Phật cũng chết, rồi tu cũng chết, mà thành đạo cũng chết, mình không tu cũng chết, vậy tu làm gì? Hiểu kiểu đó rồi chê bai Phật. Đó là đem tâm phàm phu của mình so lường đến cái cảnh giới Phật. Thấy Phật qua tướng sanh diệt, chứ không thấy Phật thật kia. Thành đạo là thành cái thân này hay sao? Mà thành đạo là thành nơi tâm thể bất sanh bất diệt kia, cái đó mới là cái thành đạo của Ngài, cái đó làm sao mình thấy được. Con mắt thường của phàm phu không thể thấy được cái đó, không thấy được cho nên nói Phật cuối cùng cũng chết. Thấy Phật chết đó là thấy Phật hoá thân thôi, chưa thấy được Phật thật.Các Phật ở nơi pháp
Đặng sức rất tự tại
Biết các hàng chúng sanh
Có những điều ưa muốn
Và chí lực của nó
Theo sức nó kham nhiệm
Dùng vô lượng thí dụ
Mà vì chúng nói pháp
Tuỳ theo các chúng sanh
Trồng căn lành đời trước
Lại biết đã thuần thục
Hay là chưa thành thục
Suy lường những điều đó
Phân biệt biết rõ rồi
Ở nơi đạo nhứt thừa
Tuỳ cơ nghi nói ba.
GIẢNG:Đây Đức Phật đầy đủ sức tự tại đó, cho nên biết mọi căn cơ chúng sanh những cái nó ưa muốn gì, nên nói có sai biệt, đó là tuỳ theo phương tiện cơ nghi để giáo hoá. Hiểu như vậy thì đây có ý sâu ngầm nhắc cho chúng ta nhớ điều gì? Là mình bây giờ muốn hiểu được Phật là phải thấy vượt qua những phương tiện sai biệt đó, chớ không nên kẹt trên những phương tiện sai biệt. Trên cái nghi thức giáo hoá đó là phương tiện, có lập bày ra, mà có lập ra thì có phá, cái gì có lập có phá là chưa phải thật, phải nhớ điều đó! Phải thấy thấu qua chỗ lập bày đó. Lâm Tế có dạy:
- Khổ thay, những kẻ trọc mù, không có mắt bám vào chiếc áo của ta mặc, rồi nhận lấy xanh, vàng, đỏ, trắng, ta liền cởi quách đi vào trong cảnh thanh tịnh, người học vừa thấy liền sanh thích thú, ta lại cởi luôn, người học mới điên loạn mờ mịt phát cuồng chạy bảo là ta không có áo, ta liền nói với hắn "Ngươi biết ta mặc áo người chăng?" Chợt xoay đầu lại liền nhận ra ta xong. Đại đức ông chớ nhận cái áo, áo chẳng biết cử động, chính người hay mặc áo, có cái áo thanh tịnh, cái áo vô sanh, áo Bồ Đề, áo Niết Bàn, áo Tổ, áo Phật.
Ngài nhắc phải thấy người mặc áo, chứ đừng nhận chiếc áo. Nào là thanh tịnh, Bồ Đề, vô sanh, Niết Bàn, Tổ, Phật là những chiếc áo hết, nhưng mình thì thích cái áo thôi, cho nên Ngài nói là các ông bám vào áo ta mặc, mà nhận lấy xanh, vàng, đỏ, trắng, thấy màu này, màu kia, bây giờ ta mới cởi quách, là sao? Tức là phá hết những xanh, vàng, đỏ, trắng đó vào cảnh thanh tịnh. Tới đó ta cũng cởi luôn nữa, thì người học điên loạn không biết chỗ nào, mới bảo là ta không có áo. Nhưng ngươi có biết ta mặc áo người chăng? Chính người đang mặc áo đây thôi. Cũng vậy, đến cảnh thanh tịnh rồi mà còn có cảnh giới thanh tịnh là chưa phải thật, cởi quách luôn, bảo vậy có người tới đó chới với. Tu tới thanh tịnh mà bảo cởi quách nữa thì sao đây? Ở đây Ngài nói có thấy thanh tịnh thì còn có đối đãi, tịnh là đối với bất tịnh, tịnh đối với động, thanh tịnh đối với không thanh tịnh. Cho nên còn thấy có cảnh giới thanh tịnh là còn có đối đãi, mà cái đó là cái thuộc về cái bị thấy, phải cởi quách luôn nữa. Người học càng chới với. Chính ngay khi thấy biết chới với thì cái đó có mất đâu không?
Thí dụ khi mình biết chạy, biết sợ, biết chới với, thì lúc đó còn có mặt đó chớ mất đi đâu. Ngay đó người học liền xoay lại thì nhận ra ta xong. Cho nên Ngài nhắc phải khéo thấy người mặc áo chớ đừng nhận chiếc áo, chiếc áo không biết cử động qua lại. Tức Bồ Đề, Niết Bàn, Phật, Tổ đều là những danh từ, cái đó nó không biết cử động. Biết cử động đây là gì? Phải nhận cái đó, cái đó mới là cái Bồ Đề sống, Phật sống, Tổ sống.Như vậy Phật Tổ đã chỉ hết cho rồi.
Đây kết lại để cho thấy rõ:
Qua đoạn này các Ngài nói lên để trình tín giải của mình. Như vậy từ phẩm Thí dụ qua phẩm Tín giải này Phật đã thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất thành Phật gọi là Hoa Quang Như Lai. Chính vì thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất thành Phật, nên các Ngài đây cũng thấy mình có phần đó. Quí vị thường thường đọc kinh Pháp Hoa thì chỉ nghĩ rằng Phật thọ ký cho Ngài Xá lợi Phất thành Phật thôi, nhưng quên rằng, Phật thọ ký cho Ngài Xá Lợi Phất thành Phật Hoa Quang Như Lai đó là ngầm nhắc cái gì? Tức Hoa nó sẽ nở thành trái, đó là nhân đưa đến trái. Quang là ánh sáng, đó là ngầm nhắc cho tất cả những vị Phật tương lai đó đang ngồi đây để tin rằng ai cũng có phần đó. Hiểu như vậy mới thấy được ý sâu của Phật, nếu không tưởng đâu chuyện đó là chuyện của Ngài Xá Lợi Phất thôi, không dính dáng gì đến mình hết.
-
6. Phẩm Dược Thảo Dụ
Ở trước, qua phẩm Tín Giải các vị Ma Ha Ca Diếp, Tu Bồ Đề, đại diện cho hàng trung căn, đã nhận hiểu được chỗ Phật nói rõ về Tri Kiến Phật, nên các Ngài nói thí dụ cùng tử để nói lên chỗ tin hiểu của mình. Đến đây là phần Dược Thảo Dụ là nhân các Ngài lãnh hội được ý đó, nghĩa là rõ được Phật tuy nói ba thừa, nhưng thật chỉ là một thôi, không thật có ba thừa. Các Ngài nói, trước kia các Ngài chưa hiểu được ý Phật, nên chấp theo cái sai biệt đó, thấy có tam thừa, có Thanh Văn, Duyên Giác, Phật thừa sai biệt nhau, do đó mà quên mất một thể chân thật sẵn có, nên tưởng như là có được, mà thật cái lẽ thật đó chưa từng mất thì có gì đâu mà được.
Cũng như các Ngài nói lên gia tài đó là gia tài sẵn có của mình không có ai khác, có gì đâu mà được, nên đây Phật ấn khả. Tuy Phật ấn khả nhưng các Ngài còn sợ có người chẳng hiểu được tâm Như Lai bình đẳng, mà cho rằng Phật cũng có phân biệt, nói ra theo căn cơ có thượng, có trung, có hạ. Như vậy tức là mình làm chướng ngăn mình. Thí dụ mình phân biệt thật có thượng căn, trung căn, hạ căn, thì bậc thượng căn như Ngài Xá Lợi Phất Ngài nhận sớm nhanh, trung căn nhận kế đó, hạ căn thì chậm hơn, phân chia như vậy rồi tự cho mình là hạ căn thì chậm chậm, đó là còn có cái thấy sai biệt chưa quên. Mà còn có cái thấy sai biệt là còn chưa thấy hết tri kiến Như Lai, cho nên đây Phật nói thí dụ Dược Thảo tức là cỏ thuốc, giống như mưa xuống, nước mưa có một vị thôi mà tuỳ theo cỏ, cây thấm nhuần có khác, không phải trời mưa phân biệt cỏ lớn thì mưa cho nó nhiều, cỏ nhỏ mưa cho nó ít. Phật cũng vậy, không thấy đứa này nó lanh lợi thì nói pháp cao cho nó nghe, còn đứa kia yếu thì nói pháp thấp, không phải vậy. Phật với tâm bình đẳng, tuỳ theo người nghe nhận hiểu nó sai biệt thôi. Như vậy tức là muốn nhắc mình quên cái khác đó thì thấy đồng một vị, quên chỗ khác là căn cơ lớn nhỏ mình sẽ thấy đồng một vị, vị đó là vị gì? Là vị Như Lai, thì mới thấy tột chỗ tri kiến Phật. Bởi vì, Phật tánh không có trung có hạ gì, cũng vậy tri kiến Phật đâu có trung có hạ. Cho nên người hạ căn mà nhận ra Phật tánh thì cũng thành thượng căn, còn không nhận ra thành hạ, chứ Phật tánh không có trung hạ.
Thứ hai nữa là, cỏ thuốc biết dùng thì cỏ thành thuốc, không biết dùng thì thuốc cũng thành cỏ, đơn giản vậy thôi, mình khéo nhận thì pháp nào cũng là pháp Phật hết, còn không khéo nhận thì pháp Phật thành pháp thường.
Ví như bài toán cộng thôi, nếu nhìn bằng kinh Bát Nhã, thì bài toán cũng là kinh Bát Nhã trong đó, còn nếu mình nhìn theo con mắt thường thì thấy thường. Thí dụ 5+3+2= 10 mình thấy như vậy chỉ là bài toán cộng thôi. Nhưng đó là bài kinh Bát Nhã. Số 10 từ đâu mà có? bỗng nhiên có số 10, hay có sẵn số 10? vốn do số 5 cộng với số 3 rồi cộng với số 2 thành 10, vậy con số 10 đó không phải tự nó sẵn có mà do cộng các số 5, số 3, số 2 mà thành. Như vậy số 10 không thật có, gọi là tánh không, không có tánh sẵn của nó mà do các số khác cộng lại thành thôi. Tức là nhân duyên mà thành, không thật, thì ngay đó thấy bài kinh Bát Nhã, rõ ràng là thấy cái gì cũng là Phật pháp được hết, còn nếu nhìn bằng con mắt tầm thường thì thấy nó tầm thường, hiểu như vậy đó mới thấy được Phật pháp bình đẳng với tất cả.
CHÁNH VĂN:Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn bảo Ngài Ma Ha Ca Diếp các vị đại đệ tử: "Hay thay! Hay Thay! Ca Diếp khéo nói đặng công đức chơn thật của Đức Như Lai. Đúng như lời các ông vừa nói, đức Như Lai còn có vô lượng vô biên a tăng kỳ công đức, các ông dầu trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được". Ca Diếp nên biết! Đức Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối vậy. Phật ở nơi tất cả pháp dùng trí huệ phương tiện mà diễn nói đó, pháp của Phật nói thảy đều đến bậc nhất thiết trí. Đức Như Lai xem biết chỗ qui thú của tất cả pháp, cũng rõ biết chỗ tâm sở hành của tất cả chúng sanh thông thấu không ngại. Phật lại ở nơi pháp rốt ráo rõ biết hết, chỉ bày tất cả trí huệ cho các chúng sanh.
GIẢNG:
Đây Phật khen ngợi Ca Diếp: Hay thay! Hay thay! Ông như vậy khéo nói đặng công đức chân thật của Phật, như vậy khế hợp được tâm Phật rồi. Xong Đức Phật Ngài nói thêm, đúng như lời ông nói đó nhưng đức Như Lai còn có vô lượng vô biên a tăng kỳ công đức, cho dù ông trải qua vô lượng ức kiếp nói cũng không hết được.
Khen ngợi hợp ý Phật đó, nhưng còn chỗ các ông nói chưa tới nữa, như vậy tức là sao? Đó là muốn nhắc mình, nói là nói khéo nhưng mà nói cũng không hết được những công đức của Phật, bởi vì sao? Phải thể nhập trong đó mới hiểu được thôi, còn nói cách mấy cũng không thể nói đến được, khéo thì nói phần nào vậy thôi, khi mình sống được trọn vẹn trong đó, mình mới thầm tự hiểu hết. Khéo thấu tột như vậy đó, thì ngay một lời, một câu của Phật nói ra cũng thấu tột được cội nguồn Phật pháp.
Đây nói rằng Như Lai là vua của các pháp nếu có nói ra lời chi đều không hư dối, bởi vì từ trong chỗ chân thật, Như Lai nói ra, từ ánh sáng nói ra. Cho nên mỗi một câu Phật nói, nếu mình khéo thấu suốt thì đều tột được cội nguồn Phật pháp, chứ không phải mình chỉ chấp vào chỗ chân thật đó thôi. Nghĩa là chấp vào chân thật đó bỏ những sai biệt, tức ở trước bỏ quyền mà về thật; nếu còn thấy bỏ quyền về thật, bỏ sai biệt đó, là cũng còn tâm lấy bỏ. Đây phải quên tâm lấy bỏ, mới thấy rõ Phật nói ra lời gì, mình khéo nhận cũng đều thấy suốt được hết. Thí dụ nghe Phật nói khổ, người bình thường nghe Phật nói khổ thì hiểu là khổ, chán cõi này, cầu bỏ cõi này để sanh cõi khác hết khổ. Nếu mình khéo nghe Phật nói khổ như vậy, thì rõ mọi pháp có ra ở đây đều là không phải chỗ mình nương tựa, không phải chỗ mình bám chấp lâu dài được, bởi vì tất cả đều khổ thì không có cái gì để cho mình bám chấp hết, thì liền đó là sao? Sống trở về cái nguồn chân thật. Như vậy, chỉ một chữ khổ thôi nếu mình khéo thì mình thấy được chỗ chân thật. Đó là thấy ý ngoài lời, chỗ Phật chưa nói mà mình thấy được rồi, thì đó mới khéo thấy được ý Phật. Còn nghe nói khổ mình chỉ hiểu khổ thôi, là chỉ hiểu trên phương tiện của Phật. Do đó người không hiểu kỹ nghe đạo Phật nói cái gì cũng đều khổ khổ hết, làm cho người thấy chán đời, như vậy là chưa thấy hết ý Phật. Phật nói khổ, nhưng đó là muốn đưa người ta đến chỗ chân thật, là an vui vĩnh viễn, song người ta còn đang mê đây, còn đang khổ đây, mà bây giờ chỉ ra cái đó ai nhận được? Cho nên Phật nói khổ trước, để cho họ nhận rõ điều đó rồi mới chỉ sau, còn người lanh lợi nghe Phật nói khổ, thì biết rằng mọi cái đều không có chỗ cho mình bám, nhận ra ý Phật muốn chỉ là chỉ chỗ chân thật kia, chứ không phải ý Phật nói chỗ khổ là khổ. Nghĩa là ngay một lời phương tiện của Phật, mình cũng thấy được chỗ ý sâu của Phật, đó là không mắc kẹt trên lời sai biệt. Bởi vậy Phật nói ra lời chi đều không hư dối, Phật ở nơi tất cả các pháp dùng trí tuệ phương tiện mà diễn nói, thì pháp của Phật đều là dẫn người đến bậc nhất thiết trí chứ không phải dừng ở chỗ sai biệt thôi.
- Nhứt thiết trí: nhứt thiết: là tất cả, nhứt thiết trí là trí rõ biết hết tất cả các pháp không lầm lẫn gì.
Mình bây giờ có trí mà trí chưa được nhứt thiết, không lầm pháp này thì cũng lầm pháp khác, còn với Phật là không lầm bất cứ pháp nào hết, tức là sao? Tức là thấy tất cả mọi pháp, rõ tất cả mọi pháp, nhưng mà không lầm cái gì, còn mình đây thì dễ lầm. Ví dụ như là thấy pháp, chữ pháp nghĩa rộng lắm, không phải chỉ pháp Phật mình học, mà cái bàn cái ghế này cũng pháp luôn, mọi sự mọi vật đều là pháp hết. Như vậy Phật thấy biết rõ tất cả hết mà không lầm cái gì, còn mình thấy cái bình hoa này thì mình cũng lầm cái bình hoa. Lầm nó là mình. Cũng như nghe tiếng, các Ngài nghe cũng nghe không lầm cái tiếng như mình. Bởi vậy mình nghe nhứt thiết trí mình tưởng trí gì đâu cao xa trên trời, nhưng cái đó chính ngay nơi mình, mình khéo sống, khéo tu thì ai cũng được hết.
Như Lai biết chỗ quy thú của tất cả pháp, nghĩa là sao? Quy thú là chỗ quay về, tức tất cả pháp đều trở về một gốc chân thật đó thôi, Ngài thấy rõ mỗi pháp mỗi pháp đều trở về gốc chân thật đó chớ không gì khác, không có gì rời gốc chân thật đó. Cũng như Ngài rõ biết chỗ tâm sở hành của tất cả chúng sanh, thông thấu không ngăn ngại.
-Tâm sở hành: là mọi hoạt động trong tâm mình nghĩ gì, suy gì, tưởng gì, Ngài đều biết hết, không có gì qua mắt Phật được.
Người nghe tới có tin không? Mình nghĩ gì thầm thầm trong đây Phật cũng biết hết. Sự thật, mọi cái mình nghĩ ra, có tướng gì đó, nếu dùng con mắt Như Lai nhìn thì biết rõ hết. Bây giờ quí vị ngồi đây nghĩ gì tôi biết hết, y theo nghĩa Như Lai mà biết, bất cứ nghĩ gì thì đó cũng là vọng tưởng thôi, đó là tâm hư dối. Bởi có khởi, có nghĩ là có tướng, có tướng là có sanh có diệt, là vọng chứ gì? Cho nên y theo nghĩa Như Lai là biết hết, không lầm. Như vậy Phật ở nơi các pháp Ngài rốt ráo biết rõ hết nên mới chỉ bày tất cả trí tuệ cho chúng sanh. Vì Như Lai gọi là vua trong các pháp, vua tức là tự tại không ngăn ngại, đối các pháp sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp Ngài qua lại tự tại biết rõ hết, không có chút gì vướng mắc. Đó cũng là một ý để nhắc mình, nếu mình quên được tâm sai biệt đó, tức tâm chúng sanh này liền hợp với Như Lai, thấy Như Lai liền, đơn giản. Bởi vì những tâm này là tâm bị Như Lai biết hết, cho nên quên tâm này thì hợp Như Lai liền. Ở đây biết rõ như vậy, biết tột hết các pháp như vậy, không có pháp nào che mờ được Phật, rồi Phật mới chỉ bày tất cả trí huệ cho chúng sanh, nghĩa là chúng sanh mở mắt ra thì liền gặp Phật. Chỉ có điều là mình không chịu mở mắt, chứ mở mắt ra là thấy liền, Phật mới thí dụ.
CHÁNH VĂN:
Ca Diếp! Thí như trong cõi tam thiên đại thiên nơi núi, sông, khe, hang, ruộng, đất sanh ra cây cối, lùm rừng và các cỏ thuốc, bao nhiêu giống loại tên gọi màu sắc đều khác. Mây dày bủa giăng trùm khắp cả tam thiên, đại thiên đồng thời mưa xối xuống, khắp nơi nhuần thấm cây cối lùm rừng và các cỏ thuốc, hoặc thứ gốc nhỏ, thân nhỏ, nhánh nhỏ, lá nhỏ, hoặc thứ gốc bậc vừa, thân vừa, nhánh vừa, lá vừa, hoặc các thứ gốc lớn, thân lớn, nhánh lớn, lá lớn. Các giống cây lớn nhỏ, tuỳ hạng thượng trung hạ mà hấp thụ khác nhau. Một cụm mây tuôn mưa xuống xứng theo mỗi giống loại mà cây cỏ đặng sanh trưởng, đơm bông kết trái. Dầu rằng một cõi đất sanh, một trận mưa thấm nhuần mà các cỏ cây đều có sai khác.GIẢNG:
Tức là trong cõi tam thiên đại thiên, trong đó có núi, sông, khe, hang, ruộng, đất, mới sanh ra những cây cối lùm rừng, cỏ thuốc.vv… bao nhiêu là giống loại có tên khác, màu sắc khác, lúc đó trên trời nổi đám mây dày bủa giăng khắp hết, đồng xối trận mưa xuống, thì mỗi loại cây hoặc nhỏ, hoặc vừa, hoặc lớn, tuỳ theo loại cây mà hấp thụ, rồi nó đơm bông kết trái, tuy là khác nhau nhưng đồng một trận mưa đó. Chỗ này để ý: đồng một cõi đất sanh, đồng một trận mưa, mà chỗ thấm nhuần có sai khác, bây giờ đây để hợp pháp lại thì sao?Cõi tam thiên đại thiên đó là chỉ cho cái gì? Trong cõi tam thiên đại thiên đó, nó bao gồm tất cả núi, sông, khe, hang trong đó hết, thì như vậy muốn chỉ cho cái gì? Chỉ cho chúng sanh đồng một tâm địa chân thật, trong đó sanh ra bao nhiêu thứ, trong đất tâm đó hiện ra:
- Núi cao là gì? Núi cao ngã mạn đó, đất tâm nó bình đẳng như nhau, vì vô minh nên thấy trong đó có núi cao ngã mạn.
- Sông sâu, hố thẳm là gì? Là những tâm hiểm độc sâu thẳm.
- Hang hóc: là mưu mô hóc búa đó.
Thì cũng cõi đất mà sanh ra thôi, có cái nào ngoài tâm không? Chỉ một đất tâm đó mà hiện ra đủ hết, tức là một đất tâm đó theo nghiệp mà có sai khác, có những sắc thân chẳng đồng nhau, căn tánh có thượng trung hạ. Cho nên đây có những cỏ thuốc, hoặc lá lớn, hoặc lá nhỏ, hoặc cỏ thuốc cây nó mềm, cây nó cứng, nhưng mà cỏ thành thuốc là hay rồi, tức là sao? Cỏ thành thuốc là đã biết tiếp nhận sự giáo hoá rồi, nếu nó còn cỏ là chưa trị bệnh được. Còn những cây thì có cây yếu, cây mềm, cây cứng chắc, cây cứng chắc đó là cây gì? Cây đó là vững chắc vươn lên rồi đó. Trái lại là những cây còn đắm say ngũ dục vô minh, đó là những cây mềm yếu hư mục. Như vậy cùng một đất mà nó có ra đủ thứ những cái đó. Rồi ở trong đó một đám mây dày bủa lên khắp hết, mới xối xuống trận mưa, tức là chỉ cho Phật hiện ra đời đó! Phật hiện ra với một tâm Phật bình đẳng, bủa khắp hết mọi căn cơ, mọi nơi, nghĩa là mọi căn cơ đều được bủa khắp với tâm Phật bình đẳng đó, chứ không phải là Phật có tâm phân biệt, đứa này chịu nghe pháp, mình nói cho nó nghe, thương nó, đứa kia không chịu thì thôi, không phải như tâm chúng sanh mình. Đó là tâm phân biệt, còn với Phật thì không phải như vậy, với tâm bình đẳng Phật nói pháp.
Trong tâm Phật bình đẳng đó bủa khắp đồng rưới xuống một trận mưa, mưa đó gọi là pháp âm của Phật, đồng một vị đó là một thể giác thôi. Nhưng mà tuỳ theo loại cỏ cây mà được thấm nhuần có khác, hoặc là giác nhiều, hoặc giác ít, người căn cơ nhỏ thì giác ít, còn người sâu hơn thì giác nhiều, tuỳ theo căn cơ. Như vậy đồng là một cõi đất, đồng là một trận mưa, cũng đồng một tâm địa đó, đồng pháp thể chân thật đó, mà chỗ thấy có sai biệt, vậy đây muốn ngầm nhắc mình cái gì? Quên mọi sai biệt đó, thì thấy được chỗ đồng đó, còn chưa quên được tức còn trong chỗ sai biệt thì thấy mình khác, thấy người khác. Bởi vậy thấy tôi là hạng chậm lụt rồi thôi tu từ từ, còn mấy vị kia là hạng cao để họ đi trước, đó là còn tâm sai biệt. Ở đây ai thấy được đám mưa dày bủa khắp đó, rồi ai nếm được mưa một vị đó? Đã là mây bủa khắp hết, tại sao không thấy? Hãy khéo thấy, đừng có kẹt nơi cỏ cây sai khác. Nghĩa là mình hiểu sáng được tự tánh Như Lai đó đồng hết, thì thấy thể này hiện khắp mọi nơi không đâu thiếu.
Trong nhà Thiền Ngài Linh Vân thấy hoa đào nở cũng tỏ ngộ được, thấy thân Như Lai ngay hoa đào. Còn Ngài Trí Nhàn nghe tiếng sỏi, Ngài đang quét sân, nó văng trúng vào bụi trúc, cũng thấy thân Như Lai hiện ngay nơi bụi trúc, vậy thấy rõ ràng nó bủa khắp, chỗ nào cũng hiện hết. Ngài Linh Mặc nghe gọi xoay đầu lại cũng tỏ ngộ được. Ngài Huệ Lăng tham Thiền hai mươi năm, ngồi rách bảy bồ đoàn, mà không ngộ, nhưng một hôm đứng dậy cuốn rèm lên thì ngộ cũng thấy Như Lai ngay đó. Và đây đoạn Như Lai kêu gọi.
CHÁNH VĂN:
Ca Diếp nên biết! Đức Như Lai cũng lại như thế, hiện ra nơi đời như vừng mây lớn nổi lên, dùng giọng tiếng lớn vang khắp thế giới cả trời, người, a tu la, như mây lớn kia trùm khắp cõi nước tam thiên đại thiên, Phật ở trong đại chúng mà xướng lời này:
Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn, Người chưa được độ thời làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thời làm cho tỏ ngộ, người chưa an thời làm cho được an, người chưa chứng Niết Bàn thời làm cho chứng Niết Bàn, đời nay và đời sau Phật đều biết đúng như thật. Ta là bậc nhứt thiết trí, bậc nhứt thiết kiến, là bậc tri đạo, bậc khai đạo, bậc thuyết đạo. Các ngươi, hàng trời, người, a tu la đều nên đến đây vì để nghe pháp vậy.
Bấy giờ có vô số nghìn muôn ức loài chúng sanh đi đến chỗ Đức Phật mà nghe pháp. Lúc đó đức Như Lai xem xét các căn lợi độn, tinh tấn hay giải đãi của chúng sanh đó, thuận vừa sức nó kham được mà vì chúng nói pháp, chủng loại nhiều vô lượng. Phật đều khiến vui mừng đặng nhiều lợi lành. Các chúng sanh này nghe pháp rồi, hiện đời an ổn, đời sau sanh về chỗ lành, do đạo được thọ hưởng vui và cũng được nghe pháp, đã nghe pháp rồi lìa khỏi các chướng ngại, ở trong các pháp theo sức mình kham được lần lần đều được vào đạo.
GIẢNG:
Ở đây Phật hợp lại, cũng vậy Phật hiện ra đời cũng như vầng mây lớn nổi lên khắp thế giới, Phật ở trong đại chúng mà xướng lên lời to: Ta là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri vv… Người nào chưa được độ thì làm cho được độ, người chưa tỏ ngộ thì làm cho tỏ ngộ, như vậy Ngài kêu mọi người nên đến đây mà nghe pháp, rồi từ đó vô số nghìn muôn ức chúng sanh đến chỗ Phật nghe pháp, là nói lên điều gì? Ngài hiện ra đời giống như vầng mây lớn xướng lên lời nói to là đấng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri đó, bảo cho mọi người phải đến để vì nghe pháp. Ai nghe được điều này, ngay đây là sung sướng lắm! Ở giữa đại chúng xướng ta là Phật Như Lai, nói chi vậy? Tức nêu rõ, đây là cái chân thật rõ ràng không hư dối, đánh thức cho mọi người thức tỉnh việc này, nghĩa là trong thế gian này chỉ có Như Lai, chỉ có tri kiến Phật chỗ đó mới là chân thật thôi. Cho nên Ngài nói đời nay và đời sau biết đúng như thật, nghĩa là đây là nghĩa thật muôn đời, không có cái gì chuyển đổi được cái đó hết. Như vậy để cho mọi người đầy đủ lòng tin, ngay niệm hiện tiền đây khéo thì nó suốt cả trước sau. Tức là mình khéo tỏ ngộ được ngay niệm này, thì liền ngay đây suốt cả xưa nay, nên Ngài A-Nan khi tỏ ngộ, Ngài nói: "Bất lịch tăng kỳ hoạch pháp thân", ngay đây không cần trải qua ba tăng kỳ kiếp, mà cũng được pháp thân. Ngay một niệm hiện tiền này suốt cả ba tăng kỳ kiếp, thì quí vị thấy sướng không? Vậy không chịu tìm, mà còn đòi tìm gì nữa. Cái pháp thân, cái chân thật sẵn nơi mình, chỉ vì mê không nhận thôi, khi nhận ra, nó sẵn đó. Vì vậy dù trải qua ba A tăng kỳ kiếp mà tu công phu cách mấy đi nữa, cũng nhận ra cái sẵn này thôi, nhận ra cái đó thì thấy suốt qua ba A tăng kỳ kiếp, tu đốn giáo là vậy đó.Rồi Ngài nói: Ta là bực nhứt thiết trí, bực nhứt thiết kiến, là bực tri đạo, bực khai đạo, bực thuyết đạo.
- Nhứt thiết kiến: là thấy rõ tất cả.
- Bực nhứt thiết trí là bậc biết rõ tất cả.
- Tri đạo: là biết rõ chân thật đó.
- Khai đạo: là mở rõ cái chân thật đó.
- Thuyết đạo: là nói rõ ra chân thật đó sẵn sàng trao cho tất cả, chỉ cần người tin nhận là đủ.
Cho nên bảo rằng: hãy đến đây nghe pháp, tức là kêu gọi trở về, đánh thức mọi người. Nghĩa là chúng sanh còn đang mê, ví như đang trong mộng, bây giờ đánh thức hãy đến đây nghe pháp, tức là có Phật ra đời đó mà không tỉnh dậy còn cứ mê mãi sao? Ngài kêu: Ta là Như Lai, kêu mọi người đến đây, thức tỉnh trở về chỗ chân thật đó, tiếng kêu đó nếu ai khéo nhận thì tiếng đó cũng còn vang tới ngày nay chứ chưa mất đâu, tiếng này lại vang khắp tam thiên đại thiên nhưng không biết có ai nghe được không? Như Lai coi như Ngài vẫn còn đang gọi mình đó, nhưng mình chưa chịu đến nghe thôi. Ở đây những chúng sanh mà nghe được Phật đó thì sao? Vô số chúng sanh đến nghe pháp, ngầm chỉ nghe được tiếng Phật đó thì bao nhiêu tâm lang thang đều trở về đây hết, cũng như Phậtø xướng lên thì vô số loài chúng sanh đi đến Phật mà nghe. Nếu ai khéo nghe được tiếng Phật đó, thì bao nhiêu chúng sanh lang thang đều trở về đây, thấy Phật vẫn ngồi đây, Phật vẫn phóng ánh sáng, nhưng tiếc thay chúng sanh của mình đi lang thang không chịu trở về nghe! Chứ sự thật thì Phật vẫn phóng ánh sáng tại đây thôi.
Phật nói thêm, Ngài xem xét căn cơ của chúng sanh, hoặc tinh tấn, hoặc giải đãi, tuỳ theo mức độ Ngài nói pháp, đều cho được an vui hết, đều khiến dần dần được vào đạo, nghĩa là sao? Ai cũng có tánh giác như nhau hết rồi, được nghe pháp, được nhắc nhở cũng được tỉnh, không ai mất phần, chỉ có người nhận mau nhận chậm vậy thôi. Như vậy để thí dụ trước kia Phật chưa nói thẳng tri kiến Phật, nhưng chỉ bảo là thôi các ông dẹp tham sân si đi, bớt tham sân si đi, hiểu ra thì Phật bảo dẹp tham sân si đó thì sao? Đó cũng chính là để hiển bày tri kiến Phật chứ gì, nhưng ban đầu Ngài chưa nói tri kiến Phật được, vì tham sân si còn đầy dẫy đây, mà chỉ tri kiến Phật sao nhận ra được. Vì vậy bảo: thôi dẹp tham sân si đi, nhưng cái ý thì để hiển bày tri kiến Phật. Như vậy ở đây mọi người đều nghe pháp, được đánh thức chỗ đó, tức là mọi người đang đi vào đạo, trở về chân thật đó chứ gì, đâu có ai mất phần. Do đó Phật tuỳ theo chúng sanh hoặc lợi, hoặc độn mà nói pháp, khiến cho mọi người dần dần đều được vào đạo, không bỏ sót ai.
CHÁNH VĂN:
Như mưa lớn kia rưới khắp tất cả cỏ cây lùm rừng và các cỏ thuốc, theo giống của mỗi thứ đều được đượm nhuần đầy đủ, đều được sanh trưởng.Đức Như Lai nói pháp một tướng một vị nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, rốát ráo đến bực "Nhứt thiết chủng trí". Có chúng sanh mà nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng đúng như lời mà tu hành, được công đức tự mình không hay biết.
Vì sao? Vì chỉ có Như Lai là biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó. Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Nhớ thế nào? Tu thế nào? Dùng pháp gì để nhớ? Dùng pháp gì để nghĩ? Dùng pháp gì để tu? Dùng pháp gì đặng pháp gì?
Chúng sanh ở nơi các bực, chỉ có đức Như Lai thấy đó đúng như thật, rõ ràng không bị ngại. Như cây cối lùm rừng các cỏ thuốc kia không tự biết tánh thượng trung hạ của nó.
Đức Như Lai biết pháp một tướng một vị ấy nghĩa là: tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, trọn về nơi không, Phật biết như thế rồi xem xét tâm ưa muốn của chúng sanh mà dắt dìu nó, cho nên chẳng liền vì chúng vội nói "Nhứt thiết chủng trí".
GIẢNG:
Đây là nói thí dụ cũng như vầng mây lớn đó, mưa khắp tất cả lùm rừng, cỏ cây mỗi thứ đều được đượm nhuần, đều được sanh trưởng thì Phật cũng như vậy, Ngài nói pháp là chỉ một tướng thôi, một vị thôi, tướng đó là tướng gì? Là tướng giải thoát, tướng xa lìa, tướng diệt, tướng rốt ráo đến bậc nhứt thiết trí. Vậy chúng sanh nào nghe pháp của Như Lai hoặc thọ trì đọc tụng đúng như lời mà tu hành, thì được công đức tự mình không hay biết.Như vậy quí vị nghe rõ, Như Lai Ngài nói pháp ra cũng là pháp một tướng, một vị tức là sao? Nghĩa là nói pháp đó đều rốt ráo đến giác ngộ thôi, chớ không gì khác, đó là một cái căn bản. Ngài nói thêm “một tướng” là tướng gì?
- Tướng giải thoát, tức là Ngài nói tất cả không vướng một cái gì hết, đều đưa người đến giải thoát. Còn mình nói cái gì thì dính vào cái đó.
- Tướng xa lìa, tức là Ngài nói đủ hết, nhưng mà tự nó không một tướng gì hết, chứ không phải như mình nói cái gì thì dính vào tướng đó, còn ở đây Ngài nói mà không có ở một tướng gì hết, gọi là tướng xa lìa, đưa người đến xa lìa.
- Tướng diệt, tuy là Ngài nói có sanh, có diệt mà chính Ngài vẫn hằng lặng lẽ chưa từng động. Có khi nói sanh, cũng có khi nói diệt, không phải nói sanh diệt mà Ngài sanh diệt theo đó, mà luôn luôn là lặng lẽ chẳng động, cho nên gọi là tướng diệt.
Như vậy Ngài nói pháp một tướng một vị thì bây giờ người nghe pháp phải sao? Nghe pháp cũng nghe đến chỗ một vị, một tướng. Đó là cái ngầm ý muốn nhắc mọi người nghe pháp mà khéo là phải nghe thấu qua ngôn ngữ, thấu qua chữ nghĩa, thì mới thấy được tột ý Như Lai. Điều quan trọng nữa, “người nghe pháp, thọ trì, đọc tụng đúng như lời mà tu hành được công đức tự mình không hay biết”. Đây là điều nhắc nhở, không phải nghe suông, mà nghe là phải thọ trì, đọc tụng, nhưng mà chỗ này nhiều người hiểu lầm, nghe nói thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa là được công đức vô lượng, nên cứ đem mà đọc hoài Đó là hiểu lầm. Đây nói thọ trì nghĩa là: thọ là nhận, còn trì là giữ gìn. Nghe nhận, gìn giữ ứng dụng để mà sống, ứng dụng mà tu hành thì công đức mới tự mình không hay biết. Bởi vì chỗ đó là ngoài sức hiểu biết của tâm phàm mình, của cái thức tình mình. Cái công đức Pháp Hoa này mình đâu có tính trước được, quí vị vô đây học kinh Pháp Hoa nghiền ngẫm có tính trước mình sẽ nhận rõ tri kiến Phật như thế nào không? Đâu tính trước, khi nó khế hợp thì bừng sáng lên liền, bất ngờ ngoài sức tưởng tượng của mình, nếu tính trước được thì cái đó thuộc về cái suy nghĩ sanh diệt rồi. Đây chỉ có người chứng mới biết, bởi vì mình còn sống trong mê, còn sống trong sai biệt thì đâu tự biết được, phải dùng tâm Như Lai biết thôi.
Đây Ngài nói thêm chỉ Như lai biết chủng tướng thể tánh của chúng sanh đó thôi: Nhớ việc gì? Nghĩ việc gì? Tu việc gì? Chỉ có Như Lai biết, thì rõ ràng đó là y theo Như Lai mà biết được thôi, còn dùng phàm tâm này khó biết nổi. Bởi vì chúng sanh mà nhớ cái gì? Nghĩ cái gì? Thì nó có ra ngoài sáu trần không? Nghĩ gì, nhớ gì cũng lẩn quẩn trong sáu trần đó thôi đâu ra khỏi, thì như vậy nghĩ gì, nhớ gì là luôn luôn có đối tượng. Nghĩ là nghĩ cái gì? Tức có đối tượng để nghĩ. Nhớ cái gì có đối tượng để nhớ, tức lẩn quẩn trong sáu trần đó, mà có đối tượng đều bị Như Lai biết hết, bởi vì có tướng rồi. Còn Như Lai ngược lại không bị nó biết, Như Lai là vượt ngoài cái đó. Tu gì, được gì, Như Lai cũng biết hết nữa, bởi vì tu gì, được gì cũng không ra ngoài cái sai biệt, còn có trong hạn lượng thôi, chỉ khi nào đến được Như Lai địa mới tột hết các bực sai biệt, đến đó mới được tâm không còn hạn lượng. Cho nên ở đây phải dùng tâm Như Lai thì mới biết hết thôi. Nói như vậy đó, không phải bảo mình không có phần mà phải buông những tâm này, khế hợp tâm Như Lai là biết hết được chỗ đó. Tức nhắc mình phải vượt lên trên những tâm thượng, trung, hạ chứ còn trong tâm thượng, trung, hạ làm sao biết hết được. Đó là ý nghĩa rõ ràng. Như Lai biết pháp một vị một tướng, cũng như Ngài biết hết các tướng rốt ráo Niết Bàn thường tịch diệt, cuối cùng cũng trở về nơi không thôi, chứ không gì khác. Nghĩa là với trí của Như Lai, mà nhìn tất cả pháp vốn nó tự giải thoát, vốn nó tự xa lìa, nó tự vắng lặng, rồi cuối cùng cũng đồng về cái thể không. Thể không đó là cái gì? Đó là cái thật tướng vô tướng, mọi pháp mà với trí Như Lai nhìn đều như vậy.
Trên nói các pháp đều là cái tướng vốn tự xa lìa, như thân mình đang ngồi đây, thấy như đang có đây; sự thật tự thể nó cũng xa lìa, bởi vì sao? Dù cho mình ngồi đây, cố giữ rồi nó cũng hoại, nó đang hoại từ từ, bản chất của nó là tự ly, cho nên cuối cùng nó phải lìa thôi. Sự thật bản chất nó mà không ly thì nó bền chắc đâu hoại, đâu có lìa được, nhưng bản chất nó là ly, là lìa, nên bây giờ nó tạm hợp còn đây, cuối cùng giữ cách mấy nó cũng lìa, vì vậy thấy tột được chỗ đó, thì thấy được ý sâu của các pháp. Ở đâây Ngài biết rõ, ngay nơi sanh diệt này thấy suốt được chỗ phi sanh diệt, chỗ này khó hiểu nhưng là một lẽ thật.
Ví dụ như sóng biển, quí vị ra biển thấy sóng nổi lên, sóng có sanh diệt không? Sóng từng đợt từng đợt, có cái trước cái sau. Lượn sóng trước đuổi lượn sóng sau dường như là có sanh có diệt, có lượn sóng này sanh rồi lượn sóng kia diệt, lượn sóng trước lượn sóng sau, nhưng sự thật có sanh diệt gì không? Có bao nhiêu nước đó thôi nó nổi lên chìm xuống, thấy giống như có sanh diệt chứ có sanh diệt gì đâu, nghĩa là bao nhiêu lượn sóng đó cũng đồng thể ướt đó thôi, nếu nhìn thấu thể ướt đó thì thấy, luợn sóng lớn cũng ướt, lượn sóng nhỏ cũng ướt, trước sau cũng ướt vậy thôi, tánh ướt có sanh diệt gì không? Nó có trước sau gì không? Tâm mình đây cũng vậy, nghĩ này nghĩ nọ lăng xăng, thấy giống như có sanh diệt, nhưng trong đó đồng một thể Biết thôi, cái thể Biết đó có sanh diệt gì? Thấy rõ như vậy, ngay cái sanh diệt, liền nhận ra có cái không sanh diệt trong đó, thấy như vậy mới là khéo thấy. Cho nên ở đây Ngài xem xét tâm chúng sanh đó mới dắt dìu, chẳng liền vì chúng vội nói "nhứt thiết chủng trí", bởi vì sao mà Ngài không vội nói? Bởi vì đây là xét theo "tâm ưa muốn" của chúng sanh nên không vội nói. Còn ưa muốn là sao? Còn ưa muốn là còn muốn chạy chứ chưa chịu dừng, bây giờ mà chỉ ra chỗ này nó không chịu nhận đâu, chỉ sao cho nó chịu dừng trước, đối với chỗ này chỉ im lặng thôi, để người khi đến duyên tự lãnh hội. Bởi vậy, trong sử thiền Lâm Tế hỏi Ngài Hoàng Bá "Thế nào là đại ý Phật pháp" Thì Ngài Hoàng Bá chỉ đánh thôi không nói, cái đó là cái sẵn nơi Ngài Lâm Tế rồi, tại sao không chỉ cho Ngài đi mà lại đánh vậy? Bởi vì bây giờ có chỉ cũng chưa nhận được, mà phải đánh, đánh để cho nó dừng lại, dừng lại thì tự nhận liền. Do đó, qua tới Ngài Đại Ngu thì Ngài Đại Ngu chỉ nói nhẹ một câu: "Hoàng Bá, tâm lão bà hết tình với ông rồi, ông còn thấy có lỗi không lỗi" ngay đó nhận liền. Bởi từ khi Hoàng Bá đánh cho ba gậy đó thì trong đầu này nó luôn luôn ôm ấp chỗ đó, nó chú tâm chỗ đó thôi, hết chạy bậy, khiến Ngài Đại Ngu khơi nhẹ thì nhận. Đây Phật mới khen ngợi:
CHÁNH VĂN:
Ca Diếp! Các ông rất là hy hữu, có thể rõ biết đức Như Lai tuỳ cơ nghi nói pháp hay tin hay nhận. Vì sao? Vì các Đức Phật Thế Tôn tuỳ cơ nghi nói pháp khó hiểu khó biết.
GIẢNG:
Phật khen ngợi Ngài Ca Diếp, biết rõ Ngài là tuỳ cơ nghi nói pháp, nghĩa là sao? Tức là thấy đến chỗ Phật khó nói ra nên Ngài tuỳ cơ mà nói, không nói thẳng ra. Ngài Ca Diếp hiểu được chỗ đó, tức là thầm hợp được ý ngoài lời.
Là nói đông hiểu tây, còn nói đâu bám đó, nhiều khi theo chữ nghĩa thì kẹt. Chẳng hạn Phật nói vô thường thì sao? Khi Phật nói vô thường, người khéo phải thấy được ý Phật, nói vô thường không phải ở chỗ vô thường đó, mà là chỗ Phật tánh thường trụ. Hiểu được như vậy thì thấy được ý sâu của nghĩa vô thường mà Phật muốn chỉ. Chứ còn nghe nói vô thường mình chỉ dừng trên vô thường thì thấy Phật pháp thành ra bi quan, hiểu một bên đoạn diệt, hiểu gì cũng vô thường hết, thân mình vô thường, tâm vô thường, hoàn cảnh cũng vô thường, rốt cuộc làm gì, cái gì cũng vô thường cũng đều về chỗ sanh diệt hết. Đây Ngài nói vô thường đó là chỉ những cái này là cái sanh diệt mà mình lầm lẫn, để cho mình nhận ra cái chân thật bất sanh bất diệt kia, nói vô thường ý là ở chân thật kia. Đó là cái ý ngoài giáo.
CHÁNH VĂN:Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Pháp vương phá các cõi
Hiện ra trong thế gian
Theo tánh của chúng sanh
Dùng các cách nói pháp
Đức Như Lai tôn trọng
Trí huệ rất sâu xa
Lâu giữ pháp yếu này
Chẳng vội liền nói ra
Người trí nếu được nghe
Thời có thể tin hiểu
Kẻ không trí nghi hối
Thời bèn là mất hẳn.GIẢNG:
Pháp Vương chỉ cho Phật là vua trong pháp, mà vua trong pháp là nói lên ý gì? Nghĩa là Ngài tự tại trong các pháp. Tự tại là sao? Đối trong các pháp Ngài tới lui qua lại mà không ngăn ngại, không có gì ngăn chia hết. Ngài tự tại với tất cả. Phá các cõi tức ở trong chữ Hán gọi là phá hữu, đấng pháp vương phá hữu. Nghĩa là Phật ra đời Ngài phá hết các cõi, không có chỗ gì để bám, sanh diệt cũng không có chỗ để nương. Bởi vì còn có cõi là còn có chỗ để mình sanh đến, còn phá cõi là không có chỗ để mình bám, không có chỗ sanh diệt để nó nương tựa. Đó là phá mê cho chúng sanh, nhưng chúng sanh thì ngược lại là thích có cõi (gọi là thích hữu) nên luôn luôn đi trong luân hồi. Đây ngầm ý muốn nhắc mình bặt hết mọi chỗ bám, thì Phật sẽ hiện ra đời giữa thế gian này, đơn giản khỏi chạy đi tìm ở đâu hết.
Như vậy mình đọc theo chữ nghĩa thì hiểu đây là chỉ cho Đức Phật Thích Ca ra đời phá các cõi thôi, không dính dáng gì đến mình hết. Học kiểu đó thì còn mê hoài, hiểu được ý đó thì thấy rằng ở nơi mọi người đều có đủ khả năng để Phật ra đời, nhưng mình chưa chịu thôi. Do đó ở đây Phật “theo tánh của chúng sanh, dùng các cách nói pháp, Đức Như Lai tôn trọng, trí huệ rất sâu xa, lâu giữ pháp yếu này, chẳng vội liền nói ra”, bởi chúng sanh chưa thể nhận được, nên Ngài từ lâu giữ pháp yếu này, chẳng vội nói ra, đây là chỗ Phật im lặng từ lâu, im lặng từ lâu để chi? Để đợi mình đến cơ duyên mình khéo nhận. - Chờ. Người trí đó.
CHÁNH VĂN:
Ca Diếp vì cớ đó
Theo sức chúng nói pháp
Dùng các món nhơn duyên
Cho chúng đặng chánh kiến
GIẢNG:
Vì mọi người căn cơ chưa đều, cho nên tuỳ theo sức của chúng mới dùng các thứ nhân duyên, tức nói những phương tiện sai biệt, đáng lý thì chỉ thẳng cái đó thôi, nhưng bây giờ không chỉ thẳng được, nó chưa chịu nhận, phải nói vòng vòng. Như vậy muốn ngầm nhắc mình cái gì? Nhắc mình phải thấy qua cái vòng vòng đó. Vậy thì ngay cái bình đẳng không sai biệt đó, đáng lẽ Ngài chỉ thẳng ra, nhưng bây giờ không thể nói được, phải ẩn nó đi mà nói những cái sai biệt, nghĩa là cái bình đẳng đó nó ngầm trong cái sai biệt này rồi, nói cái sai biệt là để chỉ cho cái bình đẳng đó, cho nên mình phải thấy qua cái vòng vòng đó, mà chỗ đó là chỗ để dành cho mỗi người.
CHÁNH VĂN:Ca Diếp ông nên biết
Thí như vầng mây lớn
Nổi lên trong thế gian
Che trùm khắp tất cả
Mây trí tuệ chứa nhuần
Chớp nhoáng sáng chói loà
Tiếng sấm xa vang động
Khiến mọi loài vui đẹp
Nhựt quang bị che khuất
Trên mặt đất mát mẻ
Mây mù xa bủa gần
Dường có thể nắm tới
GIẢNG:
Đây nói vừng mây lớn che khắp thế gian, cũng như mây trí tuệ nó chứa nhuần hết, chớp nhoáng chói loà, tiếng sấm vang động, khiến cho mọi loài đều vui đẹp, ánh mặt trời đều che khuất, mây mù bủa gần gần, như sát bên mình vậy, nhưng mà nắm chưa tới. Tức là nói lên cái gì? Giữa thế gian này nổi lên vừng mây lớn như vậy đó, che khắp như vậy, chớ không phải đám mây nhỏ nhỏ thôi, thì còn gọi là mờ mờ khó thấy, mà đây là vừng mây lớn, che khắp cả thế gian, tại sao không ai thấy? Đó là nói lên Pháp thân Như Lai hiện khắp hết, nhưng mà người khó thấy, tại mắt chưa mở vậy thôi. Chớp nhoáng chói loà nữa, đó là nhắc mình phải thấy nhanh, giống như chớp vậy đó, suy nghĩ thì nó qua rồi. Rồi sấm vang động cả trời đất, mà ít ai chịu tỉnh. Ở trong đây có ai nghe được tiếng sấm này chưa? Tiếng sấm đó là tiếng sấm gì? Phật từng bảo là "tất cả chúng sanh đều có Phật tánh". Chính đó là tiếng sấm vang động giống như sư tử rống vậy, nhưng ít ai được nghe, nếu nghe được tiếng đó ngay đây mở mắt rồi. Cho nên nghe được tiếng đó, khiến mọi loài đều vui đẹp, ánh mặt trời bị che khuất, như là trừ sạch hết phiền não, được mát mẻ an vui, mây mù bủa gần, dường có thể nắm tới, tức là nó sát sát bên mình đó, nhưng mà nắm thì nắm không được.CHÁNH VĂN:
Trận mưa đó khắp cùng
Bốn phương đều xối xuống
Dòng nước tuôn vô lượng
Cõi đất đều rút đầy
Nơi núi sông hang hiểm
Chỗ rậm rợp sanh ra
Những cây cối cỏ thuốc
Các thứ cây lớn nhỏ
Trăm giống lúa mộng mạ
Các thứ mía cùng nho
Nhờ nước mưa đượm nhuần
Thảy đều tươi tốt cả
GIẢNG:Tức mưa đó nó rưới xuống khắp hết, cõi đất đều rút đầy, núi sông, hang hiểm, chỗ cây rậm rợp đó, thảy đều được đượm nhuần hết. Đó là nói lên pháp đó là một vị, mọi loài đều có thấm đủ hết, chỉ là mình chẳng tự biết thôi. Quí vị đây ai cũng đều thấm đủ nước mưa đó hết, chỉ có điều là chẳng tự biết thôi. Quí vị thấy có ai ngồi đây mà không có biết? Không có biết chắc là khúc cây rồi, ai ngồi đây cũng có biết hết, nhưng tại sao không giác? Có biết mà tại sao không giác? Vậy là chịu luân hồi thôi.
CHÁNH VĂN:
Đất khô khắp được rưới
Thuốc cây đều sum suê
Vừng mây kia mưa xuống
Nước mưa thuần một vị
Mà cỏ cây lùm rừng
Theo mỗi thứ đượm nhuần
Tất cả các giống cây
Hạng thượng trung cùng hạ
Xứng theo tánh lớn nhỏ
Đều đặng sanh trưởng cả
GIẢNG:Ở đây nói đất khô được rưới, cây thuốc đều sum suê. Mỗi loài cỏ cây lùm rừng, mỗi hạng thượng trung hạ, đều xứng theo tánh của nó, đều được sanh trưởng. Đất khô đó chỉ cho đất chưa gặp Phật pháp. Nó khô nhưng mà nó cũng được rưới tới, không bỏ sót, mọi loài thượng trung hạ gì cũng được thấm nhuần, đây quí vị có được thấm nhuần chút nào chưa? Chắc là cũng thấm nhuần ít nhiều rồi phải không?
CHÁNH VĂN:Gốc thân nhánh và lá
Trổ bông trái sắc vàng
Một trận mưa rưới đến
Cây cỏ đều thấm ướt
Theo thể tướng của nó
Tánh loại chia lớn nhỏ
Nước đượm nhuần vẫn một
Mà đều được sum suê.GIẢNG:
Tất cả từ gốc cây, thấm từ gốc tới lá đều thấm đủ hết, quí vị kiểm lại toàn thân mình có chỗ nào thiếu không? Đụng tới chỗ nào nó biết chỗ đó, có thiếu chỗ nào. Rõ ràng như vậy, nhưng lại không nhận, nếu nhận là có ngay. Tức là ai cũng được độ hết, không ai bị bỏ sót, nhưng trong đó hoặc đã trổ hoa, hoặc chưa trổ, cũng như những vị hồi xưa trực tiếp ở trong Hội Pháp Hoa này, bây giờ chắc là trổ hoa kết trái hết rồi. Còn mình lúc đó đang ở đâu, có khi là con kiến, con trùng gì đó, nghe lỏm cũng có, cho nên bữa nay ngồi đây nghe lại. Vậy là không trực tiếp được Phật độ như ngày xưa, mà gián tiếp được Phật độ rồi, bây giờ đợi trổ hoa thôi.CHÁNH VĂN:
Đức Phật cũng như thế
Hiện ra nơi trong đời
Ví như vừng mây lớn
Che trùm khắp tất cả
GIẢNG:
Đây thí dụ đức Phật hiện ra đời như vầng mây lớn là niềm vui lớn cho tất cả. Cũng như pháp thân có ở thế gian, đó coi như đặc ân của mọi người. Bởi vì thế gian này còn có được pháp thân bất sanh bất diệt, chính nhờ cái đó mình mới thấy cuộc đời chúng sanh của mình còn có hy vọng, còn có chỗ để vượt lên.
CHÁNH VĂN:Đã hiện ra trong đời
Bèn vì các chúng sanh
Phân biệt diễn nói bày
Nghĩa thật của các pháp
Đấng Đại Thánh Thế Tôn
Ở trong hàng trời người
Nơi tất cả chúng hộiMà tuyên nói lời này :
Ta là bậc Như Lai
Là đấng Lưỡng Túc Tôn
Hiện ra nơi trong đời
Dường như vầng mây lớn
Thấm nhuần khắp tất cả
Những chúng sanh khô khao
Đều làm cho lìa khổ
Đặng an ổn vui sướng
Hưởng sự vui thế gian
Cùng sự vui Niết bàn
GIẢNG:
Đây Phật nói Ngài hiện ra đời đó vì chúng sanh diễn bày các pháp, Ngài như đấng Đại Thánh Thế Tôn, ở trong hàng trời người, giữa đại chúng đó tuyên nói: "Ta là Như Lai", lời tuyên bố đó giữa mọi người la to, đây la to chớ không phải la nhỏ nhỏ, la to cho mọi người biết là có "Phật ra đời". Vậy mà còn chưa chịu nhận nữa, chưa chịu nghe nữa, tức có việc lớn này rồi. Như vậy đây là việc của chung tất cả, chớ không phải giấu giếm ai, nên Ngài la giữa đại chúng, Ngài tuyên bố Phật ra đời cũng như vầng mây lớn thấm nhuần cho tất cả, chúng sanh nào khô khao đều nhờ đó liền lìa được khổ, hưởng vui Niết bàn. Tức là chính chỗ đó là chỗ cứu khổ, chỗ cho vui, là chỗ mình khéo phải trở về, còn bỏ chỗ đó dù cho có cái vui gì cũng là vui hư dối, tạm bợ thôi, lên cõi trời chưa hẳn là vui thật. Mình ở đây tưởng lên trời vui lắm, nhưng sự thật nếu lên cõi trời chưa chắc vui. Phật nói cõi trời đến lúc gần chết, các vị đó thấy tướng suy như trong mình có mồ hôi, mão hoa trên đầu héo, biết đó sắp chết, các ngài khổ sở trăm bề, khổ còn hơn mình nữa. Mình đây thấy chết quen rồi, còn trên đó, lâu lâu mới thấy chết, cho nên thấy chết là hoảng sợ, còn khổ gấp mấy lần nữa.CHÁNH VĂN:
Các chúng trời người này
Một lòng khéo lóng nghe
Đều nên đến cả đây
Ra mắt đấng Vô thượng
GIẢNG:
Đây Phật kêu gọi cả trời người: Khéo lóng nghe, khéo đến đây để ra mắt đấng Vô thượng, tức là ra mắt đấng Như Lai đó, thì quí vị chịu ra mắt chưa? Kêu tới, kêu lui, kêu thức tỉnh trở về, tiếng đó bây giờ còn vang văng vẳng đây, mà cũng chưa chịu trở về nữa, mới thấy cái mê của mình nhiều đời! Người nghe theo chữ nghĩa tưởng tiếng kêu đó là tiếng Phật nó vang trong trẻo, nhưng sự thật tiếng kêu đó ở bên mình, tiếng gió thổi, tiếng chim kêu, tiếng đó nó đang gọi mình về chớ không đâu khác, mình không nghe thôi. Tiếng gió thổi mình chỉ nghe tiếng gió, nên không nghe được tiếng Như Lai. Các ngài tham thiền, tâm yên lặng thanh tịnh, nghe tiếng gió hay là tiếng động v.v… như nghe ông hương đăng làm rơi hộp nhang, cũng thấy Như Lai trong đó, thì như vậy tiếng nào cũng là tiếng Như Lai kêu về. Có vị thiền sư đọc kinh Pháp Hoa này đến đoạn:Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Nghi hoài, nghi hoài. Một hôm mùa xuân đến, ông ngồi ngó ra ngoài, thấy hoa nở, nghe tiếng chim hoàng oanh hót trên cành, ông bèn ngộ. Ông tiếp thêm hai câu:Chư pháp tùng bổn lai
Thường tự tịch diệt tướng
Xuân đáo bách hoa khai
Hoàng oanh đề liễu thượng
Nghĩa là :Các pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường tự vắng lặng, nhưng xuân đến trăm hoa nở, chim hoàng oanh hót trên cành.
Các tướng thường tự vắng lặng đó là chỉ cho thể vắng lặng bất sanh bất diệt, thể đó không hình không tướng, nhưng gặp duyên liền hiện, cho nên mùa xuân đến thì hoa nở, chim hoàng oanh hót. Cũng vậy, pháp thân bất sanh bất diệt đó nó có tướng gì đâu, nó lặng lẽ đó, thì ai mà thấy được nó, nhưng người khéo thì sao? Nghe tiếng chim kêu nó liền hiện ngay đó, tiếng gió thổi qua nghe mát thì cũng là nó hiện đó! Những tiếng này nó còn vang văng vẳng ngay quanh mình hằng ngày không chỗ nào thiếu hết, chỉ là mình không chịu nghe trở lại, mà thích nghe theo tiếng, theo âm thanh để quên mất chính mình, trong kinh Kim Cang gọi là:
Nếu lấy sắc thấy ta
Lấy âm thanh cầu ta
Người ấy theo đường tà
Không thể thấy Như Lai.
CHÁNH VĂN:Ta là đấng Thế Tôn
Không có ai bằng được
Muốn an ổn chúng sanh
Nên hiện ra trong đời
Vì các đại chúng nói
Pháp cam lồ trong sạch
Pháp đó thuần một vị
Giải thoát Niết bàn thôi
GIẢNG:
Ở đây Phật nói rằng:Ta là đấng Thế Tôn
Không có ai bằng được
Quí vị đọc như vậy có nghi không? Thường trong nhà Phật tu phải đạt đến vô ngã, ở đây Phật nói ta là Thế Tôn, ta là trên hết trong đời thì ngã to không? Nhiều người đọc tới đây không hiểu nỗi, rồi nghi ngờ Phật mâu thuẫn nói là vô ngã nhưng lại nói ta là trên hết. Đây mình phải thấy "cái gì là Thế Tôn" mới được? Phải thấy điều đó, chớ không phải nghe rồi chấp theo chữ nghĩa.Mình thường nói ta, ta là chỉ cho cái gì? Mình nói ta là chỉ cho cái thân này, mà cái này trên hết thì sao? Thì đi vào sanh tử dài dài, còn Phật nói ta là Thế Tôn đó, phải thấy cái ta đó là ta gì? Ta đó là Như Lai, là tự tánh, chớ không phải cái ta cao lớn, mập ốm, xấu đẹp này. Thấy được chỗ Như Lai chân thật đó thì không ai bằng được, không ai so sánh được. Còn cái ta này nhiều người so sánh được dễ dàng.
Vậy Ngài muốn an ổn chúng sanh nên hiện ra nơi đời, mới vì chúng sanh nói pháp, thì pháp đó gọi là pháp cam lồ. Cam lồ là một thí dụ, chỉ cho những hạt sương trời, pháp Phật ví như vị cam lồ, tức là nó trong mát thuần một vị, vị đó là vị giải thoát, vị Niết bàn. Như vậy pháp đó là pháp ở đâu? Nhiều người nghe đây thì trông đợi Phật ra đời để nói pháp cam lồ đó cho mình nghe. Nhưng sự thật pháp đó không rời mình, mà ở ngay nơi mình. Tức là phải quên cái niệm phân biệt kia đây, phải quấy, tốt xấu đó, quên được niệm đó thì thấy pháp thuần một vị này. Còn nhớ những niệm đó thôi, thì thấy pháp có sai khác, có cao thấp, làm sao thấy pháp thuần một vị được, vì tâm có cao thấp rồi. Cho nên tâm mà không cao thấp mới thấy thuần một vị này, thì pháp đó mới giải thoát Niết bàn, nó ở ngay nơi tâm.
CHÁNH VĂN:
Dùng một giọng tiếng mầu
Diễn xướng nghĩa nhiệm này
Đều thường vì đại thừa
Mà kết làm nhơn duyên
GIẢNG:
Phật dùng tiếng mầu nhiệm diễn lên nghĩa nhiệm mầu này, vì đại thừa thôi, khiến cho mọi người kết làm nhân duyên với đại thừa. Nghĩa là ở đây Phật chỉ khiến cho mọi người kết nhân duyên với đại thừa, thẳng về chỗ giác ngộ vô thượng, chớ không gì khác. Nếu có nói ra các phương tiện này, phương tiện kia cũng đều đưa người vào chỗ giác ngộ đó. Nhưng sở dĩ có lúc Phật chưa nói thẳng chỗ này, là bởi vì chưa thể nói được, cho nên phải phương tiện ví dụ dạy người bỏ dữ làm lành. Đó là phương tiện đưa mình từ từ về đây để không đi vào con đường ác. Những người này nếu nói thẳng thì họ chưa tin, thì thôi dạy bỏ ác làm lành trước để căn nó thuần thục rồi tiến lên từ từ. Nếu người nào căn sáng mạnh, niềm tin vững thì chỉ thẳng ngay chỗ này tin liền. Nhưng ở đây quí vị nghe Phật dùng tiếng mầu mà diễn xướng nghĩa sâu xa này. Tiếng mầu đó là tiếng mầu nào? Ai nghe được giọng tiếng mầu đó? Cái giọng tiếng mầu đó trong sách có không? Có ghi lại được giọng đó không? Giọng tiếng mầu đó nghe ở đâu? Chỗ nào nghe cũng được hết, phải nghe trở lại thay vì nghe ra. Mình nghe trở lại thì thấy được giọng tiếng mầu của Phật. Chỗ này không tìm trong kinh điển, trong sách vở mà có được.CHÁNH VĂN:
Ta xem tất cả chúng
Khắp đều bình đẳng cả
Không có lòng bỉ thử
Cùng với tâm yêu ghét
Ta không chút tham đắm
Cũng không có hạn ngại
Hằng vì tất cả chúng
Mà bình đẳng nói pháp
Như khi vì một người
Lúc chúng đông cũng vậy
Thường diễn nói pháp luôn
GIẢNG:
Lúc vì một người, lúc đông người cũng bình đẳng nói hết. Còn tâm kia đây, vì người này không vì người kia, hoặc là khi đông hứng nói thẳng đó, một người thì chán không nói. Mà đây là Phật chỉ một tâm bình đẳng thôi. Tại vì sao? Vì Ngài coi tất cả chúng sanh đều bình đẳng hết. Đối với Ngài ai cũng đều có Phật tánh. Trên cái tướng, cái nghiệp thì có sai biệt, nhưng Phật tánh ai cũng đủ hết, đó là chỗ bình đẳng với tất cả. Cho nên Phật thì không ngăn chia, chia người này với người kia. Phật không ngăn người đến, chỉ người chưa kịp tin đến thôi chớ không phải Phật ngăn. Ai không cho mình giác? Ai bắt mình mê? Chính mình chớ không ai khác hết, đâu có ai chen vào trong đó. Phật đâu có ngăn không cho mình giác, hay vị tình người kia cho giác còn người này không cho. Đâu có chuyện đó, mà Phật thì bình đẳng nói pháp, nhưng do cái duyên của mình chưa tới, nên nghe mà chưa giác được. Còn Ngài thì:
CHÁNH VĂN:Thường diễn nói pháp luôn
Từng không việc gì khác
Ngồi, đứng hoặc đến, đi
Trọn không hề nhàm mỏi
Đầy đủ cho thế gian
Như mưa khắp thấm nhuần
Sang hèn cùng thượng hạ
Giữ giới hay phá giới
Oai nghi được đầy đủ
Và chẳng được đầy đủ
Người chánh kiến, tà kiến
Kẻ độn căn, lợi căn
Khắp rưới cho mưa pháp
Mà không chút nhàm mỏi
GIẢNG:Thường diễn nói pháp luôn
Từng không việc gì khác
Ngồi, đứng hoặc đến, đi
Trọn không hề nhàm mỏi.
Ai nói pháp được kiểu đó? Quí vị nghe có nghi không? Ngồi, đứng hoặc đến đi đều nói pháp hết, suốt ngày nói lãi nhãi vậy sao? Nói hoài không nghỉ sao? Đọc kinh thấy Phật có khi nào nghỉ không? Có lúc nghỉ ăn cơm chớ. Ở đây Ngài nói luôn thì sao? Thành ra phải thấy được ý "cái gì thường nói pháp luôn". Phật Thích Ca hiện ra đời đó thì gọi là Phật ứng thân, Phật đó có lúc nói, có lúc nghỉ. Như nghỉ ăn cơm, thì Phật đó không thể nói luôn và lúc nào cũng nói được. Vì có mang thân này nên làm gì cũng phải có lúc nghỉ thôi. Còn Phật nói pháp luôn là chỉ cho "Phật pháp thân", Phật đó không nói bằng lời vậy nên lúc nào cũng nói được, chớ còn có mở miệng nói là thế nào cũng phải có im. Có nói, có im lặng là thuộc về sanh diệt, cho nên Phật đó cũng có nhập Niết bàn. Còn Phật này là Phật thường trụ nên nói hoài không nghỉ. Với Phật pháp thân này thì giơ tay, múa chân, nhướng mày, chớp mắt cũng đều là pháp hết, nếu ai nhanh mắt thì ngay chỗ Phật giơ tay đó cũng giác ngộ được. Giơ tay thì cái gì giơ? Cái gì mà biết nhướng mày, chớp mắt? Chỉ là tánh giác, tánh giác đó hiện đủ mọi nơi, trong mọi cử chỉ, mọi hành động, nên lúc nào cũng nói pháp hết là vậy.Như vậy với Phật pháp thân này, Phật đó nói pháp đâu có phân biệt sang hèn, thượng hạ gì, vì ai cũng đều có đủ, ai thấy đến chỗ đó thì ngộ hết. Cho nên người giữ giới hay phá giới, oai nghi đầy đủ hay chẳng đầy đủ, cũng như người chánh kiến tà kiến, kẻ độn căn lợi căn gì, cũng đều được nghe chỗ đó hết. Nếu khéo thì nhận được, nên Phật đó không có phân biệt kẻ độn căn, lợi căn, bất cứ hạng người nào cũng đủ Phật pháp thân đó. Đây nhằm chỉ tánh giác luôn hiển bày trong mọi hành động của mình, mọi chỗ mọi nơi không có lúc nào thiếu. Vì vậy Huyết Mạch Luận có một đoạn giải thích:
- Phật là tiếng Ấn Độ, Trung Hoa gọi là giác tánh. Giác tánh là gì? Tức là linh giác, cái linh giác đó nó ứng cơ, tiếp vật, nhướng mày chớp mắt, giơ tay động chân, đều là tánh linh giác.
Đây nói Phật là một danh từ. Phật là giác, giác ở đây là tánh linh giác chớ không có gì khác. Mà tánh linh giác đó ở đâu? Nó không có trong chữ nghĩa, không có trong danh từ, tìm trong đó không ra. Mà tánh giác là phải ở ngay nơi mình, tánh linh giác đó ứng cơ tiếp vật, nhướng mày chớp mắt, đưa tay động chân đều là nó hiện hết. Nhưng bây giờ tại sao mình không thấy được nó? Mình giơ tay động chân đều tánh chúng sanh hết? Bởi vì sống với tâm niệm chúng sanh lâu ngày quen rồi. Trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn nói rằng:
- Với Phật, Ngài vừa ấn ngón chân một cái thì cả đại địa phát hào quang, còn chúng sanh các ông vừa động niệm thì trần lao khởi trước.
Bởi vậy, mình sống với tâm chúng sanh quen rồi, mình vừa khởi niệm là niệm gì? Vừa khởi là niệm ta - người, phải - quấy, tốt - xấu, khởi lên thì nhớ những thứ đó. Còn Phật Ngài sống với tánh giác thanh tịnh hoàn toàn rồi, cho nên làm gì, nghĩ gì, hay là động cái gì, đều là sáng suốt hết, đều là thanh tịnh hết. Do đó ấn ngón chân thì phát hào quang, đều sáng suốt thanh tịnh. Còn mình vừa động đậy thì khởi trần lao liền.
Hiểu như vậy thì quí vị thấy tánh linh giác có sẵn nơi mình, nghĩa là nó hiện đầy đủ trong mọi chỗ mọi nơi, mọi hành động, nhưng vì mình sống với tâm niệm chúng sanh quen rồi, nên động thì nhớ đến những cái trần lao này, mà không nhớ đến tánh linh giác đó. Do đó phải thiền định để cho nó bớt trần lao đó, cho nó lặng hết. Như nước quậy đục quá phải cho nó lắng xuống bớt thì mới nhớ, mới rõ được tánh linh giác này.
Nhận rõ được chỗ này rồi thì mới thấy ai ai cũng đều đầy đủ, nên không phân biệt chánh kiến hay tà kiến, độn căn hay lợi căn, đều có đủ tánh giác đó.
CHÁNH VĂN:
Tất cả hàng chúng sanh
Được nghe pháp của ta
Tùy sức mình lãnh lấy
Trụ ở nơi các bậc
Hoặc là ở trời người
Làm Chuyển Luân Thánh vương
Trời, Thích, Phạm các Vua
Đó là cỏ thuốc nhỏ
GIẢNG:
Đây là hợp pháp nói về cỏ thuốc, cỏ thuốc nhỏ, cỏ thuốc bậc trung, cỏ thuốc bậc thượng. Rồi thêm cây có cây nhỏ, cây lớn. Đây nói cỏ thuốc nhỏ là sao? Tức là chúng sanh nghe pháp này tùy sức mà lãnh lấy, hoặc là trụ ở các bậc Trời, Người, Chuyển luân Thánh vương, các Vua thì đó là cỏ thuốc nhỏ. Sao gọi là cỏ thuốc nhỏ? Bởi vì nhỏ là chỉ cho trị bệnh tạm thời, an vui chút thôi, còn phải tiến lên nữa. Nghe pháp Phật thì cũng thích vậy, nhưng nói đến giải thoát thì chưa chịu. Tu để cầu đời sau hoặc là sống lâu, hoặc là hưởng phước, hoặc là sanh cõi trời, cho đó là được rồi. Đây là cỏ thuốc trị bệnh không đi vào đường ác, nhưng mà còn sanh diệt để hưởng, nó cũng tạm an vậy thôi, chớ chưa phải thuốc trị bệnh nặng là bệnh sanh tử.
CHÁNH VĂN:Hoặc rõ pháp vô lậu
Hay chứng đặng Niết bàn
Khởi sáu pháp thần thông
Và đặng ba món minh.
Ở riêng trong núi rừng
Thường hành môn thiền định
Chứng đặng bậc Duyên giác
Là cỏ thuốc bậc trung.
GIẢNG:
Bậc trung ở đây trị bệnh qua sanh tử, rõ được pháp vô lậu. Tức là ngộ được lý vô ngã nơi mình. Ngộ được lý đó và chứng được chỗ đó thì giải thoát không rơi vào sanh tử. Lậu là chỉ cho rớt, lọt. Vô lậu là không còn rớt, không còn lọt trở lại sanh tử nữa, cho nên mới hay chứng Niết bàn, khởi sáu pháp thần thông, và đặng ba món minh, đó là chỉ cho hàng Thanh văn chứng A La Hán.Ở riêng trong núi rừng
Thường hành môn thiền định
Chứng đặng bậc Duyên giác
Là cỏ thuốc bậc trung
Đây gọi là bậc Duyên giác. Duyên giác là ưa ở vắng lặng một mình trong núi rừng, cầu trí huệ tự nhiên, rõ sâu được pháp nhân duyên, giải thoát được sanh tử. Như vậy hai bậc này coi như dứt được kiến hoặc và tư hoặc, hai cái chấp mê lầm về cái kiến và tư, nên giải thoát được sanh tử. Đó là một cái bệnh nặng, cho nên gọi là cỏ thuốc bậc trung mà chưa dứt được trần sa hoặc, vô minh hoặc. Gọi là tự mình thì giải thoát được, còn độ chúng sanh thì chưa dám phát tâm mạnh, vì thấy chúng sanh nhiều quá. Đây gọi là trần sa hoặc, là cái mê lầm nhiều như cát bụi.Còn vô minh hoặc là sao? Là một niệm bất giác ban đầu, mê mất chân mà vọng khởi ra tất cả chúng sanh, thế giới, đi vào cuộc luân hồi, triền miên sanh tử.
CHÁNH VĂN:
Hoặc cầu bậc Thế Tôn
Ta sẽ đặng thành Phật
Tu hành tinh tấn định
Là cỏ thuốc bậc thượng
GIẢNG:
Đây là cầu thành Phật tức cầu bậc Thế Tôn, ta sẽ được thành Phật. Do đó mà tu hành tinh tấn thiền định để dứt trần sa hoặc đến chỗ bất thối, không còn lui sụt trở lại nữa. Như vậy gọi là cỏ thuốc bậc thượng tức là trị được bệnh nặng lâu dài. Đó là nói về cỏ thuốc, giờ đây nói cây.
CHÁNH VĂN:Lại có hàng Phật tử
Chuyên tâm nơi Phật đạo
Thường thật hành từ bi
Tự biết mình làm Phật
Quyết định không còn nghi
Gọi đó là cây nhỏ
GIẢNG:
Kia là cỏ thuốc, đây là cây. Cây nhỏ tức là người Phật tử chuyên tâm nơi Phật đạo, biết rõ ràng không nghi ngờ, rõ sâu được lý thật, không ở nơi các thừa tức là không kẹt nơi thứ lớp còn thừa này thừa kia. Đây chỉ chuyên tâm nơi Phật đạo, thẳng đến thành Phật thôi, nhưng chỉ mình tự biết thành Phật tâm cũng còn giới hạn, do đó gọi là cây nhỏ. Cây nhỏ che mát nhưng che mát một khoảng nhỏ, chớ chưa che mát rộng lớn.
CHÁNH VĂN:Hoặc an trụ thần thông
Chuyển bất thối pháp luân
Độ vô lượng muôn ức
Trăm ngàn loài chúng sanh
Bồ tát hạng như thế
Gọi đó là cây lớn
GIẢNG:
Đây mới gọi là cây lớn, ở kia tự biết mình thành Phật nhưng chưa có độ vô lượng chúng sanh, còn đây chuyển pháp luân bất thối, độ vô lượng muôn ức trăm ngàn loài chúng sanh, độ chúng sanh nhiều vô kể. Vậy mới là hàng Bồ tát lớn, tức hạng Bồ tátø vô công dụng đạo, Ngài có diệu dụng vô ngại, tâm không còn hạn lượng, không còn tâm lui sụt, dù độ chúng sanh nhiều vẫn không chán. Người tâm còn giới hạn độ một lúc thấy không hết nên chán đó là tâm còn nhỏ, có độ mà nhỏ nên gọi là cây nhỏ. Đây độ vô lượng chúng sanh không thối chuyển nên gọi là cây to, nó che mát được rộng lớn.
CHÁNH VĂN:Phật chỉ bình đẳng nói
Như nước mưa một vị
Theo căn tánh chúng sanh
Mà hưởng thọ không đồng
Như những cây cỏ kia
Được đượm nhuần đều khác
GIẢNG:
Đây nói rõ lại, Phật bình đẳng nói pháp như nước mưa một vị, nhưng tùy theo căn tánh chúng sanh mà hấp thụ không đồng, chớ không phải pháp Phật phân chia cho người này mà không cho người kia. Và cũng để chỉ cho pháp thể chân thật đó không hai, nhưng tùy theo người hiểu có sai khác, có sai khác đó là tuỳ theo người. Nếu chúng ta nghe được và thấy được chỗ bình đẳng đó là quên được niệm phân biệt, lìa tâm phân biệt là thấy thể không hai đó, thấu được thể không hai đó là thầm hợp với Phật. Như vậy là thấy đồng một vị thôi, mà vị đó là vị gì? Đó là đồng thể giác thôi, chớ không gì khác. Chỉ đồng thể giác đó thôi nhưng mỗi người lãnh nhận có cạn, có sâu cho nên không đồng. Không phải là thể giác có phân chia nó cho người này ngộ, không cho người kia ngộ. Thể giác thì vẫn đồng, nhưng do mình căn cơ có cạn, có sâu, nên nhận có sai biệt. Nếu mình phá được niệm phân biệt đó liền thấy rõ một thể giác như nhau. Bởi vậy các vị Tổ khi các Ngài giác ngộ được chỗ đó rồi các Ngài thầm cảm được chỗ thấy của đức Phật luôn. Trong nhà thiền có câu "Cùng nắm tay Phật, Tổ đồng đi, cùng thấy được chỗ đồng thấy của Phật". Thấy là thấy đồng, còn sống như Phật thì chưa. Nhưng thấy được chỗ thấy đồng với Phật, như vậy mới là thấy được triệt ngộ. Vậy thì người nói ngộ này ngộ kia, mà còn chỗ thấy có Phật, có Tổ cách biệt, thì biết đó là chưa triệt rồi.
CHÁNH VĂN:
Phật dùng món thí dụ này
Để phương tiện chỉ bày
Các thứ lời lẽ hay
Đều diễn nói một pháp
Ở nơi trí huệ Phật
Như một giọt trong biển
Ta rưới trận mưa pháp
Đầy đủ khắp thế gian
Pháp mầu thuần một vị
Tùy sức riêng tu hành
Như thể lùm rừng kia
Và cỏ thuốc những cây
Tùy giống lớn hay nhỏ
Lần lần thêm sum sê
GIẢNG:
Phật kết lại dùng món thí dụ này, dùng cỏ thuốc đó là chỉ cho phương tiện Ngài chỉ bày, hoặc dùng lời lẽ này, lẽ kia đều để diễn bày pháp chân thật đó thôi. Ở nơi trí huệ Phật giống như giọt nước trong biển, nước vẫn là một vị thôi, bao nhiêu những lời lẽ phương tiện của Phật nói ra đó đều nhắm về một thể giác chớ không có gì khác. Mình biết như vậy chớ kẹt trên lời nói phương tiện. Thí dụ Phật nói chúng sanh có người căn cơ chậm lụt, có người căn cơ lanh lợi, hoặc có người căn cơ tiểu thừa, có người căn cơ đại thừa, thì sao? Phật nói như vậy phải biết rằng đó là phương tiện Phật dùng để sách tấn mọi người. Ví như mình căn cơ còn chậm thì cố tiến lên, chớ không phải chấp vào lời Phật nói đó, nếu chấp thì mình thuộc về hạng chậm lụt rồi. Nếu chấp mình sẽ nghĩ là tu biết bao giờ cho thành Phật, thôi tu chơi chơi được rồi, đó là mắc kẹt trên lời lẽ phương tiện của Phật . Phật nói ở đây chỉ là phương tiện thôi, chớ không phải thật có căn cơ chậm lụt hay có mau, mà ai ai cũng đều có thể giác hết, Phật nhắm thẳng vào thể giác đó. Vậy cho nên mọi người phải quên lời nói phương tiện đó để nhận thể giác chân thậtù, mới là hợp được ý Phật. Như trận mưa pháp đầy đủ cho thế gian thấm nhuần, pháp đó đều một vị, tất cả đều từ một thể giác đó thấm nhuần rồi được vững mạnh lên, tức là chuyển mê thành giác, mà ở đây nói là:Như thể lùm rừng kia
Và cỏ thuốc những cây
Tùy giống lớn hay nhỏ
Lần lần thêm sum sê
Tức là nghe được chỗ đó rồi, từ chỗ giác đó từ từ thấm nhuần rồi vững mạnh tiến lên, đều được tươi tốt sum suê hết.
CHÁNH VĂN:
Pháp của các Đức Phật
Thường dùng thuần một vị
Khiến cho các thế gian
Đều khắp đặng đầy đủ
Lần lựa siêng tu hành
Rồi đều đặng đạo quả
GIẢNG:
Ngài nói pháp khiến cho thế gian người người đều đặng đầy đủ hết, lần lựa tu hành siêng năng cũng đều đặng đạo quả. Pháp Phật đều chỉ cho một lý thật đó là lý thật giác ngộ cho thế gian, chớ không gì khác. Vì vậy ai hiểu rõ tu hành chân chánh thì đều đặng chứng nghiệm, đều đặng có lợi ích thiết thực, chứ không phải chỉ là danh từ suông, lý thuyết suông không thể chứng nghiệm được. Ở đây là từ chỗ tâm chứng Phật nói ra, cho nên ứng dụng đúng đắn thì đều có thể chứng nghiệm hết. Vậy ai thấy được ý gọi là pháp thuần một vị đó chưa? Một vị đó chỉ cho một vị chân thật giác ngộ thôi, một thể giác thôi chớ không gì khác. Đó là lẽ thật muôn đời, lẽ thật đó không ai phá hoại được. Cho dù có dùng mọi cách để phá hoại thì cũng không phá hoại được lẽ thật đó. Dù mình tin hay không tin thì nó vẫn có, chớ không phải mình không tin nó không có. Cho nên đó gọi là lẽ thật muôn đời là vậy.
CHÁNH VĂN:
Hàng Thanh văn Duyên giác
Ở nơi chốn núi rừng
Trụ thân hình rốt sau
Nghe Phật pháp đặng quả
Đó gọi là cỏ thuốc
Đều đặng thêm lớn tốt
GIẢNG:
Ở đây cỏ thuốc thêm lớn tốt nữa thì sao? Tức là hàng Thanh văn, Duyên giác nghe pháp rồi đặng quả, hiện đời đây chứng được Niết bàn đó, việc làm mình xong không còn thọ thân sau nữa. Nhưng như vậy chưa đủ, tức còn chuyển lên Đại thừa, chuyển tiếp tiến lên Phật thừa. Cho nên đây mới gọi là cỏ thuốc mà nó được thêm lớn tốt, chớ không dừng ở chỗ Niết bàn Thanh văn, Duyên Giác đó thôi.
CHÁNH VĂN:
Nếu các vị Bồ tát
Trí huệ rất vững bền
Rõ suốt cả ba cõi
Cầu đặng thừa tối thượng
Đó gọi là cây nhỏ
Mà đặng thêm lớn tốt
GIẢNG:
Vậy thì cây nhỏ chỉ cho Bồ tát, tự biết mình là Phật không còn nghi ngờ, không còn trở lại mê nữa. Nhưng luôn cầu thành Phật để trang nghiêm cõi Phật, chớ không chịu dừng ngay chỗ đó, gọi là cây nhỏ được lớn thêm.
CHÁNH VĂN:
Lại có vị trụ thiền
Đặng sức thần thông lớn
Nghe nói các pháp không
Lòng rất sanh vui mừng
Phóng vô số hào quang
Độ các loài chúng sanh
Đó gọi là cây lớn
Mà đặng thêm lớn tốt
GIẢNG:
Đây các vị Bồ tát lớn, lớn thêm nữa để cho thấy, tu là tiến lên hoài chớ không dừng một chỗ, nghĩa là Bồ tát đây trụ nơi sức thiền định được thần thông lớn, nên nghe các pháp không, lòng sanh rất vui mừng, phóng vô số hào quang độ các loài chúng sanh. Nghe pháp không, không sợ, không nghi, mà từ trong đó phóng hào quang độ chúng sanh là sao? Tức là từ trong cái không đó phát khởi các diệu dụng không lường được, chớ không dừng nơi thể không. Các vị Bồ tát này không kẹt nơi có, nơi không. Các Ngài đây có chỗ sống chân thật của mình, cho nên các Ngài phát khởi những diệu dụng không thể nghĩ bàn, gọi là phóng vô số hào quang. Phóng vô số hào quang là chỉ cho những diệu dụng phát ra đó, không thể tính kể, ai cảm đến hào quang đó thì đều được độ hết.Vì vậy các vị Thiền sư, các Ngài thuyết pháp thì sao? Đâu phải lúc nào cũng thuyết pháp như mình bây giờ. Đọc sử thì quí vị thấy, thượng đường quí Ngài vỗ bàn tay xuống thì cũng xong, hoặc có khi giơ phất tử lên, hoặc có khi giơ ngón tay lên thôi. Đó gọi là phóng hào quang độ chúng sanh, ai mà cảm được hào quang đó đều thấy được Ngài, tức là dùng những cái đó đánh thức tánh giác nơi mỗi người, ai cảm được cái đó thì nhận được tánh giác là gặp được Phật. Gặp được tánh giác gọi là thấy hào quang của Bồ tát. Vậy hào quang là như vậy đó.
Nhưng người thường nghe nói Phật phóng hào quang, cứ nghĩ phóng hào quang là xanh, vàng, đỏ, trắng, thành thử khi ngồi thiền cứ mong Phật phóng hào quang tới độ thôi, như vậy lỡ ma phóng tới độ thì sao? Thì đâu biết Phật hay ma gì? Cho nên lầm hết, còn theo trong này đâu thể lầm được, ma "đâu thấy trong này". Chỉ có Bồ tát, Tổ thấy được chỗ này thôi, cho nên người cảm được chỗ này thì cảm được Phật Tổ, đó là không sợ bị gạt.
CHÁNH VĂN:
Như thế Ca Diếp này !
Đức Phật nói pháp ra
Thí như vầng mây lớn
Dùng nước mưa một vị
Đượm nhuần nơi hoa người
Đều đặng kết trái cả
GIẢNG:
Đây là Phật kết lại, kêu ngài Ca Diếp nói rằøng :Phật nói pháp như mưa, mưa xuống nơi hoa người, hoa người đó đều được đượm nhuần, nên đều được kết trái hết, thì hoa người đó là hoa người gì? Chỉ trí tuệ nơi người, người có trí tuệ cảm nhận được giòng pháp của Phật đó, thì đều sẽ được kết trái hết, đều được kết quả hết. Vậy hoa đó chỉ cho hoa giác của người, hoa giác thì không héo không tàn, còn hoa thế gian thì có héo có tàn. Hoa giác đó nó luôn luôn hiện hữu nơi người, chỉ người chưa khéo nhận thôi.
CHÁNH VĂN:
Ca Diếp ông phải biết
Ta dùng các nhơn duyên
Các món thí dụ thảy
Để chỉ bày đạo Phật
Đó là ta phương tiện
Các Đức Phật cũng thế.
GIẢNG:
Ca Diếp ông phải biết nữa, ta dùng các món nhơn duyên đó, cũng như các món thí dụ, đều là chỉ bày đạo Phật thôi. Ngài cũng nhấn mạnh trở lại, bao nhiêu những phương tiện, thí dụ đều chỉ một lẽ thật này, để chỉ cho người giác ngộ tánh giác chân thật. Chính thể giác đó tất cả mọi người đều có đủ. Mọi đạo quả mà có ra đó, cũng đều từ một thể giác này thôi. Phật nói có đạo quả này có đạo quả kia, thí dụ như Tu đà hoàn, A na hàm, A la hán, Bồ tát nhất địa, nhị địa, tam địa đó, người đọc theo danh từ chữ nghĩa thì thấy mình tu không biết bao giờ cho qua được cấp bậc đó, trong khi đó mình chưa địa nào hết, cho nên nói tu thành Phật thì khó nghĩ tới là vậy. Nhưng đây những đạo quả đó cũng là phương tiện nói ra để chỉ về một thể giác này. Quí vị kiểm lại coi thể giác hay Phật tánh này có nhất địa, nhị địa gì không? Nó có quả này quả kia sao? Đó là tạm đặt ra, để cho người còn yếu đó an lòng tu tiến, còn nghe nói tu cứ tu cho đến khi thành Phật thì thôi, nghe vậy thấy bao giờ mới thành Phật nên chán, vì vậy tạm đặt cho quả này quả kia, thấy tu có kết quả, vậy ham tiến lên, cũng giống như đi học, lâu lâu cấp cho bằng khen. Sự thật thể giác đâu có cấp bậc, chỉ cần nhận ra thể giác, sống trọn vẹn thể giác đó là xong. Tóm lại, thứ nhất là nhận ra thể giác đó là điều căn bản, sau sống trọn vẹn thể giác đó là xong, vậy thì vượt hết những cấp bậc.CHÁNH VĂN:
Nay ta vì các ông
Nói việc rất chơn thiệt
Các chúng thuộc Thanh văn
Đều chẳng phải diệt độ
Chỗ các ông tu hành
Là đạo của Bồ tát
Lần lần tu học xong
Thảy đều sẽ thành Phật.
GIẢNG:
Phật nói việc này rất chơn thiệt chớ không phải nói dối, Ngài nói Thanh văn diệt độ nhưng đó là tạm thôi, chỉ là sống trọn vẹn với cái này, thì chỗ các ông tu hành đó cũng là đạo Bồ tát, chớ không có gì khác, lần lần tu học xong thảy đều sẽ thành Phật, nhưng chỗ này quí vị chú ý."Lần lần tu học xong đều sẽ thành Phật" nghĩa là sao? Nghĩa là tại mình không chịu tu, còn chịu tu, chịu thực hành cho đến nơi rồi sẽ thành Phật hết, vậy coi như Phật thọ ký rồi!
Lần lần tu học xong
Thảy đều sẽ thành Phật
Đó là thọ ký hết rồi, vậy không ai là không có phần đó, không ai là không có phần giác ngộ, không ai mà không có phần làm Phật, chỉ không chịu tu thôi, còn nếu tu khéo, rồi lần lần tu xong đều thành Phật hết không nghi. Nhưng có điều Phật đây không phải tự nhiên mà thành, phải có tu đàng hoàng, chớ không phải chỉ nói lý suông thôi. Coi như Phật nói hết tình, phần còn lại để dành cho mỗi người.
-
7. Phẩm Thọ ký
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn nói bài kệ đó rồi, bảo đại chúng xướng lời thế này: "Ông Ma Ha Ca Diếp đệ tử của ta, ở đời vị lai phụng thờ ba trăm muôn ức các Đức Phật Thế Tôn, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen rộng nói vô lượng đại pháp của các Đức Phật, ở nơi thân rốt sau đặng thành Phật hiệu là Quang Minh Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại Trang Nghiêm, Phật thọ hai mươi tiểu kiếp. Chánh pháp trụ thế hai mươi tiểu kiếp, Tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp. Cõi nước tốt đẹp không có các thứ dơ xấu, ngói sỏi gai góc cùng đồ tiện lợi chẳng sạch. Cõi đó bằng thẳng không có cao thấp hầm hố gò nõng, đất bằng lưu ly, cây báu thẳng hàng, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, rải hoa báu khắp nơi sạch sẽ.
Bồ tát trong nước đó đông vô lượng ngàn muôn ức, các chúng Thanh văn cũng lại vô số. Không có việc ma, dầu có ma và dân ma nhưng đều hộ trì Phật pháp.
GIẢNG:
Đây là Phật thọ ký cho ngài Ma Ha Ca Diếp. Sở dĩ có phẩm này là sao? Tức là đến bốn vị đệ tử lớn của Phật đã lãnh ngộ được, tin nhận được lý chân thật là một vị. Cho nên trước nói lên thí dụ cùng tử, Phật nói lên thí dụ Dược thảo, các vị này coi như tin nhận được lý chân thật một vị đó, quên được niệm sai biệt, là mở cái tri kiến Phật sẵn nơi mình rồi, đó chính là cái nhân chân thật để thành Phật, vì vậy liền được thọ ký. Thọ ký tức là trao lời ghi nhận chắc chắn sau này sẽ thành Phật không nghi, trong nghĩa thọ ký cũng có ý sâu trong đó.
Thứ nhất, thọ ký là sao? Ở đây, người tin nhận được điều đó thì liền được thọ ký, nghĩa là cái thành Phật đó cũng là thành cái sẵn có đó thôi, chớ không phải gì khác, cho nên tin nhận thì liền được thọ ký. Khi mình nhận được điều đó thì đúng với quả chân thật giác ngộ, lý thật đó không còn sai lệch, nên liền được thọ ký, chớ không phải là đem cái gì trao cho, nhớ điều đó!
Thứ hai, thọ ký để cho thấy tuy mình chứng ngộ cái nhân sẵn có đó rồi, nhưng không phải là ngay đó thành Phật liền, mà thọ ký đây là phải trải qua cúng dường, cung kính tôn trọng, ngợi khen phụng thờ ba trăm muôn ức Đức Phật Thế Tôn sau đó mới thành Phật.
Như vậy cho thấy, tuy mình chứng ngộ cái nhân sẵn có đó rồi nhưng còn phải tiệm tu, phải sống cho được trọn vẹn, được viên mãn ở trong đó thì mới xong, chớ không phải thấy là đủ rồi. Bởi vậy đây phải trải qua nhiều kiếp thờ Phật, trang nghiêm cõi Phật mới viên mãn được quả Phật, chớ không phải nói: à cái đó sẵn có nơi tôi rồi thôi.
Đây nói thọ ký là phương tiện tùy duyên vậy thôi, chớ còn sự thật trong lý rốt ráo chỉ là dùng tâm ấn tâm, chớ không phải có cái gì khác để mà thọ ký. Tưởng nói thọ ký rồi là Phật có cái trao cho, còn mình nhận được cái gì đó nơi Phật, còn thấy có cho có nhận là sai lầm.
Trong kinh Kim Cang thấy rõ, Phật Thích Ca bảo: "Ta ở chỗ Phật Nhiên Đăng không có chút pháp để được, thì đó mới là được. Bởi vì pháp đó không thật không hư". Do đó người chứng ngộ cái đó thì thầm nhận, thầm khế hợp thôi, chớ còn người đứng bên ngoài không hiểu nổi được. Cho nên ở đây quí vị đọc thấy Phật thọ ký cho các Ngài thì tưởng đâu là chuyện của các Ngài không dính dáng gì đến mình phải không? Nhưng sự thật thì sao? Mình cũng có phần trong đó. Quí vị học Pháp Hoa mấy phẩm rồi còn nhớ ở trước Phật nói gì chưa? Ở phẩm Phương tiện, Phật nói những người xưng Nam mô Phật hoặc ở trước tượng Phật đó cúi đầu hay giơ một tay v.v... đều đã thành Phật đạo. Thì Phật thọ ký ai cũng được, ai cũng thành Phật đạo, mà đối trước tượng Phật cúi đầu cũng thành Phật đạo rồi, vậy có ai thiếu đâu. Nhưng tại vì chưa chịu nhận, nên nghe điều đó là để nhớ lại mình, chớ không phải chuyện của các Ngài thôi.
Đây Phật thọ ký cho ngài Ca Diếp, ở đời vị lai phụng thờ ba trăm muôn ức các đức Phật Thế Tôn, ba trăm muôn ức mà tính chừng bao nhiêu? Cũng hàng triệu đức Phật, mỗi đức Phật ra đời chừng bao nhiêu năm? Từ Phật Thích Ca ra đời tới Phật Di Lặc ra đời chừng bao nhiêu năm, mà ở đây còn cúng dường ba trăm muôn ức đức Phật nữa, nếu mình được thọ ký kiểu đó có vui không? Cúng dường hết các đức Phật như vậy, sau đó mới thành Phật gọi là Quang Minh Như Lai, Chánh Biến Tri, đủ mười hiệu, nước tên Quang Đức, kiếp tên Đại Trang Nghiêm. Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, cõi nước đều tốt đẹp hết. Ở trong nước đó thì Bồ tát cũng đông nhiều, chúng Thanh văn cũng vô số, không có việc ma, nếu có việc ma đi nữa cũng đều hộ trì Phật pháp.
Ngài ở giữa đại chúng xướng rõ, Ca Diếp sau này sẽ thành Phật thì đó là một ý để chỉ cho việc này là việc chân thật rõ ràng không nói giấu giếm. Phụng thờ ba trăm muôn ức đức Phật là chỉ cho thường sống trong ánh sáng của Phật, tức ánh sáng giác ngộ đó. Khi công đức viên mãn tròn đầy thì được Phật quả vậy thôi. Bây giờ nhận ra, thấy được tri kiến Phật này là Phật nhân, thường sống trong đó cho được trọn vẹn viên mãn là thành Phật quả. Nên ở đây nói phụng thờ ba trăm muôn ức Phật là luôn luôn sống trong đó, sống trọn vẹn công đức đâu tính thời gian được.
Thời gian phụng thờ số Đức Phật đó thì mỗi người có khác. Vì sao? Vì công phu mỗi người có sai khác, cái vô minh có dày mỏng không đồng, nên sống gần gũi trọn vẹn phải có sai khác, phụng thờ đức Phật nhiều hơn, ít hơn là do công phu của mỗi người. Nhưng có một điều hễ có cái chân thật này rồi thì quyết chắc sẽ thành Phật, sẽ thành tựu Phật quả không sai. Cho nên được nhân này rồi, được thọ ký là vui rồi.
Ngài Ca Diếp là Phật Quang Minh, cõi nước tên là Quang Đức, kiếp tên là Đại Trang Nghiêm, coi như đều là ánh sáng hết. Quang Minh là ánh sáng rực rỡ, Quang Đức là đức sáng nữa, Đại Trang Nghiêm cũng là tốt đẹp luôn. Đó là Ngài Ca Diếp lúc ở trong nhân tu hành Ngài có thờ Phật Nhựt Nguyệt Đăng, sau khi Phật Nhựt Nguyệt Đăng diệt độ thì Ngài dùng đèn để thắp sáng cúng dường, sau đó dùng vàng tốt để tô đắp hình tượng Phật, và ở trong đây Ngài thường rộng nói pháp Phật nữa. Tức đem ánh sáng trí tuệ đến cho mọi người, do đó khi thành Phật hiệu là Quang Minh ứng hợp với cái nhân. Quang Minh là sáng, nước tên là Quang Đức cũng là sáng, cõi nước đều là tốt đẹp bằng phẳng là bởi vì khi thành Phật thì tâm Phật trang nghiêm thanh tịnh rồi, cho nên nhìn ra cái gì cũng trang nghiêm thanh tịnh hết.
Nhưng có người nghe như vậy cũng hơi nghi. Vậy Phật Thích Ca thành Phật tâm Ngài có trang nghiêm thanh tịnh không? Bởi vậy trong kinh Duy Ma Cật, Ngài Xá Lợi Phất cũng nghi. Thành Phật thì trang nghiêm thanh tịnh nên cõi nước cũng trang nghiêm thanh tịnh theo. Nhưng tại sao cõi nước của Phật Thích Ca thấy đủ thứ nhơ nhớp, hang hố, gò nổng đầy đủ trong đó thì sao? Loa Kế Phạm Vương nói: "Đó là tại tâm ngài thấy như vậy thôi, chớ còn tôi thấy cõi nước trang nghiêm sáng ngời hết". Nói xong Phật cũng xác nhận là đúng như vậy, sau đó Phật ấn ngón chân xuống liền đó cõi Ta Bà này đều trang nghiêm tốt đẹp.
Để nói lên, tại vì tâm mình còn sai biệt, nhơ nhớp nên thấy cõi này nhơ nhớp sai biệt theo. Nếu tâm thanh tịnh thì thấy tất cả đều trong sạch thanh tịnh.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Bảo các tỳ kheo rằng
Ta dùng mắt của Phật
Thấy ông Ca Diếp này
Ở nơi đời vị lai
Qua vô số kiếp sau
Sẽ đặng thành quả Phật
Mà ở đời vị lai
Cúng dường và kính thờ
Đủ ba trăm muôn ức
Các đức Phật Thế Tôn
GIẢNG:Ở đây là Phật nói rằng, Ngài dùng mắt Phật thấy ông Ca Diếp này về sau sẽ được thành Phật. Đó là ý nhắc mình, muốn thấu được việc này phải sao? Đây Ngài nói Ngài dùng mắt Phật thấy ông Ca Diếp về sau sẽ thành Phật, việc đó rõ ràng không sai lầm, như vậy mình muốn thấu việc này thì cũng phải mở con mắt Phật sẽ thấy được việc này không nghi ngờ. Nếu dùng con mắt chúng sanh này hoặc tâm chúng sanh suy nghĩ, cũng suy nghĩ theo tâm chúng sanh của mình nên khó thấu được. Cho nên nhiều người nghe rồi suy theo tâm chúng sanh khiến cũng sai biệt theo tâm chúng sanh của mình, nên có khi nghi ngờ. Còn nếu mở được con mắt Phật sẽ thấy được việc này, tin chắc rõ ràng không nghi.
CHÁNH VĂN:Vì cầu trí huệ Phật
Mà tịnh tu phạm hạnh
Cúng dường đấng tối thượng
Nhị Túc Tôn xong rồi
Tu tập trọn tất cả
Trí huệ bậc vô thượng
Ở nơi thân rốt sau
Đặng chứng thành làm Phật
GIẢNG:Cúng dường đấng tối thượng Nhị Túc Tôn đó, Nhị Túc Tôn là sao? Nhị Túc là chỉ cho hai điều đầy đủ, đó là hai thứ trang nghiêm phước và trí. Một vị Phật phải đầy đủ hai đức phước và trí trang nghiêm mới thành vị Phật. Cho nên Phật mà còn thiếu một phần thì chưa trọn vẹn. Vì vậy người cứ chuyên trí tuệ mà thiếu phước là chưa đủ, còn lo tu phước mà không có tuệ thì cũng chưa đủ. Bởi vậy trong đệ tử của Phật có vị A La Hán, chứng A La Hán nhưng thiếu phước cho nên đi khất thực, thường ôm bát không về, bị đói hoài. Chứng A La Hán là có tuệ, nhưng thiếu phước nên ôm bát không về hoài. Có một lần Ngài Xá Lợi Phất khất thực đưa bát cho ông, tưởng đâu đưa bát đầy ông sẽ ăn được no, ngờ đâu vừa mới cầm trượt tay rớt bể đổ, thành ra không ăn được lại cũng đói tiếp. Tới ngày gần cuối, Ngài Xá Lợi Phất là thầy, Ngài muốn cho no bụng buổi cuối đó, khi đi khất thực về đưa bình bát cho ông, Ngài ngồi kế bên dùng thần thông để cho ông dùng bữa cơm cuối đó, để cho thấy rõ có tuệ mà còn thiếu phước.
Còn có phước mà thiếu tuệ thì nhiều khi cũng còn nguy. Vì có phước mà thiếu tuệ thì dễ tham đắm trong phước đó, không thấy rõ phước đó là do nghiệp của mình đã làm từ tiền kiếp mà được thôi, nhiều khi say đắm trong phước đó mà tạo tội thêm. Thí dụ như những người giàu có, vua chúa, không có phước làm sao làm được chuyện đó. Tuy có phước nhưng thiếu trí tuệ, trí tuệ này là trí tuệ trong Phật pháp, chớ không phải trí tuệ thế gian, nên ỷ vào phước này mà tạo không biết bao nhiêu tội.
Còn Phật khi thành Phật rồi thì đầy đủ cả phước và huệ. Vì vậy quí vị thấy thường vẽ Phật Thích Ca có hai vị Bồ tát ở hai bên là Bồ tát gì? Ngài Văn Thù và Ngài Phổ Hiền. Ngài Văn Thù chỉ cho trí tuệ, Phổ Hiền là chỉ cho đại hạnh, đại hạnh là phước đầy đủ. Một vị Phật phải đầy đủ có hai vị Bồ tát kề cận tức đầy đủ trí tuệ và hạnh nguyện, phước đức trọn vẹn, thiếu một bên là chưa đủ. Đây chỉ cho Lưỡng Túc Tôn là như vậy đó, cúng dường đầy đủ những bậc đó rồi, khi đến thân rốt sau thì chứng thành Phật.
CHÁNH VĂN:
Cõi đó rất thanh tịnh
Chất lưu ly làm đất
Nhiều thứ cây bằng báu
Thẳng hàng ở bên đường
Dây vàng giăng ngang đường
Người ngó thấy vui mừng
Thường thoảng ra hương thơm
Rải các thứ hoa đẹp
Các món báu kỳ diệu
Dùng để làm trang nghiêm.
Cõi đó đất bằng thẳng
Không có những gò hầm
Các hàng chúng Bồ tát
Đông không thể xưng kể
Tâm các vị hòa dịu
Đến đặng thần thông lớn
Phụng trì các kinh điển
Đại thừa của các Phật.
Các hàng chúng Thanh văn
Vô lậu thân rốt sau
Là con của Pháp vương
Cũng chẳng thể đếm hết
Phật đó sẽ sống lâu
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh pháp trụ ở đời
Đủ hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp
Đức Quang Minh Thế Tôn
Việc của Ngài như thế
GIẢNG:Đây là Phật lập lại Ngài thọ ký Ca Diếp thành Phật Quang Minh, cõi nước đều trang nghiêm thanh tịnh tốt đẹp, chất lưu ly làm đất, cây bằng báu, dây bằng vàng giăng ngang đường. Quí vị thấy như là chuyện hy hữu đây không bao giờ thấy. Đây là chỉ cho tâm thanh tịnh, mà tâm đã thanh tịnh thì thấy cái cũng thanh tịnh sáng ngời là đâu đâu cũng hiển bày ánh sáng chánh giác đó hết. Cho nên người nào khéo thì bất cứ chỗ nào cũng cảm được ánh sáng này, còn không khéo thì đâu cũng thấy âm u hết. Vậy ngay đây tâm thanh tịnh thì thấy chỗ nào cũng là Tịnh độ.Phật đó sống tới mười hai tiểu kiếp, một tiểu kiếp không biết bao nhiêu năm, mà đây tới mười hai tiểu kiếp. Chánh pháp trụ đời mười hai tiểu kiếp, vậy ở đây chỉ cho thời này không phải thời ác trược. Đó là phần của Ngài Ma Ha Ca Diếp.
CHÁNH VĂN:Lúc bấy giờ, Ngài Đại Mục Kiều Liên, ngài Tu Bồ Đề, Ngài Ca Chiên Diên..v..v thảy đều run sợ một lòng chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt không hề tạm rời, liền đồng tiếng nhau nói kệ rằng:
Thế Tôn rất hùng mãnh
Pháp Vương trong dòng Thánh
Vì thương sót chúng con
Mà ban giọng tiếng Phật
Nếu rõ thâm tâm con
Được Phật thọ ký cho
Như dùng cam lồ rưới
Từ nóng đặng mát me.
Như từ nước đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
Còn ôm lòng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại đặng vua bảo
Vậy sau mới dám ăn
Chúng con cũng như vậy
Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa
Chẳng biết làm thế nào
Đặng huệ vô thượng Phật
Dầu nghe giọng tiếng Phật
Nói chúng con thành Phật
Còn ôm lòng lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ ký
Mới là khoái an vui
Thế Tôn rất hùng mãnh
Thường muốn an chúng con
Xin thọ ký chúng con
Như đói cần bảo ăn.
GIẢNG:Đây là Ngài Ca Diếp được thọ ký rồi, còn lại ba ngài Mục Kiền Liên, Tu Bồ Đề, Ca Chiên Diên đều run sợ. Run sợ sao? Tâm trạng thấy người kia được thọ ký rồi còn mình không biết sao đây? Cho nên mấy vị nói bài kệ, các Ngài một lòng chắp tay chiêm ngưỡng dung nhan Phật, mắt không hề tạm rời, nhìn chăm chăm Phật tức là sao? Đây là tâm chuyên nhất để thầm hợp với Phật. Sự thật thì ở phẩm Phương tiện trước, trong bài kệ 40, Phật đã nói chung hết rồi. Ở trước Phật nói "ngàn hai trăm La Hán, cũng đều sẽ thành Phật," vậy thì Phật thọ ký một ngàn hai trăm vị La Hán đó sẽ thành Phật hết, nhưng tới đây các Ngài còn run là sao? Là chỉ các Ngài đại diện cho tâm của người còn yếu đó, cho nên nói kệ:
Thế Tôn rất hùnh mãnh
Pháp vương trong dòng Thánh
Vì thương xót chúng con
Mà ban giọng tiếng PhậtThế Tôn rất hùng mãnh đó là tán thán Phật, Ngài hùng mãnh là sao? Ngài có đánh giặc, đánh ai không?
Hùng mãnh đây là chỉ cho Ngài đã thắng được mọi thứ phiền não. Mình ở thế gian thắng được cái này, thắng được cái kia, nhưng mà thắng phiền não nổi không? Một vị tướng ra trận, trước trận giặc coi như không sợ gì hết, nhưng về nhà bị nói chạm thì sao? Thì cũng thắng không nổi. Cho nên thắng phiền não đó là mạnh mẽ nhất, vì vậy Phật nói là: "Thắng vạn quân không bằng thắng mình". Đó mới là sức mạnh lớn hơn hết. Ở đây:
Thứ nhất, Phật thắng mọi phiền não.
Thứ hai, Phật dám vào nhà lửa này để cứu các con. Như phẩm Thí dụ ở trước đã nói ông Trưởng giả vào nhà lửa cứu những người con đang vui chơi đó, thì đây mình đang ở trong nhà lửa tam giới này, Ngài dám vào trong này để cứu ra đó mới là hùng mãnh. Ngài là vị hùng mãnh nên mới vào được, chớ không ở ngoài hưởng giải thoát sướng quá rồi còn vào đây chi nữa.
Nếu rõ thâm tâm con
Được Phật thọ ký cho
Như dùng cam lồ rưới
Từ nóng đặng mát mẻ.
Đó là mong rằng đức Phật, Ngài xét cho thấu cái chỗ sâu xa ở trong lòng. Xét thấu chỗ sâu xa trong lòng này để chi? Để thọ ký cho thì mới thật an ổn, như dùng cam lồ rưới khiến được mát mẻ, thoả lòng mong đợi.Như từ nước đói đến
Bỗng gặp cỗ tiệc vua
Còn ôm lòng nghi sợ
Chưa dám tự ăn liền
Nếu lại đặng vua bảo
Vậy sau mới dám ăn.
Quí vị thấy mình giống vậy không? Từ nước xa tới, đang đói bỗng gặp cỗ tiệc vua sẵn đó, nhưng còn nghi chưa dám ăn, đợi mời mới dám ăn. Cỗ tiệc bày sẵn đó rồi, chỉ cho cái gì? Là Phật chỉ cho mọi người biết ai ai cũng có Phật tánh sẵn đó rồi, nghe thì nghe như vậy nhưng chưa dám nhận, giống như tiệc bày sẵn mà chưa dám ăn. Phật chỉ sẵn hết rồi, mình chỉ ăn thôi mà chưa chịu ăn, còn đợi mời mới chịu ăn. Đó là nói lên tâm trạng tập khí còn kém, còn yếu, nó còn che mờ, cho nên chưa dám nhận. Nghe biết vậy nhưng chưa dám nhận, phải đợi mời, chỗ này kinh nghiệm những người tu hành được tỏ ngộ rồi, nhưng mà sao? Cũng còn chưa dám hoàn toàn tin chắc, còn nhờ người thầy là người đi trước, người đã trải qua việc đó, xác chứng trở lại rõ ràng rồi mới vững niềm tin. Đó là nói lên, tuy ngộ như vậy, nhưng tập khí dư thừa còn chưa sạch. Đâây Ngài nói đợi Vua bảo ăn thì mới dám ăn.Chúng con cũng như vậy
Hằng nghĩ lỗi tiểu thừa
Chẳng biết làm thế nào
Đặng huệ vô thượng PhậtNghĩ mình không biết bao giờ được thành Phật, được trí huệ Phật. Cho nên bây giờ nghe nói mình sẵn có đó rồi, nghe biết như vậy mà cũng còn nghi ngờ, lại nhờ Phật thọ ký, thọ ký mà gọi là đích danh thì mới chịu, thọ ký chung chung cũng không chịu nữa.
Còn ôm lòng lo sợ
Như chưa dám tự ăn
Nếu được Phật thọ ký
Mới là khoái an vui.
Thế Tôn rất hùng mãnh
Thường muốn an thế gian
Xin thọ ký chúng con
Như đói cần bảo ăn
Như đói cần bảo ăn, là sẵn sàng tiếp nhận. Bây giờ bảo ăn tức ăn liền vì đang đói rồi, chỉ cần ấn chứng cho vậy thôi, vì đây là sẵn rồi. Bây giờ có ai đang đói cần bảo ăn không? Đây Phật bắt đầu thọ ký cho.CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị đệ tử lớn, bảo các thầy tỳ kheo rằng: "Ông Tu Bồ Đề đây đến đời vị lai phụng thờ ba trăm muôn ức na do tha Đức Phật, cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, thường tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ tát, ở thân rốt sau đặng thành Phật hiệu Danh Tướng Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên Hữu Bửu, nước đó tên là Bửu Sanh. Cõi đó bằng thẳng, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những gò, hầm, cát, sỏi, gai, chông cùng tiện lợi dơ dáy, hoa báu trải đất khắp nơi sạch sẽ, nhơn dân cõi đó đều ở đài báu và lầu gác quí đẹp. Hàng đệ tử Thanh văn đông vô lượng vô biên, tính kể cùng thí dụ đều không thể biết. Các chúng Bồ tát đông vô số ngàn muôn ức na do tha.
Đức Phật thọ mười hai tiểu kiếp, Chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, Tượng pháp cũng trụ đời hai mươi tiểu kiếp. Đức Phật đó thường ở trên hư không vì chúng nói pháp độ thoát đặng vô lượng Bồ tát cùng chúng Thanh văn.
GIẢNG:
Đây thọ ký cho ngài Tu Bồ Đề, sau này ngài sẽ phụng thờ ba trăm muôn ức na do tha Đức Phật, cúng dường cung kính, sau đó tu hạnh thanh tịnh, đủ đạo Bồ tát rồi sẽ thành Phật tên là Danh Tướng, kiếp tên là Hữu Bửu, nước tên Bửu Sanh.Bởi vì Ngài Tu Bồ Đề là người giải không bậc nhất tức là rõ được lý không là bậc nhất ở trong hàng Thanh văn, cho nên khi thành Phật thì được tên là Danh Tướng. Danh Tướng là để chỉ cho cái gì? Tức là không mà cái không cũng không rời danh tướng. Ngay nơi mọi danh tướng mình suốt qua tất cả không ngại không ngăn. Cõi nước thanh tịnh trang nghiêm tốt đẹp, Phật đó thường nói pháp ở trên hư không, bởi vì Ngài là giải không bực nhứt. Nhân là giải không bực nhứt cho nên khi thành Phật thường nói pháp ở trên hư không. Nhưng cái đó cũng là ý khiến cho mọi người không có chỗ bám, không có chỗ bám thì sao? Là để sống trở về với chính mình mà thôi. Đó cũng là cái đánh thức mình sống trở về với ông Phật chính mình.
Kiếp tên là Hữu Bửu, nước tên là Bửu Sanh. Bửu là báu, như vậy cũng là để hiểu rõ ý ở trong cái không mà bất không, nên mới hiện ra là bửu, trong không mà lại có báu. Ở trong cái không đó mà thành tựu đầy đủ tất cả những diệu dụng, chớ không phải là không có gì hết.
Khi đó, Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng :
CHÁNH VĂN:Các chúng tỳ kheo này
Nay ta bảo các ông
Đều nên phải một lòng
Lóng nghe lời ta nói
Đệ tử lớn của ta
Là ông Tu Bồ Đề
Rồi sẽ đặng làm Phật
Hiệu gọi là Danh Tướng
Sẽ phải cúng vô số
Muôn ức các Đức Phật
Theo hạnh của Phật làm
Lần lần đủ đạo lớn
Thân rốt sau sẽ đặng
Ba mươi hai tướng tốt
Xinh lịch đẹp đẽ lắm
Dường như núi báu lớn.
Cõi nước của Phật đó
Trang nghiêm sạch thứ nhứt
Chúng sanh nào được thấy
Không ai chẳng ưa mến
Phật ở trong cõi đó
Độ thoát vô lượng chúng
Trong pháp hội của Phật
Các Bồ tát đông nhiều
Thảy đều bậc lợi căn
Chuyển pháp luân bất thối.
Cõi nước đó thường dùng
Bồ tát để trang nghiêm
Các chúng Thanh văn lớn
Chẳng có thể đếm kể
Đều đặng ba món minh
Đủ sáu thứ thần thông
Trụ tám pháp giải thoát
Có oai đức rất lớn.
Đức Phật đó nói pháp
Hiện ra vô lượng món
Pháp thần thông biến hóa
Chẳng thể nghĩ bàn được
Các hàng trời, nhơn dân
Số đông như hằng sa
Đều cùng nhau chắp tay
Lóng nghe lãnh lời Phật.
Đức Phật đó sẽ thọ
Tuổi mười hai tiểu kiếp
Chánh pháp trụ lại đời
Đủ hai mươi tiểu kiếp
Tượng pháp trụ ở đời
Cũng hai mươi tiểu kiếp
GIẢNG:
Đó là việc thọ ký cho ngài Tu Bồ Đềø. Như vậy để cho thấy là mỗi vị đều được thọ ký rồi cũng sẽ thành Phật, thì khi thành Phật đó cõi nước nào cũng đều trang nghiêm tốt đẹp hết, có điều là các Ngài khi thành Phật trong thời đó không phải là thời ngũ trược ác thế, tuổi thọ được rất là lâu, cũng như chánh pháp, tượng pháp cũng được lâu dài. Đó là phần ngài Tu Bồ Đề được thọ ký.CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo các chúng tỳ kheo: "Ta nay nói với các ông, ông Đại Ca Chiên Diên này ở đời sẽ tới, dùng các đồ cúng mà cúng dường tám ngàn ức Phật cung kính tôn trọng.
Sau khi các Đức Phật diệt độ, ông đều dựng tháp miếu cao một ngàn do tuần, ngang rộng ngay bằng năm trăm do tuần. Tháp miếu đó dùng bảy món báu vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, chơn châu và mai khôi hiệp lại thành, cúng dường tháp miếu bằng các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương hoa, hương bột, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan…
Sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, cúng dường các Đức Phật đó rồi, đủ đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật hiệu Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Cõi đó bằng thẳng, đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng bên đường, hoa đẹp trải đất khắp nơi sạch sẽ. Người được thấy đều vui mừng, không có bốn đường dữ: địa ngục, ngạ quỷ súc sanh và a tu la. Các trời cùng người rất đông, các chúng Thanh văn và Bồ tát vô lượng muôn ức trang nghiêm nước đó. Đức Phật đó thọ mười hai tiểu kiếp, chánh pháp trụ ở đời hai mươi tiểu kiếp, tượng pháp cũng trụ hai mươi tiểu kiếp.
GIẢNG:
Đây là Phật thọ ký tiếp cho ngài Đại Ca Chiên Diên, Ngài là vị luận nghị đệ nhứt trong mười vị đệ tử lớn của Phật ở trong hàng Thanh văn, thì cũng dùng các đồ cúng mà cúng dường phụng thờ tám ngàn ức Phật cung kính tôn trọng. Sau khi các Đức Phật diệt độ cũng dựng tháp miếu cúng dường, sau thời kỳ đó sẽ lại cúng dường hai mươi muôn ức Phật cũng như trước, đủ đạo Bồ tát rồi mới được thành Phật hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang. Như vậy là sống trọn vẹn đầy đủ trong đó rồi cũng sẽ được thành Phật, thành Phật rồi thì cõi nước thật là tốt đẹp, như đất bằng pha lê, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây giăng bên đường, coi như cõi này đều là bảy báu trang nghiêm khắp hết. Thành ra mình đọc thì đọc, nghe thì nghe chớ chưa từng thấy, nhưng mà muốn thấy cũng khó. Nếu mình hiểu theo chữ nghĩa thì thấy chuyện này là chuyện không bao giờ có, nhưng trên lý nếu tâm thanh tịnh rồi thì thấy cõi nào cũng thanh tịnh hết. Cho nên thành Phật tức tâm thanh tịnh giác ngộ, thì nhìn ra cái gì cũng thanh tịnh trang nghiêm, cũng sạch sẽ hết. Nếu tâm mình thanh tịnh rồi thì mình thấy cõi này đều trang nghiêm như vậy.
Bởi vậy đọc trong kinh Di Đà, nghe kinh nói cõi nước đất cũng bằng lưu ly, cũng cây báu trang nghiêm. Chẳng những như vậy mà gió thổi, chim kêu thì đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nữa. Mình nghe chuyện đó thấy khó hiểu quá. Nhưng mà tu hành khi công phu đến được tâm thanh tịnh rồi, thì thấy ngay đây cũng có chuyện đó.
Bởi vậy, đọc sử thiền thấy các vị thiền sư có ngài nghe chim kêu liền ngộ đạo. Vậy chim kêu không phải là niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng hay sao? Còn mình nghe chim kêu chỉ có tiếng chim kêu thôi là vì nghe bằng tâm chúng sanh, còn nếu nghe với tâm Phật thì thấy cái gì cũng là Phật hết. Đây Đức Phật mới trùng tuyên lại nghĩa này.
CHÁNH VĂN:Các chúng tỳ kheo này
Đều nên một lòng nghe
Như lời của ta nói
Chơn thiệt không khác lạ
Ông Ca Chiên Diên này
Sau sẽ dùng các món
Đồ cúng dường tốt đẹp
Mà cúng dường các Phật.
Các Đức Phật diệt rồi
Dựng tháp bằng bảy báu
Cũng dùng hoa và hương
Để cúng dường xá lợi
Thân rốt sau của ông
Đặng trí huệ của Phật
Thành bực Đẳng Chánh giác
Cõi nước rất thanh tịnh
Độ thoát đặng vô lượng
Muôn ức hàng chúng sanh
Đều được mười phương khác
Thường đến kính cúng dường.
Ánh sáng của Phật đó
Không ai có thể hơn
Đức Phật đó hiệu là
Diêm Phù Kim Quang Phật
Bồ tát và Thanh văn
Dứt tất cả hữu lậu
Đông vô lượng vô số
Trang nghiêm cõi nước đóGIẢNG:
Ngài Ca Chiên Diên này được thọ ký sau sẽ thành Phật hiệu là Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai. Diêm Phù là cái tên dịch âm của tiếng Phạn, Trung Hoa gọi là Thiện Bộ. Thiện Bộ tức là tên của một thứ cây, mà cây này thuộc loại đặc biệt, nước của trái cây này khi nó rơi vào trong nước, lấy nước đó điểm vào trong đá thì liền thành vàng, ánh sáng của vàng đó rất chói sáng. Đây có khi mình nghe trong kinh nói vàng Diêm Phù thì đó là chỉ cho vàng này. Bởi vì nó tương ứng với cái nhân của Ngài. Ngài Ca Chiên Diên là người luận nghị bậc nhứt, luận nghị tức là sao? Tức là Ngài luận nghị soi sáng những nghĩa lý rất là tinh mật như vàng chói rực vậy, cho nên thành Phật tương ứng là Diêm Phù Na Đề. Nhưng người đọc nghe nói ánh sáng vàng chói rực như vậy đó mà không biết ánh sáng đó là ở đâu? Nếu hiểu theo lý nhà thiền thì ánh sáng đó ở ngay nơi đây cũng có, chớ không phải ở vô lượng kiếp về sau mới thấy được. Nếu theo đây mình khéo thấy, mình gặp Phật Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như Lai liền, khỏi cần phải đợi xa. Quí vị thấy ánh sáng ở đâu mà chói rực như vậy? Ngay bình hoa này cũng thấy được ánh sáng đó, nếu mình nhìn bình hoa mà sáng được tự tâm của mình. Nhìn bình hoa này mình giác ngộ tự tâm, thì ngay bình hoa này có ánh sáng rực rỡ đó, và ngay đây mình gặp được Phật Diêm Phù Na Đề.
Đức Phật thọ ký về sau đến đời vị lai đó thì Đức Phật Diêm Phù Na Đề mới ra đời. Nhưng vị lai đó chỉ cho lúc nào? Tức ngầm chỉ cho bất cứ người nào cũng gặp được Phật vị lai đó hết. Hiểu như vậy mới thấy được ý sâu của Phật. Như vậy là Phật Diêm Phù Na Đề đó hiện khắp nơi, mình khỏi phải đợi về lâu về xa. Nên trong nhà thiền có một vị thiền sư khi ngộ đạo Ngài bèn nói lên:
"- Này các thầy, hãy xem kìa, ánh sáng rực rỡ nó đang tỏa khắp cả đại thiên thế giới, chẳng những như vậy mà nó còn cùng một lúc hiển hiện ra mọi xứ sở, hiển hiện ra mọi núi Tu di, rồi những mặt trời, những mặt trăng, những bầu trời quả đất v.v… nhiều đến hàng trăm ngàn ức số. Này các thầy! Các thầy có thấy ánh sáng đó chăng?"
Khi Ngài giác ngộ Ngài thấy ánh sáng đó đang tỏa khắp tất cả hết, không chỗ nào là không có ánh sáng đó. Còn mình tại sao lại không thấy? Cũng cõi này tại sao ngài thấy nó sáng rực hết, còn mình thì thấy sao? Mình thấy nó vừa tối tăm, vừa là cao thấp lung tung đủ hết. Có khi chỉ thấy phiền não, mà không thấy ánh sáng gì. Đó là bởi tâm mình còn nhiều phiền não, cho nên thấy theo phiền não của mình, còn nếu tâm mình thanh tịnh rồi thì thấy sáng rực hết. Đó là lẽ thật như vậy, chớ không phải đây chỉ là chuyện nói trên chữ nghĩa thôi. Cho nên ở đây nói ánh sáng của Phật đó không ai có thể hơn, nó vượt qua tất cả. Vì vậy ai thấy được ánh sáng đó gặp Phật liền. Đó là nói về Phật Diêm Phù Na Đề Kim Quang Như lai, kế đây Phật thọ ký cho Ngài Mục Kiền Liên.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn lại bảo trong đại chúng: "Ta nay nói với các ông, ông Đại Mục Kiền Liên đây sẽ dùng các món đồ cúng, cúng dường tán thán tám ngàn Đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi Đức Phật diệt độ đều dựng tháp miếu cao một ngàn do tuần, ngang rộng thẳng bằng năm trăm do tuần, dùng bảy món báu: vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp lại thành. Đem các thứ hoa, chuỗi ngọc, hương xoa, hương bột, hương đốt, lộng nhiễu và tràng phan để cúng dường tháp.
Sau lúc ấy lại sẽ cúng dường, hai trăm muôn ức các Đức Phật cũng như trước rồi sẽ đặng thành Phật hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Hỷ Mãn, nước tên là Ý Lạc. Cõi đó bằng thẳng, chất pha lê làm đất, cây báu trang nghiêm, rải hoa trân châu khắp nơi sạch sẽ, người được thấy đều vui mừng. Các hàng trời người rất đông. Bồ tát và Thanh văn số nhiều vô lượng, Đức Phật đó thọ hai mươi bốn tiểu kiếp, Chánh pháp trụ lại đời bốn mươi tiểu kiếp, Tượng pháp cũng trụ bốn mươi tiểu kiếp.
GIẢNG:
Đây là Ngài Mục Kiền Liên, một vị thần thông đệ nhứt trong hàng đệ tử Thanh văn của Phật cũng được thọ ký, sau này cúng dường tám ngàn các đức Phật, cung kính tôn trọng. Sau khi đức Phật diệt độ cũng dựng tháp miếu để cúng dường tháp. Sau đó lại sẽ cúng dường hai trăm muôn ức các đức Phật cũng như trước, rồi cuối cùng mới được thành Phật hiệu Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Như Lai. Như vậy tức là ngay đây tin nhận có tri kiến Phật này rồi, thì được thọ ký. Nhưng thọ ký về sau gặp nhiều các đức Phật nữa, tức luôn luôn sống trong ánh sáng của tri kiến Phật, là ánh sáng giác ngộù cho được viên mãn rồi mới thành Phật, thì Phật đây là gì? Là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương.
Đa Ma La Bạt là tên còn âm tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Tánh vô cấu. Tánh vô cấu là tánh không nhơ, đây là loại hương gọi là hương Chiên đàn là hương rất sạch, không nhơ không nhiễm, thể tánh của hương này dứt sạch hết nhiễm nhơ, đó là loại hương chiên đàn tối thắng, hương này bay xa khắp hết. Cho nên chúng sanh ai mà ngửi được hương này thì liền vui thích mãn ý, do đó mà kiếp tên là Hỷ Mãn. Hỷ Mãn là vui vẻ đầy đủ, Ý Lạc cũng là ý vui thích. Ai mà ngửi được hương này đều là vui thích đầy đủ hết. Ai ngửi được hương này thì liền thấy Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương, mà hương đó thì ở đâu? Ở nhà bếp có không? Cho nên người đọc thường thường tưởng tượng đâu thôi, tưởng cái hương đó ở đâu đâu, phải đợi trải qua nhiều kiếp về sau khi Phật này ra đời, thì mới ngửi được mùi hương đó, nhưng không ngờ cái mùi hương đó nó ở ngay bên mình, ở nhà bếp cũng có nữa. Nếu mỗi ngày quí vị ở trong nhà bếp ngửi được mùi hương trong nhà bếp nó tỏa ra đó, thì cái gì mà biết cảm nhận mùi hương đó? Ở trong đây nó có cái gì mà cảm nhận được? Tức trong đây có tánh giác sẵn ở trong đó nên mới cảm nhận được, chớ mùi hương đó cây đá làm gì cảm nhận được. Có tánh giác nhưng mình không nhớ được tánh giác đó, không có sáng được tánh giác đó, mà chỉ nhớ mùi hương, cho nên chỉ thấy hương thơm, hương không thơm, nghe cái mùi vừa mũi thì thích, cứ lo trông chờ dọn lên ăn, đó là theo mùi hương. Còn gặp mùi không hợp ý mình thì không thích, không thích mà ai dọn lên trước mặt thì sao? Thấy khó chịu, rồi thành phiền não. Cho nên nghe mùi hương mà sanh ra thích hoặc không thích đó là phiền não, nên bị mê mờ. Nếu nghe mùi hương đó mà nhớ lại mình có tánh giác sẵn có, nó cảm nhận hết những điều đó, ngay đó giác ngộ thì chính mùi hương đó là mùi hương của Phật, mùi hương đó là mùi hương giác ngộ, cho nên đánh thức lại ông Phật ngay chính mình. Do đó nếu khéo như vậy mỗi bữa vô bếp mình đều gặp Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương, khỏi cần phải đợi nhiều kiếp về sau.
Quí vị thấy Phật thọ ký cho Ngài Đại Mục Kiền Liên đó về sau sẽ thành Phật, và trong đây nói rằng cái mùi hương của Phật đó sẽ tỏa khắp hết. Cho nên chúng sanh ở thời đó, ai mà nghe được mùi hương này, cảm được Đức Phật đều vui vẻ hết. Như vậy nếu mình ở đây nghe được, cảm được như vậy đó, thì mình sẽ thấy Phật Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương ra đời ngay lúc này khỏi phải đợi xa xôi. Đây Phật lập lại ý trên bằng bài kệ:
CHÁNH VĂN:
Đệ tử của ta đây
Là Đại Mục Kiền Liên
Bỏ thân người này rồi
Sẽ đặng gặp tám ngàn
Hai trăm muôn ức vị
Các Đức Phật Thế Tôn
Ông vì cầu Phật đạo
Nên cúng dường cung kính
Ở nơi các Đức Phật
Thường tu trì phạm hạnh
Ở trong vô lượng kiếp
Phụng trì pháp của Phật
Các Đức Phật diệt rồi
Xây tháp bằng bảy báu
Tháp vàng rất cao rộng
Dùng hoa hương kỹ nhạc
Để dùng dưng cúng dường
Tháp miếu các Đức Phật
Lần lần đặng đầy đủ
Đạo hạnh Bồ tát rồi
Ở nơi nước Ý Lạc
Mà đặng thành quả Phật
Hiệu là Đa Ma La
Bạt Chiên Đàn Hương Phật
Đức Phật đó thọ mạng
Hai mươi bốn tiểu kiếp
Thường vì hàng trời người
Mà diễn nói đạo Phật
Chúng Thanh văn vô lượng
Như số cát sông Hằng
Đủ ba minh sáu thông
Đều có oai đức lớn
Bồ tát đông vô số
Chí bền lòng tinh tấn
Ở nơi trí huệ Phật
Đều không hề thối chuyển
Sau khi Phật diệt độ
Chánh pháp sẽ trụ đời
Đủ bốn mươi tiểu kiếp
Tượng pháp cũng như thế
GIẢNG:Đây lập lại Ngài Đại Mục Kiền Liên sau này khi:
Bỏ thân người này rồi
Sẽ đặng gặp tám ngàn
Hai trăm muôn ức vị
Các Đức Phật Thế Tôn
Ông vì cầu Phật đạo
Nên cúng dường cung kính
Ở nơi các Đức Phật
Thường tu trì phạm hạnh
Ở trong vô lượng kiếp
Phụng trì pháp của PhậtPhụng trì tức là giữ gìn, sống trong ánh sáng Phật đó, ánh sáng giác ngộ đó, không để cho sót mất, cũng như không để cho đoạn diệt, thì sẽ thành chánh giác, chớ không phải nói phụng trì pháp Phật đây là mình mỗi ngày đem bộ kinh Pháp Hoa này ra tụng gọi là phụng trì. Tức là sống trong tri kiến Phật trong tánh giác đó, sống trong đó mà được viên mãn không để cho nó đoạn dứt, là mình hằng giác, mà hằng giác mới thành chánh giác được.
Lần lần đặng đầy đủ
Đạo hạnh Bồ tát rồi
Ở nơi nước Ý Lạc
Mà đặng thành quả Phật
Hiệu là Đa Ma La
Bạt Chiên Đàn Hương PhậtNhư vậy nhận được tri kiến Phật rồi, trải qua thời gian sống với tri kiến Phật đó cho được đầy đủ trọn vẹn thì mới thành Phật, chớ không phải nói mình nhận được tri kiến Phật thì ngay đó thành Phật liền, hiểu như vậy đó thì thấy ý nghĩa thọ ký ở đây.
CHÁNH VĂN:
Các đệ tử của ta
Bực oai đức đầy đủ
Số đó năm trăm người
Ta đều sẽ thọ ký
Ở nơi đời vị lai
Đều đặng chứng thành Phật
Ta cùng với các ông
Đời trước kết nhơn duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ông khéo lóng nghe.
GIẢNG:
Đây là Phật thọ ký chung cho năm trăm vị kế luôn, nghĩa là :Số đó năm trăm người
Ta đều sẽ thọ kýPhật thọ ký chung hết, nhưng sau này các vị này còn chưa chịu, cho nên mới có phẩm sau này, ở đây coi như Phật thọ ký hết.
Ở nơi đời vị lai
Đều đặng chứng thành PhậtNhưng Phật còn ngại mọi người chưa tin nên Phật mới kể ra nói rõ:
Ta cùng với các ông
Đời trước kết nhơn duyên
Ta nay sẽ thuật nói
Các ông khéo lóng nghe
Để chỉ rõ, đây không phải là chuyện mới có ngày hôm nay, mà đời trước đã từng kết duyên với nhau rồi, là đã từng gặp nhau nhiều kiếp, không phải là chuyện mới đây. Như vậy, Phật bên ngoài là duyên nhân Phật tánh, cái duyên để gợi lên Phật tánh sẵn có đó là ông Phật bên trong, thì đó mới gọi là chánh nhân Phật tánh, là cái nhân sẵn có nơi mình, tuy nhân sẵn rồi nhưng mà không có Phật bên ngoài nhắc thì mình không biết. Cho nên có Phật bên ngoài để nhắc Phật bên trong. Phật bên ngoài là duyên nhân còn Phật bên trong là chánh nhân. Có chánh nhân thì các duyên nhân mới gợi lại được, còn nếu chỉ duyên nhân mà không có chánh nhân thì cũng không thành. Để cho mọi người tin rõ ai ai cũng đều có chánh nhân Phật tánh đó hết, chỉ cần mình khéo nhớ trở lại, sống trở lại thì sẽ được thọ ký, vậy không ai thiếu hết. -
8. Phẩm Hóa thành dụ
CHÁNH VĂN:
Đức Phật bảo các thầy Tỳ Kheo: "Thuở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghị a tăng kỳ kiếp đã qua, lúc bấy giờ có Đức Phật hiệu Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Nước đó tên Hảo Thành, kiếp tên Đại Tướng.
Các tỳ kheo! Từ khi Đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa thí như địa chủng trong cõi tam thiên đại thiên giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lựa chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên. Ý các ông nghĩ sao? Các cõi nước đó hoặc thầy toán hoặc đệ tử của thầy toán có thể biết đặng ngằn mé số đó chăng?"
- Thưa Thế Tôn! Không thể biết!
- Các Tỳ kheo! Những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ Đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp. Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay.
GIẢNG:
Đây là phẩm Hóa Thành Dụ, là dụ hóa Thành, tức là Thành biến hóa ra thôi. Có câu hóa thành bảo sở.
- Bảo Sở: là chỗ quý báu chân thật
- Hóa thành: là chỗ hóa ra chưa phải thật.
Tức là ở đây muốn nhắc chỗ này không phải chỗ dừng ở lâu, không phải chỗ ở vĩnh viễn mà còn phải bỏ nó để đi tới. Phẩm này vì sao gọi là hóa thành? Bởi vì nhân ở phẩm trước, năm vị đệ tử lớn của Phật đã được thọ ký như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Đại Ca Diếp, Ngài Tu Bồ Đề, Ngài Ca Chiên Diên, Ngài Đại Mục Kiền Liên, năm vị đó được thọ ký rồi, các Ngài đã nói lên thí dụ như là mưa chỉ một vị, còn cỏ thuốc thì có lớn có nhỏ, có thượng, trung, và hạ. Để chỉ cho pháp Phật chỉ có một vị thôi, chứ không có thứ lớp. Cuối phẩm thọ ký này thì Phật đã gồm thọ ký cho năm trăm đệ tử hết rồi, nhưng sợ có nhiều vị tập khí còn yếu kém, chưa dám tự tin vững, có thể là thoái tâm trên đường Bồ Đề. Bởi vì nghe nói thành Phật lâu xa, nghĩ là Phật đạo phải tu lâu ba vô số kiếp, phải thờ bao nhiêu đức Phật, trải qua bao nhiêu số kiếp như vậy, thì thôi ngay đây chứng Niết Bàn an ổn hơn. Tâm còn yếu kém sợ lâu xa, nên Phật mới nói nhân duyên xưa để nhắc lại cho mọi người có lòng tin mạnh hơn. Nghĩa là các vị ở đây đã từng được Phật giáo hóa rồi, hôm nay đã chín mùi, Ngài mới thọ ký cho. Như vậy để rõ cái Niết bàn tịch diệt đó mà các Ngài đã chứng, là chỗ tạm dừng chân thôi, còn phải phát tâm rộng lớn, lâu xa để vượt ngoài thời gian, vượt ngoài không gian. Tức phải có tâm rộng lớn, không còn kẹt trong thời gian, không còn kẹt trong không gian, không còn thấy có lâu có mau nữa, mà mình ngộ lại cái nhân xa xưa sẵn có của mình, cái đó mới là bảo sở, mới là vĩnh viễn lâu dài. Còn chỗ Niết Bàn mà tâm mình tạm yên đây, chỗ đó chưa phải là chỗ dừng lâu dài của mình, phải nhận cho rõ ông Phật chính mình, chỗ này mới là chỗ bảo sở, là chỗ để mình nương tựa vĩnh viễn. Cho nên hễ còn chỗ để dừng là chưa phải.
Đây Phật thuật lại việc của Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Phật bảo:
- Các thầy tỳ kheo! Thưở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng tỳ kiếp đã qua, bấy giờ có Đức Phật Đại Thông Trí Thắng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.
Như vậy đức Phật đó cách đây bao lâu? Gọi là thưở quá khứ vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp, bất khả tư nghì là không thể nghĩ bàn rồi; A tăng kỳ kiếp là vô số kiếp nữa, đã nói vô số, lại nói không thể nghĩ bàn nữa, thì quý vị tính ra chừng bao nhiêu kiếp? Vậy kể lại cho mình nghe chơi hay sao? Kể chuyện đâu xa xưa vậy? Đây phải hiểu được Đại Thông Trí Thắng rồi mới hiểu được ý nghĩa này. Đại Thông Trí Thắng này là chỉ cho cái gì? Ở đâu? Đó là chỉ cho quả thể của Phật hay là Phật tánh, tức Pháp thân sẵn có của mình, chứ không phải là ai khác, đó cũng gọi là trí thể chân thật của mỗi người, cho nên gọi là Đại Thông Trí Thắng, vì sao gọi là Đại Thông?
Đại là chỉ cho thể này nó vượt ngoài số lượng, nó bặt cả kia đây không còn có ranh giới. Thông tức là thông suốt hết, không chỗ nào ngăn ngại, nên gọi là Đại Thông.
Quý vị thấy ngay đây có cái thể này không? Nếu ngay đây không có cái thể này sao gọi là Đại Thông? Đại Thông là khắp hết không chỗ nào không có, không chỗ nào ngăn ngại mới gọi là Đại Thông được. Hiện giờ ngay chỗ mình ngồi đây có không? Nhưng sao không Đại Thông? Bởi vì không đại thông nên mới làm chúng sanh ngồi đây. Nếu ngay đây mà thấy được thì làm Đại Thông Trí Thắng liền! Còn Trí Thắng là sao? Là trí này nó vượt qua tất cả mọi thứ trí, nó thường sáng không mê, không có lúc tối lúc sáng, cũng không có đứt đoạn hay gián đoạn, cũng không có trí nào ở thế gian có thể so sánh được. Trí Thắng ở đây vượt hơn tất cả, là chỗ bặt hết chỗ hiểu biết, bặt mọi cái suy nghĩ của tâm thế gian, bởi vì còn có cái chỗ để so sánh thì đâu gọi là thắng được, còn có chỗ để so sánh thì chúng sanh nghĩ cũng đến được, có gì là thắng? Cho nên Trí Thắng này nó bặt hết mọi chỗ so sánh, vượt hơn trí của thế gian này, nó luôn sáng mà không có mê, không tối. Ngay đây mình khéo thấy trở lại ông Phật nơi mình, thì thấy Đại Thông Trí Thắng. Nghe nói Phật Đại Thông Trí Thắng nghĩ là Phật ở kiếp xa xưa thì kể chi chuyện đó, kể nghe chơi đâu dính dáng gì đến mình. Như vậy chỉ một cái tên thôi thì đủ cho mình tu chưa? Chỉ một tên này thôi nếu mình khéo hiểu được là đủ cho mình tu rồi.
Cái tên đó nhắc nhở mình ngay đây có tánh giác nó sẵn có và thông suốt trùm khắp tất cả, nó vượt ngoài sự so sánh của thế gian này. Thấy được cái thể này thì mình sẽ thấy được "Phật Đại Thông Trí Thắng ra đời". Vậy thì chỗ nào mà không có thông. Nhưng điểm quan trọng là điểm gì? Quan trọng là phải quên được niệm so sánh, niệm phân biệt kia đây, là Phật Đại Thông sẽ hiển lộ ngay. Chớ còn cái niệm so sánh phân biệt thì hết Trí thắng, đó gọi là trí phàm phu. Như vậy quý vị tin nổi ông Phật đó chưa? Thấy khó tin phải không? Bởi vì khó tin cho nên ở đây nói Phật này thì sao?
Phật này đã diệt độ lâu rồi, cách đây vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp đã qua. Quý vị thấy tính chừng bao nhiêu năm? Không thể nghĩ nổi, ngoài sức tưởng tượng. Vậy để chỉ cho cái gì? Đó là để chỉ cho chúng sanh mình, mê muội ông Phật này quá lâu rồi, không biết bao nhiêu đời kiếp nữa. Cho nên bây giờ nói như vậy đó mà còn khó tin, khó hiểu, khó tưởng tượng nổi. Mà đã mê ông Phật này, thì đâu biết thời gian gì nữa, đã mê mờ rồi không biết đâu là đầu mối, chỉ một niệm mê thì liền quên, nhưng nếu mà giác lại thì sao? Giác thì nhớ lại thôi. Tức liền vượt qua bất khả tư nghì kiếp lâu xa kia.
Như vậy quý vị thấy ý nghĩa đốn giáo của kinh Pháp Hoa chưa? Thường mình tu phải trải qua vô số kiếp mới thành Phật. Nhưng nếu ngay đây mà mình giác ngộ trở lại, thấy rõ được tri kiến Phật của mình, là mình vượt qua vô số kiếp. Vô số kiếp mình mê mờ đã bỏ quên ông Phật này, bây giờ nhớ trở lại thì vượt qua vô số kiếp mê mờ đó. Tu rất nhanh, nhưng chỉ tại vì cái mê nó còn dày quá, cho nên nghe thì nghe mà cũng còn khó hiểu.
Bởi vậy ở đây Phật mới nói Phật Đại Thông Trí Thắng đó ở tại một nước, nước đó tên là Hảo Thành, kiếp tên Đại Tướng.
Hảo Thành tức là cái gì? Phật Đại Thông đó chỉ cho cái trí thể chân thật của mình. Trí thể đó nó ở đâu? Ở trong ánh sáng vĩnh cửu chớ không gì khác, trong ánh sáng mà nó hằng hữu nơi mình đó, cho nên tên nước là Hảo Thành. Hảo Thành là cái thành tốt đẹp, mà cái thành đó là ánh sáng chân thật này. Rồi cái trí đó vượt ngoài cả trước không kiếp nữa, không có số gì tính kể cho hết, nên kiếp này gọi là Đại Tướng. Đại Tướng là tướng to lớn. Như vậy để chỉ cho Đức Phật đó là ở ngay nơi mình, nhưng phải khéo vượt qua tâm phân biệt, có tính số, quên được tâm niệm đó mình sẽ thấy được Phật hiện ngay đây, còn không thì sẽ thấy Phật đó diệt độ đến nay bao lâu rồi? Ở đây Phật kể từ khi đức Phật đó diệt độ nhẫn đến nay rất là lâu xa, thí như địa chủng, địa chủng là chỉ cho cõi đất, đất là chỗ, là cái nhân hay phát sanh ra các thứ khác, cho nên gọi là chủng.
Cõi đất này giả sử có người đem mài làm mực rồi đi khỏi một nghìn cõi nước ở phương đông bèn chấm một điểm chừng bằng bụi nhỏ, rồi lại qua một nghìn cõi nước nữa cũng chấm một điểm, cứ như thế lần lượt chấm hết mực mài bằng địa chủng ở trên.
- Rồi những cõi nước của người đó đi qua hoặc có chấm mực hoặc không chấm mực đều nghiền nát cả ra làm bụi, một hột bụi là một kiếp, từ đức Phật đó diệt độ đến nay lại lâu hơn số đó vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức a tăng tỳ kiếp.
Hết tưởng tượng nổi! Đó là muốn nói lên cái gì? Phật Đại Thông Trí Thắng là chỉ cho Phật của chính mình mà nói đức Phật đó diệt độ tức là sao? Diệt độ tức là mê. Bắt đầu từ lúc mình mê, mình bỏ quên đức Phật đó đến nay, thì tính chừng bao lâu. Tính chừng bao nhiêu kiếp? Ở đây Phật ví dụ là mài mực như vậy để tính số kiếp. Ngầm chỉ nếu lấy tâm của chúng sanh, lấy trí có hạn lượng đây để mà hiểu thì không hiểu nổi cái mê này, cũng như không thể soi tới chỗ này được, do đó mà có ít người tin. Nhưng nói như vậy để muốn nhắc mình, phải quên cái tâm hẹp hòi có hạn lượng này, để cảm nhận được lẽ thật muôn đời đó. Do đó trong nhà thiền hay phá tâm đối đãi, bởi vì tâm đối đãi là tâm hẹp hòi có hạn lượng. Nếu mình phá được tâm đối đãi này, thì tâm nó mênh mông không còn hạn lượng, sẽ thấy được Phật này.
Ví dụ hỏi: "Thế nào là Phật?". Trả lời: "Que cứt khô". Thường thường mình nghĩ Phật là sao? Phật là thanh tịnh sáng suốt, đây Ngài nói que cứt khô, cứt là dơ, để cho mình quên niệm dơ - sạch đó thì thấy Phật. Còn nghe que cứt khô, mình nghĩ dơ thì hết thấy Phật.
Như vậy quý vị nhớ ông Phật mình diệt độ đến hôm nay là bao lâu chưa? Diệt độ từ vô số kiếp phải không? Nhưng nếu nhớ lại thì ngay đây thôi. Cho nên ở đây Ngài mới nói thêm:
- Ta dùng sức tri kiến của Như Lai xem thuở lâu xa đó dường như hiện ngày nay.
Nếu dùng tri kiến Phật mà nhìn, thì thấy cái thuở xa xưa như vậy, giống như hiện nay thôi, chớ không xa đâu hết. Nhưng mình dùng trí gì? Bằng tri kiến phàm phu mà nhìn, cho nên thấy nó xa quá, xa không thể tưởng tượng nổi. Vậy ngay đây quý vị chịu khó lấy tri kiến Như Lai mà nhìn thì thấy liền, thấy ngay đây thôi. Bởi vì lấy tri kiến Phật mà nhìn thì ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai, chỉ ngay một niệm đây, vi trần kiếp xa xưa cũng không rời ngay một niệm hiện tiền. Như vậy tuy nói xa xưa nhưng mình giác ngộ thì nó ngay đây liền, còn mình suy nghĩ thì thấy nó xa.
Trong nhà thiền có vị tăng hỏi Thiền Sư Tự Mãn:
- Khi chẳng rơi xưa nay, thỉnh thầy nói thẳng xem?
Không rơi vào xưa nay là không kẹt xưa, kẹt nay, thì nói thẳng xem nói sao đây?
Ngài Tự Mãn liền bảo:
- Đã biết ông lờ mờ rồi.
Nhưng ông Tăng này còn chưa hiểu, vừa muốn hỏi thêm, Ngài Tự Mãn bảo:
- Sẽ cho rằng Lão Tăng rơi vào xưa nay.
Ai thấy chỗ này là thấy đức Đại Thông Trí Thắng liền. Hỏi là: "Chẳng rơi vào xưa nay thỉnh thầy nói thẳng". Thì Ngài bảo liền: "Đã biết ông lờ mờ rồi". Vậy lờ mờ chỗ nào? Chẳng rơi vào xưa nay mà hỏi, tức là đợi nói để cho mình hiểu. Nhưng đợi nói tức rơi vào xưa nay rồi, nên ông vừa hỏi là biết ông lờ mờ rồi. Ông Tăng còn chưa hiểu, muốn hỏi thêm, mà nếu nói ra để cho hiểu thì càng rơi vào xưa nay nữa. Do đó Ngài bảo: "Sẽ cho rằng Lão Tăng rơi vào xưa nay. Cho thấy, ngay đây nếu mình khéo giác ngộ trở lại thì nó sẵn nơi đây liền, còn đợi nói ra cho mình hiểu, tức mắc kẹt xưa nay. Còn mình khéo để mà nhớ trở lại mình, thì đã là chính mình rồi còn hiểu gì nữa.
Quý vị nhớ khi muốn hiểu là hiểu gì? Tức là có cái gì đó để hiểu, mà có cái gì để hiểu tức là cái ngoài mình rồi. Nếu có ông Phật nào để hiểu, cái đó thuộc Phật bên ngoài, không phải là Phật chính mình, đã là Phật chính mình còn hiểu cái gì thêm nữa? Cho nên nhớ trở lại mình là xong, còn đợi hiểu là lờ mờ! Cũng vậy, học ở đây là để nhớ lại mình thôi, còn học mà để hiểu đó cũng lờ mờ luôn.
CHÁNHVĂN:
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ta nhớ đời quá khứ
lượng vô biên kiếp
Có Phật Lưỡng Túc Tôn
Hiệu Đại Thông Trí Thắng
Như người dùng sức mài
Cõi tam thiên đại thiên
Hết tất cả địa chủng
Thảy đều làm thành mực
Quá hơn nghìn cõi nước
Bèn chấm mỗi điểm trần
Như thế lần lựa chấm
Hết các mực trần này.
Bao nhiêu cõi nước đó
Điểm cùng chẳng điểm thảy
Lại đều nghiền làm bụi
Một bụi làm một kiếp
Kiếp số lâu xa kia
Lại nhiều hơn số bụi.
Phật đó diệt đến nay
Vô lượng kiếp như vậy
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như hiện nay thấy diệt
Các Tỳ kheo nên biết
Trí Phật tịnh vi diệu
Vô lậu và vô ngại
Suốt thấu vô lượng kiếp.GIẢNG:
Đây Ngài dùng kệ nhắc lại, là từ vô lượng kiếp đó, có đức Phật Lưỡng Túc Tôn, hiệu là Đại Thông Trí Thắng. Nếu người dùng sức mài cõi tam thiên này thành mực rồi qua cõi nước nhiều vô lượng đó, rồi nghiền hết cõi như vậy thành hạt bụi, cứ một hạt bụi là một kiếp, từ kiếp lâu xa như vậy, tính ra thì đức Phật đó diệt độ đến nay còn nhiều hơn số đó. Đây là chỉ cho cái mê của mình đã từ vô lượng kiếp rồi không có tính kể được. Vậy bắt đầu mê từ lúc nào? Thường thường với người thế gian luôn luôn là tìm nguồn mối bắt đầu có chúng sanh từ lúc nào, mà nếu có chỗ bắt đầu thì sao? Thì hết mê. Nó mê nên không thấy đâu là chỗ bắt đầu hết, nhưng chính cái đó mới là chỗ đặc biệt, bởi vì nó không thấy đâu là chỗ bắt đầu, cho nên khi mình giác thì liền thấy ngay đây. Nếu có chỗ bắt đầu mê mà tính đến bây giờ, mình phải phá dẹp cái mê đó thì không biết bao giờ mới dẹp cho xong. Nhưng ở đây nó không có chỗ gì gọi là bắt đầu hết, mê thì đâu có thật, khi mình giác là xong. Bởi vậy ngay đây mình giác thì vượt qua cái mê vô số kiếp liền, cho nên trong kinh hay luận thường thường có ví dụ: Trong nhà tối trải qua hằng trăm nghìn kiếp tối như vậy, nhưng nếu mình đem cái đèn vào thì sao? Nó sáng liền, hay đem đèn vào từ từ trải qua vô lượng kiếp đúng như vậy rồi nó mới sáng lên? Tuy là cái nhà tối đó nó tối từ trăm ngàn kiếp rồi, nhưng đem cây đèn vào nó sáng liền, vậy là nó vượt qua trăm ngàn kiếp. Đây cũng vậy, tuy là cái mê đó trải qua vô số kiếp không thể tính kể, mà ngay đây nếu mình giác lại thì vượt qua vô số kiếp liền sáng tỏ trở lại. Như vậy quý vị thấy đâu còn sợ lâu xa nữa, trong nhà Thiền có vị Tăng hỏi Thiền Sư Hy Phụng:
-Đạo Tràng của Phật xưa thì học nhân làm thế nào đến được?
Giống như mình bây giờ, đạo tràng của Ngài Đại Thông Trí Thắng như vậy làm sao đến?
Thiền Sư Hy Phụng bảo rằng:
- Hiện nay ông đang ở đâu?
Ngài không nói làm sao đến mà hỏi: "Hiện nay ông đang ở đâu?". Ngay đây nếu ông nhớ lại thì sao? Thì đang ở Đạo Tràng của Phật xưa rồi, bây giờ ngồi đây mà lo nhớ tới Phật xa xưa đó nên không đến được, quên mất là ngay đây mình nhớ lại, thì mình đang ở đạo tràng của Phật xưa rồi còn gì nữa. Do đó ở đây Phật nói là:
Vô lượng kiếp như thế
Trí vô ngại của Phật
Biết Phật đó diệt độ
Và Thanh Văn Bồ Tát
Như hiện nay thấy diệtThấy diệt như hiện nay vậy thôi, chớ không khác gì hết, đó là quên cái ý niệm lâu mau. Mình mở được trí Phật rồi thì mình vượt qua thời gian, không còn thấy chuyện lâu mau nữa, đó mới là thấy tánh. Như vậy cần nhất là mình thấy tánh, thì giải quyết cái nghi thời gian, nếu mình còn kẹt thời gian lâu mau, tức chưa hợp với tri kiến Như lai.
Ở đây thêm một ý nữa, ngay đây nếu mình tỏ ngộ rồi thì vượt qua vô số kiếp, thấy rõ hiện tiền tức là phá ý niệm xưa đã mất. Mình nghe nói rằng từ lâu rồi bỏ quên mất cái Tri kiến Phật hay mất chơn tâm, nhưng ở đây thấy rõ cũng không có mất đâu. Nếu dùng trí của Như Lai để thấy thì như hiện nay thôi đâu có mất, sở dĩ mất là do mình quên, nếu thấy được như vậy, thì quên cái niệm được - mất, ngay đây tin nhận được như vậy thì sao? Thì được thọ ký liền, đơn giản vậy thôi.
CHÁNH VĂN:
Đức Phật bảo các Tỳ kheo: "Đức Đại Thông Trí Thắng Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, đức Phật đó khi trước lúc ngồi đạo tràng phá quân ma rồi, sắp đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, như thế một tiểu kiếp cho đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân và tâm đều không động mà các Phật pháp còn chẳng hiện ra trước.
Thuở đó, các vị Trời Đao Lợi ở dưới cội cây Bồ Đề đã trước vì đức Phật đó mà trải tòa sư tử cao một do tuần, Phật ngồi nơi tòa này sẽ đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa này. Các trời Tứ Thiên Vương vì cúng dường Phật nên thường đánh trống trời. Ngoài ra các vị trời khác trổi kỹ nhạc trời mãn mười tiểu kiếp đến khi Phật diệt độ cũng lại như thế.
Các Tỳ kheo! Đức Đại Thông Trí Thắng Phật quá mười tiểu kiếp, các Phật pháp hiện ra trước, thành đạo Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Đây Đức Phật nói thêm, đức Phật Đại Thông Trí Thắng đó thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do tha kiếp, trước khi ngồi đạo tràng phá quân ma rồi, sắp đặng đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà Phật pháp cũng chưa hiện ra trước, tức chưa được hiện tiền, trải qua từ một kiếp đến mười tiểu kiếp, ngồi xếp bằng thân tâm không động, mà Phật pháp cũng chẳng hiện ra trước.
Như mình đây ngồi bao lâu thân và tâm không động? Ngồi nửa tiếng thôi thì cũng cựa quậy rồi. Phật thọ năm trăm bốn mươi vạn ức na do kiếp là để chỉ cho Phật ứng duyên mà hiện, cho nên có tuổi thọ chứ sự thật đức Phật mà chân thật đó đâu có tuổi tác gì. Nếu nhận ra Phật thật, Phật đó không có tuổi tác, như vậy sống với ông Phật mà không tuổi tác này sướng hơn, hay sống với cái có tuổi tác này sướng hơn, mà bây giờ đây mình thích sống với cái nào hơn? Bây giờ bảo bỏ cái có tuổi tác này chịu không? Khó mà chịu nổi, bởi vậy khi sắp mất vội kiếm thân khác thế vào cho nên luôn luôn đi trong sanh tử. Chớ còn nhớ ông Phật không tuổi tác mà sống với ông Phật đó, thì cái này còn mất không thành vấn đề.
Phật này khi ngồi đạo tràng phá quân ma sắp được đạo Vô thượng, mà Phật pháp chẳng hiện ra trước, tức là nói lên cái gì? Phật sẵn rồi, còn đợi thành nữa thì sao? Bởi đợi thành nên không hiện tiền nổi. Quý vị ngồi thiền thân tâm mà nó yên lặng rồi, lúc đó đợi Phật hiện nữa thì sao? Thì không thấy Phật. Ngay khi ngồi yên thân tâm không động, ngay đó mà nhận trở lại thì Phật đó sẵn rồi, lại còn đợi hiện tiền nữa, chính cái đợi đó nên không thấy hiện tiền. Tâm chúng sanh chưa thanh tịnh nên chưa tương ứng, chưa hiện tiền, do đó mà còn đợi. Còn ở đây ngồi xếp bằng thân và tâm chẳng động tức là nó rõ ràng, nó sờ sờ đó rồi thì còn đợi gì nữa? Quên cái niệm đợi thì ngay đó hiện tiền rồi, nếu người bén nhạy ngay đây khéo nhận, thì Pháp thân bất động nó sẵn đó rồi, nó hiện ra đó rồi. Đây nói thêm.
Thuở đó, các vị Trời Đao Lợi ở dưới cội cây Bồ đề đã trước vì đức Phật đó mà trải tòa Sư tử cao một do tuần. Phật ngồi nơi tòa này sẽ đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Khi Phật vừa ngồi trên tòa đó các trời Phạm Thiên Vương rưới những hoa trời khắp bốn mươi do tuần, gió thơm lâu lâu thổi đến, thổi dẹp hoa héo rồi rưới hoa mới mãi như thế không ngớt mãn mười tiểu kiếp để cúng dường đức Phật, nhẫn đến khi Phật diệt độ thường rưới hoa này. Đây nói lên ý gì? Ngồi mười tiểu kiếp Phật pháp chẳng hiện tiền, vậy mười tiểu kiếp lúc đó nó ở đâu? Bởi vì nó sờ sờ đó mà mình cứ đợi hoài nên nó không hiện. Bây giờ đây đủ duyên tự khế hợp thì liền thấy nó hiện tiền gọi là được đạo. Vậy để cho thấy, nó sẵn đó, nhưng bởi vì chưa nhận ra cho nên còn đợi, mà chính khi đợi đó không thấy được. Còn khi khế hợp rồi thì hết tâm đợi, ngay đó nó hiện tiền thôi. Rồi Hoa trời rưới khắp, khắp nơi đều ứng hiện việc đó, không có giấu giếm gì hết. Lẽ thật nó chân thật sáng suốt như vậy, Phật cũng chỉ thẳng vậy đâu giấu giếm gì, chỉ còn mình nhớ hay không nhớ thôi. Rồi nói thêm: Các vị trời rưới hoa như vậy mãn mười tiểu kiếp, cho đến đức Phật diệt độ cũng thường rưới hoa này, là nói lên ý gì nữa? Là chỉ cho trước sau cũng chẳng rời một niệm hiện tiền này. Vậy chỉ cần nơi đây chúng ta giác ngộ thì ngay một niệm này là thấy Phật liền, là hoa trời rơi khắp. Rồi đây qua mười tiểu kiếp như vậy đó thì Phật pháp hiện tiền liền thành Phật. Bởi vì lâu nay tập khí mê mờ nó còn, cho nên có đó mà chưa hiện, bây giờ đây khi tập khí hết rồi, chỗ thấy được trọn vẹn rồi thì chánh giác hiện tiền, gọi là hiện ra thôi, chớ có gì đâu. Nếu ngay đây tâm và cảnh đều quên không còn có cái niệm là kia, là đây, là tâm, là cảnh nữa, thì ngay đó tự mình thầm khế hợp với Phật thật, gọi là hiện tiền, chớ không phải có cái gì khác ở đâu đó mà nó hiện đến. Chớ mình nghe nói Phật pháp hiện tiền rồi ngồi đó mà chờ cho nó hiện, thì không biết bao giờ mà nó hiện tới. Nếu ngồi chờ như vậy phải chờ qua mười tiểu kiếp nữa, phải không? Như vậy quý vị thấy Phật pháp đó là cái gì? Ở đâu hiểu chưa?
Cho nên ngày xưa có thị giả của Thiền Sư Điểu Khoà, tên là Hội Thông, ông đến nương Ngài thời gian khá lâu, nhưng chưa được chỉ dạy gì, chưa được sáng Phật pháp, một hôm ông xin từ giã đi, thì Thiền Sư Điểu Khoà hỏi:
- Nay ông định đi đâu?
Ông thị giả trả lời:
- Hội Thông con vì pháp mà xuất gia nhưng Hòa thượng chẳng từ bi chỉ dạy gì hết, nay con xin đi các nơi học Phật pháp.
Thiền sư Điểu Khoà bảo rằng:
- Nếu là Phật pháp, ta trong đây cũng có chút ít.
Thị giả hỏi:
- Thế nào là Phật pháp của Hòa thượng?
Sư liền bứt một sợi lông vải trên áo đang mặc, đưa lên miệng thổi cái "phù."
Ông thị giả liền đại ngộ, thấy được Phật pháp.
Vậy Phật pháp ở đâu? Ngay khi đưa lên thổi, cái gì thổi? Cái gì thấy rõ ràng? Thì ngay đó thôi. Còn mình cứ lo đi học Phật pháp học ở đâu đâu? Học ở trong mấy quyển sách, mấy quyển kinh in ra đó, thì cái đó cũng là Phật pháp nhưng là Phật pháp chết, chớ không phải Phật pháp sống. Phật pháp đó có sanh diệt, bởi vì cái đó để lâu ngày thì mục, mà nếu không kỹ thì bị mối ăn. Vậy Phật pháp đó phải Phật pháp thiệt chưa? Còn cái đang hiện tiền nơi mình đây, thì cái đó có bao giờ mất, có mối ăn được không? Có bao giờ mục không? Vậy không phải là Phật pháp thiệt sao? Cho nên đưa sợi lông lên, ngay đó ông thị giả ngộ liền. Thấy được như vậy thì Phật pháp hiện tiền.
CHÁNH VĂN:
Lúc Phật chưa xuất gia có mười sáu người con trai, người con cả tên Trí Tích, các người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp báu lạ, nghe cha chứng đặng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác đều bỏ đồ báu của mình đi đến chỗ Phật, các người mẹ khóc lóc theo đưa.
Ông nội là Vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhơn dân khác đều vây quanh nhau đi theo đến đạo tràng mọi người đều đến gần gũi đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Khi đã đến nơi tất cả đem đầu mặt mình lạy chơn Phật, đi vòng quanh đức Phật xong, đều chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, rồi nói kệ khen Phật.
GIẢNG:
Đây nói thêm khi Phật chưa xuất gia, có mười sáu người con, người con cả tên Trí Tích, những người con đó đều có các món đồ chơi tốt đẹp. Khi nghe cha xuất gia, chứng đặng đạo quả rồi, thì cũng đều bỏ đồ chơi của mình đi đến chỗ Phật, các người mẹ nghe như vậy khóc lóc theo đưa. Lại có thêm ông nội là vua Chuyển Luân Thánh Vương, cùng một trăm vị đại thần và trăm nghìn muôn ức nhân dân đó cũng đều đi theo đến đạo tràng, rồi cúng dường kính lễ tán thán Phật, trong đó các vị đồng chiêm ngưỡng dung nhan của Phật rồi nói kệ khen Phật. Đó là nói lên ý gì? Người thường tụng kinh Pháp Hoa nghe nói như chuyện của ai, nhưng đâu ngờ lại chính là chuyện của mình hết, mười sáu người con đó cũng của mình luôn. Đại Thông Trí Thắng là chỉ cho cái trí thể chân thật sẵn có nơi mình, mà cái trí thể đó khi chưa xuất gia chỉ cho cái gì? Chưa xuất gia là chỉ cho lúc còn ở trong mê, mình có trí chân thật đó, nhưng còn ở trong mê, nên mình ngồi đây là lúc còn đang chưa xuất gia, khi chưa xuất gia thì sao?- Khi còn trong mê thì trí thể chân thật này gọi là thức, là thức A Lại Da.
- Khi thành Phật thì gọi là trí.
Thức A Lại Da giống như cái kho, nó chứa hết mọi chủng tử là tịnh, là nhơ, là sạch… chứa đủ trong đó hết, cho nên gọi là tàng thức. Bởi vậy quý vị nghĩ gì? Suy gì? Tính gì? Thì nó lọt vào trong đó hết, cho nên lâu lâu nó hiện ra. Chớ không có kho chứa đó thì nghĩ rồi quên, chớ đâu còn nhớ nữa. Như chuyện đó mình bỏ quên năm, mười năm, sau gặp duyên nó nhớ lại, vậy mười năm nó chứa ở đâu? Thì còn rớt trong cái kho này. Trong đây nó có tám dụng gọi là tám thức, cái tàng thức này là cái thức gốc.
Thức thứ bảy gọi là mạt na thức, là thức chấp ngã, cái thức này nó có công dụng ra sao? Nó đưa các chủng tử bên ngoài vào kho đó, rồi lại đem các chủng tử trong kho đó đưa ra. Ví dụ quý vị sáng đi chợ, thấy ai đánh lộn đó thì chiều ngồi nhớ lại cảnh đó, như vậy thấy là mắt thấy thôi, nhưng cái gì mà nó đem vào rồi chiều lại nhớ? Chính là mạt na này, thấy vậy nó đem vô bỏ trong kho này, rồi chiều ngồi yên nó tống ra cho nhớ, cho nên cái thức này gọi là truyền tống thức, nó truyền vào rồi nó tống ra. Nó cũng là thức chấp ngã, bởi vì nó truyền vào cái kho này, rồi nó chấp kho này là thể thật của nó, chấp làm cái ngã của nó. Bởi vậy bình thường giống như mình không thấy thức mạt na này, nhưng khi gặp chuyện nó mới hiện ra. Thí dụ như giờ êm xuôi thì thấy giống như mình vô ngã, nhưng chợt có ai nói đụng tới thì nó mới hiện ra hoặc là lúc bệnh hoạn thì nó mới hiện ra, nó mới sợ mất thân này, sợ chết. Như vậy nó ngầm ngầm ở trong nên khó thấy.
Ý thức là thức thứ sáu, nó là phân biệt, nhưng nó phân biệt bóng dáng thôi. Thí dụ như là buổi sáng mình đi thấy chuyện đánh lộn đó, chiều ngồi lại nhớ, nhớ đó là nhớ cái gì? Cái bóng dáng hồi sáng, chớ đâu phải chuyện hồi sáng, đâu có ngay trước mặt, nhưng cũng phân biệt, rồi buồn vui trong đó.
Còn năm thức trước ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, nó phân biệt năm cảnh trước.Như mắt thấy chuyện đối diện nó phân biệt liền. Vậy nó có tám cái, tám cái đó nó ở trong mê, nhưng khi giác thì sao? Thì nó chuyển thành trí. Thức thứ tám là kho tàng thức đó, nó thành ra đại viên cảnh trí, khi mình giác ngộ rồi thì thành ra giống như cái gương tròn sáng, lúc đó rất là bén nhạy, cái gì mà ứng qua thì nó hiện ra cái gương đó hết, nó không phân biệt như bây giờ phải suy nghĩ mới phân biệt được, lúc đó với trí này không cần khởi phân biệt gì hết, đó gọi là trí của Phật, cho nên Phật biết khắp tất cả là như vậy. Rồi mạt na này khi giác ngộ rồi chuyển thành bình đẳng tánh trí, trí này nó thấy khắp tất cả mình - người đều đồng một thể, nên không còn chấp ngã, phân biệt là ta, là người nữa. Mình còn có chấp ngã nên thấy ta và người khác, khi giác ngộ rồi phá niệm ta người thấy đều bình đẳng hết. Còn ý thức chuyển thành Diệu quan sát trí, tức là trí quan sát thấy rõ tất cả không còn có mê lầm nữa. Năm thức trước chuyển thành Thành sở tác trí, nó phân biệt tất cả cảnh trước trong sáng suốt giác ngộ chớ không mê lầm, nó có dụng ở năm căn thành có năm, cộng chung thành mười sáu nên gọi mười sáu người con là nói chung có chân có vọng trong đó, nhưng mười sáu người con đó đồng một ông cha, là Phật Đại Thông Trí Thắng. Như vậy mình chuyển các thức đó thành các trí, tuy nói tám hay mười sáu cái như vậy, nhưng nó đồng một thể giác thôi. Cho nên nếu mình khéo giác ngộ trở lại cái thể giác chân thật của mình rồi, mình phá được cái niệm phân biệt, chuyển tất cả đồng về một thể giác thôi.
Do đó Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật rồi thì các người con đó sao? Nghe cha thành Phật đều đi theo Phật hết. Đó là chuyển theo Phật. Nhưng ở đây có điểm nữa quý vị nhớ, mười sáu người con đó nhưng người con cả tên gì? Người con cả tên là Trí Tích, Trí Tích tức là cái gì? Tích là chứa nhóm, như vậy khi Phật chưa xuất gia thì có mười sáu người con trai, người con cả tên là Trí Tích, bởi vì cái trí mà nó còn chứa nhóm, còn gom góp, nên trí đó còn ở trong mê, đây là Phật chưa xuất gia. Nếu mà nó sạch hết không còn chứa nhóm, tức là nó chuyển thành trí giác mới theo Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật. Bởi vậy nơi mình đây, cái trí mà nó gom góp, còn chứa nhóm cái này chứa nhóm cái kia, thì trí đó là trí còn trong mê chưa phải trí giác. Như mình học hỏi tức là sao? Tức là cũng gom góp để mà hiểu biết, thì trí này gọi là trí hữu sư. Còn mình nhân cái này mình giác ngộ trở lại để phát hiện ra trí vô sư đó, thì trí này không gom góp vì là trí sẵn có, đó mới là trí chân thật của chính mình.
Bởi vì còn trong mê, cho nên các người con này đều có các món đồ chơi tốt đẹp, thì các người con này chỉ cho những cái thức của mình đang dùng đây, nó đang có các món đồ chơi tốt đẹp không? Nó còn trong mê, thì nó ưa đuổi theo các món dục lạc, tham muốn cái này, tham nhiễm cái kia đối với duyên bên ngoài để mà gom góp chứa nhóm, cho nên gọi là đồ chơi tốt đẹp. Thì mình đây cũng vậy, ai ai cũng đang có đủ các món đồ chơi tốt đẹp, rồi lo theo đuổi phân biệt cái này, đeo đuổi phân biệt cái kia không dừng. Còn nếu giác ngộ trở về Phật thì sao? Bỏ hết đồ chơi tốt đẹp này đi đến chỗ cha, nên các con nghe Phật thành Phật rồi, đều bỏ hết các món đồ chơi tốt đẹp này đi đến chỗ Phật. Rồi các người mẹ thì sao? Khóc lóc theo đưa, các người mẹ đó chỉ cho cái gì? Thường gọi vô minh là cha mà tham ái là mẹ, mà tham ái có nhiều thứ nên có những người mẹ. Bởi vì tham ái là cái khó bỏ, nên ở đây tuy các người con đó theo đến chỗ Phật rồi, nhưng các người mẹ này cũng đi theo tới luôn, là muốn nói tham ái này tuy mình biết, mình giác được, mà không phải là bỏ được liền, nó còn theo đó, song cái khéo ở chỗ là mình biết chuyển tham ái này thành đại từ bi. Bởi khi mê nó là tham ái, nhưng khi giác nó chuyển thành đại từ bi, nó theo giúp cho mình. Khi mê thì tham ái này nó nuôi lớn cái phiền não, cho nên khi mê các người mẹ này nuôi dưỡng mười sáu người con, nhưng khi giác thì tham ái này chuyển thành đại từ bi, chính đại từ bi này nuôi dưỡng Trí Bồ Đề cho mình, Trí Bồ Đề mà thiếu từ bi thì sao? Thì nó đâu có trọn vẹn được. Do đó không bỏ nó đi đâu mà chuyển nó thành đại từ bi, rồi nó sẽ nuôi lớn trí Bồ Đề cho mình, bởi vậy các bà mẹ khóc lóc theo đưa.
Rồi ông nội, một trăm vị đại thần và trăm ngàn muôn ức nhân dân cũng đi theo nữa, thì ông nội đó là ai? Ở đây là chỉ cho mình hết. Trong duy thức học, ngoài thức A Lại Da còn có lập thêm Bạch Tịnh Thức, tức là cái thức thứ chín, thức này nó trong sạch thanh tịnh chưa từng nhiễm ô gọi là chân như. Ở đây khi mà A Lại Da thức nó chuyển thành trí rồi tức chuyển giác rồi, thì một trăm vị đại thần này chỉ cho một trăm pháp ở trong duy thức, duy thức học lập ra một trăm pháp, một trăm pháp đó và các thứ phiền não vi tế nó cũng đều chuyển theo, cho nên ông nội là Chuyển Luân Thánh Vương, một trăm vị đại thần, trăm nghìn muôn ức nhân dân, trăm nghìn muôn ức nhân dân đây chỉ cho những phiền não vi tế, nó đủ thứ hết trong đó, thì nó đều chuyển theo hết trở về một thể nhất như. Như vậy tu thành Phật có buồn không? Cũng đầy đủ hết đâu có thiếu gì, khi mê những cái này là những thứ phiền não, nhưng khi giác rồi nó chuyển thành những cái diệu dụng của mình, cũng đều chuyển về theo thể giác, nên tất cả đều đi theo đến đạo tràng Phật để cúng dường kính lễ. Do đó chúng ta chỉ cần ngộ thể giác này và sống được thể giác này, thì tất cả sẽ chuyển theo hết. Còn nếu quên thể giác này, thì nó phân tán chỗ này, phân tán chỗ kia, nó sẽ chia chẻ có cha có con, có quan có dân, có kẻ gần có người xa, như vậy là sanh ra nhiều thứ rắc rối, tạo thành mọi thứ phiền não đau khổ, chớ có gì đâu. Quý vị thấy, ngay trong nội tâm này có cả một thế giới trong đó, đầy đủ tất cả không phải tìm đâu xa. Do đó học kinh rồi soi lại chính mình mới thấy ý nghĩa kinh rất sâu xa và rất là gần gũi với mình, còn không thì mình tụng kinh thấy như Phật nói chuyện với ai, chứ không nói với mình. Còn đây thấy như vậy là Phật đang nói với mình. Giờ đây tất cả mọi người đều đến gần gũi đức Đại Thông Trí Thắng Phật, rồi đồng nói kệ khen Phật.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn oai đức lớn
Vì muốn độ chúng sanh
Trong vô lượng ức năm
Bèn mới đặng thành Phật
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có
Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể và tay chơn
Yên tịnh không hề động
Tâm Phật thường lặng lẽ
Chưa từng có tán loạn
Trọn rốt ráo vắng bặt
An trụ pháp vô lậuGIẢNG:
Đây thuật lại Phật Đại Thông Trí Thắng:
Vì muốn độ chúng sanh
Trong vô lượng ức năm
Bèn mới đặng thành Phật.Quý vị chú ý "vì muốn độ chúng sanh, bèn mới được thành Phật", Cái thể đó vốn sẵn là thể giác chân thật xưa nay rồi, Phật đó vốn thành Phật sẵn rồi, nhưng vì muốn độ chúng sanh nên mới hiện ra thành Phật. Tức là hiện ra mới thành Phật là nhắc nhở mọi người nhớ trở lại gốc xưa sẵn đó, là muốn nhắc mình và mọi người nhớ lại ông Phật Đại Thông Trí Thắng sẵn nơi mình từ lâu đó, chớ không phải nghe mới thành Phật rồi mình cứ lo chạy theo ra bên ngoài mà suy nghĩ khiến quên mất ý nghĩa chính.
Các nguyện đã đầy đủ
Hay thay lành vô thượng
Thế Tôn rất ít có.
Một phen ngồi mười kiếp
Thân thể và tay chơn
Yên tịnh không hề động
Tâm Phật thường lặng lẽ
Chưa từng có tán loạn.
Trọn rốt ráo vắng bặt,
An trụ pháp vô lậu.Thân tâm Phật lặng lẽ bất động, xảy ra mười tiểu kiếp, cho thấy Phật vốn lặng lẽ ngồi đợi chúng ta từ bao giờ. Phật thân tâm bất động trải qua mười tiểu kiếp đợi mình đó, còn mình thì sao? Chỉ cần nhớ lại thì thấy Phật hiện tiền.
CHÁNH VĂN:
Ngày nay thấy Thế Tôn
An ổn thành Phật đạo
Chúng ta được lợi lành
Mừng rỡ rất vui đẹp.Cho nên thấy Thế Tôn thành Phật rồi, mình liền mừng rỡ nhớ lại Phật của mình.
Chúng sanh thường đau khổ
Đui mù không Đạo Sư
Chẳng biết đạo dứt khổ
Chẳng biết cầu giải thoát
Lâu ngày thêm nẻo ác
Giảm tổn các chúng trời
Từ tối vào nơi tối
Trọn chẳng nghe danh Phật
Nay Phật đặng vô thượng
Đạo an ổn vô lậu
Chúng ta và trời người
Vì đặng lợi lớn tột
Cho nên đều cúi đầu
Quy mạng đấng Vô thượngGIẢNG:
Nghĩa là vì ngay đây thấy Thế Tôn được an ổn thành Phật đạo, mình được cái lợi lành, mừng rỡ vui đẹp vì biết mình có việc đó. Thấy Phật thành đạo, vui mừng nhớ lại lúc xưa của mình, chính nhớ lại gốc xưa của mình đó, cho nên mới bỏ các nẻo khác, để trở về cái gốc chân thật đó. Chính đó là đạo dứt khổ.Cho nên quý vị lo cầu cái này, lo cầu cái kia để dứt khổ, mà không nhớ lại cái này là không bao giờ hết khổ, chính cái này mới là cái gốc đạo dứt khổ chân thật. Như vậy quý vị thấy Phật Đại Thông Trí Thắng và mười sáu vị vương tử, ông nội, nhân dân trong đó hết chưa? Ngay đây là có đủ hết.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ mười sáu vị vương tử nói kệ khen đức Phật rồi liền khuyến thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân, đều thưa rằng: "Đức Thế Tôn nói pháp luân được an ổn thương xót làm lợi ích cho các trời và nhơn dân". Lại nói kệ rằng:
Đức Phật không ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Đặng trí huệ vô thượng
Nguyện vì đời nói pháp
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sanh
Xin phân biệt chỉ bày
Cho đặng trí huệ Phật
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sanh cũng được thế.
Thế Tôn biết chúng sanh
Thâm tâm nghĩ tưởng gì
Cũng biết đạo chúng làm
Lại biết sức trí huệ
Muốn ưa và tu phước
Thế Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng.
GIẢNG:
Ở trước các vị Vương tử gồm mười sáu người, nghe Phật xuất gia cùng đi theo đến chỗ Phật, các người mẹ khóc lóc theo đưa, ông nội là Chuyển Luân Thánh Vương, cùng quan dân cũng đều đi đến chỗ Phật, đồng nói kệ tán thán Phật. Thì trong đây mỗi người, mỗi vị đều hướng về Phật để khen Phật, đó cũng nói lên được ý là, tất cả đồng hướng về thể giác đó, đồng khế hợp với chân như sáng ngời, tức bỏ mê trở về hợp với giác. Nhưng nói trở về đó, chỉ là một cách nói, chớ thật đây xoay đầu ngay đó là bờ mé. Bởi vì Phật đó là của ai? Phật đó là cha của mình từ thuở nào rồi thì xoay về đâu nữa? Chỉ nhớ lại ngay đó đầy đủ ông cha từ hồi nào.Các vị Vương tử nói kệ khen Đức Phật rồi liền thỉnh đức Thế Tôn chuyển pháp luân.
- Ở trước mười sáu vị theo về với Phật, tức là chuyển mê trở về với giác.
- Còn ở đây mười sáu vị Vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, tức là từ thể giác đó mà khởi dụng.
Ứng ra khắp hết tất cả để giáo hóa. Vậy cho thấy thành Phật rồi, cũng không bỏ một pháp gì hết, mà chuyển tất cả đều ở trong ánh sáng giác ngộ đó, nghĩa là khi thành Phật rồi thì mình chuyển tất cả những cái này đều ở trong ánh sáng giác ngộ, chớ không phải thành Phật rồi bỏ cái này thuộc về chúng sanh. Nên có câu:
Trước ba mươi năm, thấy núi sông là núi sông.
Khi học đạo tu hành thấy núi sông không phải là núi sông. Sau ba mươi năm thấy núi sông là núi sông.
Trước thấy núi sông là núi sông: là khi mình còn mê, chấp cái gì cũng là thật, nên thấy núi sông là thật, đó là thấy trong mê.
Kế thấy núi sông không phải là núi sông: là khi học đạo, mình hiểu đạo lý rồi, thì không còn lầm chấp nữa, nên thấy núi sông không phải là núi sông, không thật nữa.
Sau thấy núi sông là núi sông: đây là khi tới chỗ cuối cùng rồi, tức là trở về với cái thật rồi, nhìn ra núi sông vẫn là núi sông, vì tất cả đều ở trong ánh sáng giác ngộ, nên nhìn ra cái gì cũng sáng suốt giác ngộ hết, không còn lầm, không còn chấp nữa.
Đức Phật không ai bằng
Trăm phước tự trang nghiêm
Đặng trí huệ vô thượng
Nguyện vì đời nói phápGIẢNG:
Vì sao Phật không ai bằng, là không bằng ở chỗ nào? Tức là nói lên thể giác này không có cái gì sánh nổi nó, không có cái gì qua thể giác đó, Phật là chỉ cho thể giác đó. Bởi vì chính thể giác này là chỗ độ thoát tất cả, cho nên thế gian không có gì qua được, Phật không ai bằng là như vậy. Trăm phước tự trang nghiêm tức là trong đó đầy đủ công đức và trí tuệ.
Độ thoát cho chúng con
Và các loài chúng sanh
Xin phân biệt chỉ bày
Cho đặng trí huệ Phật
GIẢNG:Đây là nguyện thỉnh Phật, chỉ bày cho tất cả mọi người được trí huệ Phật. Phân biệt chỉ bày tức là đánh thức cho mọi người thấy, nhớ lại tánh giác đó.
Nếu chúng con thành Phật
Chúng sanh cũng được thế.
Thế Tôn biết chúng sanh
Thâm tâm nghĩ tưởng gì
Cũng biết đạo chúng làm
Lại biết sức trí huệ
Muốn ưa và tu phước
Nghiệp gây tạo đời trước
Thế Tôn biết cả rồi
Nên chuyển pháp vô thượng.GIẢNG:
Đức Phật biết hết chúng sanh, nó nghĩ gì? Nó tạo gì? nó gây tạo nghiệp lành, nghiệp dữ gì đều biết hết. Vậy giờ đây mình làm gì? Nghĩ gì? Phật có biết không? Quý vị dám nghĩ bậy nữa không? Đó là ý gì? Là bất cứ mình làm gì, nghĩ gì, cũng không ra ngoài thể giác đó hết. Đây là ngầm nói lên, trong mọi việc làm, mỗi hành vi của mình đều có mang thể giác trong đó, đang sống trong đó mà mình không hay không biết nên gọi là mê. Như vậy là muốn nhắc mình cái gì? Nếu ngay đây mà nhớ lại thì liền gặp Phật, bởi vì mình làm gì Phật cũng đều biết hết rồi, nên mình nhớ lại là gặp Phật liền, nhưng không chịu nhớ. Sau đây là đến phần Phật nhận lời thỉnh.
CHÁNH VĂN:Phật bảo các Tỳ kheo: Lúc Đức Đại Thông Trí Thắng Phật đặng quả Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong mười phương mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi nước Phật sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng của nhựt nguyệt không soi tới đặng mà đều sáng rỡ, trong đó chúng sanh đều đặng thấy nhau, đồng nói rằng: "Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh".
Lại trong các cõi đó cung điện của Chư Thiên cho đến Phạm Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời.
GIẢNG:
Bây giờ đức Phật Thích Ca bảo các Tỳ kheo: khi đức Đại Thông Trí Thắng thành Phật, thì ở trong mười phương, mỗi phương đều năm trăm muôn ức các cõi Phật, sáu điệu vang động. Trong các cõi nước đó chỗ tối tăm ánh sáng mặt trời, mặt trăng không soi tới được, nhưng bây giờ đây đều sáng rỡ hết, rồi chúng sanh trong đó bỗng nhiên đều được thấy nhau, đồng ngạc nhiên đồng nói rằng: "Trong đây tại sao bỗng sanh ra chúng sanh?". Như vậy ai hiểu được cái gì? Phật thành Phật thì ở trong các cõi nước ở mười phương đó, đều sáu điệu vang động, sáu điệu là gì? Sáu điệu đây là sáu thứ tiếng chấn động, trong sáu thứ tiếng này có ba thứ thuộc về âm thanh, và ba thứ thuộc về hình sắc.
Ba thứ tiếng thuộc về âm thanh mà nó làm chấn động là:
Tiếng chấn: là chỉ cho tiếng rung động ngầm ngầm ở bên trong nó phát ra.
Tiếng hống: là tiếng gầm vang lên như tiếng đá nó chạm nhau vang dội vậy.
Tiếng kích: là tiếng đánh tiếng đập mạnh, khiến cho mọi vật nó giật mình.
Ba thứ tiếng thuộc về hình sắc mà nó làm chấn động là:
Tiếng động: là tiếng làm lay chuyển như động đất vậy.
Tiếng khởi: là nó dấy lên, như từ dưới nước dâng lên cao.
Tiếng dũng: là tiếng vọt lên.
Như vậy có ba thứ tiếng thuộc về âm thanh và ba thứ tiếng thuộc về hình sắc, cộng lại có sáu thứ chấn động theo nghĩa đen. Khi đức Đại Thông Trí Thắng thành Phật thì mười phương cõi nước có sáu thứ chấn động, để nói lên ý gì? Bởi vì Đại Thông Trí Thắng thành Phật để chỉ trí thể chân thật của mình nó hiện ra, khi trí thể đó hiện ra, tức nó phá tan hết những cái vô minh cố chấp ngăn ngại, những nghiệp thức mênh mang cũng bị chấn động hết. Đây gọi là rung động tất cả không phải rung động ở một chỗ này thôi, mà rung động cả mười phương nữa. Nghĩa là trí giác đó khi mà nó hiện ra, thì nó phá tan những cái ngăn ngại mê lầm, mà nó suốt hết cả. Vậy trong đây có ai nghe được tiếng vang động đó chút nào không? Vang động cả mười phương, mình đây không nghe tới nổi sao? Cho nên ở đây nếu ai nghe được tiếng động, tiếng vang đó thì thấy được Đại Thông Trí Thắng liền, khỏi cần lấy bộ kinh Pháp Hoa này ra tụng mà cũng gặp Phật được.
Kế là trong cõi nước đó những chỗ tối tăm mà ánh sáng mặt trời mặt trăng không soi tới được, nhưng bây giờ nó sáng lên, rồi chúng sanh trong đó bỗng thấy nhau, như vậy trước giờ ở trong đó mà không thấy nhau bây giờ bỗng thấy nhau, liền ngạc nhiên mới nói: "Bỗng nhiên trong đây sanh ra chúng sanh". Thì chỗ nào là chỗ ánh sáng mặt trời, mặt trăng soi không tới? Đó là chỗ vô minh lậu hoặc của mình phải không? Nghĩa là hằng ngày mình sống trong trí thể sáng suốt này, nhưng mà cứ lầm theo cái vô minh, cho nên không hay không biết gì hết, ánh sáng mặt trời mặt trăng làm sao soi tới chỗ này được. Do vậy hiện nay cho dù chúng ta đang ở giữa trưa đó, mặt trời chiếu sáng ngời, mà cũng là đang đi trong bóng tối. Còn mình mở mắt ngồi nhìn trân trân đó, mà Phật vẫn nói là mù, quý vị thấy đau không? Thật là đau! Bởi vậy Ngài Huyền Sa có lần dạy chúng:- Những bậc Lão Túc ở các nơi nói là tiếp vật lợi sanh, nhưng bây giờ thí dụ chợt gặp người ba thứ bệnh đến làm sao mà tiếp họ? Thí dụ như người mù đến, thì giơ chùy dựng phất họ chẳng thấy, làm sao tiếp? Người bệnh điếc đến, nói năng tam muội thì họ chẳng nghe. Rồi người bệnh câm đến thì bảo họ nói, nói cũng không được, như vậy thì phải làm sao mà tiếp những người này đây? Mà nếu tiếp chẳng được những người này thì Phật pháp không linh nghiệm.
Có vị tăng nghe vậy đem chuyện này đến hỏi Ngài Vân Môn, thì Ngài Vân Môn không trả lời liền, Ngài bảo:
- Thôi ông lễ bái đi!
Vị tăng lễ bái xong đứng dậy, mới vừa đứng dậy Ngài Vân Môn liền lấy cây gậy chận ở trước, ông tăng lùi lại.
Ngài Vân Môn bảo:
- Như vậy ông không phải bệnh mù rồi.
Ngài Vân Môn mới gọi:
- Thôi ông hãy lại gần đây?
Ông tăng liền đến gần.
Sư bảo:
- Ông không phải bệnh điếc.
Rồi Ngài Vân Môn đưa cây gậy lên, Ngài hỏi:
- Ông có lãnh hội hay chăng?
Ông tăng thưa:
- Dạ thưa chẳng lãnh hội.
Sư bảo:
- Vậy ông không phải bệnh câm.
Nghĩa là:
Khi chận cây gậy ông biết lùi lại, thì không phải mù, kêu lại đây ông biết lại gần thì không phải điếc, hỏi có lãnh hội không? Ông thưa: chẳng lãnh hội, thì không phải câm. Như vậy tại sao ông còn chưa chịu hiểu. Ngay đó ông tăng liền tỉnh ngộ.
Có ai tỉnh ngộ chút nào chưa? Thành ra Ngài nói mù, điếc, câm đó là mù, điếc, câm cái gì? Mình nghe nói mù, điếc, câm tưởng là mù mắt, tai điếc, miệng câm, nhưng Ngài muốn nói lên ngay mình có mắt tai và miệng đầy đủ đây mà không thấy, không nhận được thì giống như mù, điếc, câm. Khi giơ gậy thì thấy tránh, rồi bảo lại gần thì biết nghe để đến gần, khi hỏi thì trả lời được, vậy còn gì nữa,thiếu chỗ nào tại sao không nhận, mà không nhận thì không phải là mù điếc câm hay sao? Rõ ràng như vậy thôi, còn nếu nhận thì sao? Thì ngay đó đâu có mù điếc câm gì! Rõ ràng như vậy thôi.
Khi ông tăng nghe như vậy thì tỉnh ngộ liền. Như vậy ở đây Phật Đại Thông Trí Thắng hiện ra thì soi suốt chỗ đó, thể giác hiện ra thì suốt tới những chỗ đó cho nên chúng sanh trong đó thấy nhau. Chỗ này có thêm điểm nữa, chúng sanh ở trong đó nhờ Đại Thông Trí Thắng thành Phật mà soi thấy nhau, còn trước giờ tại sao không thấy? Như vậy trước giờ là cũng sống bên nhau phải không? Sống bên nhau đó mà không thấy, nên bây giờ mới giật mình "ủa! sao mà bỗng sanh ra rõ ràng", vậy quý vị đây lâu lâu có giật mình nói vậy không? Bây giờ quý vị đang ngồi đây, có ai thấy nhau không? Sống ngồi sát bên nhau đó, nhưng mà vì cái vô minh nghiệp lực nó sai khác, mỗi người có những nghiệp riêng, những cái huân tập riêng, cho nên thành cách biệt không thấy được nhau. Ngồi sát bên nhau mà trong đầu không giống nhau nên không thấy được nhau. Thí dụ bây giờ đây tất cả quý vị đều nhìn lên cái bình hoa, mỗi người đều nhìn thì sao? Tất cả nhìn lên bình hoa cũng cùng tánh thấy đó thôi, cũng vậy quý vị đang ngồi nghe giảng cũng đồng tánh nghe đó thôi, mà có thấy nhau không? Không ai thấy được ai, và cũng không cảm thông được nhau, tuy là ngồi sát bên nhau. Còn ở đây, ánh sáng thể giác tức trí Phật hiện ra rồi thì bỗng thấy được nhau, mới rõ ai ai cũng đồng một thể giác đó, thấy được nhau là thấy qua thể giác đó.
Thấy được nhau rồi mới lấy làm lạ, tại sao trong đây bỗng sanh ra chúng sanh? Tức là sao? Chúng sanh nó sẵn đó rồi, lâu nay mình tưởng là không có, bấy giờ mới giật mình, tưởng là ở đâu sanh ra như vậy, nhưng sự thật không ở đâu đến hết, cho nên mới giật mình ngạc nhiên nói "bỗng sanh". Cũng để rõ thêm, chúng sanh vốn không thật có, chỉ do vọng tưởng mà sanh thôi. Nghĩa là trong thể giác chân thật của mình đó, thì nó không thật có chúng sanh, nhưng do vọng tưởng mà nó sanh. Nếu thấy được thể giác này mới rõ xưa nay cũng không có sanh gì? Mọi người cũng đều có chỗ giống như nhau hết rồi. Trong tiểu phẩm Bát Nhã có đoạn Phật dạy rằng:
- "Tất cả chúng sanh xưa nay vốn là thanh tịnh rồi, thì giả sử khiến cho chư Phật ở trong ngàn muôn kiếp mà xướng nói lên rằng: "Chúng sanh! Chúng sanh!" Mà cũng quyết định là không thật có chúng sanh có thể được". Dù cho chư Phật không phải là một vị, mà trăm ngàn vị, không phải là một đời, dù cho trăm ngàn đời, xướng nói lên: Chúng sanh! Chúng sanh! Xướng nói lên như vậy đó mà cũng không thật có chúng sanh nữa.
Vậy thì quý vị tin nổi không? Đó là chúng sanh không thật có, dù cho nói tên chúng sanh mà không phải do nói tên mà nó thành thực có, mình nghe nói chúng sanh mình tưởng đâu có thật chúng sanh, cho nên phải bỏ chúng sanh này mới thành Phật. Còn ở đây nói chúng sanh chẳng qua là cái tên, do mê cái thể giác này, rồi sống theo những cái duyên bên ngoài gọi là chúng sanh vậy thôi, còn nếu ngay đây nhớ trở lại cái thể giác này sống trở lại đó, còn gọi là chúng sanh không? Thì hết gọi chúng sanh. Rõ ràng chúng sanh là cái tên thôi chớ có gì đâu. Cho nên ở đây các vị thấy vậy rồi, giật mình ngạc nhiên nói: tại sao trong đây "bỗng sanh" ra chúng sanh? Bỗng sanh là không gốc gác gì, không có thật, để rõ là quên với nhớ vậy thôi, quên tức không thấy được nhau, không thấy được nhau rồi cứ tưởng riêng biệt, nhớ lại thì đầy đủ tự bao giờ, chớ không phải là mới có. Như vậy ai cũng đều có ánh sáng Phật Đại Thông Trí Thắng đó hết, nhưng mình không nhớ được, nên nó cách biệt nhau, bây giờ giác nhớ lại thì đầy đủ.
Trong nhà Thiền, có ngài Úc Sơn Chủ cảm ngộ, Ngài rất mừng và có làm bài kệ:
Ngã hữu minh châu nhứt loã
Cửu bị trần lao quan tỏa
Kim triêu trần tận quang sanh
Chiếu phá sơn hà vạn đóa.
Nghĩa là:Ta có một viên minh châu, tức viên ngọc sáng, lâu bị bụi lấp vùi sâu, hôm nay bụi hết sáng hiện, chiếu suốt núi sông vạn hữu, tức chiếu suốt khắp cả núi sông.
Giống như mình có tánh giác sẵn, là hòn ngọc sáng nhưng lâu nay bị bụi trần lao vọng cảnh bên ngoài nó lấp, rồi năm ấm này nó che đậy, cho nên không thấy được nó, cũng như không thấy được nhau.
Khi ánh sáng Đại Thông Trí Thắng này hiện ra, nó suốt qua năm ấm, cho nên liền gặp được nhau,mới giật mình, không ngờ từ lâu mình vẫn gần gũi bên nhau thôi. Nếu ai thấy được cái không ngờ này thì thấy được Phật Đại Thông Trí Thắng liền.
Đây là lần thứ hai Phật đã hiển bày cái tri kiến Phật cho mình thấy rồi. Lần đầu Phật hiển bày tri kiến Phật cho mình thấy ở chỗ nào quý vị còn nhớ không? Lần đầu ở Phẩm Tựa đức Phật nơi tướng lông trắng giữa chặn mày phóng ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A tỳ, trên suốt thấu trời sắc cứu cánh, chúng ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia, có người không mắt mà được ánh sáng, thì đó là Phật hiển bày Tri Kiến Phật. Ở đây thêm lần nữa là lần thứ hai vậy mà có ai thấy được chưa? Đây nói thêm.
Lại trong các cõi đó cung điện của Chư Thiên cho đến Phạm Cung sáu điệu vang động, hào quang lớn soi cùng khắp đầy cõi nước, sáng hơn ánh sáng của trời.
GIẢNG:Ánh sáng cõi trời cũng không sáng bằng ánh sáng này, cõi trời là họ tự có ánh sáng, nhưng ánh sáng đó không bằng được ánh sáng này. Vậy cho thấy rõ ánh sáng này là ánh sáng của trí thể giác ngộ của mình, thì không có cái nào sánh kịp, nó lại soi khắp hết tất cả, nên nó vượt lên mọi ánh sáng của thế gian. Những vị trời Phạm Thiên thì họ có ánh sáng, nhưng ánh sáng đó là do phước báu, hoặc do sức thiền định tu hành nó cảm nên. Do phước mà có được, do công phu tu hành mà nó cảm nên, thì cái đó thuộc về cái gì? Thuộc về cái tạo tác cái làm ra, chưa phải là cái thường quang tức là ánh sáng thường hằng. Còn ánh sáng này là ánh sáng chân thật ở nơi mình, nó có sẵn ở nơi mình, cho nên ánh sáng này không bao giờ mất, ánh sáng mà tạo tác thì có lúc phải mất. Mấy vị trời sống hết tuổi trời đọa xuống là mất tiêu, còn ánh sáng này không bao giờ mất, dù xuống địa ngục cũng không mất nữa, mình xuống địa ngục thì mê vậy thôi, mà ánh sáng này cũng không mất, cho nên khi mà giác trở lại thì nó hiện. Vậy cái đó là cái quý, cái quan trọng mà mình lại không ngó ngàng tới, mình lại thích ngó ngàng tới những ánh sáng kia.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ phương Đông năm trăm muôn ức các cõi nước, cung điện của trời Phạm thiên ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày, các Phạm Thiên Vương đều tự nghĩ rằng: "Hôm nay cung điện sáng suốt từ xưa chưa từng có, vì nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này?". Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Trong chúng có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên Cứu Nhứt Thiết vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa có
Đây là nhơn duyên gì
Phải nên chung nhau tìm
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời
Mà ánh sáng lớn này
Khắp soi cả mười phươngBấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước, các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện mỗi vị đều lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đi đến phương Tây suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử ở nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề, hàng Chư Thiên Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn… Cung kính vây quanh đức Phật, và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân, tức thời các vị Phạm thiên vương đầu mặt lạy chơn Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật.
Hoa của mấy ông rải nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây Bồ Đề của Phật, cây Bồ Đề đó cao mười do tuần. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đem cung điện dâng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin đức Phật đoái thương lợi ích cho chúng con, cung điện dâng cúng đây xin nạp ở".
GIẢNG:
Bấy giờ khi Phật thành đạo rồi, ánh sáng rọi đến cung trời, những cung điện đó, bỗng thấy ánh sáng soi chói gấp bội hơn ánh sáng thường ngày. Cho nên các vị trời đều thấy lạ, mới tự nghĩ rằng: Cung điện của mình hôm nay tự nhiên bỗng sáng suốt mà xưa nay chưa từng có, như vậy tức là có nhân duyên gì? Lúc đó các vị phạm thiên vương liền đi đến nhau để chung bàn việc đó, là ý gì?
Ở đây chư Thiên cảm được ánh sáng này liền suy nghĩ, chắc có nhân duyên gì? Bởi vì suy nghĩ có nhân duyên gì, nên phải tìm và đi đến gặp Phật. Đó là ánh sáng Phật này nhắc nhở cho nhớ trở lại cái gốc, tức chỗ Phật phát ra ánh sáng đó, thì gặp được Phật. Cũng như mình hiện bây giờ ánh sáng này nó cũng đang soi đến cung điện mình đang ở, tức là chỗ mình đang sống hằng ngày đây, nhưng ít ai cảm được cái này, do đó có mà cũng như không. Nếu ai cảm được cái này thì tốt biết mấy.
Các vị cùng nhau đến chung bàn việc đó rồi để tìm ánh sáng đó, mỗi vị mới cùng đem cung điện của mình, lấy đãy đựng các thứ hoa trời để đi đến cúng dường. Quý vị thấy mỗi vị đi đến Phật, lấy đãy đựng hoa cúng dường thì dễ hiểu rồi, nhưng đem cả cung điện đi theo nữa thì hiểu nỗi không? Mình đi mà đem theo cung điện, nhà ở, quý vị có khi nào đi đâu mà đem theo nhà để ở không? Ở đây kinh nói vậy thì thấy có lạ chăng? Cho nên nếu tụng kinh theo chữ nghĩa thì chỉ tụng qua qua thôi, chớ đâu nghĩ tới chuyện này. Chư Thiên có phước báu, ở đâu cung điện theo tới đó, nhưng mỗi vị mang cung điện của mình đến đó thì để đâu cho hết? Mỗi vị một cái cung điện đem tới Phật thì để đâu. Hiểu được chỗ đó mới thấy được ý nghĩa sâu trong này.
Bởi vì ở trong ánh sáng của Phật, thì mọi thứ, mọi cảnh, mọi sắc, mọi vật này có gì ngại nhau không? Sở dĩ mình thấy cái nhà này nó lớn, còn nhà kia nó nhỏ, có ngăn, có ngại, cho nên đem hết nhà đó dồn một chỗ thì làm sao nó chứa hết. Đó là thấy theo con mắt phàm phu của mình. Còn trong ánh sáng giác ngộ của Phật, thì tất cả sắc đều là sắc tức không. Cho nên dù trăm ngàn muôn ức cung điện ở trong đó cũng không ngăn ngại, không có lớn nhỏ. Vì vậy các vị đem cung điện tới cũng không ngăn ngại là như vậy đó. Tới đức Phật Đại Thông Trí Thắng, tức là ở trong ánh sáng của giác ngộ, mà trong ánh sáng đó thì không có lớn nhỏ, bởi vì ánh sáng đó đâu có hình tướng gì. Ví dụ như bây giờ chưa nói tới ánh sáng của giác ngộ, mà chỉ nói đến ánh sáng tâm phàm phu của mình thôi, quý vị để mấy cung điện đó vô hết không? Cũng hết luôn, quý vị ngồi tưởng cung điện này, rồi đến cung điện khác, tưởng một lúc cả chục cung điện cũng tưởng được hết, ngồi đây mà tưởng đến sao Hỏa cũng tưởng được nữa, thì cũng chung vô cái tưởng đó hết. Vậy có ngăn ngại chỗ nào đâu. Ngay tâm chúng sanh còn chứa vậy, huống là ánh sáng Phật thì đâu có gì mà ngăn ngại trong đó, thấy được như vậy thì mới thấy được chỗ vi diệu của trí tuệ Phật. Bởi vậy khi kẹt trên tướng thì liền thấy có ngại, thấy trở về tánh thì không ngại, đó là một điểm.
Rồi một điểm nữa, là các vị từ phương Đông đi về phương Tây để tìm tướng của ánh sáng đó, thì gặp Phật Đại Thông Trí Thắng, đó là ý gì? Đó là muốn chỉ cho mình trở về nguồn, trong Tín Tâm Minh có câu:
Về nguồn thì được chỉ
Theo chiếu thì mất tôngTức là trở về nguồn thì nhận được ý chỉ, còn nếu theo duyên bên ngoài (tức là chiếu) thì mất gốc (mất tông). Nghĩa là mình theo duyên thì quên chân thật, mình trở lại nguồn thì sẽ thấy được Phật, mình nếu đuổi theo ánh sáng đó thì sao? Nếu thấy ánh sáng đó mà chạy đuổi qua bên này, đuổi qua bên kia tìm thì không bao giờ thấy, mà phải phăng lại cái chỗ phát ra nó, cho nên ở phương đông thì thấy ở phương tây, tiến tới phương tây tìm là thấy. Ở đây các vị trời này về phương tây gặp được Phật, bèn đem cung điện của mình dâng cúng Phật, cung điện đem dâng Phật, thì để ở đâu? Cung điện là chỗ ở của mình, dâng cúng Phật là xả chỗ ở tức bỏ chỗ ở, không có chỗ bám, hết chỗ để duyên thì hợp với Phật, còn tiếc cung điện không dám dâng thì sao? Thì làm sao gặp Phật nổi. Nếu nghĩ theo tâm phàm phu của mình, thấy mấy vị đó dâng cung điện rồi làm sao? Ở đâu đây? Đó là nghĩ theo cái ngã của mình, là phải có chỗ ở, bây giờ bỏ nó lấy đâu ở? Dâng cung điện rồi còn ở chỗ nào? Là còn nhớ "cái ta" này, còn cái ta này thì làm sao thấy được Phật? Còn đây xả chỗ ở tức xả chỗ duyên đó, thì mới gần được Phật, quên chỗ tựa thì mới trở về trí thể giác ngộ chân thật, đó mới là chỗ mình nương tựa vững vàng, còn cung điện này tuy là nó tốt đẹp, nhưng do cái phước mà có, khi hết phước rồi nó cũng mất. Vậy quý vị ở đây có ai dám quên cung điện đó chưa? Nếu dám xả cung điện đó thì sẽ gặp Phật. Bởi vậy Thiền Sư Thạch Đầu, một hôm Ngài gạn hỏi Ngài Duy Nghiễm Dược Sơn:
- Gần đây chỗ thấy của ông như thế nào?
Ngài Dược Sơn thưa:
- Da dày, da mỏng đều rớt sạch hết, chỉ còn một chân thật thôi.
Ngài Thạch Đầu bảo:
- Vậy chỗ ông đã được hợp cùng tâm thể bủa khắp cả tứ chi, ông nên đi độ người đi, chớ có ở đây nữa.
Nghĩa là:
Da dày da mỏng đều rớt sạch: tức là không còn chỗ gì để bám hết, chỉ còn cái chân thật thôi, vậy ông ra độ đời được rồi. Tức là phải thấy rớt sạch hết, không còn gì để bám, thì mới khế hợp trọn vẹn với Phật, cho nên đây Ngài Thạch Đầu mới bảo: "Cái thấy của ông như vậy nó hợp cùng tâm thể, nó bủa khắp cả tứ chi", tức là nó bủa khắp hết,thấy như vậy mới thấy thấu triệt.
CHÁNH VĂN:Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Thế Tôn rất ít có
Khó thể gặp gỡ đặngThế Tôn chỉ cho Phật, Phật là cái thể giác, thể giác này khó thấy khó nhận, nên nói ít có là như vậy.
Đủ vô lượng công đức
Hay cứu hộ tất cả
Thầy lớn của Trời người
Thương xót ở trong đời
Mười phương các chúng sanh
Khắp đều nhờ lợi íchLại là thầy lớn của Trời, người nữa, thế gian không có gì sánh kịp chỗ này hết. Bởi vậy mười phương các chúng sanh nhờ đó mà được lợi ích.
Chúng con từng theo đến
Năm trăm muôn ức nước
Bỏ vui thiền định sâu
Vì để cúng dường Phật
Chúng con phước đời trước
Cung điện rất tốt đẹp
Nay đem dâng Thế Tôn
Cúi xin thương nạp thọ.Các Ngài nói rằng:
Năm trăm muôn ức nước
Bỏ vui thiền định sâuNghĩa là các vị Phạm Thiên Vương, các Ngài sống ở cõi trời sắc giới có tu thiền định, và do sức thiền định nên sanh được chỗ đó, các Ngài sống vui trong thiền định đó. Nhưng bây giờ cái vui thiền định đó cũng bỏ luôn, mà đi về chỗ Phật, thì quý vị thấy muốn nói lên điều gì để nhắc nhở mình?
Nghĩa là từ các cõi nước xa, năm trăm muôn ức cõi nước, bỏ vui thiền định sâu, các Ngài vượt qua muôn thứ cảnh duyên, không dừng lại ở nửa chừng mà đi thẳng đến chỗ Phật, cũng không đắm nhiễm ở trong thiền định, vì thiền định này là do công phu tu tập mà được, nên chưa phải là cái thật, cái định đó còn có chỗ bám, phải trở về với Phật này thì mới thật.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều thưa rằng: "Cúi xin Thế Tôn chuyển pháp luân, độ thoát chúng sanh mở đường Niết Bàn".
Khi ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Thế Hùng Lưỡng Túc Tôn
Cúi xin diễn nói pháp
Dùng sức từ bi lớn
Độ chúng sanh khổ nãoLúc đó Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai lắng yên nhận lời đó.
GIẢNG:
Các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen Phật xong, rồi xin Phật chuyển pháp luân để độ thoát chúng sanh mở đường Niết Bàn. Nhưng quý vị nghe như vậy thì có nghi cái gì không? Thỉnh Phật chuyển pháp luân độ thoát chúng sanh, mở đường Niết Bàn. Nhưng đường Niết Bàn ở đâu mà mở? Bởi vì học kinh mà học theo chữ nghĩa, nó dễ mắc kẹt. Nghe nói mở đường Niết Bàn thì suy nghĩ không biết đường đó ở đâu? Rồi lo kiếm đường để mở thì suốt kiếp cũng không thấy được. Mà chính là sao? Là ở ngay đây thôi, chính ngay thấy nghe hiểu biết này, mà mình quên chỗ duyên đi, cũng như quên cung điện, quên chỗ ở đi, thì đó là mở đường Niết Bàn ngay. Còn mình luôn luôn thấy nghe là có chỗ ở hết. Thấy cái hoa là ở nơi cái hoa nên không thấy niết bàn. Bởi vậy có một vị tăng hỏi Thiền Sư Càn Phong, dẫn trong kinh Lăng Nghiêm nói rằng:- Mười phương Bạc già Phạm, tức mười phương Chư Phật Thế Tôn, đều đồng một con đường Niết Bàn, mà đầu đường ở đâu?
Vì trong kinh Lăng Nghiêm nói là mười phương chư Phật đều đồng đường Niết Bàn. Cho nên đây hỏi: Vậy đầu đường ở đâu?
Ngài Càn Phong cầm cây gậy vạch một đường trên hư không, nói:
- Đây này!
Thì quý vị thấy đầu đường Niết Bàn không? Nếu theo cây gậy đó để thấy thì mê đường, còn ngay cây gậy đó mà quên cây gậy thì thấy được đầu đường Niết Bàn. Bởi vì theo cây gậy là có chỗ ở, còn quên cây gậy là quên chỗ ở thì thấy được đường Niết Bàn liền, thấy là thấy như vậy, mở là mở như vậy, tìm chỗ mở thì đó là mê, đó là qua các vị ở phương Đông.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa Các Tỳ kheo! Phương Đông nam năm trăm muôn ức cõi nước các vị Phạm Thiên Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hi hữu liền cùng đến nhau chung bàn việc đó. Lúc ấy trong chúng đó có một vị Phạm thiên Vương tên là Đại Bi, vì các Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Việc đó nhơn duyên gì
Mà hiện tướng như thế?
Các cung điện chúng ta
Sáng suốt xưa chưa có
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời?
Chưa từng thấy tướng này
Nên chung một lòng cầu
Quá nghìn muôn ức cõi
Theo luồng sáng tìm đó
Phần nhiều Phật ra đời
Độ thoát khổ chúng sanh.Bấy giờ, năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng chung với cung điện, lấy đãy đựng các thứ hoa trời, đồng đến phương Tây bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa Sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề, các hàng chư thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn… cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi ấy các vị Phạm thiên Vương đầu mặt lạy chơn Phật, đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao, cùng để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin Phật thương xót lợi ích cho chúng con, những cung điện dâng đây cúi xin nhận ở".
GIẢNG:
Đây các vị ở phương Đông Nam, cũng thấy ánh sáng như vậy cũng vui mừng, nhưng cũng không hiểu vì nhơn duyên gì, nên đến cùng bàn bạc. Đó là điểm chỉ cho mình phải nghiệm ra. Nghĩa là thấy thì thấy như vậy, cũng thắc mắc không biết nhân duyên gì, đến cùng nhau bàn bạc, nhưng bàn bạc cũng không đến nơi được, chỉ có thấy ánh sáng phải tìm trở lại gốc đó thì mới rõ thôi, còn bàn bạc cách mấy cũng không thể đến. Đó là muốn nói lên cái gì? Cái này là phải sống phải tu, không phải ngồi đó mà lý luận bàn bạc suông. Ở đây ngồi mà bàn về Phật suốt đời cũng không thấy được Phật, mà phải tìm đến. Cho nên ở đây phải theo ánh sáng đó tìm lại nguồn mà nó phát ra.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thánh Chúa vua trong trời
Tiếng Ca lăng tần già
Thương xót hàng chúng sanh
Chúng con nay kính lễGIẢNG:
Các Ngài tán thán Phật là bậc Thánh Chúa vua trong trời. Tức là trời mà Ngài còn là vua trong các trời nữa, để nói Phật tự tại trong ba cõi, trời cũng không sánh kịp.
CHÁNH VĂN:Thế Tôn rất ít có
Lâu xa một lần hiện
Một trăm tám mươi kiếp
Luống qua không có Phật
Ba đường dữ dẫy đầy
Các chúng trời giảm ít
GIẢNG:Các Ngài tán thán Phật ít có, lâu lâu có một lần hiện ra, một trăm tám mươi kiếp qua không có Phật, những người làm ác đọa đường dữ nhiều, trời giảm ít, quý vị đọc chỗ này có nghi không? Một trăm tám mươi kiếp luống qua không có Phật, thật sự không có Phật chăng? Cho nên học mấy chỗ này phải đọc cho thật kỹ, không có Phật đó là theo tình mê mà nói, vì mê cho nên không thấy, mới nói rằng không có Phật. Nếu nhìn chỗ ánh sáng giác ngộ thì sao? Có lúc nào là không Phật. Nếu giác ngộ mà thấy có lúc không có Phật thì lúc đó là mê, mê cho nên không thấy Phật, đó không phải là thường giác rồi. Nếu thường giác thì lúc nào cũng có Phật, vì Phật này không phải chỉ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, mà Phật đây là ánh sáng giác tức tánh giác, tánh giác có lúc nào không có. Dù trong lúc mê cũng đâu có thiếu. Cho nên nhìn theo ánh sáng giác ngộ thì không chỗ nào thiếu, vì vậy mà ở kinh Hoa Nghiêm có bài kệ:
Nhứt thiết pháp bất sanh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược nhân như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền
Nghĩa là:Tất cả pháp chẳng sanh
Tất cả pháp chẳng diệt
Nếu người hiểu như vậy
Chư Phật thường hiện tiền.
Nếu ai mà hiểu, thấy tất cả pháp chẳng sanh chẳng diệt đó, thì thấy Phật thường hiện tiền, còn mình thì sao? Thì thấy có sanh có diệt, tức là thấy theo sanh diệt là còn có thấy lúc có lúc không. Nếu mình quên cái thấy sanh diệt thì lúc nào Phật cũng hiện tiền hết. Hiểu như vậy thì quý vị thấy ở đây nói luống qua không có Phật là nói theo lúc mê, bây giờ thì:
CHÁNH VĂN:Nay Phật hiện ra đời
Làm mắt cho chúng sanh
Chỗ quy thú của đời
Cứu hộ cho tất cả
Là cha của chúng sanh
Thương xót làm lợi ích
Nhờ phước lành đời trước
Nay đặng gặp Thế Tôn
GIẢNG:
Tức Phật hiện ra đời mở mắt sáng cho mình, làm mắt cho chúng sanh, đó là chỗ nương về của mọi người hay là chỗ quy thú của đời. Nghĩa là nhờ ánh sáng giác ngộ đó, nó mở đường cho mình phá được những lầm lẫn, những tối tăm vô minh, là chỗ để mình nương về sống vĩnh viễn, không còn đi lầm lạc nữa.CHÁNH VĂN:
Khi đó, các vị Phạm thiên Vương nói kệ khen Phật xong đều thưa rằng: "Cúi xin đức Thế Tôn thương xót tất cả chuyển pháp luân cho, để độ thoát chúng sanh".
Lúc ấy, các vị Phạm thiên Vương một lòng đồng tiếng mà nói kệ khen rằng:
Đại Thánh chuyển pháp luân
Chỉ bày các pháp tướng
Độ chúng sanh đau khổ
Khiến đặng rất vui mừng
Chúng sanh nghe pháp này
Đặng đạo hoặc sanh thiên
Các đường dữ giảm ít
Bực nhẫn thiện thêm nhiềuKhi đó đức Đại Thông Trí Thắng Phật lặng yên nhận lời.
Lại nữa các Tỳ kheo! Năm trăm muôn ức cõi nước ở phương Nam các vị Đại Phạm Vương đều tự thấy cung điện mình ánh sáng chói lòa từ xưa chưa có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu liền đến cùng nhau chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng chói này?
Trong chúng đó có một vị Phạm Thiên Vương lớn tên là Diệu Pháp, vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Các cung điện chúng ta
Quang minh rất oai diệu
Đây không phải không nhơn
Tướng này phải tìm đó
Quá hơn trăm nghìn kiếp
Chưa từng thấy tướng này
Là trời đại đức sanh
Hay đức Phật ra đời ?
GIẢNG:Ở phương Nam các vị cũng vậy, thấy tướng sáng đó cũng nghi, thắc mắc có nhân duyên gì? Cùng bàn đi tìm tướng đó, nghĩa là thấy có tướng sáng này, nghi có gốc gì đó nên mới phát ra ánh sáng này, cho nên gọi là: "Đây không phải không nhơn". Nhưng không biết ở đâu? Do từ lâu mê lầm, nhưng bây giờ đây khi thấy tướng này rồi, tức là có một điềm tốt, điềm lành, là điềm báo trước mình có cơ hội để thấy Phật.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, năm trăm muôn ức Phạm thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương Bắc suy tìm tướng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội cây Bồ Đề, hàng Chư thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn và phi nhơn… cung kính vây quanh, cùng thấy mười sáu vị vương tử thỉnh Phật chuyển pháp luân.
Khi đó, các vị Phạm thiên Vương đầu mặt lễ Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời mà rải trên đức Phật. Hoa rải đó nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, mỗi vị đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà thưa rằng: "Xin đức Phật đoái thương lợi ích chúng con, cung điện của chúng con dưng đây cúi xin nạp xử". Bấy giờ các vị Đại Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng nói kệ khen rằng:
Thế Tôn rất khó thấy
Bực phá các phiền não
Hơn trăm ba mươi kiếp
Nay mới thấy một lần
Hàng chúng sanh đói khát
Nhờ mưa pháp đầy đủ
Chỗ xưa chưa từng thấy
Đấng vô lượng trí huệ
Như hoa ưu đàm bát
Ngày nay mới gặp gỡ
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang được đẹp
Thế Tôn đại từ mẫn
Cúi xin thương nhận ở.
GIẢNG:Đây khen đức Thế Tôn rất khó thấy, không thể nhìn bằng mắt phàm mà thấy được.
Hơn trăm ba mươi kiếp
Nay mới thấy một lầnLâu rồi mới thấy một lần nhưng mà quý vị nghĩ coi có thấy lần thứ hai không? Chỗ này là chỗ mình tu hành đó. Thấy Phật rồi nếu mà thấy lần thứ hai thì sao? Nếu thấy lần thứ hai là có thêm cái nữa. Cái thể giác này thấy nó là thấy một lần thôi, nếu thấy lần thứ hai nữa là có hai thể giác, mà có hai thể giác tức là thể giác đó là cái của ai rồi. Cho nên đừng ngồi đó mà trông thêm lần nữa, chỉ có thấy rồi thì sống với cái thấy đó thôi, còn mong có thấy lần thứ hai nữa, thì không phải rồi, nhớ như vậy đó. Ở đây thấy như vậy đó là chỗ xưa nay chưa từng thấy, tức là mình chưa hề nghĩ tới, hay suy tưởng đến được. Bây giờ nhận ra là bất ngờ ngoài sức tưởng tượng. Ở đây cung điện cũng dâng luôn là buông cả chỗ ở.
CHÁNH VĂN:Khi đó các vị Phạm thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi đều bạch rằng: "Cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân làm cho tất cả thế gian các hàng trời, ma phạm, sa môn, bà la môn đều được an ổn mà được độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương một lòng đồng tiếng nói kệ rằng:
Cúi mong Thiên nhơn Tôn
Chuyển pháp luân vô thượng
Đánh vang pháp cổ lớn
Mà thổi pháp loa lớn
Khắp rưới pháp vũ lớn
Độ vô lượng chúng sanh
Chúng con đều quy thỉnh
Nên nói tiếng sâu xaKhi đó đức Đại Thông Trí Thắng lặng yên nhận lời đó.
GIẢNG:
Bài kệ này có mấy điểm cần nhấn mạnh là:
Thiên nhơn Tôn: bậc tôn quý trong trời và người.
- Đánh vang pháp cổ lớn: là trống pháp lớn đánh cho nó vang động xa gần, khích lệ mình vươn lên, để mình tỉnh giác trở về.
- Thổi pháp loa lớn: là kèn lớn, như kèn hiệu lệnh ngày xưa, đây kêu gọi tất cả hướng về chỗ giác đó.
- Rưới pháp vũ lớn: là mưa pháp lớn rưới khắp hết xa gần, để cho mọi người được thấm nhuần, chớ không bỏ xót ai, chỉ có người cảm nhận hay chưa cảm nhận mà thôi.
Đây là những lời tán thán Phật nhưng cũng là điều nhắc nhở mình tỉnh giác trở về cái chân thật sẵn có nơi mình.
CHÁNH VĂN:
Phương Tây Nam nhẫn đến phương dưới cũng lại như thế.
Bấy giờ, năm trăm muôn ức cõi nước ở thượng phương, các vị Đại Phạm Thiên Vương thảy đều tự thấy cung điện của mình ở ánh sáng chói rực từ xưa chưa từng có, vui mừng hớn hở sanh lòng hy hữu, liền đi đến nhau để chung bàn việc đó. Vì nhơn duyên gì cung điện của chúng ta có ánh sáng này? Lúc đó trong chúng có một vị Đại Phạm Thiên Vương tên là Thi Khí vì hàng Phạm chúng mà nói kệ rằng:
Nay vì nhơn duyên gì
Cung điện của chúng ta
Ánh sáng oai đức chói
Đẹp đẽ chưa từng có?
Tướng tốt như thế đó
Xưa chưa từng nghe thấy
Là trời đại đức sanh
Hay là Phật ra đời ?Bấy giờ năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương cùng cung điện chung, mỗi vị đều dùng đãy đựng các thứ hoa trời đồng đến phương dưới suy tìm tướng sáng đó. Thấy đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai ngồi tòa sư tử nơi đạo tràng dưới cội Bồ Đề, hàng Chư Thiên, Long Vương, Càn thát bà, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn và phi nhơn… cung kính vây quanh và thấy mười sáu vị vương tử thỉnh đức Phật chuyển pháp luân.
Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương đầu mặt lạy Phật đi quanh trăm nghìn vòng, liền lấy hoa trời rải trên đức Phật. Hoa rải nhóm như núi Diệu Cao và để cúng dường cây Bồ Đề của Phật. Cúng dường hoa xong, đều đem cung điện dưng lên đức Phật mà bạch rằng: "Xin đoái thương lợi ích chúng con, cung điện dưng đây cúi mong Phật nạp ở".
Lúc đó các vị Phạm Thiên Vương liền ở trước Phật một lòng đồng tiếng dùng kệ khen rằng:
Hay thay! Thấy các Phật
Đấng Thánh Tôn cứu thế
Hay ở ngục tam giới
Cứu khỏi các chúng sanh
Thiên nhơn tôn trí khắp
Thương xót loài quần manh
Hay khai môn cam lộ
Rộng độ cho tất cả
GIẢNG:
Đây là khen đức Phật ở trong tam giới, mà cứu độ tất cả chúng sanh.- Thiên nhơn Tôn trí khắp: Phật là bậc tôn quý trong trời người, trí của Phật soi khắp hết. Nghĩa là người khéo nhận thì đâu đâu cũng đều cảm nhận được.
- Thương xót loài quần manh: là chỉ cho mình còn ở trong mù tối, không đủ trí tuệ.
- Cam lộ: là chỉ cho chỗ này uống vào thì được trừ đói khát, đói khát này là chỉ cho lang thang trong tam giới đi tìm cầu không dứt, quên mất của báu chính mình.
CHÁNH VĂN:Lúc xưa vô lượng kiếp
Luống qua không có Phật
Khi Phật chưa ra đời
Mười phương thường mờ tối
Ba đường dữ thêm đông
A tu la cũng thạnh
Các chúng trời giảm bớt
Chết nhiều đọa ác đạo
Chẳng theo Phật nghe pháp
Thường làm việc chẳng lành
Sắc, lực, cùng trí huệ
Các việc đều giảm bớt
Vì tội nghiệp nhơn duyên
Mất vui cùng tưởng vui
Trụ trong pháp tà kiến.Tức là không có trí tuệ, nên lầm lạc tạo những nghiệp dữ sai lầm.
Mất vui mà tưởng vui: Mất vui là sao? Mất vui chân thật của mình, cái vui chân thật của mình mà mình quên mất nó đi, lại làm theo vọng tưởng là làm theo cái ngã giả dối này, nó vốn là gốc khổ mà mình tưởng vui.
CHÁNH VĂN:Chẳng biết nghi tắc lành
Chẳng nhờ Phật hóa độ
Thường đọa trong ác đạoNghi tắc lành: là những pháp lành mình sống được an vui.
Phật là mắt của đời
Lâu xa mới hiện ra
Vì thương các chúng sanh
Nên hiện ở trong đời
Siêu việt thành chánh giác
Chúng con rất mừng vui
Và tất cả chúng khác
Mừng khen chưa từng cóỞ đây thấy Phật ra đời thì mừng, vì đó là bậc siêu việt thành chánh giác, tức là ở trong thế gian mà vượt khỏi thế gian, không bị trói buộc trong thế gian.
Cung điện của chúng con
Nhờ hào quang nên đẹp
Nay đem dâng Thế Tôn
Cúi mong thương nhận ở (Cũng xả cung điện luôn)
Nguyện đem công đức này
Khắp đến cho tất cả
Chúng con cùng chúng sanh
Đều đồng thành Phật đạo.
GIẢNG:Bốn câu cuối là bài hồi hướng mình thường đọc.
Nguyện đem công đức này
Hướng về khắp tất cả
Đệ tử cùng chúng sanh
Đều trọn thành Phật đạo.
Khác mấy chữ do cách dịch, là xả cái tâm hẹp hòi của mình, nghĩa là bao nhiêu công đức này nguyện hướng về khắp tất cả, mình và chúng sanh, chớ không phải là một mình tôi hưởng thôi, quên bớt cái ta này mà hướng về tất cả, đó là mở rộng tấm lòng của mình.
CHÁNH VĂN:
Khi đó năm trăm muôn ức các vị Phạm Thiên Vương nói kệ khen đức Phật rồi, đều bạch Phật rằng: "Cúi mong đức Thế Tôn chuyển pháp luân, nhiều chỗ an ổn, nhiều chỗ độ thoát". Lúc ấy các vị Phạm Thiên Vương đồng nói kệ rằng:
Thế Tôn chuyển pháp luân
Đánh trống pháp cam lồ
Độ chúng sanh khổ não,
Mở bày đường Niết Bàn
Cúi mong nhận lời con
Dùng tiếng vi diệu lớn
Thương xót mà nói bày
Pháp tu vô lượng kiếp.
GIẢNG:
Các vị Phạm thiên Vương đồng nói kệ thỉnh Phật chuyển pháp luân, đánh trống pháp cam lồ cho vang dội hết khắp tất cả, khiến ai ai còn đang ngủ mê cũng đều được tỉnh dậy, và mở bày đường Niết Bàn, dùng tiếng vi diệu lớn mà thương xót đến mọi người, nhưng tiếng vi diệu lớn, là tiếng gì? Là chỉ cho tiếng mà không tiếng, tiếng mà nó bặt chỗ nơi, bặt nghĩ lường, ai nghe được tiếng này liền vượt lên bờ giác, nghe Phật thì phải nghe được tiếng đó. Nhiều khi mình nghe nói tiếng vi diệu, cứ tưởng là âm thanh của cõi trời nào đó, rồi ngồi để lóng nghe đó là lầm.Vậy tất cả các vị Phạm Thiên, phương Đông, phương Tây, phương Nam, phương bắc, bốn phương cùng các phương trên dưới, tức là mười phương cảm được ánh sáng đó, suy nghĩ cùng bàn để tìm chỗ phát ra ánh sáng đó, thì gặp Phật Đại Thông Trí Thắng cùng mười sáu vị vương tử, đại chúng vây quanh cúng dường dâng cung điện. Ở đây có khác gì với phẩm Tựa không?
Ở phẩm Tựa, Phật chỉ phóng hào quang về phương Đông, chiếu suốt một số cõi nước, còn ở đây không có phóng, khi thành Phật rồi thì ánh sáng đó nó rọi khắp cả mười phương. Ở trước chỉ có phương Đông thôi, còn đây hết cả mười phương, vậy quý vị thấy được gì chưa? Ở trước mới vô nên chỉ phóng ánh sáng đó thôi, tức ánh sáng Phật phóng về phương Đông, người lanh lợi bén nhạy, thì ngay đó nhận ra rồi. Do đó Ngài Xá Lợi Phất được Ngài Văn Thù khơi dậy thì nhận ra, còn Ngài Văn Thù, Ngài thấy là nhận được liền. Cho nên phóng ánh sáng phương Đông thôi, khi biết được ánh sáng đó thì biết đó không phải là ánh sáng theo thế thường, mà đó là ánh sáng giác ngộ, ánh sáng chân thật nơi mình. Nhưng những người chậm lụt chưa nhận được, cho nên tới đây cả mười phương đều sáng hết, như vậy đâu đâu cũng đều lộ bày ánh sáng đó. Tức là Phật tận tình bày hết ruột gan rồi, vậy mình chưa nhận còn đợi gì nữa. Ở trên kia chỉ góc phương Đông thôi, còn ở đây cả mười phương đều lộ hết, thì chỗ mình đây có không? Vậy chưa chịu nhận, còn đợi đi đâu nữa. Chỉ cần mở mắt ra thôi, chớ khỏi tốn công đi đâu tìm nữa.
Trong đây các vị ở phương Đông thì sao? Phương Đông thì theo ánh sáng về phương Tây. Còn phương Tây thì ngược lại tìm về phương Đông, phương Bắc tìm về phương Nam, phương Nam ngược lại, tìm về phương Bắc, vậy tìm đi đâu? Cũng như phương Đông Nam thì phải tìm ngược lại Tây Bắc, phương dưới thì tìm lên trên, phương trên thì tìm về trở lại xuống dưới. Vậy cuối cùng tìm ở đâu? Đó là chỉ cái gì? Để chỉ nó không có chỗ nơi nào cố định hết. Tùy theo chỗ đứng, chớ nó không có trong một cái khuôn chết, mà nó là luôn luôn sống động sáng ngời, nhất là không rời chính mình. Chỉ cần ngay đây một niệm lặng lẽ thì thầm khế hợp, khỏi đi tìm đâu hết. Mà thầm hợp chỗ đó thì sẽ cảm đến chỗ gì? Sẽ cảm đến chỗ Phật im lặng nhận lời chuyển pháp luân. Có câu chuyện trong thời đức Phật, ở cửa Đông thành Thất La Phiệt có một bà già sanh ra cùng một ngày, một giờ với Phật, nhưng có điều là bà không muốn gặp Phật, Phật tới là bà tránh. Có lần Phật dùng sức thần, bà đi đâu cũng gặp Phật hết, bà tránh bên nào thì bên đó bà nhìn cũng thấy Phật, cuối cùng bà không biết sao, bà lấy hai tay bụm che mặt lại, nhưng cũng thấy Phật xuất hiện trong mấy ngón tay luôn nữa, như vậy là sao? Có giống như mình không? Nghĩa là lúc nào quay qua ngó lại mình cũng gặp Phật, nhưng mà luôn luôn tránh Phật, không dám nhìn Phật. Đó là nói lên mình có tánh giác đầy đủ và luôn sống trong tánh giác đó, nhưng không bao giờ nhận mà cứ quên luôn, rồi sống với những tâm chúng sanh, tâm vọng tưởng, nên trái với tánh giác đó. Ở đây coi như ánh sáng đó chiếu khắp mười phương, chỉ cần ai nhận được ánh sáng đó thì thấy đường về.
Các vị Phạm Thiên thì sao? Có vị thấy từ lâu vô lượng kiếp không có Phật, có vị thấy là một trăm tám mươi kiếp không có Phật. Mỗi vị thấy không đồng có chỗ là thấy nhiều kiếp, có chỗ thấy ít hơn, đó là nói lên tùy theo cái cơ cảm, trình độ của mỗi người, nên thấy có lâu, có mau, chứ Phật thì không có lâu mau. Nếu cái mê mình dày thì thấy lâu, còn mê cạn thì thấy mau, vậy lâu hay mau là tùy theo căn cơ, còn sự thật thì Phật không có lâu mau, vì lúc nào cũng ngay đây thôi. Vậy quý vị có sợ mình tu lâu thành Phật không? Ngay đây có ai chịu mở mắt ra chưa?
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Đức Đại Thông Trí Thắng Như Lai nhận lời thỉnh của các Phạm Thiên Vương và mười sáu vị vương tử tức thời ba phen chuyển pháp luân mười hai hành, hoặc là sa môn, bà la môn, hoặc là trời, ma, phạm và các thế gian khác đều không thể chuyển được, nói: đây là khổ, đây là khổ tập, đây là khổ diệt, đây là đạo diệt khổ.Và rộng nói pháp mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não. Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão tử, ưu bi, khổ não diệt.
Đức Phật ở trong đại chúng trời, người, khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na do tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu, tâm được giải thoát, đều đặng thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát.
Lúc nói pháp lần thứ hai, lần thứ ba lần thứ tư, có nghìn muôn ức hằng hà sa na do tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu, tâm được giải thoát. Từ đây nhẫn sau các chúng Thanh Văn nhiều vô lượng vô biên, không thể tính kể được.
GIẢNG:
Ở đây đức Đại Thông Trí Thắng nhận lời thỉnh các vị mà nói pháp, chuyển pháp luân ba phen chuyển thành mười hai hành. Đây cũng như Đức Phật Thích Ca chuyển pháp luân ở Lộc Uyển nói pháp Tứ Đế, ba phen chuyển thành mười hai hành: Thứ nhất là Thị chuyển, thứ hai là Khuyến chuyển, thứ ba là Chứng chuyển.1. Thị chuyển: cũng gọi là thị tướng chuyển. Thị là chỉ bày, xác định rõ, nghĩa là Ngài chỉ rõ cái hành tướng của Tứ Đế để cho người nhận rõ đây là lẽ thật chắc chắn không có gì thay đổi được.Chữ đế là chắc thật, cũng gọi là chân lý. Ngài nói rõ:
- Đây là khổ: Tức là chỉ ra tướng khổ cho mọi người thấy rõ. Nói khổ là một điều chắc chắn thật sự nó là khổ, chớ không thể chối cãi được. Tức là sanh, già, bệnh, chết, thương yêu xa lìa, cầu không được toại ý, rồi oán ghét lại gặp gỡ, năm ấm nhóm họp. Có sanh ra thì phải có già, có bệnh, có chết, mà có sanh có chết tức là khổ. Thương yêu lại xa lìa cũng khổ, người oán ghét tức không ưa cứ gặp gỡ hoài cũng khổ, rồi cái điều mình muốn, mong cầu mà cầu không được thì cũng khổ, nói chung có mang thân năm ấm này là khổ, quý vị kiểm lại thấy có phải không? Dù cho là vua cũng không hết khổ, vua có cái khổ của vua, giàu có cái khổ theo giàu, chớ không phải nói giàu thì hết khổ. Vậy cho nên đã mang thân năm ấm này đều chịu cái luật vô thường, mà chính chịu vô thường đó nên đều chịu khổ, không ai tránh khỏi hết. Đó là Ngài chỉ cho mình thấy rõ cái khổ, rồi Phật nói tiếp.
- Đây là khổ tập: Tức là Phật chỉ ra cái nhân đưa đến khổ. Tại sao Phật không nói nhân trước mà nói quả trước? Thường người ta nói cái nhân rồi mới tới cái quả, nhưng đây Phật nói cái quả trước, vì cái quả là cái hiện thực mình đang mang nó đây, chỉ ra mình dễ nhận. Chỉ ra lẽ thật đó cho mình thấy rõ, rồi Phật mới chỉ ra cái nhân, nói quả này nhưng nó có nhân chớ không nói suông, hoặc quả này không tự nhiên nó có mà đó là có cái nhân. Tập tức là những thứ phiền não nhóm họp ở đây, nó đưa đến cái khổ đó, phiền não thì có nhiều tham, sân, si, mạn nghi, ác kiến…, nhưng cái gốc gần gũi nhất mà Phật hay nhắc là cái gì? Từ "tham ái chấp ngã", chính cái "tham ái chấp ngã" đó mà nó đưa đến tạo nghiệp rồi luân hồi chịu khổ, đó là Tập.
Quý vị thấy có phải vậy không? Chính vì mình tham chấp cái thân này, chấp cái ta này, cho nên từ đó tạo bao nhiêu thứ nghiệp rồi chịu khổ. Nếu không có tham ái cái ta này, thì đâu tạo nghiệp làm chi. Ví dụ trong chuyện làm ăn muốn có lợi nên mưu mô tính toán thế này, hoặc tính toán thế kia là vì cái gì? Là vì cái ta này thôi. Đó là cái Tập, Tập đó là cái nhân đưa đến quả khổ, gọi là nhân quả của thế gian, tức là nhân quả dẫn mình đi trong luân hồi sanh tử, rồi Ngài nói:
- Đây là khổ diệt: diệt là sao? Là bây giờ đã rõ cái nhân và cái quả rồi, mà muốn hết khổ thì phải sao? Thì phải dứt cái nhân đó thì hết khổ. Diệt nhân rồi, thì cái quả khổ làm sao sanh được, không có quả khổ nữa là Niết Bàn, là tịch diệt, là an lạc, đó là diệt đế. Vậy diệt tức là chỗ dứt khổ, an lạc. Nếu còn cái nhân này chưa dứt được, dù cho tu cách mấy đi nữa cũng lẩn quẩn trong luân hồi, cũng khổ, nghĩa là tu cái gì mà còn có "cái ngã" trong đó là không giải thoát nổi. Cho nên những vị ngoại đạo ngày xưa, cũng có vị tu thiền, gọi là thiền định của phàm phu, nhưng mà còn có ngã dù cho lên đến cõi trời sắc giới, cõi trời vô sắc giới, cũng còn trở lại, chưa giải thoát được.
Đây là một "lẽ thật muôn đời", dù cho mình lý luận cách mấy cũng không qua được cái đó, mình lý luận nó là không thật, hay nó là tánh không gì gì đi nữa, đó là lý luận thôi, còn thấy có ngã là còn khổ. Ngài nói tiếp.
- Đây là đạo diệt khổ: Tức là con đường dứt khổ, nghĩa là muốn dứt khổ thì phải thật sự tu hành, chớ không phải là chuyện nói suông. Cho nên Ngài nói rõ phải có con đường, phải có phương tiện để mình tiến tu đàng hoàng, nhưng phải phương tiện chân chánh đúng pháp, nó khế hợp với lẽ thật, chớ không phải mình muốn tu cái gì thì tu. Nên đó gọi là Đạo Đế, tức đây là con đường đúng với chân lý, thực hiện như vậy thì mới có được kết quả. Con đường đó là con đường gì? Tức là ba mươi bảy phẩm trợ đạo, đó là phương tiện tu hành dứt cái mầm sanh tử khổ, tức là cái nhân để đưa đến Diệt Đế. Cho nên Đạo Đế là cái nhân, còn Diệt Đế là cái quả, đây là nhân quả xuất thế gian, giải thoát ra khỏi sanh tử. Còn khổ đế và tập đế là nhân quả của thế gian còn đi trong sanh tử. Đó là một lần chuyển, gọi là thị chuyển, vậy Phật nói có khoa học không? Trước tiên chỉ cho mình thấy rõ cái khổ, rồi mới chỉ ra cái nhân đưa đến khổ, nếu chỉ nói vậy thôi thì đạo Phật chưa có gì gọi là cao quý hết, thế gian họ cũng nói được. Thường thường người nghiên cứu đạo Phật chưa sâu, cho đạo Phật là bi quan yếm thế, nói ra gì cũng khổ hết, khiến chán đời! Thì đó là thấy trên chữ nghĩa thôi, chớ chưa thấy được bản ý của Phật pháp, đó là nghiêng có một bên. Ở đây Phật chỉ để cho thấy rõ lẽ thật đó rồi, sau mới chỉ ra con đường để dứt khổ. Nói khổ là để dứt khổ, chớ không phải nói khổ để chán đời, và dứt khổ có phương pháp, có đường lối rõ ràng, chứ không phải nói lý suông.
2. Khuyến chuyển: cũng gọi là khuyến tu chuyển, tức là khuyên thực hành, chỉ rõ rồi chẳng lẽ chỉ biết vậy thôi sao? Cho nên đây phải là khuyến tu, đã chỉ rõ lẽ thật như thế rồi, mình đã thấy được hai con đường, một bên là sanh tử, một bên là giải thoát, hai đường rành rõ rồi, còn lại phần nữa là phần phải thực hành thôi, chớ không phải chỉ hiểu suông. Ngài nói rõ:
- Đây là khổ: Các ông phải biết rõ, chớ không có thể lờ mờ lầm lẫn được, phải nhận rành rõ như vậy không phải là chuyện hiểu suông.
- Đây là tập tức cái nhân khổ các ông cần phải đoạn, biết rõ nó là nhân của khổ các ông cần phải đoạn dứt nó, chớ không thể biết suông vậy thôi, nếu chỉ biết suông thì sẽ không hết khổ.
- Đây là diệt, là chỗ dứt khổ, được an vui giải thoát, các ông cần phải chứng nghiệm, đó là chỗ dứt khổ, chỗ an vui, nhưng các ông phải chứng nghiệm điều đó, chớ không phải nghe nói, rồi đứng bên ngoài mà suy luận hoài, thì cũng không thể dứt khổ được giải thoát.
- Đây là đạo, là con đường dứt khổ chân chánh các ông cần phải tu, cần phải thực hành, mới chứng nghiệm được, nếu nói suông thì sẽ không hết khổ, bởi vì không phải tự nhiên mà nó hết khổ được. Quý vị thấy rất là thực tế, chỉ rõ cho mình rồi,thúc đẩy mình phải tu, phải thực hành.
3. Chứng chuyển: Cũng gọi tác chứng chuyển, là chứng nghiệm xác định đó. Đức Phật Ngài xác minh rõ ràng những điều Ngài nói đó là những điều Ngài đã chứng nghiệm qua, Ngài đã trải qua rồi, Ngài mới nói lại. Cho nên đây là lẽ thật được xác chứng rõ ràng, chớ không phải điều Ngài nói suông, hay phỏng đoán hoặc giả thuyết thôi hoặc nó chỉ có trong văn tự, trong chữ nghĩa. Như vậy để cho mình có đầy đủ lòng tin, vì có người sẽ nghi, nhứt là lúc Phật Thích Ca đến vườn Lộc Uyển để độ năm anh em Kiều Trần Như, trước kia Ngài tu theo nhóm đó, nhưng Ngài thọ bát cháo của cô gái dâng, thì mấy ông này nghi cho Phật đã thối bồ đề tâm, nên bây giờ nghe Phật đến thì mấy ông bàn nhau: "Thôi ông Cù Đàm đã thối tâm, ông đến thì mình cũng mặc kệ đừng tiếp làm gì". Nhưng khi Phật đến thì do uy đức Phật, đã cảm đến các ông, khiến mấy ông lăng xăng người thì lo quét dọn, người mời Phật ngồi, người lo nước rửa chân cho Phật. Sau đó Phật nói pháp Tứ Đế xác định rõ, những điều Như Lai nói đây là những điều mà Như Lai đã chứng nghiệm qua, đã xác chứng rõ ràng, mới nói lại, vì vậy các vị đầy đủ lòng tin. Chớ không thì sẽ nghi là không biết Phật nói vậy mà Ngài có đi qua chưa? Đã chứng nghiệm qua chưa, Ở đây thì Ngài nói rõ:
- Khổ Như Lai đã biết rõ bằng chính trí tuệ của mình rồi, không phải nghe ai nói lại.
- Tập Như Lai đã đoạn sạch không còn thừa, nghĩa là cái nhân của khổ, Như Lai dứt sạch không còn thừa sót lại.
- Diệt Như Lai đã chứng nghiệm qua, đã sống trọn vẹn trong đó rồi.
- Đạo Như Lai đã tu đã thực hành xong, bây giờ mới nói lại, không phải đem qua thí nghiệm nơi các ông, nghĩa là không phải đây Ngài nói ra để các ông thí nghiệm, mà Như Lai đã tu hành xong rồi, đã sống trọn vẹn trong đó rồi, bây giờ mới nói lại cho các ông.
Như vậy thấy Phật quá là khoa học phải không? Chỉ rõ ra cho mình thấy lẽ thật đó, rồi mới khuyên tu, khuyên thực hành, đây là những điều Ngài đã chứng nghiệm qua rồi, không phải Ngài áp đặt mình, bắt mình phải nhắm mắt tin bừa, mà nói như vậy là Phật muốn nhắc mình cái gì? Nghĩa là Ngài đã thấy như vậy rồi, thì mình là đệ tử Phật, học theo Ngài, đi theo Ngài thì cũng phải như Ngài, đó là ý Ngài muốn ngầm nhắc cho mình. Ngài nói rằng những điều Ngài nói đó là Ngài đã đi qua, vậy mình là đệ tử Phật thì cũng phải giống như Ngài, cũng phải chứng nghiệm qua, cũng phải nếm lấy, phải đi vào trong đó, chớ không phải đứng bên ngoài mà bàn, mà lý luận thì không bao giờ tới, đó là ý sâu của Phật. Cho nên ở đây Ngài nói:
- "Hoặc là Sa môn, bà la môn, hoặc trời, ma, phạm và các thế gian khác, đều không thể chuyển được".
Chỉ mình Phật chuyển được thôi, tại sao vậy? Để nói lên Phật, Ngài đã chứng nghiệm qua, rồi từ trong đó Ngài chuyển thì mới là thật chuyển. Còn tất cả những người khác, và các thế gian khác, chưa đến được trong đó, thì làm sao chuyển, chỉ phải nương theo chỗ Ngài dạy đó mà tu đạt đến chỗ đó thôi, chớ còn chưa đi qua làm sao chuyển, đó là ý sâu xa mà Phật muốn nhắc. Như vậy lý Tứ Đế mình hiểu cho kỹ, thì nó có đơn giản không? Cho nên người học Phật thường thường nghe nói lý Tứ Đế là lý của hàng Thanh Văn, mình bây giờ tu đại thừa rồi, cái đó không cần học kỹ biết nhiều làm chi, nhưng đây thấy rõ ý rất là sâu xa, cũng lý Tứ Đế này, tùy theo trình độ nhận có cạn có sâu, có đại có tiểu, đại thừa cũng không ngoài Tứ Đế.
* Thí dụ mình chỉ nghe nói khổ, rồi mình nhận là khổ, chán quá rồi, tu cầu dứt khổ, chứng vô sanh Niết Bàn, đó là tiểu, nghĩa là nghe khổ chán khổ, dứt khổ để cầu vô sanh thôi.
Còn nếu nghe khổ, ngầm biết rõ ý của Phật, Ngài nói khổ mà ý Ngài muốn chỉ chỗ chân thật không khổ, khiến mình quên cái mê lầm này, sống về với cái chân thật đó, thì biết vậy đó là đại.
Nếu nghe khổ mình liền nhận rõ, ở trong đó nó còn có cái chưa từng khổ nữa, sống được ngay cái đó, thì mình liền chuyển ngay được cái khổ, chớ không cần bỏ đây mà đến kia gì hết, thì đó là tối thượng thừa.
Cho nên gọi là pháp thì không có cao thấp, mà cao thấp tùy theo người, người hiểu cao thì thấy cao, người hiểu thấp thì thấy thấp, rõ ràng như vậy thôi.
* Thí dụ như Tập Đế:
Nếu nghe nói Tập là nhân của khổ, thì quyết trừ để hết khổ thôi, đó là tiểu.
Nếu mình nghe đó là Tập Đế thì biết rõ, cái Tập này là do mình mê cái chân thật mà vọng chấp, cho nên mới thành khổ, nếu mình ngộ lại cái chân thật, mình quên sạch hết tình chấp là mình hết khổ, không có khổ gì để trừ hết, đó là đại.
Nếu nghe Tập, biết rõ cái gốc của Tập là từ tâm sanh chớ không gì khác, nếu mình giác được tự tâm, thì ngay đó dứt khổ, đó gọi là Thiền.
* Diệt Đế cũng vậy:
Nếu mình thấy còn cái cái để diệt, là có đây có kia nên đó là tiểu, nghĩa là mình nghe diệt là dứt tập nhân là hết khổ thôi, thì đó là tiểu.
Nếu mình nghe diệt đế, mình biết Tập nhân đưa đến khổ, nhưng tập nhân đó thật không cố định, nếu mình giác trở về nguồn chân thật rồi nó tự dứt, đó là đại.
Nếu mình nghe diệt, mình liền trực nhận, cái thể vốn là sẵn đủ chưa từng thiếu bao giờ hết, mình diệt tất cả nhưng thể này mình làm sao diệt nó, nên sống thẳng ngay đây thôi liền xong, không có gì để diệt hết, đó là Thiền.
Đó là tùy theo chỗ hiểu mà có sâu có cạn.
* Đạo Đế cũng vậy:
Nếu nghe đạo đế là con đường dứt khổ, đó là các pháp mình phải thực hành, để diệt cái tập nhân kia mà chứng được cái diệt, thì đó là tiểu.
Nếu mình nghe đạo đế, biết rõ đây là phương tiện để mình sống trở về, mượn cái đó để trở về, chớ không lầm chấp trên phương tiện đó, thì gọi là đại.
Nếu mình nghe Đạo đế, mình nhận rõ ràng, mọi công phu tu hành gốc là ở tự tâm thôi, nếu tự tâm mình sáng, ngay đó thấu được đường đi không lầm. Vậy không có đạo gì hết ngoài tâm, thì đó là Thiền.
Vậy là Tứ Đế nếu mình hiểu cạn thì nó là cạn, còn nếu mình hiểu thật sâu thì nó cũng rất là sâu, đó là tùy theo cái hiểu của mình, không nên khinh thường. Hoặc chớ hiểu lầm người tu đại thừa, tu thiền , giống như phá bỏ Tứ Đế của Phật, như trong Bát Nhã nói: vô khổ, tập, diệt, đạo. Nghe nói vô khổ tập diệt đạo đó, liền nói đại thừa đập phá Phật pháp luôn hết. Tứ Đế là pháp căn bản Phật thuyết ban đầu, bây giờ cũng phá bỏ luôn, nhưng hiểu như vậy đó là sao? Là hiểu trên chữ nghĩa thôi, nghe nói không khổ, tập, diệt đạo, rồi nói không có, đó là mắc kẹt trên chữ nghĩa, mà mình phải biết bản ý của Phật nói như vậy là sao? Khổ, tập, diệt, đạo mà mình nói theo chữ nghĩa, đó là khổ, tập, diệt, đạo trên danh từ, cho nên đây phá cái chấp trên danh từ đó, mà mình phải thấu rõ được cái thể thật, chớ không phải tu thiền rồi bỏ hết. Thí dụ như có Thiền Sư Đàm Chiếu, khi gần chết Ngài la: "khổ, khổ", có vị đệ tử nói rằng:
- Bạch Hòa thượng, Hòa thượng trong lúc còn sanh tiền, có lần Ngài bị quan Thái Thú ném xuống sông, mà thấy vẻ mặt Ngài bình thản không có gì hết, hôm nay sao Ngài la khổ khổ ?
Thì Ngài nói:
- Vậy ông nói ngày xưa phải, hay ngày nay phải ?
Đó là Ngài nhắc, ngay lúc sắp chết này là khổ đó, biết rõ được khổ đó mà không có mê, không có lầm, thì tới lúc đó mới chân thật, chớ còn không phải mình chỉ hiểu suông nói khổ là không thật, chỉ hiểu suông trên danh từ thôi, tới lúc đó là khổ chịu không nổi, phải không? Hiểu vậy thì mình mới thấy được ý của các Ngài, đó là nói qua về Tứ Đế.
Sau đây Phật nói rộng ra mười hai nhân duyên: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sanh, sanh duyên lão, tử, ưu bi, khổ não.
Tức là từ vô minh đó nó sanh ra khổ sanh tử luân hồi. Vô minh tức là mê mờ, lầm lẫn nó mới vọng động khởi niệm, khởi niệm nên mới tạo thành nghiệp, thì nghiệp đó là hành.
Vô minh duyên hành, do nghiệp đó dẫn thức, thức là cái vọng ngã của mình, nó dẫn chúng sanh đó đi thọ thai, nên hành nó mới duyên nơi thức, dẫn thức đi thọ sanh, mới gá vào thai mẹ nên có danh sắc, danh sắc gồm hai phần: danh là phần tinh thần, còn sắc là phần vật chất, là phần tinh cha huyết mẹ cộng lại cái biết trong đó mới thành thai. Do danh sắc tăng trưởng dần dần cho nên có đầy đủ sáu căn, sáu căn tức là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, là sáu chỗ để cho sáu trần đi vào, đó gọi là lục nhập. Khi ra khỏi thai sáu căn này đối với sáu trần cảnh bên ngoài khởi thành cái dụng, dụng là thấy, nghe, hiểu biết đó xúc chạm với sáu trần bên ngoài gọi là lục xúc. Rồi do nó xúc với cảnh đối trước đó, nên nó mới sanh cảm giác là nhận lấy khổ vui, có xúc cảnh nên có khổ vui đó là thọ. Vậy thọ là nhận lãnh, là tiếp thu cái bên ngoài cho nên có khổ vui, rồi do tiếp thu nhận lãnh các cảnh bên ngoài đó, sanh ra đắm mắc dính chặt đó là ái, đắm mắc dính chặt mãi, giữ lấy không chịu buông đó là thủ, rồi do bám giữ không buông mới tạo thành nghiệp, để có chỗ mà sanh ở đời sau, đó là hữu. Rồi từ đó nó dẫn đi thọ sanh thân sau đó là sanh. Có sanh ra rồi có già, chết, vô thường khổ não không tránh khỏi, đó là một vòng nhân duyên, là chiều sanh tử. Bây giờ muốn dứt sanh tử thì phải sao? Đây phần thứ hai là:
" Vô minh diệt thời hành diệt, hành diệt thời thức diệt, thức diệt thời danh sắc diệt, danh sắc diệt thời lục nhập diệt, lục nhập diệt thời xúc diệt, xúc diệt thời thọ diệt, thọ diệt thời ái diệt, ái diệt thời thủ diệt, thủ diệt thời hữu diệt, hữu diệt thời sanh diệt, sanh diệt thời lão, tử, ưu bi, khổ não diệt ".
Tức là muốn dứt sanh tử, thì phải phăng trở lại cái gốc, bây giờ sở dĩ có ưu bi, khổ não, chết chóc là vì có sanh, mà có sanh là vì sao? Là do có hữu tức là do có nghiệp mình đã tạo đời trước đó, phăng dần dần lên thì gốc là từ vô minh, vậy thì muốn hết sanh tử phải dứt vô minh. Nhưng vô minh và hành là thuộc về quá khứ rồi, vậy làm sao mà diệt? chỗ này học theo chữ nghĩa mười hai nhân duyên đọc thuộc lòng, nhưng muốn hiểu kỹ thì không phải đơn giản. Còn cái thức là cái gốc của sự sống. Nó cũng thuộc về quá khứ luôn, vì nó dẫn đi thọ sanh thì mới có danh sắc, đã thuộc về quá khứ luôn, thì làm sao diệt nó, nếu ngay đây quý vị diệt cái thức đó thì sao? Thì cũng chết luôn, phải không? Danh sắc là cái còn trong bụng mẹ thì làm sao diệt? Còn sáu căn là chỗ để cho sáu trần cảnh đi vào, đó là lục nhập, nếu diệt nó thì lấy gì để thấy nghe? Còn xúc và thọ, xúc là nó xúc chạm trần cảnh bên ngoài, thọ là cái tiếp thu nhận lấy, nếu diệt xúc và thọ thì nó thành trơ trơ như cây đá. Vậy quý vị thấy làm sao tu đây? Chính cái tu là ở chỗ nào? Là chính chỗ "ái". Bởi vì ái là chỗ dính mắc, đắm luyến, mà nếu không dính mắc không đắm luyến là giải thoát, phải không? Cho nên mình phải lấy từ chỗ căn bản đó để tu hành, chớ học theo chữ nghĩa đọc thuộc lòng là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc… mà không rõ được chỗ ý sâu thì cũng không biết cách tu.
Nhưng mà xét cho kỹ, cái vô minh này không phải chỉ nằm ở quá khứ thôi, mình học theo chữ nghĩa là vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên sắc… Tức mình đẩy vô minh trở về quá khứ, đó là theo chiều chữ nghĩa, chớ còn trên lẽ thực trong "mỗi cái", "mỗi chi" đó nó đều có mang cái mầm vô minh trong đó hết, chớ không phải chỉ vô minh nó nằm trong quá khứ thôi, thấy như vậy thì hết chỗ tu. Trong mỗi chi thì hành cũng có vô minh trong đó, thức cũng có vô minh trong đó, danh sắc cũng có vô minh trong đó, rồi xúc, thọ, ái, thủ, hữu đều có vô minh trong đó hết. Vậy bất cứ ngay chỗ nào trong đó, mà mình soi sáng trở lại phá vô minh thì ngay đó đều là chỗ tu hết, đều giác được hết. Tức là:
Trong hành nó mê lầm, mê lầm cái chân thật này, nó mới chấp cái ngã không thật này thành vọng ngã, cho nên mới thành tạo nghiệp tức vô minh chớ gì? Vì vậy ngay hành đã có vô minh trong đó rồi.
Trong thức cũng vậy, là quên cái thể chân thật mới theo nghiệp đi thọ sanh, quên cái thật là vô minh chớ gì nữa, vậy ngay thức đã có vô minh trong đó rồi.
Trong danh sắc cũng vậy, mình quên cái thể chân thật sáng ngời này, cho nên mới lẫn lộn giữa danh và cái sắc, tức là cái biết và cái không biết, đó là vô minh chớ gì? Vậy ngay danh sắc đã có vô minh trong đó.
Trong lục nhập cũng vậy, là mình quên cái thể thật, cho nên mình bám vào các căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, nên tìm các duyên bên ngoài là sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, để mà biết. Bởi vậy rời mấy cái này thì giống như không biết, thì đó là vô minh chớ gì? Vì quên "cái biết chân thật" của mình, nên mới bám vào các căn đó, chứ thật sự cái biết này là nó đã có sẵn nơi mình rồi, còn mắt, tai, mũi, lưỡi này là chỗ tạm mượn để nó phát ra thôi, chớ không phải do mắt, tai,… này thành có biết. Nhưng mình bây giờ mắc kẹt trên mắt tai này, cho nên không mắt là không thấy, không tai là không nghe. Nhưng sự thật cái biết luôn luôn có đủ, vậy thấy rõ ngay lục nhập đã có vô minh trong đó.
Trong xúc trong thọ cũng vậy, vì mình quên cái chân thật sáng suốt sẵn có đó, nên cứ lo tiếp nhận cảnh bên ngoài, thì đó là vô minh, vậy ngay trong xúc, trong thọ đã có vô minh trong đó.
Trong ái cũng vậy, vì quên thể giác của mình mới lo đắm mắc thứ bên ngoài, ái luyến nó lầm cái ta hư dối này, thì đó là vô minh chứ gì!.
Vậy thì ngay xúc, thọ, ái cũng đều có vô minh hết, nếu ngay cái xúc, thọ đó giác trở lại thì sao? Thì ngay đó thể giác sẵn trong đó rồi, ngay đó trở về sáng suốt chớ gì? Chỗ tu hành giác ngộ ngay đó thôi. Hiểu như vậy thì ngay chỗ ái, chỗ xúc, chỗ thọ đó đều là chỗ mình có thể giác ngộ trở về, là chỗ tu hành, thì đó là cái chiều giải thoát, còn theo chiều mà nó bám bên ngoài là sanh tử, cho nên gọi là hai chiều, chiều lưu chuyển là theo sanh tử, và chiều hoàn diệt là giải thoát.
Đó là ý nghĩa của mười hai nhân duyên, quý vị thấy chỗ này mà hiểu kỹ thì đủ tu chưa? Bởi vậy ý nghĩa của mười hai nhân duyên này rất là sâu xa chớ không phải đơn giản theo chữ nghĩa. Nhưng người học chữ nghĩa theo danh từ pháp số, thì mười hai nhân duyên dễ dàng có gì đâu. Vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc … Nếu muốn diệt nó thì vô minh diệt, hành diệt, thức diệt… đọc một hơi, thấy dễ dàng không có gì hết. Nhưng sự thật hiểu cho thật kỹ đểø tu, không phải đơn giản.
Bởi vậy mà có một lần Ngài A Nan bạch Phật: "Pháp mười hai nhân duyên rất là đơn giản, dễ dàng có gì đâu Thế Tôn".
Phật nói:
- Khoan! Khoan! Ông chớ có nói dễ dàng.
Sau đó Phật giải thích rõ, lúc đó Ngài A Nan mới bạch Thế Tôn rằng:
- Bạch Thế Tôn quả thật không phải dễ dàng.
Cho nên dễ dàng là mình theo chữ nghĩa, hiểu cho thật kỹ, thật sâu để ứng dụng tu thì không phải đơn giản, bởi vì chính chỗ này là chỗ Đức Phật Ngài giác ngộ, để dứt cái mầm sanh tử nên đâu phải đơn giản. Ở đây nếu mình thấu suốt được tánh mười hai nhân duyên thì sao? Thì mười hai nhân duyên là do nhân cái này mà có cái kia, tức nó không có cái thật thể, nhân vô minh có hành, có hành rồi có thức… Vậy nếu không có hành thì sao? Thì thức cũng không có chỗ bám, có hai cái gọi là nhân duyên, mà nhân duyên thì không có thực thể trong đó, chỉ là do nương cái này mới có cái kia, không có cái này tức cái kia không có, nếu thật thì không phải nương. Xét kỹ mười hai nhân duyên này cho mình thấy rõ, trong sanh tử đây vốn không có cái ngã thật để mà sanh tửû, nhưng do vô minh lầm chấp thôi. Thí dụ bây giờ đây quý vị nói là tôi sanh, tôi tử gì đó, chết là tôi chết, nhưng cái gì là tôi chỉ ra xem. Chỉ thân này là tôi, vậy thân vô tri lại là tôi sao? Còn tâm sanh diệt này cũng là tôi hay sao? Chỉ không ra, vậy là không có thật thể, không có cái ngã để sanh tử. Hiểu vậy thì thấu rõ tánh của mười hai nhân duyên là sanh vốn không thật sanh, diệt vốn không thật diệt, mà sở dĩ có sanh có diệt là do mê, do vô minh mê lầm mình tưởng có ta, có ngã thực sanh.
Nhưng có người không hiểu kỹ mười hai nhân duyên này, rồi cũng lầm chấp thêm nữa, cho rằng Phật nói sỡ dĩ mình có mặt ở đây là do mười hai nhân duyên mà sanh, vậy là thật có sanh, phải không? Mà thật có sanh thì thật có tử. Đó là hiểu lầm ý Phật, mà chỗ này nhiều người mắc kẹt. Bởi vậy trong Trung Quán Luận mới phá mười hai nhân duyên là như vậy. Rồi có người nói Luận phá mười hai nhân duyên là pháp mười hai nhân duyên cũng phá luôn,lại hiểu lầm nữa, phá là phá cái "Lầm chấp" trên tướng của mười hai nhân duyên thôi, còn pháp mười hai nhân duyên làm sao phá. Bản ý của Phật nói mười hai nhân duyên, đã là duyên sanh thì đâu có thật sanh, mà do cái này có nên mới có cái kia, cái này không thì cái kia cũng không, tức là không có thật sanh, mà không thật sanh thì cũng không thật tử, thấu rõ như vậy, thì ngay đó giải thoát, vô sanh.
Vậy quý vị thấy Tứ Đế, mười hai nhân duyên hiểu cho thật kỹ đủ tu rồi.
Kế đó đức Phật ở trong đại chúng Trời người khi nói pháp đó có sáu trăm muôn ức na do tha người do vì không thọ tất cả pháp mà ở các lậu tâm được giải thoát, đều đặng thiền định sâu mầu, ba món minh, sáu món thông, đủ tám giải thoát. Ở đây chú ý "không thọ" tất cả pháp thì liền được giải thoát. Hiểu được chỗ này là chỗ để mình sống giải thoát, nếu không thọ tất cả pháp thì ngay đây liền giải thoát. Sự thật thì tự tâm mình vốn giải thoát rồi, nó tự là sáng ngời rồi, nhưng do mình "quên cái tự tâm sáng ngời" đó, nên mới duyên theo các pháp mà tiếp nhận cái bên ngoài là "thọ" đó, nên thành ra mê lầm, rồi trôi lăn trong sanh tử chứ không gì khác. Vậy "thọ" tức là mình chỉ nhớ các pháp mà tiếp nhận cái bên ngoài thôi, tâm đó nó luôn luôn tiếp với các duyên bên ngoài, nói cho nó dễ hiểu hơn là nó luôn luôn thu lấy bạn bè, cho nên mãi trói buộc. Còn ngay đây từ giã bạn bè hết thì giải thoát, thật đơn giản! không thọ các pháp là không bạn bè, là quên duyên thôi, quên duyên là tự giải thoát, đó là nói pháp lần đầu.
Khi được giải thoát thì sao? Thì đầy đủ ba minh, sáu thông, tám giải thoát.
Ba minh là cái gì? Tức là thiên nhãn minh, túc mạng minh và lậu tận minh.
Sáu thông là gì? Là thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, túc mạng thông, thần túc thông, lậu tận thông.
Tám giải thoát là gì ?
1. Bên trong có sắc tưởng, mình quán các sắc để mà giải thoát. Vì muốn trừ sắc tưởng nội tâm của mình đây đối với các sắc bên ngoài mình phải quán bất tịnh, thì quán bất tịnh này là trước tiên phải quán bất tịnh nơi thân mình trước.
2. Bên trong không sắc tưởng mà quán ngoại sắc, ngoại sắc là quán bên ngoài. Trước tiên là quán bất tịnh nơi thân mình, sau đó là quán nơi thân người, cho nên mình phải hiểu kỹ điều đó, khi người học tu mà không hiểu được kỹ, nghe nói tu quán bất tịnh thì lo quán người ta, không quán mình, quán ra ngoài một lúc mê không hay, cái đó là không hiểu được thứ tự, quán mình trước, khi quán thành rồi, quán ra ngoài thì mới chán được. Còn mình yêu mình quá mà quán người ta hoài rồi mê luôn, đó là không hiểu đúng pháp.
3. Tịnh giải thoát thân chứng, là xả bỏ cái tướng bất tịnh rồi quán tịnh trở lại, mới đầu quán bất tịnh, nhưng sau đó quán tịnh trở lại, chớ quán bất tịnh một lúc rồi thấy cái gì cũng chán hết, nên mới có các vị tự tử, do đó ở đây quán bất tịnh rồi phải quán tịnh trở lại.
4. Không vô biên xứ: là mình vượt qua các sắc tưởng đối trước đó, để mình tu hành cái tướng gọi là không vô biên xứ, tức là mình vượt qua hết mọi cái tướng để mà quán về cái không, vậy không vô biên xứ là qua hết mọi sắc đối tượng.
5. Tu tướng thức vô biên xứ: là mình quán thức tràn đầy hết.
6. Tu tướng vô sở hữu xứ: mình xả bỏ tâm gọi là cái thức vô biên đó, tu tướng vô sở hữu xứ, tu quán thấy không có gì, không có gì thật trong đó.
7. Phi phi tưởng: mình bỏ tâm vô sở hữu nữa, rồi mình trụ vào tướng gọi là phi phi tưởng.
Như vậy cho thấy mới đầu quán bất tịnh, thứ hai là quán tịnh, bỏ quán tịnh rồi quán không, bỏ quán không, vô sở hữu, những cái đó là những phương tiện, gọi là tu có thứ lớp, tạm mượn đi qua rồi bỏ, không được bám trụ.
8. Diệt tận định: vượt qua hết cả phi phi tưởng đó, tức là mình chán bỏ hết thứ thọ, thứ tưởng để mình vào diệt tận định. Diệt tận định là diệt tất cả tâm và tâm sở pháp.
Đó là phần của bên nguyên thủy tu, cuối cùng là chứng A La Hán.
Đó là Phật nói pháp lần đầu, có sáu trăm muôn ức na do tha người không thọ pháp mà được giải thoát, lần thứ hai, thứ ba, thứ tư thì có nghìn muôn ức hằng hà sa na do tha chúng sanh cũng bởi không thọ tất cả pháp mà nơi các lậu, tâm được giải thoát.
Như vậy lần đầu sáu trăm muôn ức na do tha người nghe pháp được giải thoát liền, đó là chỉ cho người thuộc hạng lợi căn bén nhạy. Còn lần thứ hai, thứ ba là chỉ cho hạng trung và hạ kế tiếp, phải nghe nhiều lần, người chậm chậm phải nghe lần nữa, lần nữa lần nữa mới tỏ ngộ, mới giải thoát, nên đây nói lần thứ hai, thứ ba, thứ tư. Nghĩa là từ đó về sau còn có nhiều cơ hội nữa, cho nên có vô số hàng Thanh văn khác nữa. Đây coi như phần tự độ đã xong rồi, căn cơ đã sắp chín mùi, có thể kham nhận được pháp thật, bây giờ mới thỉnh nói Pháp Hoa. Phần kế mấy vị vương tử mới thỉnh Phật nói Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, mười sáu vị vương tử đều là đồng tử mà xuất gia làm Sa di, các căn thông lanh, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường trăm nghìn muôn ức các đức Phật, tịnh tu hạnh thanh tịnh, cầu đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều bạch cùng Phật rằng: "Thưa Thế Tôn các vị đại đức Thanh văn vô lượng nghìn muôn ức đây đã thành tựu xong, đức Thế Tôn cũng nên vì chúng con nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con nghe xong đều đồng tu học.
Thế Tôn! Chúng con có chỗ mong được tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm đức Phật tự chứng biết cho.
Lúc đó, tám muôn ức người trong chúng của Chuyển luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng tự cầu xuất gia, vua liền thuận cho.
GIẢNG:
Bấy giờ mười sáu vị vương tử là đồng tử xuất gia làm sa di, mới bạch Phật, thỉnh Phật nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác. Mười sáu vị vương tử còn đồng tử nhưng đã xuất gia rồi. Mười sáu vị vương tử đó là chỉ cho những phần tâm thức. Còn đồng tử xuất gia là vẫn còn tánh thiên chân, tánh chưa có mất, tuy mê thành thức rồi nhưng tánh thiên chân đó chẳng mất, bởi vậy kinh Lăng Già có một đoạn nói rằng: "tướng chẳng hoại có tám", tám đây là chỉ cho tám thức, trong tám thức đó vẫn có cái bất hoại.Thường mình nói thức là sanh diệt, nhưng đây nói rằng: Ngay tám thức sanh diệt đó vẫn ngầm có tánh thường trụ bất sanh bất diệt trong đó. Vậy để cho thấy rõ cái sanh diệt là cái giả tướng. Cho nên đây các Vương tử xuất gia, tức là sao? Đó là báo hiệu cho biết các thức đã chuyển ra khỏi trói buộc mê lầm. Làm Bồ Tát Sa Di. Sa Di chỉ cho mấy vị mới bước vào hàng xuất gia thọ mười giới. Trung Hoa gọi là Tức Từ, Tức là dừng, dừng ác tu thiện. Sa Di cũng có ba hạng.
1. Hình đồng Sa Di: cạo tóc mà chưa thọ giới, hình giống Sa Di mà chưa phải.
2. Pháp đồng Sa Di: pháp đồng đây có ba hạng:
a. Hạng khu ô: tức là Sa Di đuổi quạ, là những vị còn trẻ chừng tám chín tuổi đến mười ba tuổi, tuy thọ mười giới nhưng vì còn nhỏ nên chỉ lo đuổi chim, quạ cho chúng tăng.
b. Ứng pháp Sa Di: là lớn rồi có thể thờ thầy tu hạnh xuất gia, ứng pháp là đáng nhận pháp để tu hành.
c. Danh tự Sa Di: trên hai mươi tuổi nhưng chưa thọ đại giới, cũng còn mang tên Sa Di nên gọi là danh tự.3. Bồ Tát Sa Di: khi thọ Bồ Tát giới.
Ở đây các Ngài xuất gia rồi thì thỉnh Phật nói pháp vô thượng chánh đẳng chánh giác, các Ngài nói "Thế Tôn, chúng con có chỗ mong được tri kiến của Như Lai, chỗ nghĩ tưởng trong thâm tâm, Đức Phật tự chứng biết cho", nghĩa là sao? Những vị khác không có rành, không biết để thỉnh Phật nói về tri kiến của Như Lai, mà mười sáu vị này thỉnh Phật, bởi mười sáu vị này là chỉ cho thức tâm, thức tâm này nó có kho Như Lai trong đó rồi, do đó mà thầm biết được Như Lai, nên mới thỉnh Phật nói pháp vô thượng.
Thỉnh nói pháp chân thật này nghĩa là sao? Để cho mình quên mất tướng sai biệt là tám, là mười sáu kia đi, mình thường thường nghe có tám thức thì mắc kẹt có tám cái, cho nên ở đây thỉnh nói pháp tri kiến Phật đó để cho mình sống trở về thầm hợp với cái nhất như, quên cái tướng sai biệt đó, thấy rõ trong tám thức đó đồng một thể giác thôi, chớ còn mình cứ nghĩ có tám cái riêng biệt, là mắc kẹt trên chữ nghĩa. Rồi lúc đó tám muôn ức người trong chúng của Chuyển Luân Thánh Vương dắt đến thấy mười sáu vị vương tử xuất gia cũng tự cầu xuất gia là ý gì? Tức những cái tâm, những niệm phụ thuộc theo đó cũng chuyển luôn. Khi cái thức gốc nó chuyển, thì các ngọn ngành như phiền não cũng theo đó, chuyển thành những diệu dụng hết. Cho nên các vị này xuất gia thì các thứ đó cũng chuyển theo đều cầu xuất gia hết.
Như vậy để thấy thành Phật rồi không có nghĩa là mình bỏ hết trơn, đừng sợ thành Phật rồi thì không còn gì hết. Nghĩa là cũng cái biết này khi mình mê gọi là thức, gọi là chúng sanh, khi giác rồi thì nó chuyển thành trí, Phật đổi tên vậy thôi, chớ không phải bỏ mất đi đâu. Bởi vậy nói chuyển, chớ thật sự không có gì để chuyển hết, chỉ chuyển cái tên thôi.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ đức Phật nhận lời thỉnh của Sa Di, qua hai muôn kiếp sau mới ở trong hàng bốn chúng nói kinh đại thừa tên là: "Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm". Đức Phật nói Kinh đó xong, mười sáu vị Sa Di vì đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, đều đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc. Lúc nói kinh đó, mười sáu vị Sa Di Bồ Tát thảy đều tin thọ, trong chúng Thanh Văn cũng có người tin hiểu. Ngoài ra nghìn muôn ức loại chúng sanh đều sanh lòng nghi lầm. Phật nói Kinh đó suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ. Phật nói kinh đó xong liền vào tịnh thất trụ trong thiền định tám muôn bốn nghìn kiếp.
GIẢNG:
Đây Phật nhận lời thỉnh rồi nói kinh, nhưng cũng chưa nói liền mà phải đợi qua hai muôn kiếp sau, mới ở trong bốn chúng nói kinh Pháp Hoa, còn mình bây giờ sao? Nghe dễ dàng quá phải không? Nhận thỉnh là gợi ý cho biết thật có việc này rồi, thật có tri kiến Như Lai, nhưng còn phải đợi tâm người tương ưng chín mùi, thì mới có thể chỉ thẳng được, họ mới dễ tin nhận, chớ tâm chưa chín mùi mà nói là chưa có thể nhận, cho nên phải đợi hai mươi kiếp sau mới nói. Phật nói kinh đó xong rồi, các vị Sa Di đó đồng thọ trì đọc tụng thông thuộc, trong chúng đó cũng có người tin hiểu, ngoài ra đều sanh nghi, Phật nói kinh đó cả tám nghìn kiếp chưa thôi bỏ, mấy chỗ này phải chú ý! Phật nói xong thì mười sáu vị Sa Di thọ trì, học thuộc lòng tin nhận, mười sáu vị Sa Di đó chỉ cho thức tâm chuyển rồi, nên trực tiếp lãnh nhận được tri kiến đó và sống trong trí thể Như Lai đó, gọi là tin nhận và học thuộc lòng, thuộc lòng là sống trong đó chớ không phải thuộc lòng là thuộc làu từng chữ từng câu. Tức là các vị này đã tin nhận sống thường xuyên trong tri kiến Phật đó. Còn các vị khác thì sao? Có vị tin hiểu được mà chưa nhận sống được, còn có số thì nghi lầm, tức là bị các trần lao này nhiều quá, trần duyên còn nhiều nên chưa có thể tin nhận được trong đó, chưa thể ngay đó mà nhận sống được. Chính vì vậy mới còn sót lại tới ngày nay, quý vị đang ngồi đây là số còn sót lạị. Vì lúc đó chưa có tin nhận. Bởi vậy Phật nói pháp suốt tám nghìn kiếp chưa từng thôi bỏ, nghĩa là nói luôn không có ngừng nghỉ, quý vị thấy nói pháp gì mà tới tám nghìn kiếp, mình đây nói pháp chừng một ngày không nghỉ nói nổi không? Rồi chúng ngồi nghe không biết nghe sao nữa? Là chỉ cái gì? Đó là muốn chỉ nói pháp này là kinh Pháp Hoa hay Tri Kiến Phật đó, nó luôn luôn sáng ngời không lúc nào gián đoạn, mình phải thấy đến chỗ luôn luôn như vậy không gián đoạn, thì mới nghe được Pháp Hoa này, mới rõ được Tri Kiến Phật này, chớ còn thấy có lúc nói có lúc không, là không phải tri kiến Phật. Tri kiến Phật là phải thấy nó sẵn có luôn luôn không lúc nào gián đoạn, không lúc nào thiếu vắng. Rồi Ngài nói xong thì sao nữa? Nói xong vào trong tịnh thất trụ thiền định, im luôn trải qua tới tám muôn bốn nghìn kiếp, đó là muốn nhắc mình cái gì? Nói xong vô ngồi im, muốn nhắc mình nghe Pháp Hoa thì phải nghe, phải thấy vượt qua ngôn ngữ, thấy được lý chân thật là phải đạt ý quên lời, thấy như vậy đó mới thấy được ý sâu của Pháp Hoa.
Bây giờ quý vị kiểm lại xem Phật Đại Thông đó có phải Ngài đang trụ trong thiền định không mà mình lại không thấy? Bởi Ngài trụ trong thiền định nên không thấy nổi, nhưng nếu ai thấy chỗ Ngài đang trụ trong thiền định này, thì gặp Phật Đại Thông xuất định liền. Ngài vào trong tịnh thất thiền định thì quý vị biết tịnh thất đó ở đâu không? Tịnh thất đang ngồi đây! Ngài đang trụ trong tịnh thất này, thấy Ngài đang trụ trong đó thì Ngài xuất định ngay thôi. Và thấy được như vậy là mình thấu qua tám muôn bốn nghìn kiếp.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di biết Phật nhập thất trụ trong thiền định vắng bặt, mỗi vị đều lên Pháp tòa cũng trong tám muôn bốn nghìn kiếp vì bốn bộ chúng rộng nói phân biệt kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Mỗi vị đều độ sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy cho được lợi mừng, khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
GIẢNG:
Phật trụ trong thiền định, các vị Bồ Tát thay Phật Đại Thông nói Pháp Hoa, tại sao? Tại vì các vị này đã xuất gia, tức các thức đã chuyển thành trí rồi, chính cái trí đó mà cái thể của nó vốn là Như Lai, cho nên nó sáng mãi không cùng, do đó mà nó diễn nói không dứt. Trong đó độ vô lượng chúng là sao? Tức là nó chuyển mọi phiền não vi tế, trong đó, tất cả đều chuyển theo hết, khiến cho ánh sáng của Pháp Hoa đó sáng mãi, sáng mãi không cùng, ý nghĩa của diệu pháp là đó. Mỗi vị độ vô số muôn ức hằng hà sa chúng sanh, chỉ dạy đều được vui mừng đều khiến phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức là chuyển mọi phiền não tập khí đó trở về chánh giác hết.
CHÁNH VĂN:Đức Đại Thông Trí Thắng Phật qua tám muôn bốn nghìn kiếp sau từ tam muội dậy, qua đến pháp tòa mà ngồi an lành, khắp bảo trong đại chúng: "Mười sáu vị Bồ Tát Sa Di này rất là ít có, các căn thông lẹ, trí huệ sáng láng, đã từng cúng dường vô lượng nghìn muôn ức số đức Phật, ở chỗ các Đức Phật thường tu hạnh thanh tịnh, thọ trì trí của Phật để chỉ dạy chúng sanh làm cho vào trong đó. Các ông phải luôn luôn gần gũi mà cúng dường các vị ấy.
Vì sao? Nếu hàng Thanh Văn, Duyên Giác, cùng các Bồ Tát có thể tin kinh pháp mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó nói mà thọ trì không mất, thời người đó sẽ đặng đạo Vô thượng chánh đẳng, chánh giác trí huệ của Như Lai.
GIẢNG:
Tức là khi Phật Đại Thông ở trong thiền định, qua tám muôn bốn nghìn kiếp rồi, Ngài từ trong thiền định dậy đến pháp tòa ngồi an lành, khen ngợi các vị Bồ Tát Sa Di này, rồi khuyên các đại chúng phải nghe theo các vị đó, thọ trì không mất, gần gũi các vị đó thì sẽ đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Qua tám muôn bốn nghìn kiếp từ định dậy, là muốn nhắc mình phải thấu qua tám muôn bốn nghìn phiền não trần lao đó, thì sẽ gặp được Phật Đại Thông Trí Thắng xuất định. Vậy quý vị thấy rõ Phật Đại Thông Trí Thắng đang nhập định với mình phải không? Cho nên chưa thấy Ngài xuất định vậy thì ngay đây nếu mình mỗi niệm, mỗi niệm đều giác thì mỗi một niệm giác là qua được một kiếp, niệm niệm đều giác thì Phật Đại Thông xuất định. Rất là dễ dàng đơn giản. Ở đây xuất định rồi, Ngài mới khen các vị Sa Di này, đã từng cúng dường vô lượng đức Phật, ở nơi các Đức Phật đó tu hành thanh tịnh thọ trì trí của các Đức Phật, để chỉ dạy cho các chúng sanh, cho nên các ông phải luôn luôn gần gũi cúng dường các vị ấy. Bởi mười sáu vị Sa di này là thức tâm của mình, thức tâm này nó vẫn luôn luôn không rời cái thể giác cho nên gọi là thường gần gũi vô lượng đức Phật, cũng như mình vẫn hằng sống trong thể giác này mà không hay. Như vậy chỉ ngay nơi các thức tâm này mà mình nhớ lại và sống trở về, thì liền tự hợp với Như Lai, được Như Lai tán thán thôi, mình bây giờ chưa được Như Lai tán thán là chưa sống trở về. Quả thật là Vô thượng chánh đẳng chánh giác không phải là pháp ở đâu xa, mà chính ở ngay nơi tâm mình đây. Nghĩa là cái biết hiện có đây, mà đừng có mê thì ngay đó là phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Chính cái biết này mà mê nên bị cảnh che và nó dẫn mình chạy trong sanh tử luân hồi. Rồi cũng cái biết này mình không mê, luôn luôn rành rẽ rõ ràng trước mọi cảnh thì ngay đó là thể giác Như Lai hiện bày chớ có gì đâu, nếu mình hằng sống như vậy không gián đoạn, tức là Vô thượng chánh đẳng chánh giác chớ gì! Vô thượng chánh đẳng chánh giác là cái chánh giác không gián đoạn, mà vô thượng là trên hết không có gì so sánh được với nó hết.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo các Tỳ kheo! Mười sáu vị Bồ Tát đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này. Sáu trăm muôn ức na do tha hằng ha sa chúng sanh của mỗi vị Bồ Tát hóa độ đó đời đời sanh ra đều cùng Bồ Tát ở chung, theo nghe pháp với Bồ Tát thảy đều tin hiểu. Nhờ nhơn duyên đó mà đặng gặp bốn muôn ức các đức Phật Thế Tôn đến nay vẫn chẳng ngớt.
Các Tỳ kheo! Ta nói với các ông mười sáu vị Sa Di đệ tử của đức Phật kia nay đều chứng đặng đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, hiện đương nói pháp trong cõi nước ở mười phương, có vô lượng trăm nghìn muôn ức Bồ Tát, Thanh Văn để làm quyến thuộc.
Hai vị làm Phật ở phương Đông: Vị thứ nhất tên A Súc ở nước Hoan Hỷ. Vị thứ hai tên là Tu Di Đảnh.
Hai vị làm Phật ở phương Đông Nam: Vị thứ nhất tên là Sư Tử Âm. Vị thứ hai tên là Sư Tử Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Nam: Vị thứ nhất tên là Hư Không Trụ. Vị thứ hai tên là Thường Diệt.
Hai vị làm Phật ở phương Tây Nam: Vị thứ nhất tên là Đế Tướng,vị thứ hai tên Phạm Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Tây: Vị thứ nhất tên là A Di Đà, vị thứ hai tên là Độ Nhứt Thiết Thế Gian Khổ Não.
Hai vị làm Phật ở phương Tây Bắc: Vị thứ nhất tên là Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Thần Thông, vị thứ hai tên là Tu Di Tướng.
Hai vị làm Phật ở phương Bắc: Vị thứ nhất tên là Vân Tự Tại, vị thứ hai tên là Vân Tự Tại Vương.
Một vị làm Phật ở phương Đông Bắc hiệu Hoại Nhứt Thiết Thế Gian Bố Úy.
Vị thứ mười sáu chính ta là Thích Ca Mâu Ni Phật ở cõi nước Ta bà thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Các Tỳ kheo! Lúc chúng ta làm Sa Di, mỗi người giáo hóa vô lượng trăm nghìn muôn hằng hà sa chúng sanh vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác theo ta nghe pháp. Những chúng sanh đó đến nay có người trụ bực Thanh Văn, ta thường giáo hóa pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Những bọn người này đáng dùng pháp đó mà lần vào Phật đạo.
Vì sao? Vì trí huệ của Như Lai khó tin khó hiểu, vô lượng hằng ha sa chúng sanh được hóa độ trong thuở đó chính là bọn ông, các tỳ kheo và sau khi ta diệt độ các đệ tử Thanh Văn trong đời vị lai. Sau khi ta diệt độ, lại có đệ tử không nghe kinh này, không biết không hay hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ sẽ nhập Niết Bàn.
Ta ở nơi nước khác làm Phật lại có tên khác. Người đó dầu sanh lòng tưởng là diệt độ nhập Niết Bàn, nhưng ở nơi cõi kia cầu trí huệ của Phật, được nghe kinh này, chỉ do Phật thừa mà được diệt độ lại không có thừa nào khác, trừ các đức Như Lai phương tiện nói pháp.
Các Tỳ kheo! Nếu đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến, chúng lại thanh tịnh lòng tin hiểu bền chắc, rõ thấu pháp không, sâu vào thiền định, bèn nhóm các Bồ Tát và chúng Thanh Văn mà vì nói kinh này. Trong đời không có hai thừa mà đặng diệt độ, chỉ có một Phật thừa đặng diệt độ thôi.
Các Tỳ kheo nên rõ! Đức Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết chí nó ưa pháp nhỏ rất ham nơi năm món dục, vì hạng này mà nói Niết Bàn, người đó nếu nghe thời liền tin nhận.
GIẢNG:
Đây Phật nói với các Tỳ kheo rằng mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó thường ưa nói kinh Diệu Pháp này, rồi có sáu trăm ức hằng hà sa chúng sanh, được các vị Bồ Tát Sa Di đó hóa độ, thầy trò đời đời gặp nhau được ở chung, nhờ nhân duyên đó mà được gặp các Phật Thế Tôn. Cuối cùng mười sáu vị đều được thành Phật hết, mà bây giờ đang thuyết pháp ở mười phương, các vị Bồ Tát Sa Di này chỉ cho thức tâm nhưng đã chuyển thành trí, nên cũng từ nơi đức Phật Đại Thông Trí Thắng là cha, rồi xuất gia với Phật, mà thường nói Pháp Hoa, đó chỉ nơi tâm thức này luôn luôn là có ánh sáng Tri kiến Phật, nên các vị này thường nói kinh Pháp Hoa. Do thường nói kinh Pháp Hoa nên có sáu trăm muôn ức na do tha chúng sanh đều được các vị đó hóa độ, thường được sanh chung với nhau, được nghe pháp, nhờ nhân duyên đó mà thường gặp các đức Phật Thế Tôn cho đến ngày nay vẫn không ngớt, nghĩa là ngày ngày thường gặp Phật. Chúng sanh đâu mà nhiều như vậy, đến sáu trăm muôn ức na do tha hằng hà sa? Đó là chỉ cho mọi tâm niệm vi tế của mình, mỗi tâm niệm vi tế là một chúng sanh, mà những tâm niệm của mình tính chừng bao nhiêu? Vô số kể không sao tính được, những tâm niệm đó giờ đây đều theo ánh sáng của Tri Kiến Phật, mà được chuyển về nguồn giác hết, cho nên thường gặp Phật, luôn luôn gần gũi với các vị Bồ Tát đó. Thường gặp Phật tức là luôn luôn ở trong ánh sáng của chánh giác. Như vậy nếu các thức căn bản nó đã chuyển rồi, thì những tâm niệm vi tế nó đều chuyển theo, đều trở về sống trong ánh sáng của chánh giác hết. Bởi vậy tuy chúng ta niệm niệm vô số không tính kể, nhưng mỗi niệm đó mình đều giác hết không mê thì lo gì mà không gặp Phật.Có nhiều vị tu, nói ngồi thấy vọng hoài, không biết chừng nào hết có khi rồi chán! Ở đây thấy rõ tuy niệm nhiều, nhưng mỗi niệm đều giác được nó mà không mê, thì tức là nó ở trong ánh sáng của chánh giác rồi. Một niệm mê là một niệm giác, một trăm niệm mê thì có một trăm niệm giác, một ngàn niệm mê thì có một ngàn niệm giác. Giả sử một triệu niệm mê mình có triệu niệm giác nữa, cho đến không còn một niệm nào mà mình không giác thì sao? là hằng giác rồi, còn đòi gì nữa. Hiểu vậy thì mới thấy được ý tu hành, chớ không thì nói mình tu sao thấy niệm hoài, không tu thì không thấy gì hết. Vì bởi không tu nên không thấy gì, còn tu thì phải thấy, chính thấy đó là giác, như vậy thấy nhiều chừng nào thì giác nhiều chừng nấy, chớ không giác thì làm sao thấy nhiều được. Đến một độ không có niệm nào ngoài niệm giác, thì còn lại là gì? Ngay đó là bảo sở rồi! Còn mình thường tu chút chút là muốn nghỉ ngơi, như đoạn hóa thành sau, đi chút thấy mệt phải vào hóa thành nghỉ, còn đây là đến Bảo Sở phải đi cho đến tột. Đó là nói rõ ý nghĩa để tu hành.
Rồi các vị Sa Di hiện thành Phật đương nói pháp trong cõi nước mười phương, như ở phương Đông có Phật A Súc ở nước Hoan Hỷ, vị thứ hai là Tu Di Đảnh v.v… và vị thứ mười sáu đó là Phật Thích Ca Mâu Ni ở cõi Ta bà này. Mười sáu vị thành Phật rồi chia ra khắp nơi ở mười phương tức là sao? Mình quay chỗ nào cũng đụng Phật hết, nhưng đây thấy rõ cái thể giác Phật Đại Thông Trí Thắng có một thôi, mười sáu vị Sa Di thành Phật thành ra có mười sáu vị. Như vậy, mười sáu vị đó thành Phật tuy mỗi vị có sai khác, nhưng đồng một thể giác là Đại Thông Trí Thắng, đồng thể giác chân thật, đồng một pháp thân thôi. Bởi vậy khi nói thành Phật là thành cái gì? Pháp thân thì sẵn rồi đâu còn thành nữa, mà nói thành là chỉ cho Phật ứng thân, ứng hiện cho nên có sai biệt, có mười sáu, nói thành đó cũng là phương tiện mà nói, cũng thành một thể giác sẵn đó thôi, chớ không phải có gì khác nữa. Nghĩa là từ một gốc của Phật Đại Thông Trí Thắng đó, mà ứng hiện, khi thành thì có mười sáu sai biệt, còn thể chơn thật đó thì vốn sẵn rồi, vốn thành Phật từ thuở nào rồi. Cho nên sau này khi học đến phẩm Như Lai Thọ Lượng, Phật nói ta vốn thành Phật đã lâu rồi, và các vị thành Phật hiện ra mười phương nói pháp khắp nơi hết, tức là đâu đâu cũng đều có ánh sáng Phật đó, tức ánh sáng chánh giác đó, nếu khi tâm mình thanh tịnh, thì ngay đây liền gặp Phật.
Thêm ý nữa Phật Đại Thông Trí Thắng nói Pháp Hoa, mười sáu vị Bồ Tát Sa Di đó thọ trì rồi nói cho các vị khác nghe, rồi cũng thành Phật. Mười sáu vị Sa Di đó được thành Phật tức là thể nhập pháp thân chân thật Đại Thông Trí Thắng, thì phải từ Tri Kiến Phật mà vào, chớ không có con đường nào khác. Hiện giờ mình tu có pháp này pháp kia, nhưng rốt ráo để thể nhập thể giác, tức pháp thân chân thật đó cũng phải từ Tri Kiến Phật mà vào, mà tri kiến Phật đó ở đâu? Ở ngay nơi sáu căn của mình, Tri Kiến là thấy biết, thấy biết mà giác ngộ đó là Tri Kiến Phật, thấy biết mà theo mê đó là tri kiến chúng sanh. Vậy thấy biết này là cửa để mình vào.
Rồi đức Phật Thích Ca nhắc lại, lúc chúng ta làm Sa Di có giáo hóa vô lượng hằng hà sa chúng sanh, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác thường theo ta nghe pháp, những chúng sanh đó cho đến nay có người trụ bực Thanh Văn, Ngài cũng thường giáo hóa cho pháp Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nên những người này lần lần vào Phật đạo. Giờ đây những người được hóa độ trong thuở đó, thì chính là bọn ông đang ngồi đây. Sau khi Ngài diệt độ các đệ tử Thanh Văn trong thời vị lai, rồi cũng có những vị không nghe kinh này, không hay không biết hạnh của Bồ Tát, tự ở nơi công đức của mình được tưởng cho là diệt độ. Nhưng Ngài cũng ở nơi nước khác làm Phật có tên khác, rồi người đó ở nơi các cõi kia cầu trí huệ Phật, thì cũng nghe kinh này, rồi cũng do Phật thừa mà diệt độ thôi chớ không gì khác hết.
Đó là Ngài nhắc lại, nói rõ mọi người đã có duyên với Phật lâu rồi không phải mới đây để cho có đủ niềm tin, nghĩa là ai ai cũng có điều kiện để mà giác ngộ hết, bởi từng đã gặp Phật rồi. Nếu không nhắc kỹ như vậy, có người nghĩ rằng chuyện thành Phật là chuyện khác thôi, chuyện của các vị đã tu lâu, chớ mình mong gì, cho nên Phật nhắc kỹ: Các ông từng có nhân duyên với ta rồi, ta từng giáo hóa nhưng các ông quên thôi, tức là ai ai cũng có ông Phật sẵn, sống trong thể giác sẵn đó mà quên. Ở trong giáo pháp của Phật Thích Ca không gặp được thì Ngài nói, có khi ở nước khác Ngài làm Phật có tên khác nhưng cũng gặp Ngài, Ngài dạy cho Phật thừa mà vào, cũng dẫn người để vào trí huệ Phật thôi. Như vậy mình ở đây hay đi đâu rốt cuộc chạy đâu cũng không khỏi hết, cũng không ra ngoài ánh sáng chánh giác đó. Vậy quý vị thấy chỗ này mình tu bảo đảm không sợ mất. Chạy đâu cũng đụng hết.Thiền Sư Cảnh Sầm ở Trường Sa có lần Ngài dạy:
Tột mười phương thế giới là con mắt của Sa môn, tột mười phương thế giới là thân của Sa môn, tột mười phương thế giới đó là ánh sáng của chính mình.. Tột mười phương thế giới ở trong ánh sáng chính mình, tột mười phương thế giới không người nào là chẳng phải chính mình. Ta thường nói với các ông Chư Phật trong muôn đời cùng với chúng sanh khắp pháp giới đều là ánh sáng Ma Ha Bát Nhã.
Nghĩa là Ngài xác định Chư Phật trong đời này, cùng với chúng sanh ở khắp pháp giới đều là ánh sáng Ma Ha Bát Nhã hết.
Như vậy khắp cả mười phương đều là ở trong ánh sáng của chính mình, mình quay qua đâu cũng đụng ánh sáng đó hết, nhưng tại sao không sáng? Vậy ngay khi mình ngồi đây có ánh sáng đó không? Phật Thích Ca thì nhập Niết Bàn rồi, còn Phật này đang ở nước khác đang dẫn vào trí huệ Phật, mình còn chưa sáng, thì còn đợi gì nữa. Cho nên thấy được điều này thì ngay đây mình thấy Phật ra đời, khỏi cần đợi đâu xa. Nghe Pháp Hoa là phải như vậy đó. Tụng Pháp Hoa là cũng như vậy, chớ không phải tụng từng trang, từng trang, tụng hoài để đếm bộ; đây mới là bộ kinh Pháp Hoa sống.
Khi đức Như Lai tự biết giờ Niết Bàn sắp đến thì sao? Thì trong chúng đã thanh tịnh rồi, lòng tin hiểu đã bền chắc, tức các căn đã thuần rồi. Cho nên Ngài liền nhóm các vị Bồ Tát và Thanh Văn mà nói kinh Pháp Hoa này, ở trong đời không có hai thừa được diệt độ, mà chỉ một Phật thừa thôi, nhấn mạnh trở lại, phải thấy được thể giác chân thật của chính mình, đó là gốc.
Ngài nói Như Lai phương tiện sâu vào tánh chúng sanh, biết trí nó ưa pháp nhỏ, ham nơi các món dục, nên mới vì họ mà nói Niết Bàn, để cho họ dứt khổ họ tin nhận, nghĩa là chúng sanh còn mê, tâm yếu đuối, còn đang khổ nhiều quá, nếu bảo họ tu phải giác ngộ, phải thành Phật, thì xa quá họ không tin nổi, nên trước hết phải nói dứt khổ, khi họ nghe và tu để dứt khổ rồi, lòng tin tăng trưởng dần mà tiến tới giải thoát.
Ngài kết lại cái bản hoài của Phật ra đời là chỉ vì một Phật thừa, chỉ cho người trí huệ thành Phật thôi, chớ không có gì khác hết, nếu có nói phương tiện này, phương tiện khác là cũng để dẫn về chỗ này thôi. Như vậy nghe nói Niết Bàn, tịch diệt, vô sanh, thì mình phải sao? Mình phải thầm nhận cái gì rõ biết tịch diệt vô sanh. Nếu tịch diệt vô sanh mà không biết gì, thì ai nói lại chỉ cho mình nghe đây. Khi nghe nói tịch diệt, nói Niết Bàn thì phải nhận rõ được ý của Phật chỉ ra cái gì, chớ không phải dừng ngay ở đó. Còn các vị nhị thừa, nghe nói Niết Bàn là Niết Bàn thôi, tịch diệt là ngay ở đó hết rồi, đây muốn đưa mình lên phải nhận rõ, khi nói tịch diệt vô sanh, thì cái gì rõ biết được tịch diệt vô sanh, cho nên mới chỉ dạy lại cho mình, nhận được chỗ đó, mới thấy được ý sâu của Phật, chớ không phải nói Niết Bàn ngay đó dừng.
CHÁNH VĂN:
Thí như đường hiểm nhiều nạn dữ, dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người. Nếu chúng đông muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó, chúng nhơn được dắt đi giữa đường lười mỏi bạch đạo sư rằng: Chúng con mệt nhọc lại thêm lo sợ sệt chẳng có thể đi nữa, đường trước còn xa nay muốn lui về.
Vị đạo sư nhiều sức phương tiện mà tự nghĩ rằng: Bọn này đáng thương làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về. Nghĩ thế rồi dùng sức phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành mà bảo chúng nhơn rằng: Các ngươi chớ sợ đừng lui về, nay thành lớn này có thể dừng ở trong đó tùy ý muốn làm gì thì làm, nếu vào thành này sẽ rất được an ổn, nếu có thể lại thẳng đến chỗ châu báu đi cũng đặng.
Bấy giờ chúng mỏi mệt rất vui mừng khen chưa từng có, chúng ta hôm nay khỏi được đường dữ rất được an ổn. Đó rồi chúng nhơn thẳng vào hóa thành sanh lòng tưởng cho rằng đã được độ rất an ổn.
Lúc ấy đạo sư biết chúng nhơn đó đã được nghỉ ngơi không còn mỏi mệt, liền diệt hóa thành bảo chúng nhơn rằng: "Các người nên đi tới, chỗ châu báu ở gần đây, thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra để nghỉ ngơi thôi".Các Tỳ kheo! Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại Đạo Sư, biết các đường sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ nên vượt qua. Nếu như chúng sanh chỉ nghe một Phật thừa thời chẳng muốn thấy Phật chẳng muốn gần gũi, mà nghĩ thế này: "Đạo Phật dài xa lâu ngày chịu cần khổ mới có thể đặng thành". Phật biết tâm chúng đó khiếp nhược hạ liệt dùng sức phương tiện mà ở giữa đường vì để ngơi nghỉ nên nói hai món Niết Bàn.
Nếu chúng sanh trụ nơi hai bực, đức Như Lai bấy giờ liền bèn vì nói: "Chỗ tu của các ông chưa xong, bực của các ông ở gần với huệ của Phật. Phải quan sát suy lường Niết Bàn đã đặng đó chẳng phải chơn thật vậy. Chỉ là sức phương tiện của Như Lai, ở nơi một Phật thừa phân biệt nói thành ba. Như vị đạo sư kia vì cho mọi người ngơi nghỉ mà hóa làm thành lớn, đã biết nghỉ xong mà bảo đó rằng: "Chỗ châu báu ở gần, thành này không phải thiệt, của ta biến hóa làm ra đó thôi".
GIẢNG:Ở trước nói về Phật Đại Thông Trí Thắng, bây giờ nói thẳng về thí dụ Hóa Thành, tức là ở nơi các đường hiểm nạn dài năm trăm do tuần, chốn ghê sợ hoang vắng không người, đường hiểm dài năm trăm do tuần đó chỉ cái gì? Là chỉ đường hiểm sanh tử, trong đó ba độc tức tham, sân, si đầy dẫy, rồi những phiền não luôn luôn chi phối, nên đó là chốn ghê sợ, nghĩa là mình đụng đến đâu cũng là khổ hết. Bây giờ mình đi trong đây là sao? Đi trong đường hiểm là luôn luôn hồi hộp, lo sợ, không biết nó mất lúc nào, sống luôn luôn trong phập phồng. Chúng sanh bị lưu chuyển lâu dài ở trong đó, cho nên mê mờ quên mất tánh chân của mình, không có chỗ gì nương tựa hết, nên gọi là hoang vắng không người. Đó là thí dụ cho thảm trạng của chúng sanh, chính mình đang sống mà không hay không biết, vì vậy đức Phật mới từ bi, Ngài ra đời làm bậc đạo sư để dẫn dắt mình ra khỏi.
Đây nói chúng đông muốn đi qua con đường này đến chỗ trân bửu, có một vị đạo sư thông minh sáng suốt, khéo biết rõ tướng thông bít của con đường hiểm, dắt chúng nhơn muốn vượt qua nạn đó. Chúng đông đó là chỉ những bậc nhị thừa muốn vượt qua sinh tử, được Phật là vị đạo sư dẫn dắt qua, chúng nhân đó được dắt đi giữa đường mệt mỏi bạch đạo sư rằng: Đường trước còn xa không biết bao giờ mà tới, nên muốn lui về cho khỏe. Vị Đạo sư đó thấy thương, nên tự nghĩ rằng: "Bọn này đáng thương làm sao cam bỏ trân bửu lớn mà muốn lui về”, cho nên dùng phương tiện ở giữa đường hiểm quá ba trăm do tuần, hóa làm một cái thành lớn, bảo vào trong đó tạm nghỉ. Đó là muốn nói lên cái gì? Ở giữa đường, hóa cái thành để cho tạm nghỉ, mà hóa thành ở cách đó khoảng ba trăm do tuần, để chỉ cho ngoài cái sanh tử, Phật nói có Niết Bàn, là chỗ dứt sạch sanh tử, dứt bặt khổ đau. Cho nên các ông phải vượt qua cái sanh tử này, an trụ vào trong Niết Bàn đó thì hết khổ, là an ổn, hết phiền não.
Nhưng chỉ dừng chỗ hết phiền não thôi thì chưa đủ, phải tiến lên nữa, có đầy đủ trí tuệ Phật, đầy đủ phương tiện để dẫn dắt cho mọi người nữa. Do đó vị Đạo sư biết mọi người nghỉ ngơi hết mệt rồi, mới diệt hóa thành đó bảo rằng: "Thôi các người hãy đi tới, chỗ châu báu đó ở gần đây, cái thành lớn trước đó là của ta biến hóa ra thôi". Nghĩa là tự tánh chúng sanh vốn là Niết Bàn tự bao giờ, thì còn Niết Bàn gì khác nữa. Mình nghe nói chứng Niết Bàn, mà giờ đây tự tánh mình vốn là Niết Bàn từ lâu rồi, thì còn gì khác để mà chứng nữa. Cho nên đây Ngài nói rằng: cái đó là phương tiện hoá ra. Chỗ châu báu đó ở gần đây. Chỗ này phải chú ý, chỗ bảo sở đó gần đây, mà không nói chỗ nào hết, là chỉ cho cái đó ngay nơi mình thôi, người khéo nhận thì thấy liền. Bởi vì nếu có chỗ thì thuộc về cái bên ngoài rồi, nên nói gần đây thôi. Người khéo thì ngay đây thấy được ý sâu Phật muốn chỉ. Vậy cái gì có lập ra thì đó là chưa phải thật, cái thật thì ngay chính mình, phải hiểu được ý đó.
Hợp pháp lại, Đức Như Lai cũng lại như thế, nay vì các ông mà làm vị Đại Đạo Sư biết các đường dữ sanh tử phiền não hiểm nạn dài xa nên bỏ, nên vượt qua. Bây giờ chúng sanh chỉ nghe dạy một Phật thừa, thì họ không muốn tiến tới, cho nên buộc lòng Phật phải nói phương tiện, nói là có hai thứ Niết Bàn.
Hai thứ Niết Bàn tức là Niết Bàn của Thanh Văn, và Niết Bàn của Duyên giác, Niết Bàn chân thật một còn không có, thì nói gì là hai, cho nên đó là phương tiện. Đối với các vị Bồ Tát đâu đâu cũng là Niết Bàn nên gọi là vô trụ xứ Niết Bàn. Vậy bất cứ chỗ nào ngay chỗ mình ngồi đây cũng là Niết Bàn nữa, thì có gì phải nhập. Thấy được chỗ đó mới thấy được Niết Bàn chân thật, tức là Niết Bàn ngay tự tánh của mình. Đây Ngài nói rằng có nói ra hai thứ Niết Bàn đó cũng là phương tiện, nếu chúng sanh tạm được như vậy rồi, thì Ngài mới cởi bỏ phương tiện đó, đánh thức mình nhận rõ chỗ chân thật.
Cho nên còn có lập bày gì đó là còn thuộc hóa thành, nếu dừng trong đó là còn mắc kẹt, phải đi hoài, vô trụ mới là chân thật.
CHÁNH VĂN:Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đại Thông Trí Thắng Phật
Mười kiếp ngồi đạo tràng
Phật pháp chẳng hiện tiền
Chẳng đặng thành Phật đạo
Các trời, thần, Long Vương
Chúng A tu la thảy
Thường rưới các hoa trời
Để cúng dường Phật đó
Chư Thiên đánh trống trời
Và trổi các kỹ nhạc
Gió thơm thổi hoa héo
Lại mưa bông tốt mới
Quá mười tiểu kiếp rồi
Mới đặng thành Phật đạo.
GIẢNG:
Đây là kệ trùng tuyên Phật Đại Thông Trí Thắng, Ngài ngồi Đạo tràng mười kiếp mà Phật pháp chẳng hiện tiền, rồi Chư Thiên, Long Vương… đến rải hoa cúng dường qua mười tiểu kiếp thì Phật pháp mới hiện tiền, mới thành Phật đạo, tức là thể giác được lộ bày.Các trời cùng người đời
Lòng đều sanh hớn hở
Mười sáu người con Phật
Đều cùng quyến thuộc mình
Nghìn muôn ức vây quanh
Chung đi đến chỗ Phật
Đầu mặt lạy chơn Phật
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Đấng Thánh Sư mưa pháp
Lợi con và tất cả
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa một lần hiện
Vì giác ngộ quần sanh
Mà chấn động tất cả.
GIẢNG:
Đây là nói mười sáu vị vương tử nghe Phật Đại Thông Trí Thắng thành Phật, thì cùng với quyến thuộc cùng đi đến gặp Phật, khi gặp Phật mới thỉnh Phật chuyển pháp luân, tức là các thức đều chuyển theo, chuyển pháp luân là:
Lợi con và tất cả
Thế Tôn rất khó gặp
Lâu xa một lần hiện
Vì giác ngộ quần sanh
Mà chấn động tất cảNghĩa là ánh sáng giác ngộ đó hiện ra rồi, nó sẽ làm chấn động tất cả những vô minh, những phiền não, khiến cho người đều được thức tỉnh.
CHÁNH VĂN:Các thế giới phương đông
Năm trăm muôn ức cõi
Phạm cung điện sáng chói
Từ xưa chưa từng có
Phạm Vương thấy tướng này
Liền đến chỗ Phật ở
Rải hoa để cúng dường
Và dâng cung điện lên
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Nói kệ ngợi khen Phật
Phật biết chưa đến giờ
Nhận thỉnh yên lặng ngồi
Ba phương cùng bốn phía
Trên, dưới cũng như thế
Rưới hoa dâng cung điện
Thỉnh Phật chuyển pháp luân
Thế Tôn rất khó gặp
Nguyện vì bổn từ bi
Rộng mở cửa cam lộ
Chuyển pháp luân vô thượng.
GIẢNG:Đây nói rằng khi Đại Thông Trí Thắng đó soi sáng khắp tất cả các thế giới, thì các cung trời Phạm Thiên ở mười phương, các vị cùng chung cung điện đến Phật, rồi đâng cúng dường cung điện, sau thỉnh Phật chuyển pháp luân. Nghĩa là, ánh sáng đó khi giác ngộ rồi thì nó rọi sáng vượt khắp cả không gian không giới hạn. Mình bây giờ đây cũng có ánh sáng đó, nhưng ánh sáng đó chỉ lẩn quẩn trong thân mấy chục ký này thôi, không sáng ra tới bên ngoài, còn kia giác ngộ rồi thì đâu đâu cũng sáng. Bởi vậy khi giác ngộ rồi thì thấy chỗ nào cũng thanh tịnh, cũng sáng sủa và ở đâu cũng là ở trong ánh sáng giác ngộ đó hết. Vậy cho nên chỗ nào cũng là chỗ người trở về ánh sáng đó. Ở đây nhắc lại các Trời Phạm Thiên cũng đều cảm ánh sáng đó, nên cùng chung đi đến Phật, rồi dâng cung điện cúng dường, cung điện là chỉ cho chỗ nương tựa, buông được chỗ nương tựa đó, thì đến với Phật. Các vị thỉnh Phật chuyển pháp luân, nhưng Phật chỉ nhận thỉnh mà im lặng ngồi thôi, chưa nói tức phải đợi thời cơ chín mùi, chưa thể nói liền được.
CHÁNH VĂN:Thế Tôn huệ vô thượng
Nhân chúng nhơn kia thỉnh
Vì nói các món pháp
Bốn đế, mười hai duyên
Vô minh đến lão tử
Đều từ sanh duyên hữu
Những quá hoạn như thế
Các ông phải nên biết.
GIẢNG:Đây nói Đức Phật nhận lời thỉnh của các vị đó, nên Ngài nói pháp Tứ Đế, mười hai nhân duyên, để trừ những quá hoạn trước, khiến cho người thoát khỏi sanh tử, việc tự lợi đã xong.
CHÁNH VĂN:
Tuyên nói pháp đó rồi
Sáu trăm muôn ức cai
Đặng hết các ngằn khổ
Đều thành A La Hán
Thời nói pháp thứ hai
Nghìn muôn hằng sa chúng
Ở các pháp chẳng thọ
Cũng đặng A La Hán
Từ sau đây đặng đạo
Số đông đến vô lượng
Muôn ức kiếp tính kể
Không thể đặng ngằn mé.
GIẢNG:
Đức Phật nói pháp hội thứ nhất, hội thứ hai, thứ ba, những vị nghe pháp chứng A La Hán nhiều vô số, nghĩa là trong đó không phải một hội mà nhiều hội kế tiếp kế tiếp, chúng được độ chứng A La Hán, tức là phần tự lợi đã xong, cho nên căn cơ cũng đã đến lúc chín mùi, bắt đầu để nói Pháp Hoa.CHÁNH VĂN:
Bấy giờ mười sáu vị
Xuất gia làm Sa di
Đều đồng thỉnh Phật kia
Diễn nói pháp đại thừa
Chúng con cùng quyến thuộc
Đều sẽ thành Phật đạo
Nguyện đặng như Thế Tôn
Huệ nhãn sạch thứ nhất.
Phật biết lòng đồng tử
Chỗ làm của đời trước
Dùng vô lượng nhơn duyên
Cùng các món thí dụ
Nói sáu ba la mật
Và các việc thần thông
Phân biệt pháp chơn thiệt
Đạo của Bồ Tát làm
Nói kinh Pháp Hoa này
Kệ nhiều như hằng sa.
GIẢNG:Bây giờ đây thì mười sáu vị Sa Di này thỉnh Phật chuyển pháp luân nói đại thừa tức nói Pháp Hoa này, chỉ thẳng vào chỗ chân thật đó. Phật biết lòng các vị đồng tử đó, những chỗ làm của đời trước, nên dùng những món nhân duyên, thí dụ nói về đại thừa, tức nói kinh Pháp Hoa này, Phật biết rõ lòng đồng tử tức là sao? Bởi vì mười sáu vị đồng tử đó, là chỉ cho thức tâm đã chuyển thành trí, là đồng với thể giác, với cha là Phật Đại Thông Trí Thắng. Vì đồng một thể giác đó, nên Phật thầm biết lòng của đồng tử rồi Phật dùng những phương tiện nói kinh Pháp Hoa, để đưa người vào Tri Kiến Phật, để chỉ cho ai ai cũng có phần tri kiến Phật hết.
CHÁNH VĂN:
Phật kia nói kinh rồi
Vào tịnh thất nhập định
Tám muôn bốn nghìn kiếp
Một lòng ngồi một chỗ
Các vị Sa Di đó
Biết Phật chưa xuất thiền
Vì vô lượng chúng nói
Huệ vô thượng của Phật
Mỗi vị ngồi pháp tòa
Nói kinh đại thừa này
Sau khi Phật yên lặng
Tuyên bày giúp giáo hóa.
GIẢNG:Nghĩa là Phật Đại Thông Trí Thắng nói Pháp Hoa một thời gian rồi vào tịnh thất nhập định, khi Phật nhập định rồi thì các vị đồng tử Sa Di đó thay Phật nói Pháp Hoa, Phật trong im lặng thầm giúp giáo hóa.
Phật nói kinh rồi vào nhập định là khiến cho người nghe phải đạt ý quên lời mà thực hành, tức là để cho mình thực sống Pháp Hoa. Và khi Phật nhập định, các vị Sa Di đó thay Phật lên Pháp tòa nói Pháp, các Ngài nói Pháp Hoa nhưng được sự im lặng trợ giúp của Phật. Vậy Phật im lặng trợ giúp các vị nói pháp. Bây giờ nói pháp đây có sự trợ giúp của Phật Đại Thông Trí Thắng không? Nếu có thì tại sao chưa thấy? Bởi vì khi im là nói, mà nói tức là im, nghĩa là trong cái nói đó đã có thầm cái im lặng trong đó, và ngược lại khi im lặng thì đã có cái nói trong đó rồi. Tức mình phải thấy ý vượt ngoài ngôn ngữ, thì thấy được Phật Đại Thông Trí Thắng luôn luôn thầm trợ giúp người đang nói pháp, người nghe cũng phải khéo nghe như vậy, tức là khéo nghe được Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:Mỗi vị Sa Di thảy
Số chúng sanh mình độ
Có sáu trăm muôn ức
Hằng hà sa các chúng
Sau khi Phật diệt độ
Các người nghe pháp đó
Ở các nơi cõi Phật
Thường cùng thầy sanh chung.
GIẢNG:
Mỗi vị Sa Di này thường độ chúng sanh, và thường sanh chung với thầy, tức là khi nói Pháp Hoa các thức này chuyển, thì các tâm niệm phiền não vi tế đó cũng chuyển theo, cho nên thường gần gũi nhau, cùng nói lên nhân duyên thầy trò thường gần gũi, không phải là cái mới đây. Mình bây giờ còn ngồi đây nghe Pháp Hoa, biết đâu mình có duyên với Phật Thích Ca trong hội Pháp Hoa rồi.
CHÁNH VĂN:Mười sáu Sa Di đó
Đầy đủ tu Phật đạo
Nay hiện ở mười phương
Đều đặng thành chánh giác
Người nghe pháp thuở đó
Đều ở chỗ các Phật
Có người trụ Thanh Văn
Lần dạy cho Phật đạo
Ta ở số mười sáu
Từng vì các ngươi nói
Dẫn dắt đến huệ Phật
Do bổn nhơn duyên đó
Nay nói kinh Pháp Hoa
Khiến người vào Phật đạo
Dè dặt chớ khinh sợ.
GIẢNG:Đây nói mười sáu vị Sa Di thành Phật ở các phương, vị thứ mười sáu là Phật Thích Ca, Phật Thích Ca là vị ở phương này, vậy thì Ngài đã từng dẫn dắt những chúng sanh đó vào trí huệ của Phật. Như những người ngồi đây, đã được Phật giáo hóa, tức là đã có duyên với Phật, nên phải nhớ lại gốc xưa đó, chớ có sanh nghi ngờ.
CHÁNH VĂN:Thí như đường hiểm dữ
Xa vắng nhiều thú độc
Và lại không cỏ nước
Chốn mọi người ghê sợ
Vô số nghìn muôn chúng
Muốn qua đường hiểm này
Đường đó rất xa vời
Trải năm trăm do tuần
Bấy giờ một đạo sư
Nhớ dai có trí huệ
Sáng suốt lòng quyết định
Đường hiểm cứu các nạn
Mọi người đều mệt mỏi
Mà bạch đạo sư rằng:
“Chúng con nay mỏi mệt
Nơi đây muốn lui về".
GIẢNG:
Đây là kệ tụng Hóa Thành Dụ, ở nơi đường dữ xa vắng, chốn ghê sợ, chúng đông muốn đi qua, có bậc đạo sư dẫn đi tìm báu, nhưng nửa đường mỏi mệt muốn lui về.CHÁNH VĂN:
Đạo sư nghĩ thế này
Bọn này rất đáng thương
Làm sao muốn lui về
Cam mất trâu bửu lớn?
Liền lại nghĩ phương tiện
Nên bày sức thần thông
Hóa làm thành quách lớn
Các nhà cửa trang nghiêm
Bốn bề có vườn rừng
Sông ngòi và ao tắm
Cửa lớn lầu gác cao
Trai gái đều đông vầy
Hóa ra thành đó rồi
An ủi chúng "Chớ sợ
Các người vào thành này
Đều được vừa chỗ muốn".
GIẢNG:Đây là tụng vị đạo sư dẫn đường đó, thấy chúng nhân đòi về nên thương, vì thế giữa đường hóa cái thành lớn trang nghiêm để cho chúng vào đó mà tạm an nghỉ.
CHÁNH VĂN:Mọi người đã vào thành
Lòng đều rất vui mừng
Đều sanh tưởng an ổn
Tự nói đã được độ
Đạo sư biết nghỉ xong
Nhóm chúng mà bảo rằng:
Các ngươi nên đi nữa
Đây là hóa thành thôi
Thấy các ngươi mỏi mệt
Giữa đường muốn lui về
Nên dùng sức phương tiện
Ta hóa làm thành này
Các ngươi gắng tinh tấn
Nên đồng đến chỗ báu.
` GIẢNG:
Tức là khi thấy mọi người nghỉ mệt xong, vị Đạo sư đó mới diệt hóa thành bảo họ phải tiến tới nữa, bảo sở ở gần đây thôi, mình chớ có lo sợ, nghi ngờ gì nữa, phải tiến tới chút nữa. Bây giờ mới hợp pháp trở lại.
CHÁNH VĂN:Ta cũng lại như vậy
Đạo Sư của tất cả
Thấy những người cầu đạo
Giữa đường mà lười bỏ
Không thể vượt đường dữ
Sanh tử đầy phiền não
Nên dùng sức phương tiện
Vì nghỉ nói Niết Bàn
Rằng các ngươi khổ diệt
Chỗ làm đều đã xong
Đã biết đến Niết Bàn
Đều chứng A La Hán
Giờ mới nhóm đại chúng
Vì nói pháp chơn thật
Sức phương tiện các Phật
Phân biệt nói ba thừa
Chỉ có một Phật thừa
Vì nghỉ nên nói hai
Vì các ngươi nói thiệt
Các ngươi chưa phải diệt
Vì nhứt thiết trí Phật
Nên phát tinh tấn mạnh
Ngươi chứng nhứt thiết trí
Mười lực các Phật pháp
Đủ băm hai tướng tốt
Mới là chơn thật diệt
Các Phật là đạo sư
Vì nghỉ nói Niết Bàn
Đã biết ngơi nghỉ rồi
Dẫn vào nơi huệ Phật.
GIẢNG:Đây là bài tụng hợp pháp trở lại, đức Phật nói Ngài cũng như vị đạo sư vì dẫn dắt người cho nên phải dùng nhiều phương tiện, nói có Niết Bàn, dứt sạch sanh tử nhưng mục đích là để đưa người đến chỗ giác ngộ thôi. Nghĩa là mình phải vượt qua những thứ lớp sai biệt, không có chỗ nào mà dừng mà nghỉ hết, còn có chỗ dừng đó là chưa thật, mình làm sao để sống cho trọn vẹn trở về tự tánh chân thật thì đó là cái gốc. Nói tóm lại ở đây ai ai cũng đều có vị Phật Đại Thông Trí Thắng ngay nơi mình, chớ không phải ở đâu xa, nhưng mình đã bỏ quên, đã mê không thấy, có Phật Đại Thông sẵn nơi mình mà mình không Đại Thông, vì không Đại Thông nên không Trí Thắng luôn. Chính vì vậy mà Phật đó nhập diệt với mình từ lâu xa rồi, không biết bao nhiêu kiếp, bây giờ mình không nhớ nhập diệt lúc nào nữa. Do đó mà đây nói Phật Đại Thông Trí Thắng nhập diệt cách đây vô số kiếp không tính kể được, thời gian không nói hết. Nhưng bây giờ đây nếu mình khéo tỏ ngộ lại thì sẽ thấy Phật Đại Thông Trí Thắng ra đời. Rồi mười sáu vị vương tử cùng thần dân đó cũng theo về đây đủ hết. Như vậy ánh sáng giác ngộ này nó soi hết trên dưới không có giới hạn, cả những cõi trời Phạm Thiên luôn. Nếu mình thấy được ánh sáng Đại Thông này, mình ngồi đây thấy nhau hết, nên khi Đại Thông Trí Thắng thành Phật, ánh sáng đó rọi khắp thì chúng sanh trong mười phương thấy được nhau, mới lấy làm lạ tại sao trong đây bỗng sanh chúng sanh? Còn mình bây giờ ngồi kế bên mà không thấy nhau, tại sao? Là bởi vì trong đầu mỗi người đang có thế giới riêng, mà sống với thế giới riêng do đó ngồi sát bên nhau mà không thấy nhau, chỗ này là chỗ đáng thương cách biệt của mình.
Thí dụ như hai người có thành kiến với nhau, đi đụng mặt nhau cũng không thấy nhau, mỗi người cúi mặt đi luôn, đó là chỗ cách biệt, chỗ cách biệt đó do đâu mà có? Do cái ta này mà thành cách biệt chớ không gì hết. Nếu mình quên cái ta này thì có gì cách biệt, cách biệt là vì mình thấy ta khác với người, cho nên người kia đụng với ta thì nổi lên chuyện. Mình quên không có cái ta này, chỉ biết có thể giác thôi, thì có gì đâu mà khác biệt, nên thấy chỗ đó rồi đều thông cảm với nhau hết, vì ai ai cũng có cái chung đó. Chỗ này dù cho người Việt Nam, người Miên, người Lào, người Mỹ, người Anh, hay người nào đi nữa, cũng đều chung chỗ này, ngay cả những người tôn giáo khác cũng đều có chỗ này, thấy vậy thì mới có chỗ thông cảm với nhau. Còn không thấy chỗ này dễ có thành kiến nhau rồi tranh đấu gây đau khổ cho nhau, rồi tạo thành nghiệp, thì đã xa càng xa nữa.
Bây giờ đây mình rõ được chỗ này, sống trở về với cái chân thật đó, cái chân thật này là cái đã có từ lâu rồi. Nếu tin được thì sao? Tin được cái đó thì được thọ ký thôi. Cho nên phẩm sau là thọ ký tiếp.
-
9. Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, ngài Mãn Từ Tử từ nơi Đức Phật nghe trí huệ phương tiện tùy cơ nghi nói pháp như thế, lại nghe thọ ký cho các vị đệ tử lớn sẽ thành Vô thượng Cánh đẳng Chánh giác, lại nghe việc nhơn duyên đời trước. Lại nghe các Đức Phật có sức tự tại thần thông lớn, đặng điều chưa từng có, lòng thanh tịnh hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lễ chân Phật, rồi đứng qua một bên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mắt không tạm rời mà nghĩ thế này:
Thế Tôn rất riêng lạ, việc làm ít có, thuận theo bao nhiêu chủng tánh ở trong đời, dùng sức phương tiện tri kiến mà vì đó nói pháp, vớt chúng sanh ra khỏi các chỗ tham trước, chúng con ở nơi công đức của Phật không thể dùng lời nói mà tuyên bày được, chỉ có Đức Phật Thế Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con.
GIẢNG:
Qua những phẩm trước như phẩm Phương Tiện, Phật đã thọ ký cho ngài Xá Lợi Phất. Phẩm Thọ Ký, Phật thọ ký cho ngài Ca Diếp, ngài Tu Bồ Đề, ngài Ca Chiên Diên, ngài Mục Kiền Liên. Đến đây thọ ký cho một ngàn hai trăm vị A La Hán, trong đó lấy ngài Mãn Từ Tử là đứng đầu, năm trăm vị A La Hán là trực tiếp được nêu ra trong đây nên lấy tên phẩm là Ngũ Bá Đệ Tử Thọ Ký, nhưng bên trong là thọ ký luôn một ngàn hai trăm vị.
Ngài Mãn Từ Tử là một vị thuyết pháp đệ nhất ở trong hàng đệ tử lớn của Phật, nghe qua công đức trí huệ không thể nghĩ bàn như vậy đó, ngài mới tin nhận tự tâm mình là Phật, mình cũng có phần thành Phật không nghi ngờ. Đây nói lòng thanh tịnh hớn hở, tức là lòng thanh tịnh không nghi ngờ. Rồi chăm chăm nhìn Phật mắt không tạm rời, là nói lên một lòng thanh tịnh chớ không có nghĩ tạp loạn. Như vậy tức là thầm hợp với tâm Phật, cho nên liền được Phật thọ ký. Trong đây ngài thầm nghĩ:
"Chỉ có Đức Phật Thế Tôn hay biết bổn nguyện trong thâm tâm của chúng con". Tức là nói lên chỗ thầm biết nhau thôi. Và ngài cũng thấy được ý ngoài lời nên ngài khen ngợi Đức Phật những công đức đó, không thể dùng ngôn ngữ mà diễn tả cho hết được, mà phải thấy vượt qua ngôn ngữ, chính chỗ đó ngài thấy mình có phần hợp với tâm Phật rồi, cho nên thọ ký.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ Phật bảo các tỳ kheo: "Các ông thấy Mãn Từ Tử đây chăng? Ta thường khen ông là bậc nhứt trong hàng người nói pháp, cũng thường khen các món công đức của ông, ròng rặc siêng năng hộ trì giúp tuyên bày pháp của ta, có thể chỉ dạy lợi mừng cho hàng bốn chúng giải thích trọn vẹn chánh pháp của Phật mà làm nhiều lợi ích cho những người cùng đồng hạnh thanh tịnh. Ngoài Đức Như Lai không ai có thể cùng tận chỗ biện bác ngôn luận của ông. Các ông chớ tưởng Mãn Từ Tử chỉ hay hộ trì trợ tuyên pháp của ta thôi, ông cũng đã ở nơi chín mươi ức Đức Phật thuở quá khứ mà hộ trì trợ tuyên chánh pháp của Phật ở trong nhóm người nói pháp thuở đó cũng là bực nhứt.
Ông lại ở pháp không của chư Phật nói, thông suốt rành rẽ, đặng bốn món trí vô ngại, thường hay suy gẫm chắc chắn nói pháp thanh tịnh không có nghi lầm, đầy đủ sức thần thông của Bồ tát, tùy số thọ mạng mà thường tu hạnh thanh tịnh.
Người đời thuở ở Đức Phật kia đều gọi ông là Thanh văn. Nhưng ông Mãn Từ Tử dùng phương tiện đó làm lợi ích cho vô lượng trăm ngàn chúng sanh, lại giáo hóa vô lượng vô số người khiến đứng nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Ông vì muốn tịnh cõi Phật mà thường làm Phật sự giáo hóa chúng sanh.
Các tỳ kheo! Ông Mãn Từ Tử cũng đặng bực nhứt trong hàng người nói pháp thuở bảy Đức Phật, nay ở nơi chỗ ta trong hàng người nói pháp cũng là bực nhứt. Trong hàng người nói pháp thuở các Đức Phật trong hiền kiếp về tương lai cũng lại là bực nhứt, mà đều hộ trì giúp tuyên bày pháp của Phật. Ông cũng sẽ ở trong đời vị lai hộ trì trợ tuyên chánh pháp của vô lượng vô biên các Đức Phật, giáo hóa làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh khiến an lập nơi đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác, vì tịnh cõi Phật mà thường siêng năng tinh tấn giáo hóa chúng sanh, lần lần đầy đủ đạo Bồ tát.
Qua vô lượng vô số kiếp sau ông sẽ ở cõi này thành Vô thượng chánh đẳng chánh giác hiệu là Pháp Minh Như lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Đức Phật đó lấy số thế giới tam thiên đại thiên nhiều như số cát sông Hằng mà làm thành một cõi Phật. Đất bằng bảy thứ báu, thẳng bằng như bàn tay không có núi gò, khe suối, rạch ngòi. Nhà đài bằng bảy thứ báu đầy dẫy trong đó, cung điện của các trời ở gần trên hư không, người cùng trời giao tiếp nhau, hai bên đều thấy được nhau, không có đường dữ cũng không có người nữ.
Tất cả chúng sanh đều do biến hóa sanh, không có dâm dục, đặng pháp thần thông lớn, thân chói ánh sáng, bay đi tự tại, chí niệm bền chắc, có đức tinh tấn trí huệ, tất cả đều thân sắc vàng đủ ba mươi hai tướng tốt để tự trang nghiêm.
Nhơn dân nước đó thường dùng hai thức ăn. Một là pháp hỷ thực, hai là thiền duyệt thực. Có vô lượng vô số ngàn muôn ức na do tha các chúng Bồ tát đặng sức thần thông lớn, bốn trí vô ngại, khéo hay giáo hóa loài chúng sanh. Chúng Thanh văn trong nước đó tính kể số đếm đều không thể biết được, đều đặng đầy đủ ba món minh, sáu pháp thần thông và tám món giải thoát.
Cõi nước của Đức Phật đó có vô lượng công đức trang nghiêm thành tựu như thế, kiếp tên Bửu Minh, nước tên Thiện Tịnh. Phật đó sống lâu vô lượng vô số kiếp, pháp trụ đời rất lâu. Sau khi Phật diệt độ dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó.
GIẢNG:
Bấy giờ Phật bảo các tỳ kheo: "Các ông thấy Mãn Từ Tử đây chăng?" Câu này quí vị thấy sao? Ông ở trong hội đó ai mà không thấy còn hỏi chi nữa? Đó là muốn chắc mình thấy Mãn Từ Tử là thấy cái gì ở ông Mãn Từ Tử, chớ không phải là thấy cái thân đó thôi. Thấy được Mãn Từ Tử đó thì mới thấy chỗ khen ngợi ông, còn Mãn Từ Tử mang thân này là cái thân hàng Thanh văn, thân này có sanh có diệt, không phải là chỗ muốn chỉ. Phật nói:
"Ta thường khen ông là bậc nhất trong hàng người nói pháp…, dựng tháp bằng bảy thứ báu khắp cả nước đó."
Đây là Phật thọ ký cho ngài Mãn Từ Tử. Trước khi thọ ký, Đức Phật nhắc lại, khen ông là nói pháp bực nhất, ông thường hộ trì chánh pháp của chư Phật không những là của Phật Thích Ca mà cả chư Phật quá khứ cũng như vị lai. Khi ông tin nhận mình có phần thành Phật thì liền được Phật thọ ký, vì đã tin nhận thì thầm khế hợp với tâm Phật rồi. Điều đó muốn nhắc mình ngay đây mà chúng ta thầm cảm thông tâm Phật thì cũng được thọ ký. Và Phật thổ lộ:
Các ông đừng tưởng Mãn Từ Tử đây là hàng Thanh văn thôi mà ông chính là hàng Bồ tát, tuy hiện tướng Thanh văn mà bên trong đủ hạnh Bồ tát. Ngài hiện tướng Thanh văn để chi? Là để cho thấy ngài cũng còn tâm sai biệt, được chút ít cho là đủ, sau đó nhờ chuyển tâm mà được thọ ký, khiến người có tâm hạn hẹp, thấy ngài được thọ ký thì tin mình cũng vậy, mà vươn lên. Phật khen: "ông ròng rặc siêng năng hộ trì giúp tuyên bày giáo pháp của Phật, rồi giải thích trọn vẹn chánh pháp là ở pháp không của chư Phật đó thông suốt rành rõ, đặng bốn món trí vô ngại", tức đặng bốn món biện tài vô ngại, bốn món đó gồm:
1. Pháp vô ngại là hiểu rõ danh từ văn chương quyết đoán một cách rành rẽ không có ngăn ngại.
2. Nghĩa vô ngại là nghĩa lý tinh thông rõ ràng không ngăn ngại.
3. Từ vô ngại là tinh thông những tiếng nói, tiếng địa phương, lời lẽ đều vô ngại.
4. Nhạo thuyết vô ngại là tùy thuận đối phương khéo nói không ngăn ngại, nghĩa là tùy đối phương hạng nào nói theo hạng đó.
Ngài còn có đầy đủ sức thần thông của Bồ tát rõ ràng ngài không phải là hạng Thanh văn thường rồi. Vì để thanh tịnh cõi Phật cho nên mới dùng những phương tiện đó để đưa vào đạo vô thượng. Tức ngài hiện tướng Thanh văn bên trong là ẩn hạnh Bồ tát. Phật lại nói Ngài là bực nhứt trong hàng người nói pháp, không những thời này mà cả thời quá khứ như Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu Na Hàm, Phật Ca Diếp.
Phật thọ ký ngài hộ trì chánh pháp của Phật như vậy đó, làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh, tịnh cõi Phật trải qua vô lượng vô số kiếp sau, rồi ngài ở ngay cõi ta bà này thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Hiệu là Pháp Minh, bởi vì ngài thuyết pháp bực nhứt cho nên thành Phật được quả là Pháp Minh, pháp nó được sáng tỏ. Trong cõi nước của ngài, không phải một cõi tam thiên đại thiên mà cả vô số tam thiên làm một cõi, không có ranh giới gì hết, sống không chia ranh giới. Cõi đó bằng thẳng, trời người giao tiếp, không cách biệt, mới thấy mình còn tâm sai biệt nên mới cách biệt nhiều, còn đây thì không có cách biệt. Trong đó không có người nữ, chúng sanh thì tâm sáng suốt, cõi nước đều tốt đẹp. Ăn thì ăn bằng pháp hỷ thực và thiền duyệt thực, chớ không ăn món ăn thường như mình. Lúc đó khỏi cần phải giành giựt, nghe pháp là mình đủ no rồi, ngồi thiền là vui là no rồi, mà cõi này ở đâu? Phật nói rõ ở ngay cõi Ta bà này chớ không đâu khác.
Vậy cho thấy, hàng Thanh văn khi phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác thì quên tâm niệm hẹp hòi, mà quên tâm niệm hẹp hòi tức là quên tâm niệm dơ sạch sai biệt, lấy bỏ kia đây, tức liền thấy ngay trước mắt, đâu đâu cũng là cõi Phật hiện tiền ngay cõi ta bà này tất cả đều trang nghiêm thanh tịnh, đâu cần bỏ đây mà đến chỗ nào khác. Bởi vì còn có tâm niệm hạn hẹp, có ranh giới, cho nên mình thấy cõi này dơ, cõi này khổ, xấu xí nên chán, muốn bỏ cõi này để cầu lên cõi tốt đẹp hơn, thì đó là có tâm lấy bỏ, bỏ đây để mà đến kia. Còn đây qua được tâm đó rồi thì thấy rõ đâu đâu cũng đều thấy cõi Phật trang nghiêm hết. Bởi vì tâm mình bình đẳng thanh tịnh rồi, thì nhìn ra chỗ nào cũng thanh tịnh, nơi nơi đều tỏ bày ánh sáng Như Lai không thiếu sót, chính đó mới là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Chính chỗ này muốn nhấn mạnh, muốn nhắc mình phải soi rõ về chính mình, tỏ suốt tâm Phật ngay nơi mình, chớ đừng mong cầu bên ngoài. Soi trở về chính mình, rõ tâm Phật chính mình đó là căn bản. Tùy tâm mình chuyển biến, tâm nhơ thì thấy cõi nước nhơ, tâm sạch thấy cõi nước sạch vậy thôi. Ngay đây tâm mình còn đầy phiền não nhơ nhớp, thì nhìn ra thấy đâu đâu cũng nhơ nhớp, cho nên người trong tâm phiền não thì nhìn ra thấy gì cũng phiền não, nếu người đang ôm ấp bực bội trong lòng, chỉ cần mình nói một câu nhẹ thôi thì cũng sanh chuyện. Còn người tâm được thanh tịnh rồi, nhiều khi mình nói nặng họ, họ bỏ qua. Tâm mình sáng thấy cái gì cũng sáng.
Như có một bà cư sĩ, bà đến nghe thiền sư Bạch Ẩn giảng, Bạch Ẩn là một thiền sư Nhật Bản, trong đó ngài nói rằng:
- Tâm tịnh là cõi nước thanh tịnh, còn Đức Phật thì trong mỗi chúng sanh thôi, một khi Đức Phật hiện ra đó, thì mọi vật ở trong thế gian này đều chiếu ánh sáng quang minh hết, nếu ai muốn nhận điều này thì phải phản quan tự kỷ đến chỗ nhất tâm bất loạn, vì tâm tịnh thì cõi nước liền thanh tịnh, thì làm sao để mà trang nghiêm tịnh độ. Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sanh, thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là cái gì?
Nghe xong bà cảm, bà nghĩ điều đó không khó. Phật ngay tâm mình, tâm tịnh cõi Phật tịnh, vậy đâu có chuyện gì khó. Bà trở về nhà và bắt đầu quán chiếu suốt cả ngày đêm như vậy, tức là phản quan tự kỷ, đeo đuổi mãi ở trong tâm, dù cho lúc ngủ hay lúc thức cũng vậy, luôn luôn là quán chiếu như vậy. Rồi một hôm bà đang rửa nồi, liền bỗng nhiên tỏ ngộ thấy đâu đâu cũng là Phật hết. Khi tỏ ngộ bà mừng quá ném cái nồi qua một bên, bà vội vàng đến trình với ngài Bạch Ẩn rằng:
- Con bỗng gặp Đức Phật trong thân con rồi, mọi vật nó rạng ngời ánh sáng, kỳ diệu, kỳ diệu thay!
Bà sung sướng vui mừng hết sức.
Ngài Bạch Ẩn nghe nhưng còn nghi, ngài thử lại coi phải thứ thiệt hay không. Ngài bảo:
- Như vậy còn cái hầm phân thì sao?
Trong bếp trong nồi chiếu sáng còn dễ hiểu, còn trong hầm phân cầu tiêu thì sao đây? Chỗ này thật là khó chiếu nổi phải không? Như vậy cái hầm phân có chiếu sáng hay không?
Bà liền bước tới đấm ngài Bạch Ẩn một cái nói:
- Cái ông già này chưa ngộ!
Ngay đó ngài Bạch Ẩn cười to, ngài gật đầu, đó là thứ thiệt.
Rõ ràng vậy đó, nhiều khi mình nghe nói chỗ nào cũng chiếu sáng hết, rồi mình học lóm, thấy được chút chút. Nhưng tới chỗ hầm phân cầu tiêu, lúc đó hết chiếu sáng nổi. Nếu khi nghe hỏi vậy mình do dự thì sao? Thì biết không phải thứ thiệt rồi, nghe hầm phân thì nghĩ hầm phân sao chiếu nổi, đó là còn kẹt trong tâm niệm nhơ sạch, biết ngay không phải thứ thiệt. Còn ở đây bà tỏ ngộ rõ ràng, nói hầm phân thì hầm phân cũng chiếu sáng luôn. Cho nên bà mới đấm cho ngài Bạch Ẩn một cái rồi nói "ông chưa ngộ". Đó là để chứng nghiệm rõ ràng, khi tâm mình thanh tịnh thấy gì cũng thanh tịnh hết. Hầm phân cũng thanh tịnh luôn. Ngay thế giới Ta bà này mà tỏ ngộ thì cũng được thành cõi Phật, đều là trang nghiêm thanh tịnh, chớ không phải tìm chỗ nào khác.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Các tỳ kheo lóng nghe
Đạo của Phật tử làm
Vì khéo học phương tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ tát
Làm Thanh văn Duyên giác
Dùng vô số phương tiện
Độ các loài chúng sanh
Tự nói là Thanh văn
Cách Phật đạo rất xa
Độ thoát vô lượng chúng
Thảy đều được thành tựu
Dầu ưa nhỏ, biếng lười
Sẽ khiến lần thành Phật.GIẢNG:
Đây Đức Phật thổ lộ rõ ràng cho chúng ta thấy, các vị Bồ tát, khi các ngài hiện tướng Thanh văn để dẫn dắt cho người, đây Ngài nhắc :
Các tỳ kheo lắng nghe
Đạo của Phật tử làm
Vì khéo học phương tiện
Chẳng thể nghĩ bàn được
Biết chúng ưa pháp nhỏ
Mà sợ nơi trí lớn
Cho nên các Bồ tát
Làm Thanh văn, Duyên giácĐó là để dẫn dắt họ, để cho mọi người tin nhận ai ai cũng có phần thành Phật, vì vậy mà các ngài hiện tướng Thanh văn. Đây các ngài còn thị hiện:
Dầu ưa nhỏ biếng lười
Sẽ khiến lần thành PhậtTức là ưa pháp nhỏ, có khi biếng lười, nhưng mà rồi khiến cho được thành Phật, để mọi người thấy rằng mình lâu lâu cũng làm biếng, cũng giIải đãi, nhưng cũng có phần thành Phật được. Chớ không thì cứ nghĩ rằng thành Phật đó là hàng thượng căn hết, còn mình là hàng hạ căn chắc không có phần.
Ở đây các ngài cũng thị hiện là ưa pháp nhỏ nên làm biếng chút, nhưng rốt cuộc rồi lần lần cũng được thọ ký.
CHÁNH VĂN:Trong ẩn hạnh Bồ tát
Ngoài hiện là Thanh văn
Ít muốn, nhàm sanh tử
Thiệt tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc cho người
Lại hiện tướng tà kiến
Đệ tử ta như vậy
Phương tiện độ chúng sanh
Nếu ta nói đủ cả
Các món việc hiện hóa
Chúng sanh nghe đó rồi
Thời lòng sanh nghi lầm.
GIẢNG:
Đây phải nhận kỹ các ngài ẩn đi hạnh Bồ tát bên ngoài hiện tướng Thanh văn để nhắc cho mọi người. Cho nên:Ít muốn, nhàm sanh tử
Thiệt tự tịnh cõi Phật
Bày ba độc cho người
Lại hiện tướng tà kiếnTức là hiện cho mọi người thấy rõ, có khi cũng có tham sân si, bày tướng ba độc, rồi có khi cũng có tà kiến, nhưng khi chuyển hóa thì cũng được giác ngộ, cũng đầy đủ tri kiến Như Lai.
Như vậy để cho mọi người thấy, mình cũng còn có tham sân si, cũng nhiều khi có tà kiến, mà chuyển tâm thì mình cũng được thọ ký. Vậy là ai ai cũng đều có phần hết. Như ở thời Đức Phật có vị Sa Nặc có nhiều tật xấu làm cho nhiều người thấy khó chịu, còn ông Ưu Đà Di thì hiện tướng tham dục nhiều, nhưng cũng thành A La Hán. Rồi trong đây cũng được thọ ký hết. Như vậy cũng ngầm nhắc mình chớ vội theo tướng bên ngoài mà phán đoán các ngài, mà phải thấyđược cái thanh tịnh ở bên trong.
CHÁNH VĂN:
Nay Phú Lâu Na đây
Ở xưa ngàn ức Phật
Siêng tu đạo mình làm
Tuyên hộ các Phật pháp
Vì cầu huệ vô thượng
Mà ở chỗ chư Phật
Hiện ở trong đệ tử
Học rộng có trí huệ
Nói pháp không sợ sệt
Hay khiến chúng vui mừng
Chưa từng có mệt mỏi
Để giúp nên việc Phật.
GIẢNG:Đây nói thẳng Phú Lâu Na, ngài ở trong muôn ức Đức Phật, tu hạnh Bồ tát mà tuyên dương Phật pháp vì để cầu trí huệ Vô thượng đó. Tức là ngài ở chỗ các Đức Phật thường tuyên dương Phật pháp để cầu đạo Vô thượng không phải là người thường.
CHÁNH VĂN:Đã được thần thông lớn
Đủ bốn trí vô ngại
Biết các căn lợi độn
Thường nói pháp thanh tịnh
Diễn xướng nghĩa như thế
Để dạy ngàn ức chúng
Khiến trụ pháp đại thừa
Mà tự tịnh cõi Phật.
GIẢNG:
Tức là ngài làm các việc đó, là đang hành hạnh Bồ tát để tự thanh tịnh cõi Phật của mình.
CHÁNH VĂN:Đời sau cũng cúng dường
Vô lượng vô số Phật
Hộ trợ tuyên chánh pháp
Cũng tự tịnh cõi Phật
Thường dùng các phương tiện
Nói pháp không e sợ
Độ chúng không kể được
Đều thành nhứt thiết trí
Cúng dường các Như Lai
Hộ trì tạng pháp bảo.
GIẢNG:
Ngài luôn luôn ở vô lượng vô số Phật đó mà hộ trợ tuyên dương chánh pháp của Phật. Rồi sau nữa thường dùng các phương tiện nói pháp không sợ sệt, cúng dường các Như Lai, luôn luôn hộ trì giữ gìn tạng pháp bảo. Bởi vì cái nhân là hộ trì tạng pháp bảo, cho nên sau thành Phật hiệu là Pháp Minh.
CHÁNH VĂN:Sau đó đặng thành Phật
Hiệu gọi là Pháp Minh
Nước đó tên Thiện Tịnh
Kiếp tên là Bửu Minh
Chúng Bồ tát rất đông
Số nhiều vô lượng ức
Đều đặng thần thông lớn
Sức oai đức đầy đủ
Khắp đầy cả nước đó
Thanh văn cũng vô số
Ba minh tám giải thoát
Đặng bốn trí vô ngại
Dùng hạng này làm tăng
Chúng sanh trong cõi đó
Dâm dục đều đã dứt
Thuần một biến hóa sanh
Thân trang nghiêm đủ tướng
Pháp hỷ, thiền duyệt thực
Không tưởng món ăn khác
Không có hàng nữ nhơn
Cũng không các đường dữ
Phú Lâu Na tỳ kheo
Khi công đức trọn đầy
Sẽ đặng tịnh độ này
Chúng hiền thánh rất đông
Vô lượng việc như thế
Nay ta chỉ nói lược.
GIẢNG:Đó là nhắc lại cõi nước của ngài Phú Lâu Na đều trang nghiêm thanh tịnh hết, nhưng chuyện đó Phật nói:
Vô lượng việc như thế
Nay ta chỉ nói lược.Nghĩa là Phật chỉ nói lược thôi chớ không thể nói hết được, đó cũng là điểm Phật muốn nhắc: nói gì nói cũng không hết được mà mình phải chứng nghiệm đến đó mới thấy thôi, dùng lời diễn tả không hết.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ một ngàn hai trăm vị A La Hán, bực tâm tự tại, nghĩ như vầy: "Chúng ta vui mừng đặng điều chưa từng có, nếu Đức Thế Tôn đều thọ ký cho như các đệ tử lớn khác thời sung sướng lắm"
GIẢNG:Đến đây một ngàn hai trăm vị A La Hán thuộc về hạng bậc trung, những vị bậc thượng thuộc hàng trưởng lão như ngài Xá Lợi Phất, ngài Tu Bồ Đề, ngài Đại Ca Diếp, ngài Mục Kiền Liên đã được thọ ký rồi, bây giờ tới ngài Phú Lâu Na cũng được thọ ký nữa nên các ngài thấy mình cũng có phần mới hy vọng nếu được Phật thọ ký như mấy vị đệ tử lớn thì sung sướng vô cùng. Khi có tâm tin nhận như vậy thì sao? Thì được Phật thọ ký, cho nên:
Đức Phật biết tâm niệm của các vị đó nên nói với ngài Đại Ca Diếp: "Một ngàn hai trăm vị A La Hán đó, nay ta sẽ hiện tiền thứ tự mà thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Trong chúng đó, đệ tử lớn của ta là Kiều Trần Như tỳ kheo, sẽ cúng dường sáu muôn hai ngàn ức Đức Phật, vậy sau đặng thành Phật hiệu là Phổ Minh Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô Thượng Sĩ Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Năm trăm vị A La Hán: ông Ưu Lâu Tần Loa Ca Diếp, ông Già Gia Ca diếp, ông Na Đề Ca Diếp, ông Ca Lưu Đà Di, ông Ưu Đà Di, ông A Nậu Lâu Đà, ông Ly Bà Đa, ông Kiếp Tân Na, ông Bạc Câu La, ông Châu Đà Tá, ông Dà Đà..v.v… đều sẽ đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều đồng một hiệu là Phổ Minh.
GIẢNG:Đây là thọ ký cho một ngàn hai trăm vị A La Hán, mà ở đây thọ ký trực tiếp cho năm trăm vị A La Hán đang hiện tiền.
Phật bảo ta sẽ lần lượt thọ ký cho hết, nhưng đây thọ ký rõ cho năm trăm vị A La Hán hiện tiền. Cho nên phẩm này gọi là "Ngũ bá đệ tử thọ ký" là như vậy, các vị thành Phật đều đồng một hiệu là Phổ Minh.
Phổ Minh là gì? Phổ là khắp, Minh là sáng. Phổ Minh là sáng khắp hết. Tức là đã khai được tri kiến Phật, ánh sáng đó soi khắp hết, không còn si mê, không còn tối tăm nữa.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Kiều Trần Như tỳ kheo
Sẽ gặp vô lượng Phật
Qua vô số kiếp sau
Mới đặng thành chánh giác
Thường phóng quang minh lớn
Đầy đủ các thần thông
Danh đồn khắp mười phương
Tất cả đều tôn kính
Thường nói pháp vô thượng
Nên hiệu là Phổ Minh.
Cõi nước đó thanh tịnh
Bồ tát đều dõng mãnh
Đều lên lầu gác đẹp
Dạo các nước mười phương
Đem đồ cúng vô thượng
Hiến dâng các Đức Phật
Làm việc cúng đó xong
Sanh lòng rất vui mừng
Giây lát về bổn quốc
Có sức thần như thế
Phật thọ sáu muôn kiếp
Chánh pháp trụ bội thọ
Tượng pháp lại hơn chánh
Pháp diệt trời người lo.
GIẢNG:Ở đây nhắc lại ngài Kiều Trần Như sẽ thành Phật hiệu là Phổ Minh. Phật nói rõ Phổ Minh là gì? Là thường phóng quang minh lớn, ánh sáng soi khắp hết. Vậy ngay đây có không? Nếu quí vị thấy ngay đây có thì gặp Phật Phổ Minh liền, khỏi cần phải đợi gì xa. Thành ra ngay cành hoa này, ngay cái bàn này mà mình thấy được ánh sáng đó, nó cũng đều có đủ, vậy là chỗ nào cũng có Phổ Minh, thì thấy Phật Phổ Minh ngay đây thôi. Rồi Phật Phổ Minh này không phải một vị mà cả năm trăm vị Phật Phổ Minh hết. Vậy mình ngồi đây có mấy chục người thì có đủ Phổ Minh rồi, hiểu như vậy thì thấy rõ nghĩa sâu xa kinh Pháp Hoa, còn không thì mình cho chuyện này của các ngài, mình không dính dáng gì hết, thì mình học làm chi. Rồi điều này nữa; khi các ngài thành Phật, Bồ tát ở trong nước các ngài:
Dạo các nước mười phương
Đem đồ cúng vô thượng
Hiến dâng các đức Phật
Làm việc cúng đó xong
Sanh lòng rất vui mừng
Giây lát về bổn quốcQuí vị đọc chỗ này làm sao mà hiểu nổi! Ở cõi nước này đem đồ cúng đó đi khắp hết mười phương chốc lát trở về bổn quốc. Mình đây qua Mỹ trở về mất thời gian chừng bao lâu, còn đây cúng dường cả mười phương chỉ trong giây lát trở về nhà, sao mà nhanh vậy? Đọc theo chữ nghĩa thì giống như đọc thần chú chớ không hiểu nổi. Nhưng hiểu rồi thì ngay đây mình thể nghiệm được một cách rõ ràng. Thường một niệm giác là gì?
Giác là thanh tịnh tức là Phật. Như vậy một niệm giác là một cõi Phật. Nếu mình niệm niệm đều giác là từ một cõi Phật này qua một cõi Phật khác chứ gì. Như vậy một ngày mình được một trăm niệm giác là đi qua được cả trăm cõi Phật rồi, còn niệm niệm đều giác thì niệm niệm đều đi qua cõi Phật. Ở đây các ngài đã thành Phật nên niệm niệm đều giác hết, vậy chỉ một chút thôi là đã đi qua hết các cõi Phật rồi. Cho nên qua hết mười phương chỉ trong chốc lát thôi, đâu có rời một niệm. Hiểu như vậy đó thì thấy ý nghĩa nó sâu, ngay trong cuộc sống của mình đây, mình cũng thể nghiệm được điều đó. Nó rõ ràng như vậy. Nếu học theo chữ nghĩa thì chuyện đó là chuyện của Phật mình không dính dáng gì hết, nhưng ở đây mình có phần trong đó.
CHÁNH VĂN:Năm trăm tỳ kheo kia
Thứ tự sẽ là Phật
Đồng hiệu là Phổ Minh
Theo thứ thọ ký nhau
Sau khi ta diệt độ
Ông đó sẽ làm Phật
Thế gian của ông độ
Cũng như ta ngày nay
Cõi nước đó nghiêm sạch
Và các sức thần thông
Chúng Thanh văn, Bồ tát
Chánh pháp cùng tượng pháp
Thọ mạng kiếp nhiều ít
Đều như trên đã nói
Ca Diếp ! Ông đã biết
Năm trăm vị tự tại
Các chúng Thanh văn khác
Cũng sẽ làm như thế
Vị nào vắng mặt đây
Ông nên vì tuyên nói.
GIẢNG:Ở đây Phật thọ ký chung hết cho năm trăm vị A La Hán.
Còn các chúng Thanh văn khác là sao? Tức gồm một ngàn hai trăm vị nhưng chỉ có năm trăm vị là trực tiếp, còn bao nhiêu là vắng mặt. Nhưng những vị vắng mặt Phật cũng thọ ký luôn, do đó Phật nói:
Vị nào vắng mặt đây
Ông nên vì tuyên nói.Vậy là thọ ký trực tiếp cho năm trăm vị A La hán đồng hiệu là Phổ Minh, ánh sáng đó trùm khắp hết, ngay trước mắt đây đều đủ, nếu ngay đây tỏ sáng thì liền gặp chư Phật Phổ Minh ra đời.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, năm trăm vị A La hán ở trước Phật đặng thọ ký xong, vui mừng hớn hở, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chơn Phật, ăn năn hối lỗi của mình mà tự trách: Thế Tôn, chúng con thường nghĩ như vầy, tự cho mình đã được rốt ráo diệt độ, nay mới biết đó là như người vô trí. Vì sao? Chúng con đáng được trí huệ của Như Lai mà bèn tự lấy trí nhỏ cho là đủ.
GIẢNG:
Ở đây các ngài được thọ ký rồi, bây giờ mới cảm nhận lỗi xưa, là mình được chút trí huệ đó thấy đủ rồi, còn trí huệ Phật thấy như xa xôi quá, mình chắc khó mà với tới được. Nhưng bây giờ đây mới thấy rõ mình cũng có phần đó. Cho nên đây nói lên tâm trạng xưa của các ngài tự lấy trí nhỏ cho là đủ. Chính chỗ này là chỗ người tu lâu lâu thường hay mắc kẹt, tu lâu lâu có hiểu một chút đạo lý cho vậy là đủ rồi, khỏi cần phải cầu thêm gì nữa, đó là tâm tự mãn. Đoạn kế các ngài nói thí dụ về hạt châu buộc trong chéo áo.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn! Thí như có người đến nhà bạn thân say rượu mà nằm, lúc đó người bạn thân có việc quan phải đi, lấy châu báu vô giá cột trong áo của gã say cho đó rồi đi. Gã đó say nằm đều không hay biết, sau khi dậy bèn dạo đi đến nước khác, vì việc ăn mặc mà phải gắng sức cầu rất là khổ nhọc, nếu có được chút ít bèn cho là đủ.
Lúc sau người bạn thân gặp gỡ thấy gã bèn bảo rằng : "Lạ thay! Anh này, sao lại vì ăn mặc mà đến nỗi này. Ta lúc trước muốn cho anh được an vui tha hồ thọ năm món dục, ở ngày tháng năm đó, đem châu báu vô giá cột vào trong áo anh, nay vẫn còn đó mà anh không biết, lại đi nhọc nhằn sầu khổ để cầu tự nuôi sống thật là khờ lắm, nay anh nên đem ngọc báu đó đổi chác lấy đồ cần dùng thời thường được vừa ý không chỗ thiếu thốn.
GIẢNG:
Vậy là để nói lên cái gì? Có giống mình không? Quí vị đây đang say rượu nằm hay đang tỉnh? Nhà bạn thân là ai? Nói theo kinh Pháp Hoa là mười sáu vị vương tử ở trong hội Đại Thông Trí Thắng Như Lai, mười sáu vị ở trong hội đó thường nói kinh Pháp Hoa, nhắc nhở cho vô số chúng sanh, thì các vị đó luôn luôn gần gũi với mình. Mười sáu vị vương tử là chỉ cho thức tâm của mình đó, nó luôn luôn thường phóng ánh sáng, nó có tánh giác, tức nó có biết, có biết nên thường phóng ánh sáng giác đó, gieo nơi tự tâm của mình đó, thì giống như cột hạt châu mà không hay, nên cũng nằm ngủ say trong đó thôi, đó là nói trên lý.
Còn nói ra sự như là Phật, các vị thiện tri thức nói pháp đánh thức cho mình, gieo hạt giống giác ngộ cho mình, thì đó cũng là bạn thân đem châu cột trong chéo áo của mình đó. Còn nhà đó là nhà gì? Nhà đó là chỉ cho pháp hội Đại Thông Trí Thắng hay cái kho Như Lai của mình. Như vậy, mười sáu vị vương tử đó là ở ngay tâm mình, thường gần gũi cho nên là bạn thân, mà bạn thân thường gần gũi mình nhưng có ai nhớ đến người bạn thân đó không? Lo nhớ trần này, trần kia thì thấy nó thân hơn, do đó thành mê. Hãy xét kỹ, mỗi người đang ngồi nghe pháp đây, hiểu biết mà sáng suốt không đồng với cây đá, thì đó là cái gì?
Đó là ánh sáng mà mười sáu vị vương tử đó đang phóng hạt châu cột cho mình đó, nhưng mình cũng còn say! Chính nhờ mười sáu vị vương tử này mà mình được dự trong hội Đại Thông Trí Thắng Như Lai, nhưng cũng không hay không biết. Quả là đang say. Cái say đó là say rượu vô minh, nên người bạn thân đó biết sao đây? Thôi thì cho châu vô giá cột trong chéo áo của gã say rồi bỏ đi, vì có việc quan gấp.
Lấy châu vô giá buộc, thì châu vô giá đó là cái gì? Châu báu vô giá đó là chỉ cho trí huệ Phật hay tri kiến Như Lai. Bởi vì chỗ đó là chỗ lìa tất cả niệm phân biệt, không phải là chỗ suy nghĩ, so tính đếm lường mà được, chỗ tri kiến Như Lai này không có trả giá. Bởi vậy nếu ai nghe cái này mà hỏi đi hỏi lại tức là trả giá, mà còn trả giá là không thấy.
Buộc đó rồi bỏ đi là gieo duyên đó đã xong rồi, hiện đi nơi khác. Quí vị thấy châu báu vô giá đó bây giờ ở đâu? Chỗ này trong nhà thiền có câu chuyện là:
Vua Đường Trang Tông khi đi Hà Bắc, ông trở về đến chỗ Ngụy Phủ, ông dừng nghỉ ở Hành Cung, và mời thiền sư Hưng Hoá tới hỏi:
- Trẩm vừa thâu Trung nguyên, nhận được một hạt châu quí, nhưng chưa có ai trả giá hết.
Ngài Hưng Hoá nói:
- Xin bệ hạ cho xem!
Lúc đó vua liền lấy tay vuốt từ đầu đến chân, đó là vua cho xem hạt ngọc.
Thiền sư Hưng Hoá liền bảo:
- Ngọc báu của đấng quân vương ai dám trả giá!
Ngọc vô giá là vậy đó. Thành ra có nhiều người đọc kinh Pháp Hoa, nghe nói hạt châu vô giá rồi tưởng tượng chắc hạt châu đó sáng ngời quí lắm, cuối cùng không biết châu là gì hết. Nhưng chính đó là chỉ cho chỗ này, vuốt từ đầu tới chân, vuốt tới đâu biết tới đó, có biết tức là có giác, mà cái thể giác đó nó tròn đầy khắp mình đây. Nhưng mà mình không hay không biết, còn ông vua đó mà ông biết.
Cái đó làm sao suy nghĩ, làm sao mà phân biệt tới? Cho nên đây là chỗ không ai trả giá được, chỉ là tự thầm nhận thôi.
Vậy để cho thấy châu đó ở ngay nơi mình, cột sẵn nơi mình từ lâu rồi. Bây giờ còn hơi rượu vô minh đó nên chưa tỉnh thôi, chưa thấy được. Hiện giờ mỗi người nghe nói, nghe gọi đây, có tỉnh rượu chút nào chưa?
Ở đây gã say rượu được cột hạt châu trong áo mà vẫn nằm ngủ say không hay biết gì hết. Khi tỉnh dậy thì đi sang nước khác, cũng vì ăn mặc nên cầu tìm rất là khổ nhọc, được chút ít cho là đủ, tức là nói lên cái gì? Tỉnh rượu rồi mà còn đi nước khác tìm ăn mặc. Tỉnh dậy là dụ cho có giác biết rồi đó, nhưng còn đi đến nước khác tức là chưa thật sạch vô minh, nên còn đi tìm kiếm bên ngoài. Cầu bên ngoài là cầu trí huệ có sở đắc, do đó phải tốn công khổ nhọc được chút ít cho là đủ, tức là còn kẹt nơi công phu của mình. Vì kẹt nơi công phu khổ nhọc đó mà quên mất trí này là trí sẵn nơi mình, là trí vô sư, không thầy. Lúc sau gặp được người bạn thân thì người bạn thân trách, lạ thay trước đã cho anh hạt châu rồi, buộc trong đó rồi, có sẵn đó tại sao anh không biết lấy dùng, còn đi lang thang tìm kiếm rất là khổ nhọc!
Tức là mọi hành động qua lại tới lui hằng ngày đó, đều có ánh sáng của hòn ngọc này, sẵn có đó mà không hay không biết, cứ lo đuổi theo duyên bên ngoài để tìm hiểu biết, giống như lo cầu bên ngoài để kiếm ăn.
Đi đến học đạo để chi? Học để biết, để hiểu. Bây giờ bảo học mà không chỗ học chịu không? Học phải có chỗ học, mà có chỗ học là kiếm ăn chớ gì. Rõ ràng vậy thôi. Còn chính lẽ thật là học trở về chính mình, đó mới là chân thật nhưng mà không chịu. Rõ ràng đây là đi kiếm ăn, đó là luôn luôn nghĩ theo duyên, luôn luôn kiếm duyên để hiểu, để biết. Nếu ngay đây mình quên duyên thì ngọc sẵn rồi, chỉ cần nhớ lại đem ra dùng là xong. Nhớ lại đem ra dùng thì cũng giàu có như ai.
Mình và các Tổ, các thiền sư cũng đều thấy nghe hiểu biết hiện tiền đây. Nhưng các ngài khi thấy nghe hiểu biết thanh tịnh sáng ngời, còn mình thì cũng thấy nghe hiểu biết này mà không thanh tịnh sáng ngời, vì lo kiếm ăn, lo chạy theo duyên. Bây giờ quên duyên bên ngoài đi, mà chỉ nhớ lại cái chân thật này đem ra ứng dụng thì cũng được thanh tịnh sáng ngời như nhau. Có sẵn hòn ngọc đó biết đem ra ứng dụng thì đầy đủ hết, còn không biết dùng thì nghèo khổ. Nhận ra đem dùng thì hết nghèo thành trưởng giả, đơn giản vậy thôi. Biết dùng như vậy thì hết say. Quí vị thấy học như vậy đó mới là học cho mình, chớ không học cho ai hết, nhiều khi học theo chữ nghĩa thì chuyện này là chuyện của năm trăm vị A La Hán thôi, không dính dáng gì đến mình. Thật đáng tiếc!
CHÁNH VĂN:
Đức Phật cũng lại như vậy, lúc làm Bồ tát giáo hóa chúng con khiến phát lòng cầu nhứt thiết trí, mà chúng con liền bỏ quên không hay không biết. Đã được đạo A La Hán tự nói là diệt độ, khổ nhọc nuôi sống đặng chút ít cho là đủ, tất cả trí nguyện vẫn còn chẳng mất. Ngày nay Đức Thế Tôn giác ngộ chúng con mà nói rằng: "Các tỳ kheo! Đạo của các ông không phải rốt ráo diệt. Ta từ lâu đã khiến các ông gieo căn lành của Phật, dùng sức phương tiện chỉ tướng Niết bàn, mà các ông cho là thiệt được diệt độ.
Thế Tôn! Chúng con nay mới biết mình thiệt là Bồ tát được thọ ký sẽ thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, vì nhơn duyên đó lòng rất vui mừng được điều chưa từng có.
GIẢNG:
Đây hợp pháp trở lại. Phật cũng như vậy đó, Ngài đã dạy đã từng gieo hạt giống Phật cho mình rồi, mà nay tự bỏ quên tức là lo nhận một chút ít trí huệ có được đó mà quên mất trí huệ vô biên, không ngằn mé. Trí huệ đó là trí huệ mình thọ dụng không có cùng tận, còn trí huệ có học được, là trí huệ có cùng tận, chưa phải là chỗ rốt ráo.Như vậy Phật Thích Ca Ngài đã từng ở trong hội Đại Thông Trí Thắng, Ngài làm vị vương tử thứ mười sáu, đã từng nhắc nhở chúng ta cái chủng duyên giác ngộ đó rồi mà mình quên. Cho nên đây là nhắc lại cho mỗi người phải khéo tin nhận trở lại cái gốc xưa đó. Nhớ lại gốc xưa thì mình thấy tri kiến Phật là cái gốc sẵn, có cái duyên đó rồi thì chớ đi cầu tìm bên ngoài khó nhọc nữa. Tìm cầu bên ngoài khi được khi mất, lúc đói lúc no, Có duyên tức là có biết thì no, còn không duyên là đói, mà đói thì lại đi tìm duyên khác nữa. Bây giờ nhận lại của báu của nhà mình đây đem dùng thì sướng biết mấy, dùng không hết, khỏi lo đói lo no.
Cho nên, ngài Đạo Nhất tức Mã Tổ, khi ngài tỏ ngộ rồi, ngài đi ra giáo hóa ở vùng Giang Tây. Một thời gian sau Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng hỏi trong chúng:
- Đạo Nhất đã vì trong chúng thuyết pháp chăng?
Đại chúng thưa:
- Đã vì đại chúng thuyết pháp.
Nam Nhạc hỏi:
- Sao không thấy người đem tin về?
Thì trong chúng lặng thinh không trả lời.
Sư mới sai một vị tăng đến đó thăm dò, và dặn vị tăng, ông đến đó đợi khi y vừa thượng đường thì hỏi liền: "Ông làm cái gì?". Nếu y trả lời thế nào thì ông ghi nhớ trở về đây thuật lại cho ta nghe.
Nghe lời Nam Nhạc ông tăng đến đó làm đúng theo lời dặn, khi trở về ông tăng thưa:
- Con làm đúng như vậy đó, thì ngài Đạo Nhất liền nói: "Từ khi loạn Hồ, sau ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối"
Nghe vậy Nam Nhạc gật đầu, biết đó đúng là thứ thiệt rồi. Tức là sao? Từ sau khi loạn Hồ tức là sau thời mà mình lang thang mê lầm đó, thì sau ba mươi năm chưa từng thiếu tương muối, là đầy đủ rồi không còn thiếu thốn gì nữa, không còn phải lo tìm gì khác. Đó là biết người có chỗ sống thật rồi, còn mình bây giờ vẫn lo tìm tương muối, nên chưa được thọ ký.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, ông A Nhã Kiều Trần Như muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Chúng con nghe vô thượng
Tiếng thọ ký an ổn
Vui mừng chưa từng có
Lạy Phật trí vô lượng
Nay ở trước Thế Tôn
Tự hối các lỗi quấy
Trong Phật báu vô lượng
Được chút phần Niết bàn
Như người ngu vô trí
Bèn tự cho là đủ.
GIẢNG:
Đó là thuật lại tâm trạng của các ngài, hối cái lỗi trước kia được ít cho là đủ. Các ngài ví mình như người ngu vô trí vậy thôi, tự trách lỗi lầm xưa của mình, nhưng mà biết lầm là hết lầm rồi. Ở trong đây là:Chúng con nghe vô thượng
Tiếng thọ ký an ổn
Vui mừng chưa từng có
Lạy Phật trí vô lượngNên:
Nay ở trước Thế Tôn
Tự hối các lỗi quấyNói lên được lòng của các ngài nay quá vui mừng, được cảm đến Phật trí vô lượng, nên bây giờ kính lạy là lạy ngay cái Phật trí vô lượng đó. Thì mình thấy chính chỗ này là chỗ mình phải học. Thường lâu nay quí vị lạy là lạy cái gì? Lên chánh điện lạy tượng Phật, lạy thế này thế kia, còn ở đây thì:
"Lạy Phật trí vô lượng."
Lạy chỗ đó mới chính là chỗ để lạy, người khéo lạy thì phải biết lạy chỗ này.
Thí như người nghèo cùng
Qua đến nhà thân hữu
Nhà đó rất giàu lớn
Bày đủ các tiệc ngon
Đem châu báu vô giá
Cột dính trong vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Gã say nằm không hay.GIẢNG:
Đây là nói gã nghèo đó, đến nhà thân hữu tức là gặp được Phật hay gặp được thiện tri thức, có duyên được chỉ dạy. Từ đó nó ngầm ngầm huân tập bên trong mà không hay, cho nên nói:
Đem châu báu vô giá
Cột dính trong vạt áo
Thầm cho rồi bỏ đi
Nhưng gã vẫn say nằm không hay.CHÁNH VĂN:
Sau khi gã đã dậy
Dạo đi đến nước khác
Cầu ăn mặc tự sống
Nuôi sống rất khốn khổ
Được ít cho là đủ
Chẳng lại muốn đồ tốt
Chẳng biết trong vạt áo
Có châu báu vô giá.
GIẢNG:Đây là nói, mình cứ lo tạo những công phu bên ngoài mà quên mất vật báu đang mang sẵn bên mình. Châu báu đang cột trong chéo áo đó mà không hay, cứ đi lang thang để tìm ăn mặc. Bây giờ ngay khi đi lang thang đó chỉ cần ngó xuống vạt áo là xong. Cũng như mình bây giờ chỉ cần ngó xuống gót chân là xong, cái gì mà đang bước tới đó? Ngó xuống là có đủ, còn cứ lo lăng xăng ở bên ngoài thì khổ sở hoài.
CHÁNH VĂN:
Người thân hữu cho châu
Khổ thiết trách gã rồi
Chỉ cho châu trong áo.
GIẢNG:
Đó là thiện tri thức nhắc nhở chỉ cho hạt châu ở trong áo đó. Như mình bây giờ nghe kinh sáng tỏ được tri kiến Phật thì đó là hạt châu nằm sẵn ở nơi mình rồi.
CHÁNH VĂN:Gã nghèo thấy châu đó
Lòng gã rất vui mừng
Giàu có các của cải
Tha hồ hưởng ngũ dục.
GIẢNG:Tức là đem ra ứng dụng thì cũng giàu có như ai. Người có thấy có nghe hiểu biết sáng ngời đó, thì mình đây cũng có thấy nghe hiểu biết sáng ngời đó, chỉ cần biết đem ra dùng thôi.
CHÁNH VĂN:Chúng con cũng như vậy
Thế Tôn từ lâu xưa
Thường thường giáo hoá cho
Khiến gieo nguyện vô thượng.
GIẢNG:Đây là hợp pháp trở lại, Phật cũng như vậy thường thường giáo hoá, gieo nguyện vô thượng cho người mê.
CHÁNH VĂN:Chúng con vì vô trí
Chẳng hay cũng chẳng biết
Được chút phần Niết bàn
Cho đủ chẳng cầu nữa
Nay Phật giác ngộ con
Nói chẳng phải thiệt diệt
Đặng Phật huệ vô thượng
Đó mới là thiệt diệt
Con nay từ Phật nghe
Thọ ký việc trang nghiêm
Cùng tuần tự thọ ký
Thân tâm khắp mừng vui.
GIẢNG:Đây là phải đến chỗ Vô thượng mà quên chỗ Niết bàn trước kia được chút ít cho là đủ đó. Nghĩa là nhận được chỗ chân thật này thì không còn niệm là cha, là con sai biệt nữa, mình đồng với Phật không khác, đó mới là chỗ rốt ráo, nên ở đây nói:
Con nay từ Phật nghe
Thọ ký việc trang nghiêm
Cùng tuần tự thọ ký
Thân tâm khắp mừng vui.Cùng tuần tự thọ ký nghĩa là Phật thọ ký rồi, nếu mình nhận được thì cũng tuần tự thọ ký. Tức là mình nhận được rồi, khơi dậy cho người khác thì tuần tự thọ ký nhau, vậy ai ai cũng có phần hết. Tuy mình không trực tiếp nghe ở trong hội Pháp Hoa đó, nhưng bây giờ mình đang ngồi đây nghe thì cũng như gián tiếp được thọ ký rồi, còn gì hơn nữa. Cho nên nhận được chỗ này thì vui mừng không kể hết, đúng là thân tâm khắp mừng vui. Đó là chứng nghiệm được lời Phật nói vốn không hư dối.
-
10. Phẩm thọ học vô học nhân ký
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ Ngài A Nan và Ngài La Hầu La nghĩ như vầy: " Chúng ta tự suy nghĩ, nếu được thọ ký thời sung sướng lắm". Liền từ nơi chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật, đầu mặt lạy chân Phật đồng bạch Phật rằng: " Thế Tôn! Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có Đức Như Lai là chỗ về nương của chúng con. Lại chúng con là người quen biết của tất cả trời người A tu la trong đời.
A Nan thường làm vị thị giả hộ trì tạng pháp, La Hầu La là con của Phật, nếu Phật thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác cho, thời lòng nguyện cầu của con đã mãn, mà lòng trông của chúng cũng được đầy đủ".
GIẢNG:
Phẩm này là thọ ký cho những vị hữu học và vô học. Hữu học là những vị chưa chứng A La Hán, như Ngài A Nan, Ngài chứng Tu đà hoàn, là còn hữu học, A La Hán mới là vô học. Bởi A La Hán việc làm đã xong. Chứng A La Hán sạch phiền não, dứt nghiệp sanh tử, không còn sanh trở lại nữa, không còn học tu thêm, các phần tự lợi xong rồi, nên gọi là vô học.
Ngài A Nan với Ngài La Hầu La thuộc về lớp trẻ trong chúng, thấy mấy vị kia được thọ ký hết rồi thì các Ngài suy nghĩ mình cũng có phần, nên bạch Phật: "Chúng con trong đây cũng đáng có phần, chỉ có Đức Như Lai là chỗ về nương của chúng con".CHÁNH VĂN:
Lúc đó, hàng đệ tử thanh văn, bậc học cùng vô học, hai nghìn người đều từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu đến trước Phật chắp tay một lòng chiêm ngưỡng dung nhan của Thế Tôn như chỗ nguyện cầu của A Nan và La Hầu La rồi đứng qua một phía.
Những bậc hữu học - vô học đây nghĩ mình cũng có phần đó, cũng mong Phật thọ ký.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Đức Phật bảo A Nan: "Ông ở đời sau sẽ đặng làm Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, ông sẽ cúng dường sáu mươi hai ức đức Phật, hộ trì tạng pháp vậy sau chứng đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, giáo hoá hai mươi nghìn muôn ức hằng ha sa các chúng Bồ Tát vv… làm cho thành đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nước tên là Thường Lập Thắng Phan, cõi đó thanh tịnh, đất bằng chất lưu ly. Kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn. Đức Phật đó thọ mạng vô lượng nghìn muôn ức a tăng kỳ kiếp, nếu có người ở trong nghìn muôn ức vô lượng a tăng kỳ kiếp tính đếm số kể chẳng có thể biết được. Chánh pháp trụ ở đời gấp bội thọ mạng, tượng pháp lại gấp bội chánh pháp.
A Nan! Đức Phật Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương đó, được vô lượng nghìn muôn ức hằng hà sa các Đức Phật Như Lai ở mười phương đồng ngợi khen công đức của Ngài.
GIẢNG:
Đây Phật thọ ký cho Ngài A Nan, là đa văn bậc nhất trong hàng đệ tử Phật, mà các phần sau thì Phật còn nhắc Ngài cùng với Phật phát tâm cùng chỗ Phật Không Vương. Khi thành Phật hiệu là Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương. "Sơn Hải Huệ" tức là trí tuệ đó cao như núi, rộng như biển; "tự tại" là thông suốt, vua tất cả.
Còn nước tên Thường Lập Thắng Phan, Thắng Phan là lá cờ cao vót, dựng lên lá cờ pháp, đập tan những tà ma.
Kiếp tên là Diệu Âm Biến Mãn, là giọng tiếng vi diệu, trùm khắp đầy đủ hết, tương ứng với cái nhân của Ngài là đa văn.
Trong đây vị nào thành Phật nước cũng đều được tốt đẹp, để cho thấy tâm tịnh rồi thì cõi nước đều thanh tịnh hết.
CHÁNH VĂN:
Khi đó , đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nay ta nói trong tăng:
A Nan người trì pháp
Sẽ cúng dường các Phật
Vậy sau thành chánh giác
Hiệu rằng: Sơn Hải Huệ
Tự Tại Thông Vương Phật
Cõi nước kia thanh tịnh
Tên Thường Lập Thắng Phan
Giáo hoá các Bồ Tát
Số đông như hằng sa
Phật có oai đức lớn
Tiếng đồn khắp mười phương
Vì bởi thương chúng sanh
Nên sống lâu vô lượng
Chánh pháp bội thọ mạng
Vô số hàng chúng sanh
Đông như cát sông Hằng
Ở trong pháp Phật đó
Gieo nhơn duyên Phật đạo.Đó nói lên cõi nước Ngài A Nan cũng vi diệu, tuổi thọ dài lâu, đủ việc trang nghiêm.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, trong hội hàng Bồ Tát mới phát tâm, tám nghìn người, đều nghĩ thế này: "Chúng ta còn chưa nghe các vị Bồ Tát lớn được thọ ký như thế, có nhơn duyên gì mà các Thanh Văn được thọ ký như thế".
GIẢNG:
Bấy giờ có các vị Bồ Tát mới phát tâm ở trong hội đó gồm tám ngàn người, những vị này có cái nghi: chưa nghe thọ ký cho các vị Bồ Tát lớn mà mấy vị Thanh Văn được thọ ký; bởi vì các vị Bồ tát này mới phát tâm, nên chưa thấy thấu hết được cội nguồn gốc gác, cho nên Phật mới nhắc:
CHÁNH VĂN:
Lúc ấy đức Thế Tôn biết tâm niệm của các vị Bồ Tát mà bảo rằng:" Các Thiện nam tử! Ta cùng bọn ông A Nan ở chỗ đức Phật Không Vương đồng thời phát tâm Vô thượng chánh đẳng Chánh giác. A Nan thường ưa học rộng, còn ta thường siêng năng tinh tấn, cho nên ta đã thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà A Nan hộ trì pháp của ta, ông cũng sẽ hộ trì pháp tạng của các đức Phật tương lai, giáo hoá thành tựu các chúng Bồ Tát. Bổn nguyện của ông như thế nên đặng thọ ký dường ấy".
GIẢNG:
Đây Phật nói rõ các ông không thấy được chỗ gốc gác, chớ A Nan đây cùng ta phát tâm từ thời Phật Không Vương xa xưa kia, nhưng A Nan ưa học rộng, ta thì ưa siêng năng tinh tấn. Cho nên ta thành chánh giác trước còn A Nan thì lo theo ta hộ trì Phật pháp.
Qua đó để nhắc cho thấy rõ, từ một gốc Phật Không Vương mà phát tâm - Phật Thích Ca cũng phát tâm từ đó, A Nan cũng từ chỗ đó phát tâm. Phật Không Vương đó là Phật ở đâu? Cũng từ chỗ Phật xa xôi của mình đã quên. Từ đó quí vị thấy chỗ kinh nghiệm, cứ lo chạy theo học rộng thì nó chậm, ở đây Phật Thích Ca lo siêng năng tinh tấn nên thành Phật trước, đó là chỗ để nhắc nhở chúng ta.
CHÁNH VĂN:Ngài A Nan tận mặt ở trước Phật, tự nghe Phật thọ ký cùng cõi nước trang nghiêm, chỗ mong cầu đã đủ, lòng rất vui mừng đặng điều chưa từng có. Tức thời nghĩ nhớ tạng pháp của vô lượng nghìn muôn ức các đức Phật thuở quá khứ, suốt thấu không ngại như hiện nay nghe và cũng biết bổn nguyện.
GIẢNG:
Nghe nhắc lại Ngài A Nan nhớ liền, nhớ bản nguyện mình từ xưa, bao nhiêu tạng pháp vô lượng Phật thời quá khứ như là hiện nay nghe vậy thôi.
Tức là thấy rõ như hiện tiền đang ngay bây giờ đây, không còn cách biệt xưa nay.
Quí vị nhớ rõ như đang nghe đây, khỏi cần cầu thọ ký cũng được thọ ký rồi, tức là vượt qua thời gian, không còn kẹt quá khứ hiện tại gì hết. Còn mình đang kẹt trong thời gian quá khứ hiện tại nên thấy quá khứ thuộc về xa xôi, hiện tại là đang ở đây. Còn đây thấy xa xôi đó như hiện nay vậy, thì chỗ đó vượt ngoài cái tình thức suy nghĩ rồi. Cái tình thức làm sao suy nghĩ đến chỗ đó. Chính chỗ đó là chỗ thọ ký chớ gì! Nên Tín Tâm Minh của Tổ Tăng Xán, cuối cùng kết lại bốn câu:
Tin tâm chẳng hai
Chẳng hai tin tâm
Dứt đường nói năng
Chẳng phải xưa nay.Tin tâm là chẳng hai, bặt niệm hai bên. Không còn hai đó mới là tin tâm. Tin tâm đó mới là biết tin tâm, là chỗ thọ ký. Chỗ đó là chỗ dứt đường nói năng, ngôn ngữ không thể diễn tả tới, nó vượt ngoài thời gian, không nói xưa nói nay gì hết, ngay hiện tiền đây thôi - Phật, Tổ cũng chỉ chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Khi đó, Ngài A Nan nói kệ rằng:
Thế Tôn rất ít có
Khiến con nhớ quá khứ
Vô lượng các Phật pháp
Như chỗ nghe ngày nay
Con nay không còn nghi
An trụ trong Phật đạo
Phương tiện làm thị giả
Hộ trì các Phật pháp.
GIẢNG:
Ngài A Nan nghe như vậy Ngài nhớ lại, thì ra mình hiện nay làm thị giả là phương tiện thôi, chớ còn mình có chỗ đó rồi, đã phát tâm với Phật rồi, có gốc đó như Phật không khác.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Phật bảo ông La Hầu La: "Ông ở đời sau sẽ đặng làm Phật hiệu: Đạo Thất Bửu Hoa Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Ông sẽ cúng dường các đức Phật Như Lai như số vi trần trong mười thế giới. Thường vì các Đức Phật mà làm trưởng tử, cũng như hiện nay.Đức Phật Đạo Thất Bửu Hoa đó, cõi nước trang nghiêm, kiếp số thọ mạng giáo hoá đệ tử, chánh pháp và tượng pháp cũng đồng như đức Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng làm trưởng tử cho Phật này, qua sau đây rồi sẽ đặng đạo Vô Thượng Chánh đẳng Chánh giác
GIẢNG:
La Hầu La cũng thành Phật hiệu là Đạo Thất Bửu Hoa, kiếp số thọ mạng như Ngài Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Như Lai không khác. Ông cũng sẽ làm trưởng tử cho Phật này.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Lúc ta làm Thái tử
La Hầu làm trưởng tử
Ta nay thành Phật đạo
Thọ pháp làm pháp tử
Ở trong đời vị lai
Làm trưởng tử cho kia
Một lòng cầu Phật đạo
Hạnh kín của La Hầu
Chỉ ta biết được thôi
Hiện làm con của ta
Để chỉ các chúng sanh
Vô lượng ức nghìn muôn
Công đức không thể đếm
An trụ trong Phật pháp
Để cầu đạo vô thượng.
GIẢNG:
Đây Phật thổ lộ cho thấy rõ Ngài La Hầu La, Ngài hiện ra, là Trưởng tử của Phật, đó là mật hạnh của Ngài, chỉ Phật biết được thôi, người ngoài không thể biết được.Như vậy, cho thấy rõ Ngài A Nan, Ngài La Hầu La đều là nhân vật bên ngoài hiện tướng Thanh Văn trong ẩn hạnh Bồ Tát. Các vị thị hiện đồng sự với các vị hữu học này rồi cùng cầu để được thọ ký tiến lên. Chẳng vậy thì họ không dám, bởi vì nghĩ rằng mình là hàng hữu học. Cho nên các Ngài đây được thọ ký, các vị hữu học kia đều thấy mình cũng có phần, rồi cũng cầu được thọ ký. Đó là phá niệm sai biệt, chướng ngăn Phật tánh của mình -liền thấy được chỗ bình đẳng như nhau.
Thêm điểm nữa: Hai Ngài A Nan và La Hầu La đó là lớp trẻ, Ngài La Hầu La xuất gia mới bảy tuổi, Ngài A Nan xuất gia còn trẻ nên làm thị giả Phật. Còn những vị trước kia đều là hàng trưởng lão hết, mà đây lớp trẻ vẫn được thọ ký, thì cho thấy rõ việc này không phân biệt tuổi tác, không phân biệt già trẻ. Bởi vì Tri kiến Phật đâu có già trẻ gì. Ai tin nhận được liền được thọ ký. Đó là chỗ bình đẳng với tất cả. Các người lớn tuổi tu lâu năm, không tin nhận được thì cũng không được thọ ký. Người mới tu tin nhận được cũng được thọ ký, chỉ khéo làm sao mình tin nhận được chỗ đó thôi.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, đức Thế Tôn thấy bực hữu học cùng vô học hai nghìn người, chí ý hoà dịu vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật. Phật bảo A Nan "Ông thấy bực hữu học vô học hai nghìn người đây chăng?".
- Vâng! Con đã thấy!
- A Nan! Các người sẽ cúng dường các đức Như Lai như số vi trần trong năm mươi thế giới, cung kính tôn trọng hộ trì tạng pháp. Rốt sau đồng thời ở cõi nước trong mười phương đều đặng thành Phật, đều đồng một hiệu là Bửu Tướng Như Lai Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, sống lâu một kiếp, cõi nước trang nghiêm, Thanh văn, Bồ Tát, chánh pháp, tượng pháp đều đồng nhau.
GIẢNG:
Tức là bấy giờ những bậc hữu học - vô học hai ngàn người này nghe Ngài A Nan, La Hầu La được thọ ký rồi, tâm mình có niềm tin thanh tịnh, nên đây gọi là "Chí ý hoà diệu, vắng lặng trong sạch, một lòng nhìn Phật", cũng mong được thọ ký cho nên Phật liền thọ ký. Phật bảo A Nan "Ông có thấy bực học vô học hai nghìn người đây chăng?" Rồi Ngài thọ ký cho các Ngài đó sẽ thành Phật hiệu là Bửu Tướng Như Lai.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Hai nghìn Thanh văn đây
Nay đứng ở trước ta
Thảy đều thọ ký cho
Đời sau sẽ thành Phật
Cúng dường các đức Phật
Như số trần nói trên
Hộ trì tạng pháp bảo
Sau sẽ thành chánh giác
Đều ở nơi mười phương
Thảy đồng một danh hiệu
Đồng thời ngồi đạo tràng
Để chứng huệ vô thượng
Đều hiệu là Bửu Tướng
Cõi nước cùng đệ tử
Chánh pháp và tượng pháp
Thảy đều không có khác
Đều dùng các thần thông
Độ mười phương chúng sanh
Tiếng đồn vang khắp cùng
Lần nhập vào Niết Bàn
GIẢNG:
Hai nghìn vị Thanh văn đó đều được thọ ký hết, đồng một hiệu, chánh pháp, tượng pháp cũng không khác nhau.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, bực hữu học cùng vô học hai nghìn người nghe đức Phật thọ ký vui mừng hớn hở mà nói kệ rằng:
Thế Tôn đèn huệ sáng
Con nghe tiếng thọ ký
Lòng vui mừng đầy đủ
Như được rưới cam lồ.
GIẢNG:
Các ngài nghe được Thế Tôn thọ ký lòng rất vui, tán thán Thế Tôn giống như ngọn đèn huệ sáng, soi sáng đến chỗ tối của tâm mình. Như vậy càng sáng tỏ thêm: Ai ai cũng đều có phần đó hết; nghĩa là những vị lớn, nhỏ, già, trẻ cũng đều có phần. Nếu trong hội này có vị vì niệm tăng thượng mạn bỏ đi như năm trăm vị kia thì thật là đáng tiếc!
Đó là ý nghĩa nhắc nhở cho tất cả mọi người tin nhận: ai ai cũng có phần Tri Kiến Phật, cũng đều có thể giác ngộ thành Phật, chỉ mình có tin nhận hay chưa?
-
11. Phẩm pháp sư
Phẩm này là phẩm cuối trong phần: Khai Phật Tri kiến. Sao gọi là Pháp sư? Chỗ này mình phải hiểu cho kỹ. Nhiều khi học theo chữ nghĩa: Pháp sư là ông thầy giảng pháp thôi.
Pháp sư đây, thứ nhất là lấy pháp làm thầy, chính đó là Pháp sư.
Thứ hai là: y nơi pháp mà tu hành, rồi mình mới truyền trì, rộng nói cho mọi người, để khiến cho chánh pháp không đoạn dứt - Pháp sư vậy mới đủ nghĩa. Tức là mình đem gieo hạt giống Phật khắp cho mọi người, để khiến cho Pháp Hoa này luôn luôn tồn tại ở thế gian.
Như ở trước đã qua mấy vòng thọ ký: thọ ký đầu cho Ngài Xá Lợi Phất, kế là bốn vị trưởng lão lớn, kế là Ngũ Bá thọ ký nhưng cũng thọ ký chưa hết, còn sót lại, nên đến đây một lần nữa thọ ký cho khắp hết, rộng thọ ký, khiến ai ai cũng tin nhận mình có phần Tri Kiến Phật đó. Đó là ý nghĩa của phẩm Pháp sư.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Thế Tôn nhơn nói với Dược Vương Bồ Tát để bảo tám muôn đại sĩ rằng: "Dược Vương! Trong đại chúng đây vô lượng hàng Chư Thiên, Long Vương, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng cầu Thanh văn, hạng cầu Bích chi Phật, hạng cầu Phật đạo, các loại như thế đều ở trước Phật nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa một bài kệ một câu, nhẫn đến một niệm tùy hỉ đó, ta đều thọ ký cho sẽ đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
GIẢNG:
Đến đây Phật nói với Bồ Tát Dược Vương mà cũng để bảo cho tám muôn đại sĩ luôn, tức là tám muôn vị Bồ Tát lớn, những vị này mới cảm thông với Phật được. Ngài thọ ký cho các hàng Chư Thiên, Long Vương, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, Nhơn và phi nhơn gọi chung là Thiên long Bát Bộ. Rồi Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tức trong hàng tứ chúng. Những vị này trước giờ nghe, nhưng chưa được thọ ký, còn bỏ sót, đến đây thọ ký hết. Trong đó Dạ Xoa cũng được thọ ký, Càn thát bà cũng được thọ ký. Cho đến thần Kim Xí điểu, thần Mãng xà cũng đều được thọ ký hết.
Vậy quí vị thấy mình trong đây có phần không? Cả A tu la, Dạ Xoa còn được thọ ký kia mà. Đây Phật bảo với Ngài Dược Vương - Dược Vương là chỉ cho vua của mọi thứ thuốc, nó trị lành hết tất cả các bệnh. Kinh Pháp Hoa này cũng như vậy, -là vua trong các kinh, người hay thọ trì, truyền bá rộng kinh này thì sẽ trị lành các bệnh.
Bởi vậy trong đây thọ ký ai nghe kinh này cho đến một bài kệ, một câu, mà tùy hỷ thì được thọ ký hết. Trong khi mình nghe tới đây là tới chín phẩm, vậy Phật có bỏ sót ai không? Chỉ có mình bỏ sót Phật thôi! Bởi vì Tri Kiến Phật là cái chánh nhân. Tức cái nhân chính sẵn có nơi mỗi người, bây giờ mình tùy hỷ tức là sao?
Tùy hỷ là duyên nhân để đánh thức chánh nhân đó. Cho nên liền được thọ ký.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo Dược Vương: "Lại sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu, một niệm tuỳ hỷ đó, ta cũng thọ ký đạo Vô thượng chánh đẳng chámh giác cho."
Nếu lại có người thọ trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, đối với kinh điển này cung kính xem như Phật. Các thứ cúng dường, hoa, hương chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục kỹ nhạc, nhẫn đến chắp tay cung kính. Dược vương nên biết! Các người trên đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật thành tựu chí nguyện lớn vì thương xót chúng sanh mà sanh vào nhân gian.
GIẢNG:
Ở trước Phật thọ ký cho Thiên Long Bát Bộ, hàng tứ chúng, là những vị hiện tại đang có mặt trong pháp hội.Kế đây thọ ký cho về sau: "Sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhẫn đến một bài kệ, một câu, một niệm tùy hỷ ta cũng thọ ký đạo Vô thượng Chánh đẳng chánh cho", là có mình trong đó rồi. Sau khi Phật diệt độ, nếu mình nghe chừng một câu thôi mà tùy hỷ thì cũng được thọ ký. Đó là Phật huyền ký xa về sau. Cho thấy Phật ra đời là Ngài gieo duyên đầy đủ hết rồi, hiện tại đã thọ ký, xa về sau và về sau luôn nữa Ngài cũng thọ ký, vậy đâu bỏ ai. Bởi vì mình đã có nhân sẵn đây rồi, thì bây giờ ai không có quyền giác. Đã có cái nhân giác rồi thì ai cũng có quyền giác, ai cũng có quyền thành Phật.
Bởi cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác gọi là Phật thành đó, cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác đó là gì? Mình thường nói Phật thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trong đầu luôn nghĩ có cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác gì đó. Đây kiểm lại xem:
Phật thành nó là thành ở đâu? Ở trên Sao mai hay dưới gốc Bồ Đề? Hoặc là ở trong con mắt này? Chỉ là ngay "tâm giác ngộ" này thôi. Tâm giác trọn vẹn đó chính là Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chớ không đâu khác. Ngoài tâm này không thể tìm cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác nào khác. Khẳng định một cách rõ ràng như vậy.
Nếu có là có trong sách vở ghi lại đó thôi. Cái trong sách vở đó là cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chết. Còn cái Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác sống là ngay nơi tự tâm giác của mình đó. Hồi đầu thị ngạn: xoay đầu lại ngay đó là bờ mé. Mình lâu nay nghe nói bờ này là bờ mê, bờ kia là bờ giác rồi cố tìm mà không thấy bờ giác đâu hết, không ngờ bờ giác ngay nơi mình. Xoay trở lại nơi mình, thấy ngay bờ giác.
Ngài Văn Thù Tư Nghiệp trước khi tỏ ngộ được đạo lý, là một người làm nghề đồ tể tức là giết heo. Một hôm đang làm heo Ngài chợt tỉnh ngộ, làm bài kệ:
Tạc nhật Dạ xoa tâm
Kim triêu Bồ Tát diện
Bồ Tát dữ Dạ xoa
Bất cách nhứt điều tuyến..
Dịch:
Hôm qua tâm Dạ xoa
Sáng nay mặt Bồ Tát
Bồ tát với Dạ xoa
Không cách một đường tơ.Mới hôm qua tâm Dạ xoa, sáng nay tỏ ngộ chuyển thành mặt Bồ tát, không cách biệt một đường tơ.
Khi còn mê sống với tâm tham lam, độc ác hung dữ là tâm Dạ xoa chớ gì. Bây giờ ngay đó sống trở lại tâm giác thì đó là Bồ tát, đâu cách biệt chỉ đổi tên thôi. Khi ngộ, đến gặp Thiền Sư Văn Thù Tâm Đạo, Thiền Sư Đạo hỏi:
- Nghe nói ông đang làm heo thì ông có tỉnh ngộ phải chăng? Vậy ngay lúc làm heo ông thấy cái gì?
Ngài làm thinh không nói gì hết, làm thế mài dao thôi. Ngay đó Thiền sư Văn Thù Đạo ấn khả. Như vậy Phật tánh đồ tể có, mình không có sao? Nhưng mình phủ phàng, không ngó ngàng đến nó một cách đáng tiếc! Chính chỗ đó, Ngài Trần Thái Tông gọi là:
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê hương muôn dặm trình.Có đó mà không ngó ngàng nên đành làm khách lang thang thôi. Lang thang chỗ này, chỗ kia, một bước đi là một bước cách quê hương, càng đi cách càng xa. Quí vị đang ngồi đây là ở quê nhà hay quê người? Đang ngồi quê nhà mà tưởng quê người thì thấy có đau không?
Vậy ngay đây có ai tùy hỉ chưa? Có thì được thọ ký rồi. Chính chỗ đó là chỗ thọ dụng của chư Phật. Trở về chỗ đó là chỗ sống vĩnh viễn của mình. Cho nên trong nhà thiền có câu chuyện: Thiền sư Thạch Ốc, một hôm có việc đi ra ngoài, trên đường đi Sư gặp người lạ. Cùng nhau nói chuyện, say sưa không ngờ trời tối không hay, bèn vào nghỉ trong một quán trọ. Nửa đêm Sư nghe có tiếng động trong phòng, mới lên tiếng hỏi:
- Phải là trời sáng rồi chăng?
Người đối phương đáp rằng:
- Không có, hiện giờ đang rất khuya.
Thiền sư Thạch Ốc liền nghĩ rằng: người này giữa đêm khuya tối như vậy mà dậy rời khỏi giường lo sờ mó thì nhất định một là người thấy đạo rất cao, hai là kẻ trộm thôi chớ không gì khác. Sư liền hỏi lại:
- Ông chính là ai?
Thì tên đó nói là ăn trộm. Thiền sư Thạch Ốc liền bảo:
- À! Thì ra ngươi là một tên trộm? Vậy từ trước tới giờ ngươi đã trộm bao nhiêu lần rồi, kể nghe xem!
Tên đó nói:
- Đếm cũng không rõ, không biết bao nhiêu lần.
Sư hỏi:
- Mỗi lần ngươi ăn trộm vui sướng được bao lâu?
Tên trộm nói:
- Cái đó còn cần phải xem lại, đồ ăn trộm được giá trị thế nào mới biết, lớn thì vui mới nhiều.
Sư hỏi thêm:
- Khi mà vui sướng nhất, thì thường thường ngươi duy trì cái vui được bao lâu?
Tên trộm đáp rằng:
- Cũng chỉ mấy ngày thôi!
Sư bảo:
- Vậy ngươi là tên ăn trộm vặt thôi. Sao ngươi không đánh một lần một mẻ cho thật to đi!
Tên trộm đó nghe vậy, mới ngạc nhiên, hỏi lại:
- Ủa, ông cũng có kinh nghiệm ư? Vậy ông đã trộm bao nhiêu lần rồi?
Thiền sư Thạch Ốc mới đáp:
- Một lần thôi.
Tên trộm đó hỏi:
- Chỉ một lần à! Mà như vậy có nhiều chăng?
- Tuy có một lần, nhưng cả đời dùng không hết.
Tên trộm nói:
- Vật ấy là trộm ở đâu vậy? Ông có thể dạy cho tôi được chăng?
Thiền sư Thạch Ốc nghe như vậy bất thần nắm ngay ngực tên trộm đó, bảo:
- Đây, cái này đây. Nó chính là kho báu không cùng tận, ngươi phải đem một đời chân chánh mà hiến cho sự nghiệp này, thì trọn đời dùng hoài không hết. Ngươi hiểu chưa?
Tên trộm nghe như vậy mới đáp:
- Cũng dường như rõ mà cũng dường như chẳng rõ. Chẳng qua cái thứ cảm thọ này nó khiến cho người cũng rất là thoải mái.
Khi tên trộm nghe như vậy y có tỉnh ngộ, rất ăn năn những hành động trộm cướp của mình từ lâu đến nay; tên trộm liền tiến đến qui y với Sư luôn, làm một vị thiền giả. Đây tên trộm nghe Sư khơi dậy y tỉnh - cảm được chỗ đó. Chính chỗ đó là chỗ dùng mãi không hết, là chỗ sống vĩnh viễn. Còn bây giờ cứ lo tìm cái này, cái kia hoài, mà cũng thấy đói. Cho nên nghe và tin chỗ đó là chỗ thọ ký.
Rồi người thọ trì đọc tụng, giải nói, biên chép cho đến một bài kệ đối với kinh này, xem cũng như là Phật. Kế dùng những thứ hoa, hương, kỹ nhạc để cúng dường thì Ngài nói vị đó đã từng cúng dường mười muôn ức Phật, ở chỗ các đức Phật thành tựu chí nguyện lớn, vì thương xót chúng sanh nên mới sanh vào nhân gian này. Chỉ nghe một câu mà tùy hỉ thì cũng được thọ ký, huống là còn thọ trì, đọc tụng thì duyên lành với Pháp Hoa này rất là sâu rồi khỏi phải nói. Thọ trì là sao? Là giữ gìn, là sống trong đó. Rồi đọc tụng tức là học thuộc lòng, học thuộc lòng đây là luôn luôn sống liên tục không gián đoạn.
Còn giải nói biên chép là đánh thức cho mọi người nhớ lại Pháp Hoa này, khiến cho ánh sáng Pháp Hoa luôn luôn sáng mãi không cùng tận. Thì quả là người này không phải mới gieo duyên đời này thôi. Thêm với kinh điển này còn cung kính xem như Phật nữa, bởi vì: chính Phật từ đây mà thành Phật, cho nên mình thấy đó tức là thấy Phật. Nhưng thấy đó là thấy qua chữ nghĩa này, thấy bộ kinh sống đó. Như vậy thì biết rằng: người này vì nguyện lớn mà sanh vào đây, chớ không phải thứ thường, nên phải cung kính.
Nguyện lớn đó là nguyện gì? Đó là nguyện làm sáng tỏ kinh Pháp Hoa này, bởi vậy mình phải nghe kinh này, rồi nhớ trở lại nguyện lớn đó thì mình cảm sâu được Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:
Dược Vương! Nếu có ngươì hỏi những chúng sanh nào ở đời vị lai sẽ đặng làm Phật? Nên chỉ các người trên đó ở đời vị lai ắt đặng làm Phật. Vì sao? Nếu có gã thiện nam, người thiện nữ nào ở nơi kinh Pháp Hoa nhẫn đến một câu, thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép. Các thứ cúng dường kinh quyển, hoa, hương chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng lụa, tràng phan, y phục, kỹ nhạc, chắp tay cung kính. Người đó tất cả trong đời đều nên chiêm ngưỡng sùng phụng. Nên đem đồ cúng dường Như Lai mà cúng dường đó. Phải biết người đó là Bồ tát lớn thành xong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vì thương xót chúng sanh mà nguyện sanh trong đời để rộng nói phân biệt Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, huống là người trọn hay thọ trì và các thứ cúng dường.GIẢNG:
Đây Phật nói rõ: Về sau này ai hỏi chúng sanh nào ở đời vị lai sẽ thành Phật, thì chỉ người đó thôi khỏi chỉ ai khác. Tức là người thọ trì biên chép, đọc tụng kinh này - chỉ người đó sẽ thành Phật thôi.
Thọ trì, đọc tụng biên chép chỉ một câu thôi mà công đức như vậy huống nữa là người trọn hay thọ trì cả bộ luôn. Nghĩa là chỉ một câu cảm nhận trở về mà còn như vậy huống nữa là sống trọn vẹn trong đó. Vì thành Phật là thành ngay chỗ này chớ không gì khác. Rời ngoài Tri Kiến Phật này không có Phật nào khác nữa. Cho nên mọi người phải tôn kính là tôn kính ở chỗ đó.
Rồi tôn kính cúng dường người thọ trì, người biên chép này là muốn nhắc mình sống về chỗ đó - phải thấy đến chỗ người này thọ trì, chớ đừng kẹt trên chữ nghĩa, trên từng chữ, từng hàng đó. Trong nhà thiền có một giai thoại là Thiền sư Nhất Hưu ở trên núi Tỷ Duệ - Nhật Bản. Một hôm Sư thấy tín đồ ở dưới núi kéo lên núi lũ lượt lễ bái, tìm hiểu ra thì biết ngôi chùa trên núi đang thời kỳ phơi Tạng kinh.
Theo quan niệm lúc đó: khi phơi Tạng kinh nếu như gió từ kinh đó thổi qua, thổi trúng người nào thì người đó rất được phước, sẽ tiêu trừ được những tai ách, những bệnh hoạn, được tăng trưởng thêm trí tuệ nữa. Nên mọi người tranh thủ tới để đón làn gió đó, Thiền sư Nhất Hưu biết điều đó rồi, Sư nói:
- Ờ, ta cũng cần phơi kinh mới được.
Nói xong Sư bèn cởi áo ra để lộ bụng trần, rồi nằm phơi trên bãi cỏ dưới nắng, ngay giữa đường người ta đi lên. Nhiều tín đồ lên núi đi ngang qua thấy cảnh Sư nằm phơi bụng thì có người bất bình, họ chịu không nổi, mới lên kể với mấy vị pháp sư ở chùa trên núi. Vị pháp sư đó mới đến khuyên Sư:
- Thôi Ngài đừng nên làm chuyện thiếu oai nghi như vậy, hôm nay là ngày lễ lớn phơi kinh mà!
Thiền sư Nhất Hưu rất chân thật, giải thích:
- Các Ngài phơi Tạng kinh đó là tạng kinh chết, Tạng kinh đó nó biết sanh ra mối mọt - mà nó không biết hoạt động. Còn Tạng kinh mà tôi phơi đây là Tạng kinh sống, Tạng kinh này nó biết nói pháp, biết làm việc, biết ăn cơm. Người có trí tuệ phải biết rõ Tạng kinh này mới là một tạng kinh đáng trân quý!
Đó là Sư cảnh tỉnh cho ông pháp sư mà cũng là cảnh tỉnh cho mọi người: Lo đuổi theo Tạng kinh bằng giấy, bằng mực đó, quên mất Tạng kinh sống, tạng kinh này nó biết ăn cơm, biết mặc áo, nói pháp, đó mới là Tạng kinh trân quý. Vậy mình nghe kinh, tụng kinh phải biết thọ trì bộ kinh đó. Thọ trì, đọc tụng bộ kinh đó thì mới đúng nghĩa Như Lai tán thán, tán thán là tán thán cái chỗ đó.
Cho nên ở đây Phật nói rằng: "Người như vậy đó là bậc Bồ tát lớn, vì thương xót chúng sanh mới nguyện sanh ra trong đời này để rộng nói phân biệt kinh Pháp Hoa", khuyên mình cung kính cúng dường.
CHÁNH VĂN:
Dược Vương nên biết! Người đó tự bỏ nghiệp báo thanh tịnh, sau khi ta diệt độ vì thương chúng sanh mà sanh nơi đời ác, rộng nói kinh này. Nếu người thiện nam, người thiện nữ đó sau khi ta diệt độ có thể riêng vì một người nói kinh Pháp Hoa, nhẫn đến một câu, phải biết người đó là sứ giả của Như Lai, đức Như Lai sai làm việc của Như Lai, huống là ở trong đại chủng rộng vì người nói.
GIẢNG:
"Chỉ vì một người nói thôi" đó là sứ giả của Như Lai, huống là nói cho cả số đông đại chúng. Bởi vì nói cho một người tức là đem ánh sáng của Pháp Hoa này, hay ánh sáng của Như Lai này khơi dậy cho người khác nhớ lại, khiến cho có người tiếp nối ánh sáng này không dứt, nó sáng ngời luôn luôn ở trên cõi đời, vậy không phải là sứ giả Như Lai là gì? Hay nói cách khác là sứ giả đó ở đâu? Chính là chỗ thấy nghe hiện tại đây là sứ giả Như Lai, làm việc Như Lai mà mình không hay, mình cứ lo đi tìm chỗ nào khác. Chính chỗ thấy nghe này nó đang truyền bá sứ mạng Như Lai đó. Nếu mình tin nhận được chỗ này là trở về gặp Như Lai không nghi ngờ.Hiểu như vậy, mới thấy chỗ Phật dạy rất gần gũi với mình. Còn mình học theo trên danh từ, trên chữ nghĩa thì thấy chuyện này Phật nói cho ai đâu, chớ mình không dính dáng gì hết, Phật nói thêm:
CHÁNH VĂN:Dược Vương! Nếu có người ác dùng tâm không lành ở trong một kiếp hiện ở trước Phật thường chê mắng Phật, tội đó còn nhẹ. Nếu có người dùng một lời dữ chê mắng người tại gia hay xuất gia đọc tụng kinh Pháp Hoa, tội đấy rất nặng.
GIẢNG:
Chê bai người nói Pháp Hoa này là chê bai Tri Kiến Phật chứ gì. Tức là chận đứng con đường giác ngộ của mình rồi, là đưa mình đi sâu trong chỗ trầm luân sanh tử, tội nặng là như vậy, do đóng bít con đường giác ngộ của mình. Cho nên đây Ngài nhấn mạnh: mình có duyên lành nên mới được nghe kinh này, được nghe chỗ sâu xa này, mình phải biết trân quí chớ có hời hợt bỏ qua. Rồi Ngài còn nói:
CHÁNH VĂN:
Dược Vương! Có người đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải biết người đó dùng đức trang nghiêm của Phật tự trang nghiêm mình, thời được Như Lai dùng vai mang vác. Người đó đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ, một lòng chắp tay cung kính cúng dường, tôn trọng, ngợi khen: hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, lọng nhiễu, tràng phan, y phục, đồ ngon, trỗi các thứ kỹ nhạc, đồ cúng bực thượng của trong loài người mà đem cúng dường cho người đó, nên cầm báu trời mà rải cúng đó, nên đem đống báu trên trời dưng cho đó.
Vì sao? Người đó hoan hỷ nói pháp, giây lát nghe pháp liền đặng rốt ráo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác vậy.
GIẢNG:
Đây Ngài nói người tụng Pháp Hoa là dùng đức trang nghiêm của Phật mà tự trang nghiêm mình. Rồi được Như Lai dùng vai mang vác nữa, khỏi phải tìm Như Lai ở đâu hết. Bởi vì người đó đang làm sáng tỏ ánh sáng của Như Lai thì được Như Lai mang vác rõ ràng, quả thật mình cũng được Như Lai mang vác tới lui qua lại mà không nhớ thôi, không nhận mà lại đi nhận đám ma quỷ để nó dẫn đi trong trần lao vọng tưởng, thành ra khổ sở, rồi tìm trở lại cầu Như Lai. Đây Phật muốn nhấn mạnh chỗ đó: nhắc mình nhớ lại đang sống trong ánh sáng Như Lai mà bỏ quên, phải nhớ lại chỗ đó, thì người đó đi đến đâu, mọi người nên hướng theo làm lễ; làm lễ là lễ cái chỗ đó!
Ngài mới giải thích: tại sao phải cung kính như vậy? Là bởi người đó hoan hỷ nói pháp "Giây lát nghe pháp liền được rốt ráo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác". Nghe pháp trong giây lát thôi liền được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác - Thành sao dễ dàng! Quí vị nghe tới đây là tới phẩm thứ mười rồi, đã rốt ráo thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác chưa? Còn đây chỉ nghe giây lát thôi. Đó là mình nghe mà tin nhận được chỗ đó, thấy rõ Tri Kiến Phật mình đã vốn sẵn có từ lâu rồi cho nên nghe trong giây lát thì thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thành là thành như vậy đó, thành cái sẵn tự bao giờ rồi, không phải là cái mới tạo mới có đây, nên thoáng cái là thành. Nhưng thành đó là thành cái nhân, mà phải sống trọn vẹn đó mới thành tựu quả. Hiểu như vậy, mới hiểu ý Phật nhấn mạnh ở chỗ này.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu muốn trụ Phật đạo
Thành tựu trí tự nhiên
Thường phải siêng cúng dường
Người thọ trì Pháp Hoa.
GIẢNG:Nghĩa là "Người muốn trụ nơi Phật đạo, thành tựu trí tự nhiên" thì phải luôn luôn siêng năng cúng dường người thọ trì Pháp Hoa. Đây ý Phật rõ ràng rồi, trí tự nhiên là trí có sẵn nơi mình: tức là Vô Sư Trí. Mà muốn thành tựu cái Vô Sư Trí đó thì phải luôn luôn cúng dường người thọ trì Pháp Hoa này, tức là người sống trong Pháp Hoa đó. Đây Ngài muốn nhắc mình phải sống trở lại trí sẵn có đó, chớ không phải lo đi tìm trí bên ngoài là trí hữu sư: trí có thầy dạy, trí học hỏi được.
Có ai muốn mau đặng
Nhứt thiết chủng trí tuệ
Nên thọ trì kinh này
Và cúng dường người trì.
GIẢNG:
Tức phải tin nhận sống trở lại với cái chân thật này. Ai muốn mau đặng "Nhứt thiết chủng trí" thì sống lại chỗ đó thôi chớ không gì khác hết.
CHÁNH VĂN:Nếu người hay thọ trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Nên biết là sứ Phật
Thương nhớ các chúng sanh
Những người hay thọ trì
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Xa bỏ cõi thanh tịnh
Thương chúng nên sanh đây.
GIẢNG:Phải biết người hay thọ trì kinh này là sứ giả của Phật, thương nhớ chúng sanh bỏ cõi nước thanh tịnh mà sanh nơi đây. Mình phải rõ được cái gì là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa thì mới thấy được ý này. Không phải Diệu Pháp Liên Hoa là cái tên đó thôi, mà phải thấy Bộ kinh Pháp Hoa sống đó.
Người thọ trì kinh đó: "Xa bỏ cõi thanh tịnh, thương chúng nên sanh đây" - rõ ràng, đây là chỗ Tri Kiến Phật chân thật, là chỗ thanh tịnh vô nhiễm. Vì thương chúng sanh nên mới bỏ cõi thanh tịnh đó mà sanh ở nơi đây, ẩn trong thân năm ấm này; nếu mình khéo thì ngay đó thấy trở lại gốc gác chân thật.
CHÁNH VĂN:
Phải biết người như thế
Chỗ muốn sanh tự tại
Ở nơi đời ác này
Rộng nói pháp vô thượng,
Nên đem hoa, hương trời
Và y phục, báu trời
Đống báu tốt trên trời
Cúng dường người nói pháp.
Đời ác, sau ta diệt
Người hay trì kinh này
Phải chắp tay lễ kính
Như cúng dường Thế Tôn,
Đồ ngon ngọt bực thượng
Và các món y phục
Cúng dường Phật tử đó
Mong được giây lát nghe.
GIẢNG:
Đây nói rằng: người đó muốn sanh đâu thì tự tại, mình cúng dường là cúng dường "người đó". Dù ở trong đời ác cũng không có gì ngăn ngại được. Nó đang ở trong thân năm ấm này nhưng thân năm ấm này cũng đâu ngăn ngại được nó. Mình thường nói bị năm ấm che mờ, ngăn ngại nhưng sự thật có ngăn ngại không? Tại mình quên thôi chớ sự thật không ngăn ngại gì hết. Như chuyện ông Lục Hoàn Đại Phu hỏi ngài Nam Tuyền, ông hỏi rằng:- Có người nuôi con ngỗng trong cái bình, thời gian lâu ngỗng lớn lên muốn ra mà ra không được. Bây giờ làm sao cứu con ngỗng này ra mà không động tới cái bình, không làm tổn thương con ngỗng?
Ngài Nam Tuyền liền gọi:
- Đại phu!
Ôâng: "Dạ"
Ngài Nam Tuyền bảo:
-Ra rồi.
Rõ ràng kêu thì biết dạ liền, năm ấm có che được không? Nghiệp chướng sâu dày có che được cái đó không?
Do đó đây nói rằng: dù trong đời ác đó nhưng sanh đâu cũng tự tại, không có gì che được hết, nên mình phải hết lòng cung kính.
"Mong nghe trong giây lát"-là phải hết lòng khao khát để nghe lại chỗ đó, đó mới là chỗ sống vĩnh viễn của mình.
CHÁNH VĂN:
Nếu người ở đời sau
Hay thọ trì kinh này
Ta khiến ở trong người
Làm việc của Như Lai
Nếu ở trong một kiếp
Đỏ mặt mà mắng Phật
Mắc vô lượng tội nặng
Có người đọc tụng trì
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Giây lát dùng lời mắng
Tội đây lại hơn kia.
GIẢNG:
Đây muốn ngăn người phỉ báng kinh này cũng như người nói kinh này, là bởi vì sao? Vì đó là chướng ngăn con đường giác ngộ của mình, nên phải khéo cẩn thận chỗ đó.CHÁNH VĂN:
Có người cầu Phật đạo
Mà ở trong một kiếp
Chắp tay ở trước ta
Dùng vô số kệ khen
Do vì khen Phật vậy
Đặng vô lượng công đức,
Khen ngợi người trì kinh
Phước đây lại hơn kia.
GIẢNG:
Đây muốn nói sống trở về với Phật chân thật này. Đó là cái nhân sẽ thành Phật, nên công đức vô lượng.
CHÁNH VĂN:Trong tám mươi ức kiếp
Dùng sắc thinh tối diệu
Và cùng hương vị xúc
Cúng dường người trì kinh
Cúng dường như thế rồi
Mà được chốc lát nghe
Thời nên tự mừng vui
Nay ta được lợi lớn.
Dược Vương! Nay bảo ông
Các kinh của ta nói
Mà ở trong kinh đó
Pháp Hoa tột thứ nhất.
GIẢNG:
Phật xác định rõ: Kinh Pháp Hoa này là tột thứ nhất, chỉ nghe trong chốc lát thôi cũng nên tự mừng vui. "Nghe chốc lát tự mừng vui", là mừng vui thế nào? Nếu chốc lát chợt nhận ra được lẽ thật đó thì còn cái gì vui hơn. Rồi sống vững trong đó thì không có gì trên thế gian này sánh kịp, cho nên chỗ này là chỗ tột thứ nhất, kinh này tột trong các kinh là như vậy đó.
CHÁNH VĂN:Lúc bấy giờ, Phật lại bảo Ngài Dược Vương Đại Bồ tát: "Kinh điển của ta nói nhiều vô lượng nghìn muôn ức, đã nói, hiện nói, sẽ nói, mà ở trong đó Kinh Pháp Hoa rất là khó tin, khó hiểu.
Dược Vương! Kinh này là tạng bí yếu của các đức Phật, chẳng có thể chia bủa vọng trao cho người. Kinh đây là của các đức Phật giữ gìn từ xưa đến nay chưa từng bày nói, mà chính kinh này khi Như Lai đương hiện tại còn nhiều kẻ oán ghét, huống là sau lúc Phật diệt độ.
GIẢNG:
Kinh Pháp Hoa là tạng bí yếu của các đức Phật, cho nên không thể trao cho một cách hời hợt. Bởi vì chỗ này là chỗ đức Phật từ xưa đến giờ gìn giữ. Chính đức Phật còn đang hiện tại đó, còn nhiều người oán ghét, huống nữa là về sau này. Vậy cho nên Phật xác định rõ kinh này trong vô lượng kinh nó rất khó hiểu, khó tin. Khó hiểu, khó tin là sao?Ngài muốn nói: Đây là chỗ ngoài sự suy nghĩ hiểu biết thông thường, Tri Kiến Phật này chỗ hiểu biết thông thường khó suy nghĩ, khó hiểu tới. Mà mình muốn hiểu, muốn tin nhận chỗ đó thì phải thấu qua được ngôn ngữ, chữ nghĩa. Không thể đem tâm sinh diệt đối đãi này để phán đoán, nghĩ tính được. Đây là tạng bí yếu của chư Phật. Bí yếu là sao? Chính đây là nguồn sống chân thật của Phật, rời chỗ này là dứt huệ mạng của Phật. Phật thành Phật là thành chỗ này.
Bao nhiêu kinh điển cũng từ trong đây mà ra. Do Phật sống được chỗ này, giác ngộ được chỗ này, rồi từ đó nói ra. Cho nên có lần Ngài Vân Nham thượng đường dạy trong chúng, Ngài nói rằng:
- Có một đứa con nhà người, hỏi đến thì không có việc gì mà chẳng nói được.
Động Sơn mới ra hỏi:
"Vậy trong nhà của y chứa bao nhiêu sách vở?".
Ngài Vân Nham đáp:
"Một chữ cũng không".
Động Sơn nói:
- Sao biết nhiều như vậy.
- Ngày đêm chưa từng ngủ.
Chính chỗ ngày đêm chưa từng ngủ đó nên biết hết, không có gì chẳng biết. Còn mình ngủ nhiều quá, rồi lo tìm sách vở này sách vở kia; học đầy đầu, biết cũng không hết nổi. Bây giờ phải thấy lại chỗ đó, là chỗ biết khắp tất cả, là chỗ Phật giữ gìn, Phật hộ niệm. Như vậy mình tụng là tụng ngay chỗ đó mới khéo tụng. Phật nhấn mạnh: Trong thời Ngài mà còn có nhiều kẻ oán ghét, nghe không nổi chỗ đó. Nhưng nói như vậy là để xác định lại một điều: Bây giờ nghe mà tin được quả là hi hữu, quả là có chủng duyên với Pháp Hoa rất sâu - để mình có thêm niềm tin với Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:Dược Vương nên biết! Sau khi Như Lai diệt độ người nào có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường vì người khác mà nói, thời được Như Lai lấy y trùm đó, lại được các đức Phật hiện tại ở phương khác hộ niệm cho. Người đó có sức tin lớn và sức chí nguyện, các sức căn lành, phải biết người đó cùng Như Lai ở chung, được đức Như Lai lấy tay xoa đầu.
Dược Vương! Nơi nơi, chỗ chỗ hoặc nói, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc chép, hoặc chỗ có quyển kinh này, đều nên dựng tháp bằng bảy thứ báu cho tột cao rộng đẹp đẽ, chẳng cần để xá lợi.
Vì sao? Vì trong đó đã có toàn thân của đức Như Lai rồi, tháp đó nên dùng tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, lọng lụa, tràng phan, kỹ nhạc, ca tụng, để cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen. Nếu có người thấy được Tháp này mà lễ lạy cúng dường, phải biết những người đó đều gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Đây Phật nói: "Sau khi Như Lai diệt độ rồi, người biên chép cúng dường, người vì người khác mà nói đó thì được Như Lai lấy y trùm cho, được các Phật phương khác hộ niệm, người đó cùng ở chung với Như Lai, được Như Lai lấy tay xoa đầu nữa". Quý vị thấy ở đây Phật tán thán hết lời; bởi vì tin nhận, sống được với Tri Kiến Phật này là mình trụ trong thể tịch diệt Như Lai rồi. Trụ trong đó thì đối với các pháp không sanh khởi. Được như vậy thì Phật lấy y trùm cho chớ gì! Y đây là y Như Lai.Còn Phật hộ niệm là mình thọ trì như vậy, sống như vậy là thầm hợp với chỗ sống của Chư Phật, nên được Chư Phật hộ niệm, hai bên cảm thông nhau, chớ không phải hộ niệm cho khối 60kg, 70kg này - hộ niệm cái đó làm gì, ít bữa nó cũng hoại. Do đó mình thấy rõ: ngay đây thấy, nghe, hiểu biết mà mình thầm hợp được với Như Lai thì trong mọi cử động qua lại, tới lui đều có Như Lai trong đó. Tức Như Lai hộ niệm. Chính chỗ đó là chỗ thọ mạng lâu dài của Chư Phật, thọ mạng lâu dài của Như Lai. Hiểu như vậy mình mới thấy được chỗ sâu xa Phật muốn chỉ.
Rồi Phật còn nói: Người đó có sức tin lớn, căn lành lớn cùng ở chung với Như Lai, được Như Lai lấy tay xoa đầu. Tức tâm mình với tâm Như Lai khế hợp. Mình nhận được chỗ này, sống được chỗ này thì tâm mình với tâm Như Lai khế hợp, không còn ngăn cách, trái ngăn nữa, là ở chung với Phật chớ gì! Ở chung như vậy, nếu khi mình đi là cùng với Như Lai đồng đi, ngồi cùng Như Lai đồng ngồi, đứng, nằm cùng Như Lai đứng nằm. Cho đến nói năng cũng cùng Như Lai nói năng. Vậy ánh sáng Như Lai đó luôn luôn theo sát bên mình, khỏi cần cầu Như Lai ở cõi nào xa xôi. Ngay đây phản chiếu trở lại tin nhận Tri Kiến Phật nơi mình, sống với Tri Kiến Phật đó là luôn luôn đi chung với Như Lai. Hiểu như vậy, đâu còn ai gạt mình được nữa. Còn được Như Lai xoa đầu là an ủi đó, hết còn lo chạy bậy. Chính chỗ đó là chỗ an tâm, được như vậy thì vững vàng ở nơi đời ác sau này mà truyền trì Pháp Hoa không còn lo sợ. Còn có cái gì phá hoại được chỗ đó? Dù cho ma hay ngoại cảnh gì nó có phá hoại, phỉ báng là phá hoại phỉ báng bên ngoài thôi chứ ma làm sao thấy chỗ đó được mà phá hoại! Vậy chính chỗ đó là chỗ bảo chứng, lẽ thật là như vậy.
Rồi Ngài nói thêm: nơi nơi, chỗ chỗ, hoặc đọc, hoặc tụng kinh này thì phải xây dựng tháp bảy báu khỏi cần xá lợi gì; chính trong này có xá lợi rồi, trong đó có toàn thân của Như Lai rồi.
Bất cứ chỗ nào có kinh này là có toàn thân của Như Lai trong đó, tức là có ánh sáng Như Lai đó rồi, chính đó mới là chân xá lợi. Bởi vì bao nhiêu xá lợi Phật sở dĩ mà có là cũng từ đó mà có. Phật có giác ngộ chỗ đó, sống được chỗ đó, nên rồi khi tịch, thiêu mới có xá lợi. Cho nên Phật nói là ai thấy được chỗ đó nên xây tháp mà cúng dường, khỏi cần để xá lợi bởi vì có toàn thân của Phật trong đó rồi. Toàn thân đây là pháp thân vậy. Có người thấy được tháp này lễ lạy, cúng dường thì người đó gần đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Có ai thấy tháp này chưa? Thấy được là gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác không nghi. Tháp đó ở đâu? Đang sừng sững, đang rõ ràng đó thôi.
Bây giờ đặt câu hỏi lại thì mình thấy được ý đó: Phật nói bất cứ chỗ nào có kinh này phải xây tháp cúng dường. Vậy chỗ nào không có kinh này? Đang ngồi nghe đây có kinh này không? Không chỗ nào không có, tại mình không nhận thôi, Phật muốn nhắc mình chỗ đó. Bởi vậy phải thầm thấy được ý đó, thì ngay đây ngồi nghe là kinh đang phóng quang đó chớ gì. Vậy đáng xây tháp cúng dường nó rồi. Nên Pháp sư Từ Lô có bài kệ nhắc nhở nói rất là thân thiết với mình, Ngài nói rằng:
Đốt hương lễ bái nương sức nào?
Niệm Phật xem kinh cũng là y.
Nếu thiết tha về, về liền được
Chớ bảo lưu lạc nơi nhà người.Đốt hương lễ bái nương sức nào nó làm được việc đó? Do sức nào khiến mình đốt hương mình lễ bái được? Cho đến niệm Phật xem kinh cũng là y thôi chớ ai xen vào làm việc đó. Ngay đây nếu thiết tha về, về liền được; nhưng tại còn thiết tha chơi thôi. "Chớ bảo lưu lạc nơi nhà người" mình nói lưu lạc quê người, sự thật ngay đó là nhà rồi chớ không lưu lạc đâu hết. Rồi:
Cầm muỗng buông đũa nương sức nào?
Quét đất nấu trà cũng là y.
Nếu thiết tha về, về liền được,
Chớ bảo lưu lạc nơi nhà người.Hãy xét kỹ xem, cầm muỗng, buông đũa do sức gì khiến ra làm chuyện đó? Rồi quét đất, nấu trà ai làm đó? - cũng là "y" thôi. Chỉ quay về nhận là xong, nhưng chưa chịu, mà còn muốn thiết tha chơi bên ngoài, nên đành để lầm qua. Do đó nói lưu lạc nhà người chớ sự thật có lưu lạc đâu, đang ngồi tại nhà mình thôi. Đó là Ngài muốn nhắc mình đâu đâu cũng có bộ kinh này hết, chỉ cần mình thiết tha nhớ trở lại là thấy liền, chuyện này là chuyện mình dùng hàng ngày thôi chớ đâu có gì khác. Bài kệ Quán pháp Giới cũng nói rõ:
Ngũ uẩn sơn đầu cổ Phật đường
Tỳ Lô trú dạ phóng hào quang
Nhược năng như thử phi đồng dị
Tức thị Hoa Nghiêm biến thập phương.
Nghĩa là:
Đầu non năm uẩn nhà Phật xưa
Pháp thân liên tục phóng hào quang
Nếu thật ngay đây không đồng - khác
Tức đó Hoa Nghiêm khắp mười phương.Ngay trên đầu non năm uẩn, là ngôi nhà Phật xưa chớ không đâu khác. Rồi trong đó Pháp thân ngày đêm liên tục phóng hào quang mà mình cứ lo tìm ở đâu, nếu mình thật sự ngay chỗ này không khởi niệm đồng khác thì thấy rõ cảnh giới Hoa Nghiêm khắp hết, đâu đâu cũng bày cảnh giới Hoa Nghiêm đó, khỏi cần tìm chỗ nào khác. Tức la ngay đây quên cái tôi này đi thì đâu đâu cũng là cảnh giới Hoa Nghiêm sáng ngời, đâu đâu cũng là cảnh giới Phật hết.
Vậy quí vị thấy rõ ràng ở chỗ nào cũng có kinh này, có thể nói nó đang phóng quang suốt cả ngày đêm, nhưng mình cứ lo lạy bộ kinh để trên bàn; cho nên quên mất bộ kinh sống này.
Cho nên đây Phật nhấn mạnh lại: Nếu có người thấy được tháp này, lễ bái đó, cúng dường đó, phải biết là người đó gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác không nghi ngờ. Rồi Phật nói rõ thêm điều nữa:
CHÁNH VĂN:Dược vương! Có rất nhiều người tại gia cùng xuất gia làm đạo Bồ Tát, nếu chẳng có thể thấy nghe, đọc tụng, biên chép, thọ trì, cúng dường được Kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Nếu có người đặng nghe kinh điển này, mới là hay khéo tu đạo Bồ Tát. Có chúng sanh nào cầu Phật đạo hoặc thấy hoặc nghe kinh Pháp Hoa này, nghe xong tin hiểu thọ trì, nên biết người đó đặng gần đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Nếu người làm đạo Bồ Tát thì phải biết, phải nghe, phải rõ Kinh Pháp Hoa này. Còn nói là tôi tu đạo Bồ Tát, nói thế này thế kia mà chưa nghe được Pháp Hoa này, chưa tin được Pháp Hoa này, thì Ngài nói là chưa khéo tu đạo Bồ Tát. Nghĩa là Bồ Tát làm việc Phật mà không biết Tri Kiến Phật này, thì sao gọi là Bồ Tát được. Nếu pháp sư giảng nói mà không hay biết gì kinh này, tức không hay biết cái Tri Kiến Phật này, không thấy được cái tháp này thì nói theo chữ nghĩa thôi. Đây Phật ví dụ:
CHÁNH VĂN:
Dược Vương! Thí như có người khát tìm nước ở nơi gò cao kia xoi đào tìm đó, vẫn thấy đất khô biết rằng nước còn xa, ra công đào không thôi, lần thấy đất ướt rồi lần thấy đến bùn, tâm người đó quyết chắc biết rằng nước ắt gần.Bồ Tát cũng lại như thế, nếu chưa nghe chưa hiểu chưa có thể tu tập kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó cách đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác còn xa.
Nếu được nghe hiểu suy gẫm tu tập kinh này, thời chắc biết đặng gần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Vì sao? Vì đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác của Bồ Tát đều thuộc kinh này, kinh này mở môn phương tiện bày tướng chơn thiệt. Tạng kinh Pháp Hoa này, xa kín nhiệm sâu không có người đến được, nay Phật vì giáo hóa để thành tựu Bồ Tát mà chỉ bày cho.
Dược Vương? Nếu có Bồ Tát nghe kinh Pháp Hoa này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là Bồ Tát mới phát tâm. Nếu hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt, phải biết đó là hạng tăng thượng mạn.
Dược Vương! Nếu có người thiện nam, người thiện nữ nào, sau khi đức Như Lai diệt độ muốn vì hàng bốn chúng mà nói kinh Pháp Hoa này thời phải nói cách thế nào? - Người thiện nam, thiện nữ đó phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng mà rộng nói kinh này.
Nhà Như Lai chính là tâm từ bi lớn đối với trong tất cả chúng sanh, y Như Lai chính là lòng nhu hòa, nhẫn nhục, tòa Như Lai chính là nhất thiết pháp không. An trụ trong đây, sau rồi dùng tâm không biếng trễ vì các Bồ Tát và bốn chúng rộng nói kinh Pháp Hoa này.
GIẢNG:
Đây nói thí dụ: ở trên gò cao đào giếng, khi mới ban đầu đào thì thấy còn khô, ra công cứ đào, tới khi thấy được có chút đất ướt là biết rằng sắp tới nước, mà biết sắp tới thì sao? Thì chắc chắn là có nước. Như vậy là dụ cái gì? Người khát nước đào giếng để tìm nước đó là sao? Đó chính là mình. Phát tâm tu hành cầu Bồ Đề thì đang khát nước chớ gì? Khát nước thì mới tìm nước, nếu không khát thì giờ này chắc đâu ngồi đây.Rồi ở nơi gò cao là chỉ phiền não sâu dày, nên cách nước xa lắm. Thay vì dưới đất thấp thì đào dễ hơn, trên gò cao thì phải đào sâu. Còn đào là quán chiếu, là soi xét, từ trên gò cao phải soi xét quán chiếu thấy chỗ có nước. Đào một hơi mà thấy đất vẫn còn khô, thì biết rằng cách nước còn xa, còn chưa thấy tin tức gì, mà chưa được tin tức thì phải còn đào hoài. Đây gọi là ra công đào không nghỉ. Rồi lần lần mới thấy được đất ướt, là bắt đầu thấy tin tức. Bắt được đầu mối đó rồi, đào không thôi: luôn luôn quán chiếu, luôn luôn soi xét chỗ đó. Nên công phu quán chiếu soi xét rất là quan trọng, nếu chỉ nghe qua rồi thôi thì chắc là không bao giờ thấy nước nổi. Còn đào hơi mệt rồi buông cuốc, nghỉ luôn, chắc cũng khó thấy nước. Phải soi xét quán chiếu không gián đoạn thì bảo đảm sẽ thấy đất ướt. Mà khi thấy đất ướt thì biết chắc rằng nước ắt gần đó không xa. Cho nên mình lo tìm từng chữ rồi đọc từng câu, đếm từng hàng, phân tích từng chương, có khi đọc tháo mồ hôi thì cũng thấy đất khô khan, chưa thấy chút nước gì. Còn bây giờ khéo ngay đây soi lại chính mình, quán chiếu trở lại chính mình, ngay thấy nghe mà rõ ràng đây thì liền gặp đất ướt. Bởi vậy, nói đào mà có đào gì đâu? Chỉ cần trở đầu cuốc là xong, chỉ soi trở lại thì thấy đất ướt này ngay thôi. Thấy đất ướt là quyết chắc rằng sẽ thành Phật không nghi ngờ.
Đây hợp pháp trở lại: Bồ Tát cũng như vậy, nếu chưa nghe, chưa tin hiểu được kinh này thì cách Phật đạo, cách Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác còn xa. Đó gọi là còn đất khô. Còn nếu nghe được kinh này, hiểu được, suy gẫm tu tập, biết chắc là gần với Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Rồi tạng kinh Pháp Hoa này là: "tạng kinh xa kín nhiệm sâu không có người đến được, nay Phật vì giáo hóa để thành tựu Bồ Tát mà chỉ bày cho". Như vậy mình phải nghe sao đây? Phải nghe cho thật kỹ.
Bởi vì đó là chỗ xa kín nhiệm sâu, mà đã xa kín nhiệm sâu mình nghe hời hợt thì làm sao thấu được?
Chính chỗ này mà mới vào đầu Phật chưa chịu nói, Ngài Xá Lợi Phất thỉnh mấy phen Phật từ chối: "Thôi thôi chẳng nên nói, pháp ta diệu khó nghĩ". Để cho người thật khao khát, mới hết lòng mà nghe.
Rồi Bồ Tát mà nghe kinh Pháp Hoa này sanh nghi sợ sệt là không phải Bồ Tát lâu năm, đó là Bồ Tát mới mới phát tâm, thì rõ ràng nghe kinh này sinh nghi làm sao mà sâu được. Còn hàng Thanh Văn nghe kinh này mà kinh nghi sợ sệt thì đó là hàng tăng thượng mạn, dù mình bây giờ đây tu chứng cao tới đâu, mà không hay không biết đến việc này thì vẫn còn đứng bên ngoài nhà Phật pháp. Bởi vì Tri Kiến Phật này là gốc của Phật pháp, mà không hay biết gì.
Còn nếu mà người Thiện nam, Thiện nữ nghe kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, muốn vì bốn chúng mà nói thì phải nói sao? Đây Phật chỉ cách cho người nói Pháp Hoa: "phải vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai" thì mới nên vì bốn chúng mà nói kinh này. Phật giải rõ nhà Như Lai là tâm từ bi lớn đối với tất cả chúng sanh, an trú trong đó dùng tâm không biếng trễ: vì Bồ Tát mà nói Pháp Hoa này. Hiểu chỗ này thì thấy mình cũng có phần. Kinh này không phải là chỗ môi lưỡi nói tới được. Muốn nói kinh này phải dùng tâm Phật, mới nói đúng nghĩa Kinh Pháp Hoa. Bởi vì Nhà Như Lai không phải là nhà gạch, nhà tường, nhà xi măng, mà là tâm từ bi rộng lớn, tức là mở rộng lòng không bờ mé. Mình thường sống với tâm có hạn lượng, tức tâm chúng sanh, tââm chấp ngã. Nên mới giới hạn trong cái ngã này. Còn kia mở tâm rộng lớn, không có ranh giới; tức là quên cái ngã này đi đem tâm không ranh giới đó, mới nói thấu được chỗ Pháp Hoa này.
Còn y Như Lai là nhu hòa nhẫn nhục chớ không phải y bằng vải này vải nọ. Phải có lòng nhu hòa nhẫn nhục, mà lòng nhu hòa nhẫn nhục cũng là quên cái niệm ta - người này. Từ tâm vô ngã đó mà nói, còn "có cái ta" này là hết nhu hòa. Còn thấy ta này, là nói lẩn quẩn cũng cái ta này nói, đâu nói tới Pháp Hoa kia, có khi đụng chút là nó phừng phừng lên, sao nói tới được.
Rồi Tòa Như Lai là tất cả pháp không, ngồi tòa đó mới nói được, không phải tòa bằng gỗ, bằng đá. Ngồi cái tòa đó là ngồi không chỗ ngồi, bởi đó là "tất cả pháp không", nên mình ngồi đó thì nói hoài mà không mệt mỏi. Tức là mình nói tất cả, nói hoài mà không trụ vào tướng, không trụ vào pháp gì hết bởi vì thấy tất cả đều pháp không. Cho nên nói hoài mà không có chỗ gì để nói chỉ có một chân thật đó thôi, nói như vậy đó mới nói trúng được Pháp Hoa. Vậy người nghe thì sao? Nghe mà cũng không có gì để nghe, không có gì để bám mới nghe thấu Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:
Dược Vương! Bấy giờ ta ở nước khác sai hàng hóa nhơn làm chúng nhóm nghe pháp của người đó, ta cũng sai hóa Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, nghe người đó nói pháp. Các người biến hóa đó nghe pháp tin nhận thuận theo không hề trái. Nếu người nói pháp ở chỗ vắng vẻ, ta liền sai nhiều trời, rồng, quỉ, thần, Càn thát bà, A tu la… nghe người đó nói pháp. Ta dầu ở nước khác, nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó đặng thấy thân ta. Nếu ở trong kinh này quên mất câu lối, ta lại vì nói cho đó đặng đầy đủ.
GIẢNG:
Đây Phật nói rõ: có khi sai hóa Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di tức là cư sĩ nam, cư sĩ nữ đến ngồi nghe pháp tin nhận không hề trái, nếu người đó ở chỗ nào vắng vẻ, Ngài liền sai trời rồng quỷ thần, Càn thát bà, A tu la đến nghe. Cho thấy rõ không phải chỉ có người nghe thôi, còn có những người vô hình nghe nữa.Rồi Ngài nói: Ta dầu ở nước khác, nhưng luôn luôn khiến người nói pháp đó đặng thấy thân ta, nếu trong kinh này có quên điều gì đó thì Ngài liền nhắc. Tức là luôn luôn được sự hộ niệm của Phật, luôn luôn được ánh sáng Như Lai đó thầm gia bị. Như vậy nói ở đây là cái gì nói, nếu không có ánh sáng Như Lai lấy gì để nói? Đó là chỗ Phật luôn luôn hộ trì, luôn luôn nhắc nhở. Tin như vậy, hiểu như vậy đó là khéo nghe, khéo tin hiểu Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:
Bây giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Muốn bỏ tánh biếng lười
Nên phải nghe kinh này
Kinh này khó đặng nghe
Người tin nhận cũng khó.
GIẢNG:
Đây nói muốn bỏ tánh biếng lười thì phải nghe kinh này thôi, bởi vì chính nó là chỗ khó nghe, khó hiểu, bây giờ mình nghe được, tin nhận được, nhớ mãi không quên là hết làm biếng.
CHÁNH VĂN:Như người khát cần nước
Xoi đào nơi gò cao
Vẫn thấy đất khô ráo
Biết cách nước còn xa
Lần thấy đất ướt bùn
Quyết chắc biết gần nước.
Dược Vương! Ông nên biết
Các người như thế đó
Chẳng nghe kinh Pháp Hoa
Cách trí Phật rất xa,
Nếu nghe kinh sâu này
Quyết rõ pháp Thanh Văn
Đây là vua các kinh
Nghe xong suy gẫm kỹ
Phải biết rằng người đó
Gần nơi trí huệ Phật.
GIẢNG:
Đây dụ về đào giếng, đào mà còn thấy đất khô chưa thấy ướt là biết rằng còn xa, đến thấy đất ướt có lòng tin chắc nhận rõ được Tri Kiến Phật này, thì mới biết đó là gần nước, tức là gần được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Rồi kinh này là vua các kinh, phải thấy là vua chỗ nào? Câu chuyện Bổn Như đến tham với tôn giả Pháp Trí.Ngài Bổn Như cũng học kinh Pháp Hoa này. Vì nghe nói kinh này là vua các kinh, cho nên Ngài mới hỏi tôn giả Pháp Trí:
- Thế nào là vua các kinh?
Tôn giả Pháp Trí không trả lời liền, mới bảo:
- Thôi, ông hãy làm tri khố cho ta ba năm đi, ta sẽ nói cho nghe.
Ngài Bổn Như chấp nhận, đến ba năm Ngài thưa:
- Con đã làm tri khố ba năm rồi, giờ xin Hòa thượng nói cho.
Thì Ngài Pháp Trí liền gọi:
- Bổn Như!
Sư liền:
- Dạ!
Ngay đó Sư liền ngộ, thấy vua các kinh. Đơn giản phải không? Vua các kinh là chỗ đó, nghe gọi thì "dạ", đơn giản vậy sao không nói đi mà phải bắt làm tri khố ba năm, nhọc nhằn? Chính chỗ đó là chỗ khéo léo của các Ngài, bắt làm ba năm cho tâm nó khao khát tột độ, tâm chuyên nhất; rồi gợi nhẹ thì liền thấy. Còn kiểu hỏi mà tâm chưa hết lòng, tâm chưa khao khát, thì nói, mà nghe hời hợt thôi. Đây làm tri khố ba năm, xong ba năm thì đến bạch Hòa thượng: "Con làm xong ba năm rồi", vậy biết rằng trong ba năm, Ngài ôm ấp việc đó không quên. Kiểu như mình làm một năm, mệt mỏi quá bỏ đi cho rồi. Thì làm sao mà ngộ được, làm sao mà thấy được? Cho nên Phật nhắc: "Đây là vua các kinh, nghe xong suy gẫm kỹ" Nghe xong phải suy gẫm kỹ. Không thể nghe hời hợt chơi chơi. Nếu nghe như vậy, phải biết rằng: người đó gần nơi trí tuệ Phật.
CHÁNH VĂN:
Nếu người nói kinh này
Nên vào nhà Như Lai
Mặc y của Như Lai
Mà ngồi tòa Như Lai
Ở trong chúng không sợ
Rộng vì người giải nói,
Từ bi lớn làm nhà
Y nhu hòa nhẫn nhục
Các pháp không làm tòa
Ở đó vì người nói.Đây là cách nói Pháp Hoa, vào nhà Như Lai, mặc y Như Lai, ngồi tòa Như Lai.
CHÁNH VĂN:Nếu lúc nói kinh này
Có người lời ác mắng
Dao, gậy, ngói, đá đánh
Nhớ Phật nên phải nhịn
Ta trong muôn ức cõi
Hiện thân sạch bền chắc
Trải vô lượng ức kiếp
Vì chúng sanh nói pháp.
Sau khi ta diệt độ
Nếu hay nói kinh này
Ta sai hóa tứ chúng
Tỳ kheo, Tỳ kheo ni
Và nam, nữ thanh tịnh
Cúng dường nơi Pháp sư
Dẫn dắt các chúng sanh
Nhóm đó khiến nghe pháp.
GIẢNG:Đây lập lại đoạn Phật nói: Người nói kinh này, thọ trì như vậy, nếu tâm trong sạch, Ngài ở xa nhưng Ngài cũng sai những hóa nhân đến nghe pháp tin nhận, cúng dường.
CHÁNH VĂN:
Nếu người muốn làm hại
Dao gậy cùng ngói đá
Trời khiến người biến hóa
Giữ gìn cho người đó.
Nếu người nói Pháp Hoa
Ở riêng nơi vắng vẻ
Lặng lẽ không tiếng người
Đọc tụng kinh điển này
Bấy giờ ta vì hiện
Thân thanh tịnh sáng suốt
Nếu quên mất chương cú
Vì nói khiến thông thuộc.
Nếu người đủ đức này
Hoặc vì bốn chúng nói
Chỗ vắng đọc tụng kinh
Đều đặng thấy thân ta
Nếu người ở chỗ vắng
Ta sai trời, Long Vương
Dạ xoa, quỉ, thần thảy
Vì làm chúng nghe pháp.
GIẢNG:
Cho thấy rõ người nói Pháp Hoa này dù ở nơi vắng vẻ nhưng Phật cũng sai người đến nghe, nói không luống uổng, đâu đâu cũng có ánh sáng Pháp Hoa này hết.
CHÁNH VĂN:Người đó ưa nói pháp
Phân giải không trở ngại
Nhờ các Phật hộ niệm
Hay khiến đại chúng mừng
Nếu ai gần pháp sư
Mau đặng đạo Bồ Tát
Thuận theo thầy đó học
Đặng thấy hằng sa Phật.
GIẢNG:
Các vị mà nghe Pháp sư này nói pháp đó, thì sẽ mau đặng gần đạo Bồ Tát, theo thầy đó mà học thì sẽ đặng thấy hằng sa Phật. Vậy quí vị thấy, nghe Pháp Hoa rồi nói Pháp Hoa là phải như vậy; cho nên phẩm pháp sư này quan trọng là: Chính nhờ pháp sư này khiến cho ánh sáng Pháp Hoa được kéo dài không dứt, mình phải thấy chỗ pháp sư nói là như vậy. Phải thấy thấu qua những ngôn ngữ, chữ nghĩa mà thấy được bộ kinh chân thật đó, còn lo theo bộ kinh chết thì không thấy được ánh sáng Pháp Hoa liên tục.
-
12. Phẩm hiện bửu tháp
Đến đây là tháp báu hiện ra, hiển bày rõ pháp thân - Tri kiến Phật, phẩm này cũng rất nhiều ý nghĩa.
Qua phần trước là phần Khai Tri kiến Phật, tới đây là Thị Tri Kiến Phật. "Thị" tức là hiển bày, lộ ra. Trước là mới mở thôi, đến đây thì Tháp báu Phật Đa Bảo hiện ra rõ ràng ngay trước Phật, tức là hiển bày rõ Pháp thân thường trụ của Như Lai vốn không có mất. Bởi vì Phật Đa Bảo nói: Ngài nhập diệt đã lâu từ vô lượng kiếp mà toàn thân Ngài không tan rã, ở đâu nói Pháp Hoa thì Ngài hiện ở đó.
Để chỉ cho Pháp thân ngay đây, khiến mọi người quên niệm sanh diệt đi. Trong đây đức Phật sẽ biến cõi Ta Bà này thành Tịnh Độ luôn, khỏi cầu Tịnh Độ đâu khác. Không thấy đây nhơ, kia sạch gì nữa, như vậy mới thấu suốt được thật tướng hiện tiền, cũng như cảnh giới Phật là ngay trước mắt thôi, mình mở mắt ra là gặp.
Bởi vậy, phẩm này ý nghĩa rất sâu xa, phải nghe cho kỹ, lắng lòng thì mới cảm nhận hết.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, trước Phật có Tháp bằng bảy báu, cao năm trăm do tuần, ngang rộng hai trăm năm mươi do tuần, từ dưới đất nổi lên trụ ở giữa hư không; các món vật báu trau dồi, năm nghìn bao lơn, nghìn muôn phòng nhà, vô số tràng phan để nghiêm sức đó, chuỗi ngọc báu rủ xuống, muôn nghìn linh báu treo trên tháp. Bốn mặt đều thoảng đưa ra mùi hương gỗ ly cấu chiên đàn khắp cùng cả cõi nước.
Các phan lọng đều dùng bảy thứ báu, vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, trân châu và mai khôi hiệp lại thành, cao đến ngang cung trời Tứ Thiên Vương, Trời Đao Lợi rưới hoa Mạn đà la cúng dường tháp báu.
Các trời khác và rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Khẩn` na la, Ma hầu dà, Nhơn, Phi nhơn....nghìn muôn ức chúng đều đem tất cả hoa, hương, chuỗi ngọc, phan, lọng, kỹ nhạc mà cúng dường tháp báu, đồng cung kính tôn trọng ngợi khen.
GIẢNG:
Bây giờ đây, bỗng dưng ở "Trước Phật có tháp bằng bảy báu, tháp này cao năm trăm do tuần rồi ngang rộng cũng hai trăm do tuần", năm trăm do tuần cũng là mấy trăm cây số, bỗng dưng từ dưới đất nổi lên trụ giữa hư không, trong tháp đó trau giồi những thứ tràng phan, ngọc báu rất là đẹp; những phan lọng cao ngang trời Tứ Thiên Vương. Các vị trời khác đều cung kính cúng dường. Nghĩa là Phật đang nói Pháp Hoa như vậy bỗng dưng có tháp báu hiện ra trước, mà từ dưới đất vọt lên trụ giữa hư không, vậy là sao? Đó là để hiển bày Tri Kiến Phật hay gọi là Thánh Trí Tự Giác, là chỗ mình tự giác, chứ không phải cái bên ngoài.
Ở trước Phật hiện ra để chỉ thật trí hiện tiền. Còn tháp bằng bảy báu là kim ngân, lưu ly, pha lê, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách. Nhưng bảy báu đó cũng chỉ cho thân thất đại này. Thất đại là: đất, nước, gió, lửa, không tức là trong đó có khoảng hư không, thức là cái phân biệt, kiến là cái hiểu biết.
Đang thuyết pháp vậy thì từ đất nổi lên. Đất đây chỉ cho đất tâm. Ngay nơi đất tâm này hiển lộ. Nghĩa là lâu nay mình sống trong phiền não vô minh dày đặc, cho nên tháp này ẩn trong đó, không thấy được. Ẩn nơi đất tâm, giờ đây đã mở Tri Kiến Phật rồi tức phiền não, vô minh nó tan, tâm sáng tỏ thì thân bảy đại này sẽ chuyển thành bảy báu, nên hiện ra sáng rỡ.
Trong đó hiện ra rồi, nó trụ giữa hư không chỉ cho không chỗ bám, không chỗ trụ. Bởi tâm sáng rồi, tháp này hiện ra thì nó không còn chỗ bám, không có chỗ trụ. Còn nếu có chỗ bám, có chỗ trụ thì nó bị chôn vùi trong lòng đất rồi. Đây hết chỗ bám mới hiện ra được, mà hết chỗ bám tức là hết chỗ để duyên. Tâm mình hết chỗ để duyên thì thấy tháp báu hiện ra liền, nếu hiện ra thì bảy báu sáng ngời.
Còn có chỗ để duyên thì nó chôn vùi dưới lòng đất, thấy đất nước nhơ nhớp. Mình ngay đây "khéo", tâm mà không có chỗ trụ, thì tháp báu sẽ sáng ngời hiện ra thôi.
Quý vị đọc kinh Pháp Bảo Đàn thấy Lục Tổ nghe kinh Kim Cang đến câu: "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh, hương, vị, xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm". Không nên trụ nơi sắc mà sanh tâm, không nên trụ nơi thanh, hương, vị, xúc pháp mà sanh tâm, nên không có chỗ nào trụ thì tâm Bồ Đề hiện ra, Ngài liền đại ngộ. Ngài la lên: "Đâu ngờ tự tánh vốn thanh tịnh, đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt", đó là tháp báu hiện ra chớ gì? Không trụ một chỗ nào hết thì tháp báu hiện ra liền. Hiện ra một cách bất ngờ.
Trong tháp đó chứa đầy đủ những thứ trang nghiêm tốt đẹp, chỉ cho trong đây đủ hằng sa diệu dụng, không thể nghĩ bàn, nghĩa là, trong Tri Kiến Phật đó, trong pháp thân đó nó đầy đủ diệu dụng trong đó.
Mình nghĩ rằng: buông hết mọi duyên rồi, không còn gì hết. Nhiều người nghĩ rằng buông hết mọi duyên chắc không còn biết gì! Có duyên thì có biết, hết duyên biết cái gì? Đây không phải vậy, buông hết, rồi còn biết diệu dụng nhiệm mầu nữa.
Chính chỗ này ngày xưa Nhị Tổ Huệ Khả thưa với Tổ Bồ Đề Đạt Ma: "Con bây giờ dứt bặt hết các duyên rồi". Tổ Đạt Ma gạn lại: "coi chừng rơi vào đoạn diệt" Huệ Khả thưa:
- Không.
Tổ hỏi:
- Sao biết "không"?
- Rõ ràng thường biết, nói không thể đến!
Rõ ràng thường biết thì làm sao "rơi vào đoạn diệt được". Đây cũng vậy, buông hết các duyên rồi thì nó sẽ biết khắp tất cả hết, nó sáng ngời hết. Diệu dụng đó không thể lường, chớ không phải là không còn gì hết. Nhưng chỉ có điều là "nói không thể đến" chỗ đó không phải là chỗ nói mà phải thể nghiệm chân thật.
Rồi phan lọng ở nơi tháp đó cao tới ngang trời Tứ Thiên Vương, tức là sao? Tức chỉ cho tháp này hiện ra, mở sáng chỗ này rồi thì thấy rõ bốn đại này không còn ngăn ngại nữa. Nghĩa là đất, nước, gió, lửa này không còn ngăn ngại được; trời, rồng đều tôn trọng hướng về chỗ đó. Mình bây giờ thấy bốn đại này nó ngăn, nó che nên tìm cách giải thoát. Nhưng đây thấy rõ bốn đại không ngăn được nó, chỉ mình mê lầm thôi. Thí dụ: bây giờ đây giơ tay lên thì ai không thấy? Hoặc là gọi, ai không biết "dạ"?
Vậy, giơ tay liền thấy, gọi liền biết "dạ" thì có gì che ngại được nó? Mặc dù bốn đại còn đây, mà đâu ngăn che được cái đó. Vậy thì ngay khi mình mê mà nó còn không ngăn che được nữa, huống là khi đã giác rồi!
Cho nên, khi giác rồi thì diệu dụng ứng ra không lường được. Nên ở đây diễn tả là nó " trang nghiêm tốt đẹp, cao vợi, các Trời, Rồng, Dạ xoa, Thiên, nhơn đem kỹ nhạc, chuỗi ngọc đến cúng dường tháp báu".
CHÁNH VĂN:
Bây giờ trong tháp báu vang tiếng lớn ra khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Có thể dùng huệ lớn bình đẳng vì đại chúng mà nói kinh Giáo Bồ Tát Pháp Phật Sở Hộ Niệm Diệu Pháp Liên Hoa. Đúng thế! Đúng thế! Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn! Như lời Phật nói đó, đều là chơn thật".
GIẢNG:
“Tháp báu hiện ra giữa hư không, trong đó vang ra tiếng", đọc kinh này nếu đọc thường không đọc sâu trong ý nghĩa, thì thấy giống như là truyện tiểu thuyết. Nhưng đây ý nghĩa rất là sâu: trong tháp đó vang ra tiếng để chỉ cho trong Tịch mà có Chiếu. Từ chỗ không lời mà vang dội ra, khiến cho người thầm nhận có cái gì sâu xa đặc biệt trong đó chớ không phải là nó lặng lẽ không lời, là trơ trơ như gỗ đá.
Vì thường nói pháp thân là không tướng, lặng lẽ, không lời. Có người nghĩ vậy thành ra nó trơ trơ như cây, đá sao? Cho nên đây trong lặng lẽ đó, trong tịch đó mà có chiếu soi, có vang ra tiếng, không phải hoàn toàn lặng như chết. Đây "trong tháp vang ra tiếng", thì mình biết sao? Trong đó là có người phải không? Mình đây cũng vậy, trong tháp này vang ra tiếng, thì biết có người, có chủ trong đó chớ có mất đi đâu. Rồi khen ngợi Đức Thích Ca dùng "huệ lớn bình đẳng" mà nói Pháp Hoa. Huệ mà huệ lớn, bình đẳng thì huệ đó là huệ gì?
Thường ở thế gian, người thông minh cũng nói là trí tuệ, nhưng trí tuệ thế gian cũng là trí tuệ sanh diệt, vay mượn thôi. Đó chưa phải là trí tuệ lớn. Trí tuệ lớn đây chỉ cho trí tuệ Phật, là trí tuệ chân thật đó. Huệ đó là huệ bình đẳng, ai ai cũng có hết, không ai thiếu đó mới là lớn, là bình đẳng; còn cái người này có, người kia không thì chưa phải là lớn, tức là còn giới hạn.
Nhưng bây giờ có ai nghe tiếng khen từ trong tháp vang ra chăng? Thì đó mới là khéo, mình chỉ cần nghe được tiếng khen từ trong tháp vang ra đó thì mở được mắt Pháp Hoa. Tụng kinh Pháp Hoa cho đến một ngàn bộ, chưa nghe chỗ này thì chưa thấy Pháp Hoa được. Nghe thế nào thì mới nghe được tiếng này? Nghe mà mình quên chỗ nghe đi, tức là quên chỗ duyên đi thì nghe được tiếng này. Còn nghe mà nhớ chỗ nghe đó thì không nghe được tiếng này, vì nhớ chỗ nghe là nhớ bên ngoài. Vậy ngay chỗ này bắt đầu thấy rõ nó lộ ra một hiện tượng là có cái chân thật đó, nên vang ra tiếng đó.
CHÁNH VĂN:
Bây giờ, bốn chúng thấy tháp báu lớn trụ trong hư không, lại nghe trong tháp có tiếng nói ra, đều đặng pháp hỷ, lấy làm lạ chưa từng có, liền từ chỗ ngồi đứng dậy cung kính chắp tay rồi đứng một bên.
Lúc đó, có vị Đại Bồ Tát tên Đại Nhạo Thuyết biết lòng nghi tất cả trời, người, A tu la... trong thế gian mà bạch Phật rằng: "Bạch Thế Tôn! Do nhơn duyên gì mà tháp này từ đất nổi lên, lại ở trong tháp vang ra tiếng như thế?"
Lúc đó, Phật bảo Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát: "Trong tháp báu này có toàn thân Như Lai, thời quá khứ về trước, cách đây vô lượng nghìn muôn ức vô số cõi nước ở phương Đông có nước tên Bảo Tịnh, trong nước đó có Phật hiệu là Đa Bảo, đức Phật đó tu hành đạo Bồ Tát phát lời thệ nguyện lớn rằng: "nếu ta được thành Phật sau khi diệt độ trong cõi nước ở mười phương có chỗ nào nói kinh Pháp Hoa, thời tháp miếu của ta vì nghe kinh đó mà nổi ra nơi trước để làm chứng minh khen rằng: "Hay thay!" Đức Phật đó thành Phật rồi lúc sắp diệt độ ở trong đại chúng trời, người bảo các tỳ kheo rằng: "Sau khi ta diệt độ muốn cúng dường toàn thân của ta thời nên dựng một tháp lớn".
Đức Phật đó dùng sức nguyện thần thông nơi nơi chỗ chỗ trong mười phương cõi nước, nếu có nói kinh Pháp Hoa thời tháp báu đó đều nổi ra nơi trước, toàn thân Phật ở trong tháp khen rằng: "Hay thay! Hay thay!".
GIẢNG:
Chỗ này ý nghĩa rất là sâu xa, trước là chúng thấy tháp báu, nghe được tiếng đó đều được pháp hỷ "đứng dậy", quý vị nghe mà đứng dậy thì chắc hay lắm, hay là còn ngồi im lìm tại chỗ. Có nghe được pháp hỷ tức là có chỗ cảm rồi. Nhưng có chỗ cảm mà chưa nhận, còn phải đợi Phật nói, nên đứng dậy chắp tay, đứng một bên chăm chăm nhìn đợi. Nghe âm thanh đó, biết có việc đó, biết có cái gì trong đó cho nên mới phát ra tiếng như vậy; nhưng chưa giáp mặt nên còn đợi Phật nói.Tới đây vị Bồ Tát tên Đại Nhạo Thuyết hỏi Phật. Đại Nhạo Thuyết là nói hoài không hết, nói mãi mà không có chỗ gì để nói, chớ không phải là một bề không nói. Cho thấy pháp thân là chỗ vô tướng, không chỗ nói nhưng mà nói mãi. Thì Bồ Tát này đứng lên thưa hỏi là khế hợp với ý pháp thân đó. Phật bảo: "trong tháp đó có toàn thân của Như Lai thời quá khứ về trước, cách đây vô lượng nghìn muôn cõi nước. Trong đó có nước tên Bảo Tịnh, Phật tên là Đa Bảo, tu hành đủ hạnh Bồ Tát, phát nguyện lớn: nếu khi thành Phật rồi, sau khi diệt độ, cõi nước mười phương nói Pháp Hoa thì tháp miếu này vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ngay nơi trước, chứng minh khen rằng; "Hay thay! Hay thay!". Tức là chứng minh việc đó chân thật. Vậy ở trong tháp này có toàn thân của Như Lai Đa Bảo. Như Lai Đa Bảo đó ở đâu vậy? Đó là ngầm chỉ trong cái thất đại này có pháp thân chân thật, pháp thân đó có đầy đủ diệu dụng, không thể nghĩ bàn hết. "Đa Bảo" tức là nhiều thứ báu, không thể kể hết được.
Phật đó diệt độ từ lâu rồi mà bây giờ "ở chỗ nào nói kinh Pháp Hoa thì tháp đó hiện ra, nghe kinh, còn phát ra tiếng khen nữa". Diệt độ rồi còn nói gì được mà phát ra tiếng? Quí vị mới thấy ý nghĩa sâu ở chỗ đó "diệt mà chẳng diệt". Tuy nói diệt đó mà chưa từng diệt gì hết! Bởi vì, người mê không thấy rõ nên thấy như là diệt, nhưng pháp thân đâu có diệt. Cho nên với người giác là người có nói Pháp Hoa, là người mở được Tri Kiến Phật thì liền thấy nó vốn chưa từng diệt. Cho nên chỗ nào nói Pháp Hoa thì chỗ đó hiện ra khen ngợi. Rõ ràng chưa từng diệt! Nghĩa là nó hằng chiếu soi, sáng ngời đó thôi, không mất đi đâu, không diệt đi đâu hết.
Cho nên đây, chứng minh bằng cách là phát ra tiếng nói: "Hay thay! Hay thay!" ở trong đó. Tháp thờ cái thân đã diệt rồi, nhưng còn phát ra tiếng thì đâu có diệt. Vậy nó không có mất đi đâu hết, chỉ tại mình mê thôi, nếu nhớ lại thì rõ ràng.
Nghe tới chỗ này, có ai nghe được Phật Đa Bảo nói chưa? Như ông Bùi Hưu vào chùa thấy vẽ hình cao tăng trên vách tường, ông hỏi trong chùa:
- Hình ở đây mà cao tăng ở đâu?
Thì cũng giống như đây - cái tháp ở đó còn người ở đâu? Trong chùa không có ai đáp được, ông hỏi:
- Trong chùa có thiền giả nào không?
- Có vị tăng mới đến, giống như thiền giả.
- Đâu, mời lại xem!
Tức Hoàng Bá được mời tới, ông nói:
- Hưu này mới có câu hỏi, nhưng chư tăng trong chùa tiếc lời, không ai trả lời. Xin ngài đáp cho!
Ngài Hoàng Bá nói:
- Đâu, ông hỏi lại coi!
Ông hỏi:
- Hình cao tăng ở đây, còn cao tăng ở đâu?
Hoàng Bá liền gọi tên ông:
-Bùi Hưu!
Ông liền:
- Dạ!
Ngài hỏi:
- Ở đâu?
Ngay đó ông liền thấy cao tăng.
"Dạ" đó giống như tiếng "Hay thay", phải không? Thì đâu có mất. Nghe tiếng "Dạ" đó thì thấy Phật Đa Bảo liền.
Vậy, rõ ràng cao tăng đó ở đâu? Ngay cái thân này thôi. Chính chỗ đó, trong Chứng Đạo Ca có câu: "huyễn hoá không thân tức pháp thân", cái pháp thân đó ngay trong thân huyễn hoá này. Qua đây, mình thấu suốt được cái thân huyễn hoá, thì thấu suốt được pháp thân hiện tiền đó thôi, không đâu khác hết.
Đây cũng vậy, ngay trong tháp bảy báu đó, tức cái thân thất đại này có toàn thân Phật Đa Bảo trong đó. Chỗ này không phải chỉ mấy vị xuất gia thấy được mà tại gia cũng thấy được. Chính vua Trần Thái Tông của Việt Nam, từng có bài kệ nói về ý nghĩa này:
Vô vị chân nhân thịt đỏ au
Hồng hồng, trắng trắng chớ lầm nhau.
Ai hay mây cuộn, trời trong vắt
Ven trời sương biếc núi một màu.
***
(Vô vị chân nhân xích nhục đoàn,
Hồng hồng, bạch bạch mạc tương man.
Thuỳ tri vân quyện trường không tịnh.
Thuý lộ thiên biên nhất dạng san.)
Ngài nói là có một vị chân nhân vô vị: chân nhân là con người chân thật mà không có ngôi vị gì hết, con người đó ở ngay trong cục thịt đỏ au này. Thịt đỏ au chỉ thân này nhưng mình chớ có lầm tưởng "hồng hồng, trắng trắng"đó. Nó ở ngay trong cục thịt đỏ au này, nhưng chớ có lầm với cục thịt "đỏ đỏ, trắng trắng" đó. Cục thịt "đỏ đỏ, trắng trắng" này là cục thịt vô tri thôi. Trong đó có cái chân thật sáng ngời, nó giác biết; chỉ có khi nào "mây cuộn trời trong vắt", tức là mây vô minh tan, trời trong vắt, thì sẽ thấy ngay nơi "ven trời sương biếc núi một màu", núi, sương, bầu trời một màu xanh vậy thôi.Nghĩa là mây tan rồi, trước mắt tâm cảnh như như, pháp thân hiện bày trước mắt!
Vậy ngay cục thịt đỏ au này, rõ ràng có vị chân nhân không ngôi vị đang ngồi chễm chệ ngay đó, ngồi sờ sờ đó, chỉ có một điều là nhìn cho khéo: thấy được người đó mà đừng lầm với tướng "trắng trắng, hồng hồng" này, nhận cái tướng "hồng hồng, trắng trắng"đó cho là người chân thật là đi theo sanh diệt. Bởi vì tướng này ít lâu cũng ra nghĩa địa. Còn con người chân thật này thì vẫn là chân thật, chỉ có mình khéo vén được đám mây vô minh, thì thấy được con người chân thật đó, ngay trong cục thịt đỏ au này thôi.
Vì vậy, ngay trong thân này có "đức Phật Đa Bảo đã tịch diệt lâu rồi" nhưng vẫn không mất. Chỗ nào có nói Pháp Hoa thì tháp đó hiện ra thôi. Như ngay bây giờ đây, có nói Pháp Hoa thì có nó hiện. Tức là, mình tan được vô minh rồi thì nhìn đâu đâu cũng là pháp thân hiện này hết, không chỗ nào thiếu. Nhưng ở đây tháp đó hiện ra rồi, nó phát ra tiếng " Hay thay" là nó "nổi lên trên khỏi mặt đất ở giữa hư không", mình đây cũng vậy nếu được "nổi lên trên khỏi mặt đất" thì nó phát ra tiếng đó. Còn bây giờ bám chặt mặt đất, không dám rời chút nào hết, thành ra nó đâu có phát nổi "không rời mặt đất" tức là cứ bám vào cái thân sanh diệt này, làm sao phát ra tiếng kia được? Đơn giản vậy thôi. Đó là nhắc mình, ngay đây phải quên cái thân sanh diệt, buông cái ngã này đừng có bám chặt vào nó thì sẽ thấy Pháp Thân hiện ra.
CHÁNH VĂN:
Đại Nhạo Thuyết! Nay tháp của Đa Bảo Như Lai vì nghe nói kinh Pháp Hoa nên từ dưới đất nổi lên khen rằng: "Bạch Thế Tôn! Chúng con nguyện muốn thấy thân của đức Phật đó". Phật bảo ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát: Phật Đa Bảo đó có nguyện sâu nặng: "nếu lúc tháp báu của ta vì nghe kinh Pháp Hoa mà hiện ra nơi trước các đức Phật, có Phật nào muốn đem thân ta chỉ bày cho bốn chúng, thời các vị Phật của Phật đó phân thân ra nói pháp ở các cõi nước trong mười phương đều phải nhóm cả một chỗ, vậy sau thân của ta mới hiện ra".
Đại Nhạo Thuyết! Các vị Phật của ta phân thân nói pháp ở các cõi nước trong mười phương nay nên sẽ nhóm lại. Ngài Đại Nhạo Thuyết bạch Phật rằng: thưa Thế Tôn! Chúng con cũng nguyện muốn thấy các vị Phật của Thế Tôn phân thân để lễ lạy cúng dường".
GIẢNG:
Ngài Đại Nhạo Thuyết do sức thần của Như Lai mà bạch Phật: "chúng con cũng muốn thấy được thân đức Phật đó". Nhưng Phật bảo: bây giờ muốn thấy không phải thấy suông vậy được, mà Phật đó có nguyện là khi Phật nào muốn chỉ thân ta cho bốn chúng, thì phải "gom hết các hoá thân" về một chỗ, rồi thì "thân Phật Đa Bảo" mới hiện ra. Chính chỗ này là chỗ mình phải nghe cho kỹ. Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát nguyện được thấy, nhưng do sức thần của Như Lai, mới bạch Phật, tức là sao? Tức là phải dùng trí của Phật thì mới thầm hợp được việc đó. Còn dùng trí sai biệt của mình thì khó khế hợp được.
Rồi "Phật đó có nguyện, Phật nào muốn chỉ” thì "gom hết hoá thân về một chỗ" mới hiện ra được. Đây là một ý nghĩa tuyệt diệu!
Muốn thấy toàn thân Phật Đa Bảo, hay gọi là thấy tột được pháp thân đó, thì phải nhóm các vị Phật đang phân thân về một chỗ. Vậy thì hoá thân ở đâu mà gom về?
Tức là, mỗi tâm niệm đang phân tán chỗ này, chỗ kia đó. Bây giờ phải thâu về hết một chỗ đây thì nhìn thấy Pháp thân liền, Pháp thân hiện ra liền. Một niệm là một phân thân Phật chớ gì? Có niệm là có biết, biết tức là giác. Giác là hoá thân Phật chớ gì nữa? Bây giờ đây gom về một chỗ đi! Gom về một chỗ là sao? Tức là nhất tâm. Phải nhất tâm bặt những niệm kia, đây đừng cho đi đâu hết thì đảm bảo pháp thân hiện ra, không nghi ngờ!
Ngài Đại Nhạo Thuyết muốn thấy phân thân Phật; rồi đại chúng muốn thấy, tức là nhân Phật Đa Bảo đó, đại chúng cũng muốn thấy phân thân của Phật Thích Ca. Mà Phật Đa Bảo chỉ cho pháp thân Phật. Hay mình nói ngược lại, muốn thấy phân thân Phật Thích Ca, cũng phải nhân pháp thân Phật Đa Bảo mà thấy. Nghĩa là, phải tâm lặng lẽ thì mới thấy hết được các hoá thân đó. Còn tâm lăng xăng, lộn xộn thì làm sao thấy hết?
Thêm một điều nữa, lâu nay mình nghe nói Phật Thích Ca thì chỉ biết Phật Thích Ca sanh ra ở Ấn Độä, rồi nhập diệt ở rừng Sa La. Ở đây, Ngài nói Ngài còn vô số các hoá thân đi thuyết pháp mười phương nữa. Vậy Phật nào là Phật Thích Ca thật.
Bởi vậy, có người đặt câu hỏi: “nói Phật Thích Ca tu hành thành đạo chứng niết bàn rồi đến tám mươi tuổi cũng chết tại rừng Sa La như ai, không tu cũng chết, tu cũng chết", vậy thành đạo ở chỗ nào? Mình không thấy thấu được chỗ này, cũng lúng túng, cũng nghi ngờ! Đây thấy rõ, nếu chỉ thấy Phật Thích Ca nhập diệt ở rừng Sa La đó, thì chưa thấy Phật Thích Ca, Ngài còn phân thân mười phương nữa, Phật này gọi là Phật ứng thân thôi! Chưa phải là Phật thật. Ưùng thân, "thì có ứng ra, rồi ẩn đi”, nên có nhập diệt. Còn Phật thật đâu có hiện ra, đâu có ẩn đi. Hiểu như vậy mới thấy được ý nghĩa Phật thành đạo đó đâu phải thành cái thân này? Cái thân này rồi cũng phải diệt. Nhưng thành đó là thành chính cái “Tâm Bất Sanh, Bất diệt”, hay "Tâm giác ngộ" đó, chớ không phải thành thân tướng này. Thấy như vậy thì mới thấy được Phật Thích Ca thật.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Phật phóng một lằn sáng nơi lông trắng giữa chặng mày, liền thấy năm trăm muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước ở phương Đôâng. Các cõi nước đó thường dùng pha lê làm đất, cây báu, y báu để làm đồ trang nghiêm, vô số nghìn muôn ức Bồ Tát đầy dẫy trong nước đó. Khắp nơi giăng màn báu, lưới báu phủ trên đức Phật trong nước đó đều dùng tiếng lớn tốt mà nói các pháp, và thấy vô lượng nghìn muôn ức Bồ Tát khắp đầy trong nước đó vì chúng sanh mà nói pháp: Phương Nam, Tây, Bắc, bốn phía, trên dưới chỗ tướng sáng lông trắng chiếu đến cũng lại như thế.
Lúc đó, các Phật ở mười phương đều bảo chúng Bồ Tát rằng: "Thiện nam tử! Ta nay phải qua thế giới Ta Bà, chỗ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng để cúng dường tháp báu của Đa Bảo Như Lai".
Lúc bấy giờ, cõi Ta Bà liền biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây để giăng ngăn tám đường, không có các tụ lạc, làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông cùng rừng bụi. Đốt hương báu lớn, hoa mạn đà la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, treo những linh báu, chỉ lưu lại chúng trong hội này, dời các trời người để ở cõi khác.
Lúc đó, các đức Phật đều đem theo một vị Bồ Tát lớn để làm thị giả qua cõi Ta bà đều đến dưới cây báu, mỗi mỗi cây báu cao năm trăm do tuần, nhánh lá bông trái thứ lớp rất trang nghiêm, dưới các cây báu đều có toà sư tử cao năm do tuần cũng dùng đồ báu tốt mà trau dồi đó.
Khi ấy, các đức Phật đều ngồi xếp bằng trên toà này, như thế lần lựa đến khắp đầy cả cõi tam thiên đại thiên mà ở nơi thân của đức Thích Ca Mâu Ni Phật phân ra trong một phương vẫn còn chưa hết.
Bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni vì muốn dung thọ các vị Phật của mình phân thân, nên ở tám phương lại biến thành hai trăm muôn ức na do tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh cùng a tu la, lại cũng dời các hàng trời người để ở cõi khác.
Những nước của Phật biến hoá ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm cao năm trăm do tuần nhánh lá bông trái đều có thứ lớp tốt đẹp, dưới cây đều có toà báu sư tử cao năm do tuần, dùng các thứ báu để trau dồi, những nước đó cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục chơn lân đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu di... thông làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, các báu xen lẫn nhau làm màn trùm khắp ở trên, treo các phan lọng, đốt hương báu lớn, các hoa trời báu trải khắp trên đất.
Đức Thích Ca Mâu Ni Phật vì các Phật sẽ đến ngồi, nên ở nơi tám phương lại đều biến thành hai trăm muôn ức na do tha cõi nước, đều làm cho thanh tịnh, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh và a tu la, lại dời các hàng trời người để ở cõi khác. Những nước biến hoá ra đó cũng dùng lưu ly làm đất, cây báu trang nghiêm, cao năm trăm do tuần nhánh lá bông trái thứ tự tốt đẹp, dưới cây đều có toà sư tử bằng báu cao năm do tuần, cũng dùng chất báu tốt mà trau dồi đó.
Những nước này cũng không có biển cả sông ngòi và các núi lớn: núi Mục chơn lân đà, núi Đại Mục chơn lân đà, núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Tu di... thông lại làm một cõi nước Phật, đất báu bằng thẳng, ở trên treo các phan lọng, đốt hương báu tốt, các thứ hoa trời báu trải khắp trên đất.
Bấy giờ ở phương Đôâng, các đức Phật trong trăm nghìn muôn ức na do tha hằng hà sa cõi nước của đức Thích Ca Mâu Ni Phật phân thân ra, thảy đều nói pháp đến nhóm ở cõi này. Tuần tự như thế, các đức Phật trong cõi nước ở mười phương thảy đều đến nhóm ngồi ở tám phương. Bấy giờ, mỗi mỗi phương các đức Như lai ngồi khắp đầy trong bốn trăm muôn ức na do cõi nước.
GIẢNG:
Đây các Phật nhóm về một chỗ, nghĩa là "Phật Thích Ca phóng một lằn ánh sáng giữa chặng mày, thấy năm trăm muôn ức hằng hà sa cõi nước ở phương Đôâng, những cõi nước này đều là trang nghiêm tốt đẹp", các đức Phật ở trong đó đang nói pháp, thì đều cảm được ánh sáng này, mới bảo với các chúng Bồ Tát: "Bây giờ ta phải qua thế giới Ta bà chỗ Phật Thích Ca Mâu Ni, cúng dường Phật Đa Bảo Như Lai", thì "Bấy giờ, cõi Ta bà biến thành cõi trang nghiêm tốt đẹp", như là "đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, không có những tụ lạc, thành ấp". Trong đó " chỉ lưu lại chúng trong hội này thôi, các trời người dời để các cõi khác hết", mình không biết có bị dời đi không? "Lúc đó, các đức Phật đem theo vị Bồ Tát làm thị giả, qua đến cõi này", đó là một lần biến: biến cõi này thanh tịnh. Tiếp theo, "các đức Phật ngồi khắp cả tam thiên đại thiên ở nơi thân Phật Thích Ca phân ra trong một phương vẫn chưa hết", mới có một phương mà chưa hết, còn tám phương về nữa, thì ngồi đâu đây?
"Bây giờ, Phật Thích Ca muốn dung các đức Phật của mình ở tám phương, liền biến thành những cõi nước trang nghiêm thanh tịnh tốt đẹp nữa", đó là lần biến thứ hai. Rồi Phật Thích Ca vì các Phật "sẽ" đến ngồi đây, biết đâu có mình trong đó? Và đều biến thành các cõi nước trang nghiêm, Phật phóng hào quang chiếu đến các phương, trong hào quang đó thì thấy rõ hết các Phật ở mười phương. Đó là ý nghĩa: "Tất cả không rời ngay một niệm hiện tiền đây thôi". "phóng hào quang lông trắng giữa chặng mày này", tức là một niệm hiện tiền chớ không gì khác, ngay một niệm hiện tiền này nó chiếu hết, thấy hết tất cả những cõi nước ở mười phương nếu như mình khéo quên được niệm sanh diệt. Quên niệm sanh diệt kia, đây, thì mười phương ngay trước mắt không gì ngăn cách. Mình còn niệm sanh diệt kia, đây, cho nên thấy có đây, có kia, có ngăn cách. Chính chỗ này trong nhà thiền, có Thiền sư Nghĩa Tồn hỏi vị tăng:
- Ông ở đâu đến?
Vị tăng thưa:
-Từ Giang Tây đến!
Sư hỏi:
- Cách đây bao xa?
Vị tăng thưa:
- Chẳng xa!
Sư đưa cây phất tử lên bảo:
- Vậy thì có cách cái này hay không?
Vị tăng thưa:
- Nếu cách cái này thì liền xa vậy.
Sư liền đánh ông tăng. Mình nghe nói "đây cách kia" thì giống như thành phố Hồ Chí Minh cách đây bao xa? Theo ông tăng đây thì "chẳng xa". Bởi vì mình sống với tâm niệm mắc kẹt trong không gian, nên thấy có đây, có kia, thì đây cách thành phố Hồ Chí Minh xa. Còn nếu sống ngay niệm hiện tiền đây thôi, thì thành phố Hồ Chí Minh với đây có gì xa? Sở dĩ cách xa là nhìn trên cái thân này "nó có cách, có ở đây", thì không ở thành phố Hồ Chí Minh. Còn niệm chân thật hiện tiền đây thì nó có tướng mạo gì mà cách.
Do đó Thiền sư Nghĩa Tồn giơ cây phất tử lên hỏi: "có cách cái này không?" thì ông tăng nói: "nếu cách thì liền xa rồi!".
Đưa cây phất tử lên, hay đưa tay lên, nếu mình thấy cây phất tử hay thấy ngón tay, thì cách xa liền. Còn nếu ngay cây phất tử hay ngón tay đây mình thấy trở lại "cái chân thật ngay nơi mình", cái sáng ngời đó", thì có cách ở đâu? "thấy ngón tay", bị mgón tay cách thì liền xa. Thấy thấu qua ngón tay, thấy trở lại ngay cái gì đang sáng ngời nơi con mắt mình đó, thì có cách gì. Nghĩa là, ngay đây mình không khởi tâm động niệm, thì có cách gì đâu? Còn vừa khởi tâm động niệm thì "cách liền".
Vậy mười phương ngay một niệm thôi! Cho nên ở đây phóng luồng ánh sáng thì thấy tất cả mười phương. Rồi cõi Ta bà này biến thành Tịnh độ trang nghiêm. Mình quên được niệm dơ sạch thì ngay đây Tịnh độ liền. Còn mình sống với niệm có dơ, có sạch, rồi thấy đây là nhơ, kia là sạch, mà bỏ cõi này lên tịnh độ sạch hơn. Như câu chuyện bà già ngộ đó. Bà đến, trình ngài Bạch Ẩn, là bà thấy chỗ nào cũng sáng ngời hết! Ngài mới gạn: "cái hầm phân có sáng không". Khi “tâm sáng rồi" thì chỗ nào cũng sáng hết; còn tâm chưa sáng: còn thấy có chỗ sáng, có chỗ tối, có chỗ nhơ, có chỗ sạch. Đây cũng vậy, "thấy Phật Đa Bảo hiện ra" rồi tức là tâm thanh tịnh. Tâm thanh tịnh, thì thấy cái gì cũng thanh tịnh hết! Vậy thì ngay đây Ta bà đã biến thành Tịnh độ rồi, còn bỏ đi đâu nữa? Nhưng có điều, muốn thấy như vậy thì phải gom hết tâm niệm lang thang đầu này đầu kia đi! Gom hết tâm niệm đó về đây thì thấy Ta bà thành Tịnh độ.
Kế là trong đó chỉ giữ chúng trong hội này thôi, còn những trời người đều dời đi chỗ khác, nhưng quý vị nghĩ "dời chỗ khác, thì dời chỗ nào đây"? Ởâ đây, chỉ có người trong cảnh mới thấy được như vậy thôi! Nghĩa là tâm mình thanh tịnh, mình chứng nghiệm được, thì mới thấy được chỗ thanh tịnh như vậy; thấy được Ta bà Tịnh độ như vậy. Còn mình đứng bên ngoài lý luận thì không bao giờ lý luận tới. Nói hay, nói giỏi mà tâm lang thang đầu này đầu kia thì cũng bị "dời đi chỗ khác". Vậy các vị đang ngồi đây có bị dời đi chỗ khác không? Đang ngồi nghe kinh trong hội Pháp Hoa, ở trong hội Pháp Hoa mà không thấy được Pháp Hoa, không thấy được cõi thanh tịnh đó mà để tâm lang thang là bị dời đi nơi khác chớ gì. Nghĩa là, cảnh đó ngay bên mình thôi, chứ không đâu xa hết, mà mình không thấy tức bị "dời đi" rồi. Còn ngay đó thu hết tâm lang thang về đây, thì ở trong hội Pháp Hoa vậy thôi.
Rồi "Chư Phật về đây, ngồi khắp cả tam thiên đại thiên mà chỉ mới thâu về ở phương Đông" thôi. Cho thấy tâm niệm lang thang của mình đó tính không biết bao nhiêu mà kể. Mới một phương thâu về, ngồi không hết rồi, tám phương thâu về không biết ngồi đâu nữa? Bấy giờ tám phương khác Phật biến thành Tịnh độ hết để ngồi cho đủ. Thế là Phật ngồi đầy kín hết trong cõi Ta bà, đó là ý nghĩa gì? Coi như Phật ngồi đầy khắp hết để chỉ cho tâm mình mà nó chuyên nhất rồi, nhất tâm rồi thì chỗ chỗ đều thanh tịnh sáng ngời, không có niệm tạp xen vào được. Chỗ nào cũng có Phật thì chỗ nào chen vào được. Có chúng sanh nào lang thang thì "dời chỗ khác" hết rồi thì ngay đó "Phật Đa Bảo hiện ra liền". Ý nghĩa chân thật là như vậy.
Rồi mỗi toà báu “cao năm trăm do tuần, Phật Phật nhóm đến vô số”, thì ở đâu cho hết đây?
Là phá thêm một ý niệm nữa. Phá cái tâm niệm hạn hẹp của mình, khiến quên cái niệm về không gian. Mình còn thấy có lớn, có nhỏ; cho nên còn thấy có rộng, có hẹp, vậy Phật về không biết ngồi ở đâu? Còn nếu tâm mình thanh tịnh rồi thì không gian biến mất, không thành vấn đề, không còn thấy có ranh giới nhỏ lớn. Mình còn mắc kẹt trong không gian, còn nghĩ có nhỏ, có lớn tức bị dời đi nơi khác liền. Do đó trong nhà thiền có câu là "núi Tu Di mà nhét trong hạt cải" cả quả núi mà nhét trong hạt cải, khiến cho mình quên cái niệm lớn nhỏ đi. Mình sống với đầu óc quen lý luận rồi, hiểu theo cái khuôn định sẵn từ xưa tới giờ, nghe như vậy là không thể nào hiểu nổi.
Song bây giờ theo tiến bộ khoa học trong đĩa nhỏ thôi người ta chứa cả Đại Tạng Kinh trong đó rồi! Thế gian còn như vậy, khi tâm mình thanh tịnh thì chuyện này là chuyện dễ dàng thôi. Hay quý vị chiêm nghiệm ngay chính mình, hôm nào nằm chiêm bao, thấy cảnh này, cảnh kia vô số. Khi tỉnh lại thì không rời khỏi cái gối. Vậy có lớn nhỏ gì đâu? Ý nghĩa rất là rõ ràng.
Cho nên đây, Phật hiện về đầy cả mà ngồi đủ hết, không chật gì. Rồi các vị Phật sẽ đến ngồi, cho nên "ở tám phương đó chuyển thành Tịnh độ", Phật sẽ đến là sao? Tức là, khi mình đã mở được Tri Kiến Phật thì mỗi niệm vọng tưởng cũng theo đó mà dứt. Tiến tới luôn hằng giác, niệm niệm Chư Phật hiện tiền, là Phật sẽ đến ngồi toà báu đó thôi! Nhưng đây không chuyển một lần, mà chuyển tới hai ba lần là cho thấy chúng sanh vọng tưởng điên đảo vô số, không phải chuyển một lần mà xong. Lý thì vốn sẵn có đó rồi, nhưng tu cũng phải trải qua thời gian, không phải một lúc mà sạch hết.
Ở trên nói Trí tuệ Phật là "không thể nghĩ bàn, Phật có vô lượng sức thần thông diệu dụng", nghĩa là người có ngộ có sáng tới đâu, nhưng nếu chẳng sống được trong đó thì không thể rõ được hết. Cho nên không thể đem một chút hiểu biết rồi tự hào ăn to nói lớn. Đó là chỗ để cho mình kiểm nghiệm lại. Do đó, học ở đây mới thấy ý nghĩa tu hành của mình rất rõ ràng. Như vậy "Phật Đa Bảo hiện ra, Phật Thích Ca phóng hào quang" mình thấy chuyện đó cũng là chuyện ở ngay nơi mình, chớ không phải đâu xa. Còn người học theo chữ nghĩa, như là chuyện của Phật thôi, không dính dáng gì đến mình.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, các đức Phật đều ngồi toà sư tử dưới cây báu, đều sai vị thị giả qua thăm viếng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đều đưa cho đầy bụm hoa báu mà bảo thị giả rằng: Thiện nam tử! Người qua đến núi Kỳ Xà Quật, chỗ của đức Thích Ca Mâu Ni Phật, theo như lời của Ta mà thưa cùng Phật thế này: "Như Lai có được ít bệnh, ít khổ, sức khoẻ an vui, và chúng Bồ Tát cùng Thanh Văn đều an ổn chăng?".
Rồi đem hoa báu này rải trên Phật để cúng dường mà thưa rằng:
"Đức Phật kia cũng muốn mở tháp báu này". Các đức Phật sai người đến cũng như vậy.
Bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật thấy các vị Phật của mình phân thân đều ngồi trên toà sư tử, đều nghe các Phật cùng muốn đồng mở tháp báu, Phật liền từ chỗ ngồi đứng dậy trụ trên hư không, tất cả hàng bốn chúng đều đứng dậy chắp tay một lòng nhìn Phật.
Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng ngón tay hữu mở cửa tháp bảy báu vang ra tiếng lớn, như tháo khoá chốt mở cửa thành lớn.
GIẢNG:
Đến đây,“Phật mở cửa tháp báu", những đức Phật phân thân đó khi đến tụ hội đây rồi, thì "mỗi vị Phật đều sai thị giả đến thăm Phật Thích Ca và đồng muốn mở tháp báu". Tức là mỗi Phật, mỗi Phật đều tựu hội về đây cùng với Phật Thích Ca, đồng muốn mở tháp báu đó! Chỉ cho tâm tâm niệm niệm đều không khác, không còn ngăn cách nữa thì mới mở tháp báu được. Khi Phật Phật đồng muốn mở thì Phật Thích Ca liền từ chỗ ngồi "đứng dậy trụ trên hư không, tất cả bốn chúng cũng đồng đứng dậy chắp tay một lòng nhìn". Bây giờ bắt đầu hồi hộp! Muốn mở tháp báu, Phật Thích Ca cũng phải đứng dậy. Rồi Sao? Lên đứng trên hư không mở, chứ không đứng dưới đất mở được.Đó, quý vị thấy mình cũng như vậy, muốn mở tháp báu thì cũng phải rời mặt đất này, chớ đạp mặt đất này hoài thì mở không được. Nhưng có ai chịu rời mặt đất chưa? Chắc còn tiếc chớ không rời nổi! Nghĩa là, rời mặt đất này sợ hỏng chân không chỗ đứng. Mà bám mặt đất này là bám cái thân sanh diệt thì không mở tháp báu được. Phải dám rời mặt đất này! Buông cái thân sanh diệt này! Bởi vì tháp báu ở trong hư không rồi! Không có chỗ trụ. Muốn mở tháp báu cũng phải không có chỗ trụ, tức là vô trụ thì mới mở được. Tâm mình buông hết chỗ bám, chỗ duyên đi thì mở tháp báu thôi. Chính chỗ này ông Bàng Uẩn đến hỏi Mã Tổ:
-Thế nào là người chẳng cùng muôn pháp làm bạn?
Mã Tổ bảo ông:
-Ông hớp một hớp mà cạn nước Tây Giang, thì ta nói cho!
Ngay đó ông tỏ ngộ liền.
Quý vị thấy, "người mà chẳng cùng muôn pháp làm bạn" tức là sao? Một mình thôi, buông hết mọi duyên. Còn mình bây giờ thích làm bạn. Không bạn với cái này thì bạn với cái kia. Tức luôn luôn có chỗ duyên. Còn "người này" là người không có chỗ duyên nào, thì người đó làm sao nói? Cho nên nói "Ôâng hớp một hớp cạn nước Tây Giang ta nói cho". Làm sao hớp một hớp mà cạn nước Tây Giang? Đã là "không cùng muôn pháp làm bạn", bặt hết chỗ duyên thì ông phải bặt hết chỗ suy nghĩ, ngay đó tôi nói cho ông liền. Ông còn có chỗ suy nghĩ, còn có chỗ duyên, tức là còn có bạn. Ông còn có bạn thì làm sao hiểu chỗ không bạn kia"? Cho nên khi ông nghe như vậy thì ông tỏ ngộ liền.
Chỗ này cũng vậy, "Muốn mở cửa tháp báu" đó, mà "tháp báu đó đang trụ ở hư không", thì Phật Thích Ca cũng phải "rời mặt đất, trụ trên hư không" mà mở tháp báu. Khi "Phật Thích Ca trụ trên hư không để mở" thì bốn chúng cùng đồng đứng dậy chắp tay một lòng nhìn Phật”, tức tất cả đều đồng nhất tâm không để cho xen niệm khác, lúc đó coi như một lòng chăm chăm vào chỗ đó thôi, thì tháp báu đó mới mở được, cũng như mới thấy được Phật Đa Bảo. Khi ấy Phật Thích Ca "Ngài dùng ngón tay hữu mở cửa tháp báu vang ra tiếng lớn", cũng như là "tháo cái khoá chốt", mở cửa thành lớn vậy. Chỗ này quý vị nghe có nghi gì không? Tháp báu đó là tháp lâu đời lâu kiếp rồi, từ Phật Đa Bảo nhập diệt đến đây không biết là bao nhiêu mà tính kể. Ổ khoá đó quý vị thấy nó có sét chưa? Phật Thích Ca sao Ngài mở được dễ dàng vậy? Đưa ngón tay mở là xong. Quý vị đọc qua chữ nghĩa, không thấy được ý sâu này.
Cửa tháp đó đã khoá kín từ muôn kiếp, muôn đời rồi, mà chỉ dùng một ngón tay mở là xong dễ dàng, mà đây mình không nghe Ngài mở cách sao nữa? Nghe nói lấy ngón tay mở mà không biết mở thế nào? Đáng lẽ phải lấy chìa khoá mở, mà đây chỉ cần lấy ngón tay khều nhẹ là xong! Mình nghe nói mở, cố suy nghĩ mở bằng cách nào? Nhưng sự thật "mở mà không mở" gì hết. Nhân duyên khế hợp "một cái khều nhẹ" thì nó mở. Còn mình lo suy nghĩ để mở, thì kín mít, không mở được. Chính chỗ này trong nhà thiền thí dụ như Ngài Câu Chi chỉ thấy Hoà thượng Thiên Long đưa ngón tay lên thì tỏ ngộ liền. Ngộ tức là mở cửa tháp báu chứ gì. Hoặc là như ngài Điểu Khoà ngài chỉ cần đưa sợi lông lên thổi thì Hội Thông tỏ sáng liền, vậy cũng là mở tháp báu rồi. Nghĩa là vô minh vọng tưởng của mình sâu dày từ vô lượng kiếp giống như là tháp báu đóng kín nhiều đời; giờ đây chợt xé tan mây vô minh đó thì pháp thân hiển lộ ngay, cửa tháp mở liền, chứ có gì đâu! Chỗ này không phải là chỗ công phu tạo tác hữu vi mà làm được. Vì công phu tạo tác là sinh diệt, mình cố mở này kia đó là sanh diệt, mà dùng công phu sanh diệt thì không mở được. Đây mở là khế hợp, mình thầm cảm thì nó mở liền.
Cho nên, chỗ này không có nói thời gian. Thoáng cái là mở liền. Cửa tháp mở thì sao? Đều vang ra tiếng, một tiếng vang lớn! Nghĩa là pháp thân hiển lộ thì chấn động cả nội tâm! Gọi là nó bừng mở không ngờ.
Cần nhớ là, muốn "mở cửa tháp báu" thì phải "rời khỏi mặt đất", tức là bao nhiêu những tình chấp của mình nó cố kết từ lâu đời mình phải buông đi. Chớ còn mình bám vào những cái thấy biết dính chặt nơi mặt đất này hoài, thì khó mở được. Đó là điểm mình phải chú ý! Vậy trong đây có ai nghe được tiếng vang từ tháp báu vang ra chưa? Nghe được tiếng vang đó chắc chắn cuộc đời mình chuyển hoá liền! Mà nghe được tiếng vang đó thì suốt đời không quên. Tiếng này vang lớn chấn động cả nội tâm!
Nghe được tiếng vang đó "chốt khoá nó bật mở liền". Chốt này là chốt gì? Chỉ là cái biết này thôi, chớ không gì khác. Chính cái biết này nó khoá chặt mình từ vô lượng kiếp đến nay. Nó khoá mình trong vô lượng kiếp luân hồi sanh tử. Biết mà biết vô minh, biết theo vọng tưởng, biết theo điên đảo thì chính cái biết đó nó dẫn mình đi trong sanh tử từ kiếp này qua kiếp khác, nếu không có cái biết này, như cây đá làm sao dẫn đi được. Rồi bây giờ đây cũng ngay cái biết này bật ra khỏi vô minh liền sáng tỏ. Nếu không có biết này lấy gì sáng tỏ? Nó bật ra khỏi vô minh, thì toàn thân Như Lai Đa Bảo liền lồ lộ đó thôi! Hết chạy trốn đâu, cũng hết còn che giấu được. Thì đó, chốt là ngay chỗ đó, "cái chốt biết". Ngay cái chốt biết này, bật ra được thì thấy toàn thân Phật Đa Bảo liền.
CHÁNH VĂN:
Tức thời, tất cả chúng trong hội đều thấy đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu ngồi toà sư tử, toàn thân không rã như vào cảnh thiền định, lại nghe Phật đó nói: "Hay thay!hay thay! Thích Ca Mâu Ni Phật xướng thích nói kinh Pháp Hoa đó, ta vì nghe kinh đó mà đến cõi này".
GIẢNG:
Giây phút này là giây phút tuyệt vời! Ai có giây phút này là nhớ đời, phải không? Tức là, ngay đây thấy Phật Đa Bảo y nguyên không rã rời, dù cho diệt cả vô lượng kiếp mà còn nguyên đó. Vậy là rõ ràng "diệt mà bất diệt". Chỉ cần một điều: mình nghe đây sao dám cam đảm và sẵn sàng buông chỗ đứng này đi: là hiến dâng cả thân mạng mình đây để cho việc đó là xong, còn tiếc cái này quá thì làm sao thấy được? Vậy là không mất đi đâu hết, thì bây giờ còn tìm ở đâu nữa?
Bây giờ còn thấy mất, còn đi kiếm là bởi vì sao? Bởi vì tâm còn lang thang vậy thôi. Còn lang thang còn đi dạo đầu này đầu kia thì mất thôi. Trái lại gom về đây thì thấy toàn thân Như Lai Đa Bảo hiện tiền chưa từng mất. Cho nên Phật nói là học Pháp Hoa để mở Tri Kiến Phật. Thị Tri Kiến Phật là như vậy đó. Mở cho mình thấy, hiển bày cho mình rõ chân thật nơi mình. Tin nhận được như vậy là được thọ ký rồi!
Vậy người nghe được chỗ này, nghe được tiếng vang đó, nghe được tiếng khen: "Hay thay!Hay thay!" đó là phải nghe sao? Tức, phải nghe sâu tận nơi nguồn tâm, mới nghe được. Còn mình nghe hời hợt trên hai tai này là khó nghe được. Tai nghe qua rồi ra khỏi đây quên mất. Khi nghe được như vậy, thấy được Phật Đa Bảo như vậy, là đầy đủ cái chân nhân: Là cái nhân chân thật để thành Phật, không còn chút gì để nghi ngờ nữa. Trên thế gian này không có gì sánh kịp.
Phật Đa Bảo có phát nguyện: "ở chỗ nào nói kinh này đều hiện đến để nghe", rồi “hiện đến để chứng minh" cho việc nói này nữa. Bây giờ đây, chỗ này cũng đang nói Pháp Hoa thì tại sao Ngài không hiện? Quí vị thấy sao? Ngài phát nguyện rõ ràng mà! Chỉ còn việc là chịu khó "gom hết các hoá thân Phật về" đi thôi, chỉ việc đó là xong.
Lúc đó "Phật Đa Bảo chia nửa toà cho Phật Thích Ca Mâu Ni" mà nói rằng: "Phật Thích Ca Mâu Ni có thể đến ngồi trên toà này". "Tức thời Phật Thích Ca Mâu Ni vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa toà đó".
Giờ đây thì Phật Đa Bảo chia nửa pháp tòa cho Phật Thích Ca, kêu đến để hai vị cùng ngồi trên tháp báu. Quý vị thấy tới đây là sung sướng nhất, ngồi chung toà với Phật Đa Bảo, còn gì nói nữa?
Bởi vì Phật Thích Ca chỉ cho ứng thân. Thường thường, người chưa thấu tột thì thấy ứng thân, pháp thân, báo thân có khác, có sai biệt gọi là ba thân. Đến đây ứng thân, pháp thân vốn không hai, không tách rời nhau. Muốn thấy pháp thân cũng phải ngay nơi ứng thân này mà thấy thôi, không phải rời thân này mà thấy pháp thân được. Bởi vậy kinh Kim Cang nói rõ:
"Nhược kiến Chư tướng, phi tướng tức kiến Như Lai"
Tức là, thấy các tướng chẳng phải tướng thì liền thấy Như Lai. Vậy thấy Như Lai là thấy ở đâu? Ngay nơi các tướng mà liền thấy chẳng phải tướng. Thì cũng vậy, "ngay nơi tướng này mình liền thấy không phải tướng thì liền thấy Phật Đa Bảo". Phật Đa Bảo cũng ngay nơi thân tướng này, thì hai Phật ngồi chung. Mình còn có niệm đây kia, bỏ cái này để thấy Phật Đa Bảo thì không thấy được.Có vị tăng hỏi Triệu Châu:
-Theo lời thầy dạy "khi thế giới này hoại thì tánh này chẳng hoại", vậy thế nào là tánh này?
Ngài Triệu Châu đáp:
-Bốn đại năm uẩn.
Ông tăng liền thưa:
-Cái đó vốn là hoại. Thế nào là tánh này?
-Ngài Triệu Châu xác định lại:
- Bốn đại năm uẩn.
Người thường nghe không thể hiểu nổi. "Tánh này tánh bất hoại", dù cho thế giới này hoại, nhưng nó không hoại. Mọi người nghe như vậy, thì liền nghĩ ngoài thân này có tánh gì không hoại. Nhưng hiểu kiểu đó thì bao giờ thấy được tánh này? Cho nên ngài Triệu Châu nói là: "Bốn đại năm uẩn". Ngay nơi thân năm uẩn này mà thấy được tánh đó thôi, không thể rời thân này mà thấy, chỉ có điều mình phải khéo ngay nơi thân này, thấy thấu qua thân này, chứ không phải bám chấp vào thân này. Như vua Trần Thái Tông nói: "đừng lầm" với tướng "hồng hồng trắng trắng" này, thì thấy được tánh bất hoại đó. Mà thấy được tánh bất hoại đó thì thấy được Phật Thích Ca, Phật Đa Bảo ngồi chung một toà. Vậy thì thấy rõ cái bất diệt nó nằm sẵn ngay cái sanh diệt, chớ không thể bỏ cái sanh diệt này mà tìm chỗ khác.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, hàng tứ chúng thấy đức Phật đã diệt độ vô lượng nghìn muôn ức kiếp về trước nói lời như thế đều khen là việc chưa từng có, đều đem hoa trời báu rải trên đức Phật Đa Bảo và Phật Thích Ca Mâu Ni,
Lúc đó, đức Đa Bảo Phật ở trong tháp báu chia nửa toà cho Thích Ca Mâu Ni Phật mà nói rằng: "Thích Ca Mâu Ni Phật có thể ngồi trên toà này". Tức thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật vào trong tháp báu ngồi xếp bằng trên nửa toà đó.
Bấy giờ, hàng đại chúng thấy hai đức Như Lai ngồi xếp bằng trên toà sư tử trong tháp bảy báu thời đều nghĩ rằng: "Đức Phật ngồi trên cao xa, cúi mong đức Như Lai dùng sức thần thông làm cho bọn chúng con đều được ở trên hư không.
Tức thời đức Thích Ca Mâu Ni Phật dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều ở hư không, rồi dùng tiếng lớn mà khắp bảo đó rằng: "Ai có thể ở trong cõi Ta bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa nay chính phải lúc, Như Lai không bao lâu sẽ vào Niết Bàn, Phật muốn đem kinh Pháp Hoa này phó chúc cho các người".
GIẢNG:
Tức là đại chúng thấy hai đức Phật ngồi xếp bằng trên toà sư tử bảy báu đó, nhưng ngồi trên hư không. Cho nên đại chúng nghĩ rằng: Đức Phật ngồi trên cao, còn đại chúng đang ở dưới đất, mong chờ đức Như Lai dùng sức thần để làm cho mọi người lên hư không. Ngay đó, "Phật Thích Ca mới dùng sức thần thông tiếp hàng đại chúng đều lên hư không" luôn, và ngay đó Phật mới tuyên bố lớn tiếng để bảo hết: "Ai có thể ở trong cõi Ta bà này rộng nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa", thì ngay lúc này là đúng lúc rồi, hãy phát tâm, Như Lai sẵn sàng phó chúc cho người đó. Đây là những giây phút rất đặt biệt. Đại chúng thấy như vậy rồi, nhưng tâm niệm thì chưa rời mặt đất, còn thấy có cách biệt: cách biệt mình với Phật, nên mong Phật tiếp mình lên hư không.
Đó là chỗ rất là vi tế, ở mặt đất là vẫn còn sống với thân tâm sanh diệt này. Biết có Phật đó, hay là thấy có Phật đó, nhưng tập khí lâu đời vẫn còn bám vào thân tâm sanh diệt này chưa quên, cho nên còn ở dưới đất, chưa rời khỏi mặt đất. Nếu lên khỏi mặt đất, là buông khỏi chỗ thân tâm sanh diệt này, để sống trở về với cái gốc xưa đó, cái gốc bất diệt đó mà danh từ chuyên môn của kinh Pháp Hoa gọi là Bản môn. Chính chỗ đó là chỗ quê nhà muôn thưở.
Rồi Phật "tiếp đại chúng lên hư không" phó chúc cho cả, nay là đúng lúc nên nói Pháp Hoa. Tức là buông được chỗ bám này rồi, thì chính lúc đó là lúc đáng nói Pháp Hoa. Mình buông được chỗ bám này đi thì ngay lúc đó là lúc "Phật phó chúc". Như vậy Phật sãn sàng phó chúc cho các người, nhưng không biết ai chịu nhận hay không? Rõ ràng Phật tuyên bố: "Ai có thể trong cõi Ta bà này rộng nói kinh Pháp Hoa, nay chính phải lúc", vậy không phải là bảo riêng cho trong chúng hội, mà bảo chung cho tất cả. Phật sẵn sàng hết rồi, còn đợi một phần nữa là của mình thôi, mình có chịu hay không. Vậy có ai nhận lên khỏi mặt đất chưa?
Đây Phật trùng tuyên lại ý trên.
CHÁNH VĂN:Khi ấy, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Đấng thánh chúa Thế Tôn
Dẫu diệt độ đã lâu
Ở trong tháp báu này
Còn vì pháp mà đến
Các ông lại thế nào
Há chẳng siêng gì pháp?
GIẢNG:Phật Đa Bảo đã diệt độ từ lâu như vậy, còn vì pháp mà hiện đến. Bây giờ mọi người hiện đang sống đây, đang sáng suốt rõ ràng đây, tại sao lại bỏ qua? Vậy có đáng tiếc, đáng trách không? Cho nên Phật nói: "Há chẳng siêng vì pháp sao?". Hãy mau đến!
CHÁNH VĂN:
Phật Đa Bảo diệt độ
Đã vô lượng số kiếp
Nơi nơi đến nghe pháp
Vì khó gặp đặng vậy
Phật kia bổn nguyện rằng
Sau khi ta diệt độ
Nơi nơi tháp ta qua
Thường vì nghe Pháp Hoa
GIẢNG:Đây nói Phật đã diệt từ lâu, nhưng bổn nguyện vẫn luôn luôn là: Ở nơi nào có nói Pháp Hoa thì hiện đến nghe. Nghĩa là, thân tuy diệt mà pháp vẫn không diệt hay là trong cái diệt mà bất diệt. Đó muốn nhắc mình phải biết quý trọng kinh Pháp Hoa này, tức Tri Kiến Phật này là chỗ sống của chư Phật.
CHÁNH VĂN:Lại vô lượng các Phật,
Số nhiều như hằng sa
Của ta phân thân ra
Vì muốn đến nghe pháp
Và cùng để ra mắt
Phật diệt độ Đa Bảo
Nên đều bỏ cõi đẹp
Cùng với chúng đệ tử
Trời, người, rồng, thần thảy
Và các việc cúng dường
Muốn pháp lâu ở đời
Cho nên đến cõi này.
GIẢNG:Đây nói các vị hoá Phật cùng hiện đến để cùng chứng thật cho diệu pháp này. Diệu pháp này chính là Tri Kiến Phật đó. Gom hết các Hoá Phật về diệu pháp này thôi, thì gặp Phật Đa Bảo, chính chỗ đó là chỗ pháp được ở lâu dài nơi đời.
CHÁNH VĂN:Ta vì các Phật ngồi
Dùng sức thần thông lớn
Dời vô lượng trời người
Làm cho nước thanh tịnh
Các đức Phật mỗi mỗi
Đều đến dưới cây báu
Như hoa sen trang nghiêm
Nơi ao báu trong sạch
Dưới mỗi cây báu đó
Có toà báu sư tử
Phật xếp bằng ngồi trên
Sáng suốt rất đẹp đẽ
Như giữa đêm tối tăm
Đốt đuốc lớn lửa sáng
Thân Phật thoảng hương thơm
Bay khắp mười phương cõi
Chúng sanh được hương xông
Vui mừng không kể xiết
Thí như luồng gío lớn
Thổi lay nhánh cây nhỏ
Dùng các phương tiện đó
Làm cho pháp ở lâu.
GIẢNG:
Đây nói rằng Phật Thích Ca vì các Hoá Phật đó mà dời hết trời người" ở đây, làm cho cõi Ta bà thành thanh tịnh. "Các vị Phật đó đều đến cây báu ngồi trên hoa sen, thân tâm đều sáng ngời trang nghiêm thanh tịnh". Tức biến Ta Bà thành tịnh độ,Vậy, mình gom được các Hoá Phật về một chỗ đó thì sẽ thấy Ta bà này sẽ biến thành tịnh độ. Trong khi ở đây, cõi tịnh độ Phật đã biến như vậy, mà tâm mình mê thành ra ở trong đó cũng không thấy được, cho nên "bị dời đi cõi khác". Tâm mê nên ở cõi Ta bà mà nói dời đi cõi khác, chớ không phải dời đi đâu.
Mỗi mỗi Hoá Phật ngồi dưới cây báu, đều trang nghiêm tốt đẹp như là đuốc lớn sáng, thoảng hương thơm. Đóù là niệm niệm đều giác hết. Rồi sao nữa? Rồi "thân Phật toả hương thơm, Thánh vui mừng không kể xiết, giống như luồng gió lớn thổi lay nhánh cây nhỏ," nghĩa là khiến cho tất cả đều phải thuận theo, vui mừng không thể tự kiềm chế được. Nhánh cây nhỏ cũng được thổi lay, cũng được đánh thức, đó là cách làm cho pháp ở lâu nơi đời.
CHÁNH VĂN:
Nói cùng hàng đại chúng
Sau khi ta diệt độ
Ai có thể hộ trì
Đọc nói kinh pháp này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự phát lời thệ.
GIẢNG:
Đó là Phật phó chúc. Sau khi Phật Thích Ca diệt độ, "Ai có thể hộ trì, nay nên tự phát nguyện", ở phần trước đã khai thị, tức là mở bày Tri Kiến Phật rõ rồi, bây giờ thì phải Trì. Hộ trì là phải gìn giữ, sống cho được luôn luôn ở trong đó. Mà muốn gìn giữ thì phải phát tâm kiên cố, giữ vững trước mọi khó khăn. Nên đây nói là: "Nên tự phát lời thệ", tức là có tâm bền bỉ, kiên cố, không thì lâu lâu thấy khó liền nản rồi lui sụt là không trì được Pháp Hoa.
CHÁNH VĂN:Coi Phật Đa Bảo kia
Dầu đã diệt từ lâu
Do bổn thệ nguyện rộng
Mà còn rền tiếng lớn
Đức Đa Bảo Như Lai
Và cùng với thân ta
Nhóm họp các hoá Phật
Phải nên biết ý này.
GIẢNG:
“Phật Đa Bảo diệt từ lâu rồi, do bổn thệ đó mà rền tiếng lớn", tức là, Phật diệt từ lâu, nhưng chỗ nào nói Pháp Hoa liền hiện đến, lớn tiếng tán thán: "Hay thay!" ý nói thân diệt nhưng không để cho Tri Kiến Phật này nó diệt, nó gián đoạn."Đức Đa Bảo Như Lai, và cùng với thân ta nhóm họp các hoá Phật, phải nên biết ý này", Đây là Phật thổ lộ ý sâu kín đó. Cho thấy rõ, không phải là mình hiểu trên hình ảnh thông thường thôi, nó có ý sâu trong đó. Tức là ý này không thể hiểu hời hợt trên chữ nghĩa.
Muốn mở cửa tháp này để thấy được pháp thân, thì phải gom hết tâm niệm đang lang thang trở về một chỗ, mà đây nói rằng "những hoá Phật". Ngài muốn nhắc lại là phải thấu được ý đó.
Hiểu đây rồi, quý vị hiểu qua kinh Di Đà cũng nói lên ý đó, nghĩa là người niệm Phật: "từ một ngày đến bảy ngày, nhất tâm bất loạn", thì "Phật và thánh chúng hiện ra trước". Niệm Phật đến nhất tâm bất loạn là không còn có tâm niệm lang thang nữa thì Phật Di Đà và thánh chúng sẽ hiện ngay trước mặt, khỏi phải tìm qua tới Tây Phương. Cũng hợp với đây thôi, nhất tâm bất loạn là gom về một chỗ chứ gì? Thì thấy Phật Di Đà ngay trước mặt, ở đây thì mở cửa tháp báu thì thấy Phật Đa Bảo.
CHÁNH VĂN:
Các hàng Phật tử thảy
Ai có thể hộ pháp
Nay nên phát nguyện lớn
Khiến pháp ở đời lâu
Có ai hay hộ đặng
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Thời đã là cúng dường
Thích Ca cùng Đa Bảo.
GIẢNG:
Hộ trì được kinh Pháp Hoa này là cúng dường Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo. Vậy cúng dường Phật là sống giữ gìn kinh này. Sống giữ gìn Tri Kiến Phật đó, là cúng dường trên hết trong các thứ cúng dường. Đó gọi là pháp cúng dường.
CHÁNH VĂN:Đức Đa Bảo Phật đây
Ơû trong pháp báu lớn
Thường dạo qua mười phương
Vì để nghe kinh này,
Cũng là để cúng dường
Các hoá Phật đến nhóm
Trang nghiêm rất sáng đẹp
Các thế giới vô lượng
Nếu người nói kinh này
Thời là đã thấy ta
Cùng Đa Bảo Như Lai
Và các vị hoá Phật.
GIẢNG:Đây thuật lại tháp Phật Đa Bảo sẵn sàng hiện lên khắp mười phương, để cúng dường các hoá Phật, cũng như nghe kinh Pháp Hoa này.
Và "Ở trong các thế giới vô lượng đó, nếu người nói kinh này là đã thấy ta", tức là thấy Phật Thích Ca, "Phật Đa Bảo Như Lai cùng các vị hoá Phật". Như vậy hiện nay nhiều chỗ cũng nói kinh này, thì có thấy hay không? Nếu không thấy thì kinh nói dối sao? Cần rõ kinh này là kinh gì, phải là bộ kinh để trên bàn đó không? Hiểu chỗ này thì thông được ý trên.
CHÁNH VĂN:Các thiện nam tử này
Đều nên suy nghĩ kỹ
Đây là việc rất khó
Phải phát nguyện rộng lớn
Bao nhiêu kinh điển khác
Số nhiều như hằng sa
Dẫu nói hết kinh đó
Cũng chưa đủ làm khó
Hoặc đem núi Diệu Cao
Ném để ở phương khác
Cách vô số cõi Phật
Cũng chưa lấy làm khó,
Nếu người dùng ngón chân
Động cõi nước Đại Thiên
Ném xa qua cõi khác
Cũng chưa lấy làm khó
Hoặc đứng trên hữu đảnh
Nói vô lượng kinh khác
Vì để dạy bảo người
Cũng chưa lấy làm khó
Nếu sau lúc Phật diệt
Người ở trong đời ác
Có thể nói kinh này
Đây thời rất là khó.
GIẢNG:
Đây cho thấy chỗ tôn kính của kinh Pháp Hoa này. Người mà đem núi Diệu Cao, tức núi Tu Di mà ném qua cõi khác; rồi dùng ngón chân hất cõi Đại Thiên đó, chuyện đó còn dễ. Còn sau khi Phật diệt độ rồi, nói được kinh này đó là khó. Bởi vì đây kinh này là chỗ sống của Chư Phật, chỗ đó vượt ngoài sức hiểu biết của tình phàm. Cho nên đó là chỗ khó tin mà bây giờ mình nói được, tin được chỗ đó, quả là chuyện lớn chớ không phải thường.
CHÁNH VĂN:Giả sử lại có người
Dùng tay nắm hư không
Để mà khắp dạo đi
Cũng chưa lấy làm khó
Sau khi ta diệt độ
Nếu người tự thọ trì
Hoặc bảo người thọ trì
Đây thời là rất khó
GIẢNG:
Thọ trì là gìn giữ, là mình luôn nhớ không có quên, còn đánh thức thêm cho những người khác nữa. Sống được chỗ này là chỗ rất khó.
CHÁNH VĂN:Hoặc đem cả cõi đất
Để trên móng ngón chân
Bay lên đến Phạm Thiên
Cũng chưa lấy làm khó
Sau khi Phật diệt độ
Người ở trong đời ác
Tạm đọc kinh pháp này
Đây thời mới là khó.
GIẢNG:
Vậy cho thấy rằng thần thông cũng không qua khỏi kinh này; cốt là sống được tri Kiến Phật này là cái gốc thù thắng nhất.
CHÁNH VĂN:Giả sử gặp kiếp thiêu
Gánh mang những cỏ khô
Vào lửa không bị cháy
Cũng chưa lấy làm khó,
Sau khi Phật diệt độ
Nếu người trì kinh này
Vì một người mà nói
Đây thời mới là khó.
Hoặc người trì tám muôn
Bốn nghìn các tạng pháp
Đủ mười hai bộ kinh
Vì người mà diễn nói
Khiến các người nghe pháp
Đều đặng sáu thần thông
Dẫu được như thế đó
Cũng chưa lấy làm khó
Sau khi ta diệt độ
Nghe lãnh kinh điển này
Hỏi nghĩa thú trong kinh
Đây thời mới là khó.
GIẢNG:
Kiếp thiêu, tức là kiếp hoả tai, lửa cháy tan cả quả đất này nữa. Lúc đó mình mang cỏ khô đi trong đó mà không cháy là hi hữu. Phật nói như vậy cũng chưa khó mà "trì kinh này, vì một người mà nói, đây mới là khó hơn", vì đây là sống trở về Tri Kiến Phật, là chỗ hằng hữu sáng ngời không bao giờ hoại. Cái này dù kiếp thiêu cũng không hoại nó được, đó mới là chỗ đặc biệt.
CHÁNH VĂN:Hoặc có người nói pháp
Làm cho nghìn muôn ức
Đến vô lượng vô số
Hằng hà sa chúng sanh
Chứng đặng A La Hán
Đủ sáu phép thần thông
Dẫu có lợi ích đó
ũng chưa phải là khó.
Sau khi ta diệt độ
Nếu người hay phụng trì
Những kinh điển như đây
Đây thời là rất khó.
Ta vì hộ Phật đạo
Ở trong vô lượng cõi
Từ thuở trước đến nay
Rộng nói nhiều các kinh
Mà ở trong kinh đó
Kinh này là bậc nhất
Nếu có người trì được
Thời là trì thân Phật.
GIẢNG:
Đây Phật nói rõ: nói bao nhiêu kinh khác, cũng không khó, mà phụng trì kinh điển này mới là khó. Ngài nói rằng từ thuở trước đến nay, Ngài rộng nói nhiều các kinh, trong các kinh đó kinh này là bậc nhất, nên đây gọi là vua các kinh, trì được đây là trì thân Phật.Chỗ này là chỗ phải thấy ngoài ngôn ngữ văn tự, ngôn ngữ văn tự không thể nói hết được. Cho nên mình đọc ở đây là học cái sống, chớ không phải học cái chết. Những điều này Phật nhấn mạnh là phải trì, trì là giữ gìn sống được trong đó. Còn học chữ nghĩa, dù cho nói được nhiều kinh điển cũng chưa lấy làm khó, bởi vì sao? Trong kinh A Hàm có bài kinh Phật cùng các vị tỳ kheo đến nhà Phước Đức ở trong rừng Trúc tại thành Vương Xá, đêm đó Phật ngủ lại rồi Phật dẫn các vị tỳ kheo đến khu rừng gọi là rừng Thân Thứ, đến đó Phật ngồi dưới gốc cây, Phật nắm lá cây trong tay nói rằng: "lá cây trong tay ta là nhiều hay lá trong rừng nhiều?", các vị tỳ kheo nói: "lá trong tay ít chỉ có một nắm, còn lá trong rừng không thể tính kể hết". Phật nói: "những điều ta nói cho các ông cũng như nắm lá trong tay vậy thôi! Còn những điều ta chứng, ta chưa nói cho các ông cũng như lá trong rừng".
Như vậy, ngài muốn nhắc mình cái gì? Dù cho mình học hết tam tạng kinh điển đi chăng nữa thì cũng chỉ là nắm lá trong tay. Còn lá trong rừng làm sao học đây? Tức là mình phải sống được, thấy được cái gì ngoài chữ nghĩa, ngoài sách vở kia! Bởi những điều đó Phật không nói hết được, phải người chứng mới cảm nhận được thôi.
Cho nên đây Phật nói: có bao nhiêu kinh điển Phật nói đó không khó, bởi bao nhiêu kinh điển đó cũng như nắm lá trong tay thôi. Còn nắm lá trong rừng mới khó. Thấy được lá trong rừng, nhận được lá trong rừng là khó! Lá trong rừng chỉ cho chỗ chứng này.
CHÁNH VĂN:
Các thiện nam tử này
Sau khi ta diệt độ
Ai có thể thọ trì
Và đọc tụng kinh này
Thời nay ở trước Phật
Nên tự nói lời thệ
Kinh pháp đây khó trì
Nếu người tạm trì đó
Thời ta rất vui mừng
Các đức Phật cũng thế
Người nào được như vậy
Các đức Phật thường khen
Đó là rất dõng mãnh
Đó là rất tinh tấn
Gọi là người trì giới
Bực tu hạnh Đầu Đà
Thời chắc sẽ mau đặng
Quả vô thượng Phật đạo.
GIẢNG:
Đây là Phật tán thán, người sống được kinh này, sống được Tri Kiến Phật này, đó là Phật pháp vẫn còn ở thế gian không mất, đó là chánh pháp thường vẫn sáng. Cho nên Phật vui mừng, thấy ai trì được kinh này, sống được kinh này.
CHÁNH VĂN:Có thể ở đời sau
Đọc trì kinh pháp này
Là chân thật Phật tử
Trụ ở bậc thuần thiện
Sau khi Phật diệt độ
Có thể hiểu nghĩa này
Thời là mắt sáng suốt
Của trời người trong đời
Ở trong đời kinh sợ
Hay nói trong chốc lát
Tất cả hàng trời người
Đều nên cúng dường đó.
GIẢNG:
Như vậy, người trì được kinh này Phật nói đó "mới chân thật Phật tử", gọi là mắt sáng trong đời nữa!Tóm lại, đây gọi là "tháp Phật Đa Bảo hiện ra, rồi Phật Thích Ca mở cửa tháp vào ngồi trong đó". Vậy là Phật Đa Bảo hiện trước rõ ràng rồi, đó là pháp thân đã hiển bày. Nhưng còn điều quan trọng nữa là luôn luôn giữ gìn hiện tiền mãi không có mất. Đó là sức sống chân thật, mà Pháp Hoa chân thật ngay chỗ đó, chứ không phải bộ kinh bằng giấy bằng mực này.
Cho nên, Phật ân cần dặn dò mình: phải phát thệ trì kinh. Trì kinh là giữ gìn không để cho nó mất, không để cho gián đoạn. Ở đây nói “Phật Đa Bảo diệt độ từ lâu", là "có mà không hay không biết" giống như diệt độ. Hôm nay nhận ra được, đó là chuyện hy hữu rồi, còn điều thiết yếu nữa là rất trân trọng giữ gìn, đây ý muốn nhắc đến điều đó.
-
13. Phẩm Đề Bà Đạt Đa
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Phật bảo các vị Bồ Tát và hàng trời, bốn chúng: "Ta ở trong vô lượng kiếp về thời quá khứ cầu kinh Pháp Hoa không có lười mỏi. Trong nhiều kiếp thường làm vị quốc vương phát nguyện cầu đạo vô thượng bồ đề, lòng không thối chuyển. Vì muốn đầy đủ sáu pháp ba la mật nên siêng làm việc bố thí lòng không lẫn tiếc, bố thí voi, ngựa, bảy báu, nước, thành, vợ con, tôi tớ, bạn bè, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, thân, thịt, tay, chân, chẳng tiếc thân mạng".Thuở đó, nhân dân trong đời sống lâu vô lượng, vua vì mến pháp nên thôi bỏ ngôi vua, giao việc trị nước cho Thái tử. Đánh trống ra lệnh cầu pháp khắp bốn phương "Ai có thể vì ta nói pháp đại thừa, thời ta sẽ trọn đời cung cấp hầu hạ".
Khi ấy có vị tiên nhân đến thưa cùng vua rằng: "Ta có pháp đại thừa tên là Kinh "Diệu Pháp Liên Hoa", nếu đại vương không trái ý ta, ta sẽ vì đại vương mà tuyên nói".
Vua nghe lời vị tiên nhân nói, vui mừng hớn hở, liền đi theo vị tiên nhân để cung cấp việc cần dùng hoặc hái trái, gánh nước, hoặc lượm củi, nấu ăn cho đến dùng thân mình làm giường ghế, thân tâm không biết mỏi. Thuở đó theo phụng thờ vị tiên nhân trải qua một nghìn năm, vì trọng pháp nên siêng năng cung cấp hầu hạ cho tiên nhơn không thiếu thốn.
Bấy giờ, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Ta nhớ kiếp quá khứ
Vì cầu pháp đại thừa
Dầu làm vị Quốc Vương
Chẳng ham vui ngũ dục
Đánh chuông rao bốn phương
Ai có pháp đại thừa
Nếu vì ta giải nói
Thân sẽ làm tôi tớ
Giờ có tiên Trường thọ
Đến thưa cùng Đại vương
Ta có pháp nhiệm mầu
Trong đời ít có đặng
Nếu có thể tu hành
Ta sẽ vì ông nói.
Khi vua nghe Tiên nói
Sanh lòng rất vui đẹp
Liền đi theo tiên nhân
Cung cấp đồ cần dùng
Lượm củi và rau trái
Theo lời cung kính dâng
Lòng ham pháp đại thừa
Thân tâm không lười mỏi,
Khắp vì các chúng sanh
Siêng cầu pháp mầu lớn.
Cũng không vì thân mình
Cùng với vui ngũ dục
Nên dầu làm vua lớn
Siêng cầu đặng pháp này
Do đó đặng thành Phật
Nay vẫn vì ông nói.
Phật bảo các Tỳ kheo rằng: "Thuở ấy, vua đó chính thời là thân ta, còn tiên nhơn đó nay chính là ông Đề Bà Đạt Đa. Do nhờ ông thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa làm cho ta đầy đủ sáu pháp ba la mật, từ bi hỷ xả, ba mươi hai tướng tốt, tám mươi món đẹp, thân sắc vàng tía, mười trí lực, bốn món vô sở úy, bốn món nhiếp pháp, mười tám pháp bất cộng, thần thông đạo lực, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác rộng độ chúng sanh, tất cả công đức đó đều là nhân thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa cả".
GIẢNG:
Đây qua phẩm Đề Bà Đạt Đa, từ phẩm này tiếp theo mười phẩm là thuộc về phần Ngộ Tri Kiến Phật. Phần Thị Tri Kiến Phật là phẩm Hiện Bảo Tháp thôi. Qua hai phần trước là hai phần "Khai" và "Thị", mở bày rồi tin nhận Tri Kiến Phật xong rồi. Bây giờ là phải sống, sống luôn luôn được sáng tỏ không dứt thì cái vô minh mới sạch hết, tập khí mới trừ được. Cho nên đây là phần "ngộ", làm cho được sáng tỏ luôn luôn. Đâây, Phật nhắc đến duyên xưa của Ngài cầu pháp, có liên hệ đến Đề Bà Đạt Đa. Mà Đề Bà Đạt Đa là phá Phật số một, cũng gọi là Điều Đạt, là tên tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là Thiên Nhiệt hay Thiên Thọ. Thiên Thọ là trời trao cho.Ông Đề Bà Đạt Đa này đã từng xúi vua A Xà Thế thả voi say hại Phật, do sức thần của Phật, Phật lấy năm ngón tay chỉ thì trong năm ngón tay hiện ra sư tử, cho nên voi thấy sư tử là khiếp phục liền, rồi ông còn chia rẽ tăng nữa. Tức là ông muốn thay Phật làm giáo chủ, mà Phật không cho, nên ông mới rủ năm trăm vị tăng đi theo. Sau đó ngài Mục Kiền Liên đến thuyết pháp độ họ trở về, ông tức quá lên núi xô đá để đè Phật, nhưng do sức thần của Sơn thần nên đá cũng không đè được, chỉ có mấy viên đá nát ra làm trúng chân Phật chảy máu chút thôi. Có lần ông để thuốc độc trong mười đầu ngón tay đến lễ Phật, rồi bám vào thân Phật để hại Phật mà cũng không hại được, chính hại lại ông.
Như vậy, ông phá Phật đủ thứ nhưng cuối cùng cũng được Phật thọ ký thành Phật. Để cho mình thấy, đối với người ác cũng được thọ ký thành Phật, thì mình sao không được. Rồi Phật thuật lại, Phật khi xưa cầu Kinh Pháp Hoa làm vị Quốc Vương thực hành bố thí hy sinh cả voi, ngựa, rồi nước, thành, vợ, con, tôi tớ, cho đến đầu, mắt, tủy, óc, từ trong thân cho đến ngoài thân, bố thí hết. Trong thời đó Phật giao nước cho Thái tử trị, rao khắp trong nước: "Ai có pháp đại thừa nói, tôi sẽ cung phụng trọn đời", thì có vị tiên nhân nói với vua rằng: có pháp đại thừa tên là "Diệu Pháp Liên Hoa", nếu ông không trái ý ta thì ta sẽ nói". Vua vì quí trọng Kinh Đại Thừa, theo tiên nhơn cung phụng đủ thứ hết, cho đến dùng thân mình làm giường ngồi . Vậy cuối cùng thì Phật nói vị tiên nhơn đó là Đề Bà Đạt Đa. Còn vị vua đó chính là tiền thân của Phật. "Do ông thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa làm cho ta đầy đủ sáu ba la mật, từ bi hỷ xả, đủ ba mươi hai tướng tốt… cho đến thànhVô thượng Bồ Đề; tất cả công đức đó đều do ông thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa".
Quí vị thấy người hại mình đủ thứ mà nói đó là thiện tri thức, bao nhiêu công đức đều do ông đó được Còn mình bây giờ nói nặng chút là nhớ đời rồi, thấy không muốn ngó rồi. Trong này có hai điểm: Vì cầu Pháp Hoa đức Phật bố thí vợ, con, tôi tớ, bạn bè, đầu, mắt, tủy, não; rồi theo hầu hạ tiên nhân, làm giường ghế nữa mà thân tâm không biết mỏi. Đó là quên mình mà vì pháp. Muốn học Pháp Hoa, nghe Pháp Hoa thật sự mà cứ nhớ tiếc mãi cái ngã hư dối này và những cái ngã sở này nữa, làm sao học cho thấu.
Nghĩa là, muốn học Pháp Hoa, sống được Pháp Hoa phải quên cái ngã này; thì mới học sâu được, mới thấu được Tri Kiến Phật. Cho nên ở đây bố thí, hy sinh từ trong cho tới ngoài; từ trong nội thân cho đến ngoài vật sở hữu.
Rồi, trên đời mà được thọ ký xong, muốn sống cho được lâu bền, muốn trì kinh này không mất, thì phải có tâm kiên cố, vượt qua mọi khó khăn khổ nạn, mới sống được lâu bền. Còn lâu lâu mà thấy có thoái, tâm nản, làm sao sống lâu dài được? Cho nên, ở đây trong nghịch cảnh như vậy mà mình vẫn vượt qua, tâm mới vững vàng; còn cái gì cũng thuận hết, lâu lâu gặp nghịch cảnh chịu không nổi.
Còn thứ hai, tiên nhơn có kinh Pháp Hoa sao không dạy liền mà bắt hầu hạ đủ thứ vậy? Đó là để dẹp lòng kiêu mạn. Ông vua thì lòng kiêu mạn lớn, nên bây giờ bắt thấp xuống hầu hạ đủ thứ vậy đó, để cho tiêu lòng kiêu mạn đó đi, quên mình là vua đi, mới học đạo nổi. Còn học đạo mà cứ nghĩ ta là vua, là cao quí, lâu lâu mình lỡ xúc phạm thì sao?
Đây cũng là nhắc mình muốn học đạo cũng vậy đó, phải thấp mình quên cái ngã này càng nhiều chừng nào thì gần đạo chừng nấy.
Rồi tiên nhân đó, tức tiền thân Đề Bà Đạt Đa, chỗ này quí vị đọc rồi, thấy có nghi không? Đề Bà Đạt Đa hại Phật, tạo tội ngũ nghịch mà tiên nhân này nói: "ta có kinh Diệu Pháp Liên Hoa, ta có thể nói cho ông". Quí vị thấy là thuộc về dạng gì rồi? Hạng ác mà sao có Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Đó là một điểm phải chú ý! Ngài Đề Bà Đạt Đa, thường thường Phật tu Bồ Tát hạnh thì luôn luôn theo phá Phật đủ thứ hết, mỗi một lần phá vậy là mỗi lần tội nặng rồi, người ta tu hành mà tới phá như vậy, tại sao không đọa đi mà gặp hoài? Vậy để thấy rõ, Ngài không phải là thứ thường rồi, thuộc hạng Đại Bồ Tát theo để làm thành cho đức Phật. Nghĩa là dùng các nghịch cảnh đó, luyện cho tâm Bồ Đề Ngài vững, để Ngài sớm thành Vô thượng.
Cho nên đây Phật mới bảo: "đây là thiện tri thức của ta, tất cả công đức thành Phật đó đều do thiện tri thức Đề Bà Đạt Đa hết". Không phải tu hành chỉ cầu thuận thuận thôi! Chính nghịch duyên, nghịch cảnh đó khiến cho tâm đạo mình càng kiên cố, đó là sức mạnh cho mình vươn lên, mình tiến tới. Không phải những cái nghịch đó là chướng làm cho tôi không tu được. Khi mình thấy vậy là tâm còn yếu, với người khéo tu là không có nghịch mà mình chuyển nghịch thành thuận hết. Sở dĩ nghịch đó do mình không khéo thôi! Thấy nghịch tức nó thành chướng, còn mình không thấy nghịch thì lấy gì chướng? Do đó, Kinh Kim Cang cũng từng nói: "Người mà tụng kinh này, bị người khác khinh tiện, chê bai đó", thì do tội nghiệp đời trước đáng lý là đoạ địa ngục, mà đời nay do bị người khinh tiện cho nên tội nghiệp đời trước đáng đọa đó, thì nó sẽ nhẹ, chỉ bị hiện đời thôi. Cái nghiệp đó nó sẽ bị tiêu hết, sớm được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Rồi Phật từng làm tiên nhơn nhẫn nhục, bị vua Ca Lợi chặt tay, chặt chân, cắt lỗ tai… Thì đó là cái nghịch cảnh, những người thường thường đọc tới chỗ này chịu không nổi. Kinh Kim Cang nói rằng: Kinh này đọc, tụng được phước rất là lớn. Được phước lớn đáng lẽ được người tôn trọng, tại sao bị người khinh tiện? Rõ ràng khinh tiện là do tội nghiệp đời trước, đáng lý phải đọa, bây giờ khinh tiện đó chuyển nặng thành nhẹ. Khinh tiện hiện đời thôi rồi nó sẽ tiêu.
Vậy cho thấy rõ ràng: tu hành không phải một bề thuận hết, mà có những cái nghịch. Chính những cái nghịch đó là những cái nó giúp mình vững vàng, tâm kiên cố thêm, tiến lên; chớ không phải thấy nghịch đó, mà cho đó là những cái chướng duyên, thì chán nản, nói tu hành sao cứ gặp chướng hoài? Gặp ma phá hoài? Bởi vậy học qua phẩm Đề Bà Đạt Đa này để cho mình thấy niềm tin vững vàng thêm lên. Rồi đây Phật mới thọ ký cho ông Đề Bà Đạt Đa.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo hàng tứ chúng: "Qua vô lượng kiếp sau, ông Đề Bà Đạt Đa sẽ đặng thành Phật hiệu là Thiên Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện tuệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phụ, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn. Cõi nước đó tên là Thiên Đạo, lúc đó Thiên Vương Phật trụ ở đời hai mươi trung kiếp, rộng vì các chúng sanh mà nói pháp mầu. Hằng hà sa chúng sanh đặng quả A La Hán, vô lượng chúng sanh phát tâm duyên giác, hằng hà sa chúng sanh phát tâm vô thượng đạo, đặng vô sanh nhẫn đến bậc bất thối chuyển.Sau khi đức Thiên Vương Phật nhập Niết Bàn, chánh pháp trụ lại đời hai mươi trung kiếp, toàn thân xá lợi dựng tháp bằng bảy báu, công nghiệp sáu mươi do tuần, ngang dọc bốn mươi do tuần. Các hàng trời, nhân dân đều đem hoa đẹp, hương bột, hương xoa, hương đốt, y phục, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng báu, kỹ nhạc, ca tụng để lễ lạy cúng dường tháp đẹp bằng bảy báu. Vô lượng chúng sanh đặng quả A La Hán, vô lượng chúng sanh ngộ Bích Chi Phật, bất khả tư nghì chúng sanh phát tâm Bồ Đề đến bậc bất thối chuyển".
Đức Phật bảo các Tỳ kheo: Trong đời vị lai, nếu có kẻ thiện nam, người thiện nữ nghe Kinh Diệu Pháp Liên Hoa phẩm Đề Bà Đạt Đa, sanh lòng trong sạch kính tin chẳng sanh nghi lầm, thì chẳng đọa địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, được sanh ở trước các đức Phật trong mười phương, chỗ người đó sanh ra thường được nghe kinh này. Nếu sanh vào cõi nhơn thiên thời hưởng sự vui rất thắng diệu. Nếu sanh ở trước Phật thời từ hoa sen hóa sanh".
GIẢNG:
Đây Phật thọ ký cho Đề Bà Đạt Đa cũng sẽ thành Phật sau này là Thiên Vương, nước tên Thiên Đạo. Cuối cùng, Phật bảo rằng: ở trong đời vị lai ai mà nghe Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Ba Đạt Đa đây sanh lòng tin trong sạch, không nghi lầm thì không đọa các đường ác, thường được sanh trước Phật. Nếu sanh trước Phật thì từ hoa sen hóa sanh. Vậy đó là cho mình thấy một điểm gì nữa?Đó là phá niệm thiện - ác, niệm oán thân. Nghĩa là, người ác như vậy cũng thành Phật, khiến mình quên không còn thấy đây là thiện, đây là ác; người đó là người đáng ghét, đáng bỏ mà tin nhận rằng: Ai ai cũng có đủ Phật tánh hết, có đủ Tri Kiến Phật hết. Tức là ai cũng vậy: cũng có Bộ kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Bộ kinh này không có chữ nghĩa nào chép hết được!
Tin nhận như vậy là đầy đủ hạt giống Phật, đây nói là không có đọa vào con đường ác nữa, mà thường được sanh trước Phật.
Người ác phạm tội nghịch như vậy mà còn được thọ ký, thì mình tin chắc mình cũng có phần, đó là để tiến lên.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, ở hạ phương vị Bồ Tát theo hầu đức Đa Bảo Như Lai tên là Trí Tích bạch với đức Đa Bảo Phật nên trở về bổn quốc, Đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Trí Tích rằng: Thiện nam tử! Chờ giây lát, cõi đây có Bồ Tát tên Văn Thù Sư Lợi có thể cùng ra mắt nhau luận nói pháp mầu rồi sẽ về bổn độ".
GIẢNG:
"Thỉnh Đa Bảo Như Lai trở về bổn quốc", để cho thấy việc đến chứng minh cho kinh pháp Hoa này đã xong rồi! Bây giờ trở về bổn quốc, bổn quốc ở đâu mà trở về? Trí Tích là trí Thủy giác thuộc về Hữu Sư Trí, do chứa nhóm huân tập mà thành, còn Văn Thù là Căn Bản Trí: trí sẵn có nơi chính mình, là Bản giác, còn kia là thuỷ giác do mình mới phát đây.Bởi trí do chứa nhóm huân tập, nên còn thấy có trở về, có hiện ra, nghĩa là còn thứ lớp. Phật Thích Ca lưu lại cùng với ngài Văn Thù, tức cùng trở về hợp với Căn Bản Trí để cho thấy Thủy giác hợp với Bản giác, thì như vậy là "về cũng không có về đâu", cũng trở về Bản giác thôi! Cũng chỗ sẵn đó thôi!
CHÁNH VĂN:
Lúc đó ngài Văn Thù Sư Lợi ngồi hoa sen nghìn cánh lớn như bánh xe, các vị Bồ Tát cùng theo cũng ngồi hoa sen báu, từ nơi cung rồng Ta Kiệt La trong biển lớn tự nhiên vọt lên trụ trong hư không, đến núi Linh Thứu, từ trên hoa sen bước xuống đến chỗ Phật, đầu mặt kính lạy chân hai đức Phật, làm lễ xong qua chỗ Trí Tích cũng hỏi thăm nhau rồi ngồi một phía.Ngài Trí Tích Bồ Tát hỏi Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh số được bao nhiêu?".
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: "Số đó vô lượng không thể tính kể, chẳng phải miệng nói được, chẳng phải tâm lường được, chờ chừng giây lát sẽ tự chứng biết".
Ngài Văn Thù nói chưa dứt lời, liền có vô số Bồ Tát ngồi hoa sen báu từ biển vọt lên đến núi Linh Thứu trụ giữa hư không. Các vị Bồ Tát này đều là của Ngài Văn Thù Sư Lợi hóa độ, đủ hạnh Bồ Tát đều chung luận nói sáu pháp ba la mật. Những vị mà trước kia là Thanh Văn ở giữa hư không nói hạnh Thanh Văn nay đều tu hành "nghĩa không" của đại thừa.
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói với ngài Trí Tích rằng: "Tôi giáo hóa ở nơi biển việc đó như thế".
Lúc ấy, Ngài Trí Tích Bồ Tát nói kệ khen rằng:
Đại trí đức mạnh mẽ
Hóa độ vô lượng chúng
Nay trong hội lớn này
Và tôi đều đã thấy
Diễn nói nghĩa thiệt tướng
Mở bày pháp nhứt thừa
Rộng độ các chúng sanh
Khiến mau thành Bồ đề.
GIẢNG:
Tức là khi Phật nói như vậy, Ngài Văn Thù ngồi hoa sen lớn, cùng với các vị Bồ Tát ở dưới biển, nơi cung rồng Ta Kiệt La vọt lên ở giữa hư không, đến lạy dưới chân hai đức Phật, xong rồi qua chỗ ngài Trí Tích Bồ Tát hỏi thăm nhau, cùng ngồi một phía. Ngài Trí Tích mới hỏi Ngài Văn Thù: "Ngài qua cung rồng hóa độ chúng sanh được bao nhiêu?". Ngài Văn Thù nói: "Vô số không tính kể hết", nói xong thì liền có vô số Bồ Tát cũng từ dưới biển đó vọt lên, các vị này đủ hạnh Bồ Tát hết, tu hành nghĩa "không" của đại thừa. Do đó Ngài Trí Tích mới nói kệ mà khen ngợi.Văn Thù ngồi hoa sen đó là chỉ cho Căn Bản Trí, là trí sẵn có nơi mình. Cái trí đó nó ở trong trần lao mà không nhiễm trần lao; ở trong mê vẫn chẳng mê. Như hoa sen trong bùn mà không nhiễm bùn. Cho nên ngay đây khéo giác lại nó không mất đâu hết. Nếu nó nhiễm thì thuộc về sanh diệt rồi, nó mất rồi.
Nhưng đọc đến chỗ này, quí vị có chỗ gì nghi? Ở trước khi Phật Thích Ca nhóm các hóa Phật về một chỗ thì Ngài biến cõi này thành tịnh độ, dời đất sông, cùng chúng sanh ở đây qua cõi khác hết. Mà đã dời núi, sông, biển cả ra chỗ khác hết rồi, thì đây "Ngài Văn Thù ở biển lớn vọt lên", sao có biển mà vọt lên? Đó để cho thấy rõ: thật ra nói dời mà không dời đi đâu. Do thần lực của Phật, người ở trong đó mà không thấy thôi; không thấy là nói dời đi vậy.
Còn Văn Thù là Đại Trí Tuệ, nên không bị cảnh chuyển, do đó Ngài vẫn ở trong đó mà không có lầm. Nghĩa là ngay nơi nhiễm tức là tịnh rồi, không dời đâu hết, ngài tự tại trong đó không ngăn ngại; nên ở trong đó mà vọt ra, chớ không phải chuyển biến nó đi đâu.
Rồi "qua chỗ Ngài Trí Tích mà hỏi thăm", để chỉ cho hai trí Thủy giác và Bản giác đó thầm hợp nhau. Ngài Trí Tích hỏi Ngài Văn Thù: hóa độ được bao nhiêu? Ngài Văn Thù trả lời là "vô số không tính kể", là trong biển sanh tử này, phiền não không biết bao nhiêu mà kể. Khi được Căn Bản Trí chuyển thì những phiền não đều chuyển thành Bồ Tát, tức đều thành hạnh Phật. Cho nên đây chuyển theo Bồ Tát tu hành. Nghĩa là, niệm niệm đó đều trở về Bản giác.
"Trụ ở trong hư không" đã chuyển rồi thì không còn chỗ bám nữa. Và đây đều tu nghĩa “không” Đại thừa, "không" là không còn chỗ nào để bám, để trụ nữa, là tất cả đều được chuyển, phiền não cũng được chuyển theo . Vậy mình ở đây khéo thấy Ngài Văn Thù, tức là nhận được Căn Bản Trí đó, thì phiền não theo đó mà được chuyển.
CHÁNH VĂN:
Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: "Ta ở biển chỉ thường tuyên nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa".
GIẢNG:
Ngài nói kinh Pháp Hoa thôi, không nói kinh gì khác, tức là ngài chỉ thẳng chỗ chân thật này thôi. Chính đó là chỗ trở về của tất cả, mau thành Bồ đề là cũng từ chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Ngài Trí Tích hỏi ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Kinh này rất sâu vi diệu, là báu trong các kinh, trong đời rất ít có, vậy có chúng sanh nào siêng năng tinh tấn tu hành kinh này mau đặng thành Phật chăng?Ngài Văn Thù Sư Lợi nói: "Có con gái của vua rồng Ta Kiệt La mới tám tuổi mà căn tánh lanh lẹ, có trí huệ, khéo biết các căn tánh hành nghiệp của chúng sanh, đặng pháp tổng trì, các tạng pháp kín rất sâu của các Phật nói đều có thể thọ trì, sâu vào thiền định, rõ thấu các pháp. Trong khoảnh sát na phát tâm Bồ đề đặng bực bất thối chuyển, biện tài vô ngại, thương nhớ chúng sanh như con đỏ, công đức đầy đủ, lòng nghĩ miệng nói pháp nhiệm mầu rộng lớn, từ bi nhơn đức khiêm nhường, ý chí hòa nhã, nàng ấy có thể đến "Bồ đề". Trí Tích Bồ Tát nói rằng: "Tôi thấy đức Thích Ca Như Lai ở trong vô lượng kiếp làm những hạnh khổ khó làm, chứa nhiều công đức để cầu đạo Bồ đề chưa từng có lúc thôi dứt; tôi xem trong cõi tam thiên đại thiên nhẫn đến không có chỗ nhỏ bằng hột cải, mà không phải là chỗ của Bồ Tát bỏ thân mạng để vì lợi ích chúng sanh, vậy sao mới đặng thành đạo Bồ đề. Chẳng tin Long nữ đó ở trong khoảng giây lát chứng thành bậc chánh giác".
GIẢNG:
Ngài Văn Thù cho biết trong cung rồng có con gái Long Vương 8 tuổi, có thể đạt đến Bồ đề, chứng thành Phật. Nhưng Ngài Trí Tích không tin, Ngài nói rằng: "Phật Thích Ca tu hành lâu dài mới thành Phật", Còn Long nữ nói: trong khoảnh khắc thành chánh giác, làm sao tin nổi?Cũng chính chỗ này, ngày xưa Ngài Đức Sơn khi chưa hiểu thiền, Ngài cũng không tin nổi! Ngài là giảng sư Kinh Kim Cang; học theo giáo thì rõ ràng thấy là Phật tu ba vô số kiếp, mới thành Phật được. Mà trong nhà thiền thì nói: "Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật", nên Ngài cũng không tin, Ngài gọi đó là bọn ma. Nhưng khi Ngài tỏ ngộ rồi Ngài mới thấy: đây là lẽ thật! Thì đây cũng vậy Ngài Trí Tích Ngài không tin nổi. Bởi vì Trí Tích là trí mà huân tập; cho nên cũng còn nhìn trên cái thấy thứ lớp, phải từ từ, khó mà ngay đó thành Phật được! Còn nếu nhìn trên thể sẵn có thì vốn thành Phật từ lâu rồi. Thấy được ý đó mới thấy được chỗ này, nói thành đó là thành cái sẵn có thôi chớ có gì đâu mà thành. Chỗ này Ngài Hoàng Bá có lần Ngài dạy: “giả sử người tu hành trải qua ba vô số kiếp, qua hết các địa vị: tức là Thập tín, thập hạnh, thập hồi hướng, thập địa… cùng với người ngay một niệm đây mà chứng được, thì cũng là chứng cái sẵn có vậy thôi! Kỳ thật trên Phật của chính mình cũng không có thêm được một vật gì, xem lại những công phu đã qua đó như việc làm trong mộng.” Nghĩa là mình tu nhọc nhằn như vậy, cũng trở về cái sẵn có thôi, không phải do công phu đó mới được. Cho nên nhanh là nhanh như vậy.
CHÁNH VĂN:
Nói luận chưa xong, lúc đó con gái của Long Vương bỗng hiện ra nơi trước đầu mặt lễ kính Phật rồi đứng một phía nói kệ khen rằng:
Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướng
Dùng tám mươi món tốt
Trời, người đều kính ngưỡng
Long thần thảy cung kính
Tất cả loài chúng sanh
Không ai chẳng tôn phụng
Lại nghe thành Bồ đề
Chỉ Phật nên chứng biết
Tôi nói pháp đại thừa
Độ thoát khổ chúng sanh.Bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất nói với Long nữ rằng: "người nói không bao lâu chứng đặng đạo vô thượng, việc đó khó tin. Vì sao? Vì thân gái nhơ uế chẳng phải là pháp khí, thế nào có thể đặng thành vô thượng chánh giác? Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái còn có năm điều chướng: một, chẳng đặng làm Phạm Thiên Vương; hai, chẳng đặng làm Đế Thích, ba chẳng đặng làm Ma Vương; bốn, chẳng đặng làm Chuyển Luân Thánh Vương; năm, chẳng đặng làm Phật. Thế nào thân gái đặng mau thành Phật?".
Lúc đó Long nữ có một hột châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên đem dâng lên đức Phật, Phật liền nhận lấy. Long nữ nói với Trí Tích Bồ Tát cùng tôn giả Xá Lợi Phất rằng: Tôi hiến châu báu đức Thế Tôn nạp thọ, việc đó có mau chăng?"
Đáp: "Rất mau".
Long nữ nói:
- Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.
Đương lúc đó cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử, đủ hạnh Bồ tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương nam ngồi toà sen báu thành bậc Đẳng chánh giác, đủ ba mươi hai tướng, tám mươi món đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp mầu.
Khi ấy trong cõi Ta bà hàng Bồ tát Thanh văn, Trời, rồng, Bát bộ, nhơn cùng phi nhơn đều xa thấy Long nữ kia thành Phật khắp vì hàng nhơn thiên trong hội đó mà nói pháp, sanh lòng vui mừng đều xa kính lạy, vô lượng chúng sanh nghe pháp tỏ ngộ đặng bậc Bất thối chuyển, vô lượng chúng sanh đặng lãnh lời thọ ký thành Phật, cõi Vô Cấu sáu diệu vang động, cõi Ta bà ba nghìn chúng sanh trụ bậc Bất thối, ba nghìn chúng sanh phát lòng Bồ đề mà đặng lãnh lời thọ ký.
Trí Tích Bồ Tát và Ngài Xá Lợi Phất tất cả trong chúng hội yên lặng mà tin nhận đó.
GIẢNG:
Đang luận như vậy chưa xong, Long nữ liền hiện ra chứng minh cho việc đó không cần phải hý luận nhiều. Ý chỉ việc này là việc chứng thật ngay trước mắt thôi, chớ không còn qua lý luận. Long nữ hiện ra rồi thì nói kệ khen:Thấu rõ tướng tội phước
Khắp soi cả mười phương
Pháp thân tịnh vi diệu
Đủ ba mươi hai tướngTức là thấy rõ pháp thân thấu suốt tướng tội phước. Mình nhìn theo con mắt phân biệt thứ lớp: có tướng tội, tướng phước nên có ngăn ngại; có người nữ người nam. Nữ là tội nhơ nhớp nhiều khó thành Phật. Còn đây thấu qua được tướng tội phước thì pháp thân đó rất là vi diệu rồi. Nghĩa là mình trở lại trước khi khởi niệm đó, thì tội phước nó bám vào đâu, trước khi khởi niệm đó nó có tướng nam, tướng nữ gì? Thấy được chỗ đó thì mới thấy chỗ thành Phật nhanh, còn thấy trên thân tướng liền chướng ngại. Do đó cuối cùng Bà nói: “lại nghe thành Bồ đề, chỉ Phật nên chứng biết”. Chỗ này chỉ người chứng mới biết thôi, không phải chỗ lý luận, lý luận không tới nổi.
Khi Long nữ nói kệ khen vậy, Ngài Xá Lợi Phất cũng không tin. Trước là Ngài Trí Tích không tin, bây giờ Ngài Xá Lợi Phất cũng không tin.
Đây Ngài Xá Lợi Phất tượng trưng cho Trí Thanh Văn, tuy ở trong hội được thọ ký rồi mà tập khí này chưa quên, cho nên cũng khó tin. Thì lúc đó "Long nữ liền có hạt châu đem dâng Phật, Phật liền nhận hạt châu; rồi liền chuyển thân nam, qua thế giới phương Nam ở cõi Vô Cấu thành Phật". Long nữ dâng hạt châu Phật liền nhận đó, là phá niệm thứ lớp. Ngay đó dâng liền nhận, nhanh như chớp vậy thôi! Bởi vì còn thấy tướng nữ tướng nam là còn có chỗ cách biệt, có chỗ chướng ngại. Còn đây quên được tướng nam tướng nữ đó thì mình thành Phật nhanh chóng.
Trong nhà thiền có bà Ni đến hỏi Ngài Sùng Tín:
- Con làm sao được làm tăng?
Sùng Tín hỏi:
- Vậy cô làm ni được bao lâu?
- Có khi nào được làm tăng chăng?
- Hiện nay cô là cái gì?
- Hiện nay là thân ni, ai không biết?
- Ai biết cô?
Bởi vì, bà ni này cứ bám chấp vào tướng nữ, tướng ni đó, cho nên hỏi: muốn làm tăng. Nhưng Ngài Sùng Tín hỏi: Cô làm ni được bao lâu rồi?". Đó là muốn nhắc tướng nữ, tướng nam này là giả tướng. Phải thấy cái gì chân thật kia kìa! Nhưng bà cứ bám: "Tướng ni rõ ràng ai không biết đâu, mà còn hỏi nữa!". Thì Ngài nhấn mạnh trở lại: "Ai biết cô?". Chỗ đó ai mà biết! Cứ lo bám thân nữ này, Ngài biết rõ quá rồi, nữ ai không biết? Nhưng muốn nhấn mạnh: “trong đó cái gì chân thật kia kìa!” Thấy được cái đó thì quên niệm nam nữ.
Bởi vì, ở đây thấy Long nữ: thứ nhất là nữ, thứ hai là rồng; rồng là loài thú, mà mau thành Phật thật là khó tin. Cho nên Ngài Xá Lợi Phất Ngài không tin nổi. Nhưng dùng Trí căn bản Văn Thù đó thì thấy thấu suốt qua tánh tướng. Không mắc kẹt trên tướng này, thì quên được niệm nam-nữ, người-thú; cũng như là sạch cái niệm mau hay chậm nữa, ngay đó thấy thành Phật rõ ràng. Bởi vì thành Phật đây: Phật sẵn có rồi! Ai cũng đều có Tri Kiến Phật, có tánh đó rồi, cái đó có nam nữ gì? Tri Kiến Phật có rồng, rắn gì? Rồng, rắn là trên nghiệp tướng, còn Tri Kiến Phật thì không có rồng rắn; không có nam nữ.
Thấy được chỗ đó mới tin: “Vốn sẵn thành Phật từ lâu rồi!”
Đây Long nữ dâng hạt châu; là trình ra giữa chúng chứng minh rõ ràng. Chỗ đó là chỗ rõ ràng sờ sờ trước mắt thôi! Cho nên trình ra đó thì Phật liền nhận, tức là thầm khế hợp với Phật.
Nhưng người đọc kinh Pháp Hoa nghe nói: "Phật nhận hạt châu thì cũng hiểu theo chữ nghĩa, đặt câu hỏi lại: "Phật nhận, nhưng để ở đâu đây? Nhận rồi để đâu? Nói dâng sự thật không có gì để dâng! Mà nhận cũng không có gì để nhận! Đó là trình bày chân thật của mình thôi! Khế hợp với Phật thì Phật nhận. Chính thấy được chỗ đó là chỗ thành Phật. Cũng ý này, có vị tăng hỏi ngài Triệu Châu:
- Long nữ đích thân dâng Phật, mà chưa biết đem cái gì dâng?
Ông Tăng này nghe chuyện đó còn nghi: Đích thân Long nữ dâng cho Phật mà đem cái gì dâng? Thì ngài Triệu Châu dùng hai tay làm thế dâng vậy thôi! Không trả lời gì hết. Vậy thì dâng cái gì? Chớ nghe nói dâng là tưởng đâu có cái gì dâng. Đó là lầm, Phật cần gì châu ngọc mà dâng. Cho nên dâng Phật, Phật nhận liền thì Long nữ nói: "Lấy sức thần của các ông, xem tôi thành Phật còn nhanh hơn việc đó nữa!". Bởi cái này là cái sẵn có thôi, chớ thành là thành ở đâu? Thì ngay đó: "Chuyển thân biến thành nam tử qua cõi Vô Cấu phương Nam, ngồi tòa sen, liền thành Phật".
Ở trong cõi Ta bà này các vị Bồ Tát, Thanh Văn, trời, rồng đều xa thấy Long nữ kia thành Phật khắp vì hàng nhơn thiên mà nói pháp. Tại sao xa thấy? Đó là để rõ, tuy thấy nhưng cũng còn là việc của người! Tức là việc của Long nữ thôi! nên xa thấy! Mà muốn gần thấy thì phải soi lại nơi chính mình.
Long nữ thành Phật nhanh vậy nhưng cũng phải "Chuyển thân nữ, đủ hạnh Bồ Tát, thành thân nam", để rõ thành Phật, không phải là thành ở thân tướng này! Tức thân tướng nữ đó. Phải quên tướng nữ đó, không phải thành nhanh là ngay tướng nữ đó mà thành. Thành Phật không phải là ở thân nam thân nữ này, mà ở Tri Kiến Phật kia! Phải hiểu được ý đó. Chúng hội, Trí Tích Bồ Tát, Ngài Xá Lợi Phất thấy như vậy rồi, tất cả yên lặng mà tin nhận. Tại sao yên lặng tin nhận? Bởi vì đây là chỗ ngoài ngôn ngữ diễn tả: dù lý luận hay cách mấy cũng không dính dáng gì. Chỉ thầm tin nhận thôi, còn nói tới nói lui cũng trên chữ nghĩa.
Qua phẩm này cho mình thấy rõ trước mắt: không ai là kẻ thù hết. Đề Bà Đạt Đa mà nói là Thiện tri thức của ta, vậy còn ai là kẻ thù? Thông thường theo thế gian "người ác gặp ác, ác phải đọa thôi"; ở đây vượt qua hết, vượt qua những khái niệm về thiện ác, về tội phước, để cho thấy rõ: ác nó cũng không cố định là ác. Chỗ này là chỗ đặc biệt ở trong nhà Phật. Nói người đó ác dữ quá, thôi cho xuống địa ngục đời đời cho rồi, vậy làm sao chuyển cho họ để tiến lên? Giống như họ đã ác rồi, đạp cho họ chết luôn.
Ở đây là “ác nhưng cũng không cố định là ác”, để cho mọi người có niềm tự tin mạnh mẽ mà vươn lên, dù mình nghiệp chướng tội lỗi sâu dày, nhưng còn có cái cơ để mà chuyển hóa vươn lên. Vậy mới là chuyển ác thành thiện, chuyển dữ thành lành được. Vậy người ác cũng không bỏ đi đâu. Ác mà khéo chuyển thì cũng chuyển được, vì nó không cố định.
Bởi ai ai cũng có Phật tánh, có Tri Kiến Phật, do vô minh mê lầm nên tạo nghiệp thôi! Tạo nghiệp là cái mê lầm, cái sau này. Còn Phật tánh là cái sẵn có, cho nên mình khéo chuyển và tin Phật tánh đó thì còn có cơ hội để vươn lên. Bởi vậy trong nhà thiền có kể câu chuyện: một cô gái điếm mà thấy đạo. Tức là cô Ohashi người Nhật, vốn là con một vị thuộc hạ tướng quân. Nhưng ông này qua thời mất địa vị nên bị sa thải, gia đình sa sút cha cô bán cô làm gái điếm. Cô rất thông minh, giỏi văn chương, nghệ thuật. Song nghĩ đến thân phận mình cô chán nản cho nỗi bất hạnh của mình; nên tâm trạng đó nó giày vò dằn vặt cô hoài, có người khách để ý thấy vậy mới bảo cô rằng: cô bệnh là phải, nhưng mà bây giờ muốn chữa lành phải tốn ít nhất là một ngàn lượng vàng. Nhưng, tuy nhiên có lối thoát khỏi nó, nhưng sợ rằng cô không tin thôi! Cô này nghe vậy năn nỉ: "Nếu ông nói thật, tại sao tôi không tin? Xin ông chỉ dạy cho!". Thì người khách giải thích:
- Ở trong toàn thân của cô, không có gì là không do tri giác hoạt động. Tức là có "biết", cái Tri giác đó nó có ông chủ, bất cứ làm việc gì, ngay khi vội vã thì cô hãy nhìn ông chủ bên trong đó: "Cái gì thấy? Cái gì nghe". Nếu cô quán chiếu siêng năng, không lơi lỏng thì Phật tánh của cô nó thình lình xuất hiện thôi! Khi mà cô đạt đến tình trạng này, cô sẽ thấy nó là con đường tắt để giải thoát cảnh giới đau khổ!
Nghe vậy cô mới ghi nhớ vào lòng, rồi cô âm thầm tu quán chiếu, thì thời gian thành ra miên mật, luôn luôn lúc nào cô cũng nhớ vậy. Một hôm, bỗng nhiên trời giông bão lớn sấm sét kinh hồn, cô rất sợ sấm, nên mỗi lần sấm cô thu mình ở dưới mền với đứa tớ gái. Nhưng ngay lúc đó, cô nhớ lại bài học thiền của vị kia nhắc, cô dẹp hết cơn sợ qua một bên. Cô ngồi vùng dậy, vừa lúc đó bất ngờ một lằn sét đánh vào trong thân, sức sét đánh cô té ngửa, ngộp thở luôn; và ngay khi cô vừa thở được trở lại, cô liền tỉnh ngộ!
Cô thấy rằng cái tri giác của mình nó khác thường, không còn là tri giác của ngày thường nữa! Cô rất vui mừng khôn kể. Sau đó cô được người chuộc ra. Và rồi cô tìm đến Thiền Sư Bạch Ẩn trình bày.
Từ đó cô sống thật sâu trong sự tỏ ngộ . Sống mỗi ngày ngộ càng sâu thêm.
Như vậy, để cho thấy, cô gái điếm cũng tỏ ngộ được! Nên không có ai là thiếu. Không phân biệt là nam-nữ hay là nhơ-sạch, hèn-quí gì? Nếu người khéo soi lại ai ai cũng đều có đủ .
Theo ở đây, với phẩm này Đề Bà Đạt Đa là người ác, dữ cũng được thọ ký thành Phật. Rồi Long nữ là loài rồng thú, là người nữ nữa, đứng đầu trong ba độc mà cũng thành Phật nhanh chóng. Để mọi người đầy đủ niềm tin mà vươn lên; không có mặc cảm mình là tội lỗi nhiều, vô minh sâu dày, tu bao giờ thành Phật! Thôi tu chơi chơi, bây giờ làm phước cũng được rồi sau hưởng tiếp. Đó là tâm niệm yếu hèn.
Đây, tin chắc mình đầy đủ Phật tánh, đầy đủ Tri Kiến Phật, có thể vươn lên, nếu mình khéo nhận, khéo chuyển. Do đó sau phẩm này tới bà Kiều Đàm Di là dì của Phật, bà Gia Thâu Đà La nghe như vậy cũng tin mình thành Phật, mới mong được thọ ký.
-
14. Phẩm Trì
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Ngài Dược Vương đại Bồ Tát và Ngài Đại Nhạo Thuyết Bồ Tát Ma Ha Tát cùng chung với quyến thuộc hai muôn vị Bồ Tát đều ở trước Phật nói lời kệ rằng: "Cúi xin đức Thế Tôn chớ lo, sau khi Phật diệt độ chúng con sẽ phụng trì đọc tụng, nói kinh điển này, đời ác sau chúng sanh căn lành càng ít, nhiều kẻ tăng thượng mạn tham lợi dưỡng cúng dường, thêm lớn căn chẳng lành, xa lìa đạo giải thoát, dầu khó có thể giáo hóa chúng con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc tụng kinh này, thọ trì giải nói biên chép, dùng các món cúng dường cho đến chẳng tiếc thân mạng".
GIẢNG:
Trì: tức là vâng giữ, là truyền rộng kinh Pháp Hoa này để không đoạn dứt trên thế gian.Phần trước hiển bày tri kiến Phật như Hiện Bảo Tháp, tức là hiển bày ra tri kiến Phật cho mọi người thấy, và sau đó mọi người tin nhận được tri kiến Phật. Nhưng bây giờ đây tin nhận rồi thì phải giữ gìn, phải luôn luôn giữ làm sao nó không mất, không gián đoạn, thì mới thật sự sống được ở trong tri kiến Phật đó. Như vậy Pháp Hoa mới sáng mãi không dứt ở thế gian này.
Đến đây là hai vị Bồ Tát lớn là Ngài Dược Vương và Ngài Đại Nhạo Thuyết, mới cùng quyến thuộc đứng lên trước Phật mà phát thệ, vì ở trước Phật kêu gọi “giờ đây là đúng lúc rồi, ai thọ trì kinh Pháp Hoa thì hãy phát nguyện”.
Các Ngài nói: “sau khi Phật diệt độ chúng con sẽ phụng trì, đọc tụng nói kinh điển này”.
Dù “đời ác chúng sanh căn lành ít, kẻ tăng thượng mạn nhiều”. Tăng thượng mạn là chưa được mà cho là được, hoặc được ít mà cho là nhiều, rồi “tham lợi dưỡng cúng dường, thêm lớn căn chẳng lành”, tức là các vị đó khó giáo hóa. Nhưng do trì kinh Pháp Hoa nên cũng nhẫn nhục, cả đến không tiếc thân mạng, cho thấy ở đây nghĩa “thọ trì” rất rõ.
Muốn trì kinh này không phải dễ, vì trì kinh Pháp Hoa là giữ gìn tri kiến Phật, mà ở đời ác là đời cách Phật rất xa này, thì chúng sanh nhiều tạp nghiệp, nên họ sẵn sàng lôi cuốn mình vào trong trần, nếu mình không có đạo tâm vững thì dễ bị lôi cuốn theo. Bởi vậy ở đời ác này thọ trì, giữ gìn kinh Pháp Hoa thật là ít có, phải có sức nhẫn lớn, là đối với tất cả các pháp không sanh tâm động niệm, do đó các vị nói:
- “Chúng con sẽ khởi sức nhẫn lớn đọc tụng kinh này”, đó là điểm thứ nhất. Và “không tiếc thân mạng”, đó là điểm thứ hai.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, trong chúng có năm trăm vị A La Hán đã đặng thọ ký đồng bạch Phật rằng: Thế Tôn! Chúng con cũng tự thệ nguyện ở nơi cõi khác rộng nói kinh này".Lại có bậc học và vô học tám nghìn người đã đặng thọ ký đồng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay hướng về phía Phật nó lời thệ rằng: "Thế Tôn! Chúng con cũng sẽ ở cõi khác rộng nói kinh này". Vì sao?
- Vì người trong nước Ta bà nhiều điều tệ ác ôm lòng tăng thượng mạn, công đức cạn mỏng giận hờn, do vậy tâm không chân thật".
GIẢNG:
Ở trên được hai vị đại Bồ Tát cùng với quyến thuộc đứng lên phát thệ nguyện, nhờ các Ngài đứng lên kích khởi mở màn trước, cho nên tiếp theo các vị A La Hán, các vị hữu học và vô học là những vị ở trước đã được Phật thọ ký rồi, thì ở đây cũng đồng hướng về Phật phát nguyện trì kinh. Nhưng Tự thệ nguyện ở cõi khác mà rộng nói kinh này, chớ không dám ở cõi Ta bà này nói, vì các Ngài nói người trong Ta bà nhiều tệ ác, ôm lòng tăng thượng mạn, tâm không chân thật. Các Ngài thấy sức mình không kham nói ở cõi này.Cho thấy rõ, tuy các Ngài đã tin nhận Pháp Hoa rồi, nhưng tập khí yếu kém chưa sạch,vẫn phát nguyện mà phát nguyện qua cõi khác không dám ở cõi này.
Bởi hàng Thanh Văn chưa quên được niệm sai biệt, nên ở ngay đây không trì được mà phải qua cõi khác trì. Đó là chỉ rõ, khi mình tỏ ngộ rồi, nhưng còn phải sống cho được, cho đến khi quên những niệm sai biệt đó thì mới khế hợp thật thể Pháp Hoa, chớ không phải tỏ ngộ rồi là xong.
CHÁNH VĂN:
Khi đó, dì của Phật là Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni cùng chung với bậc "học" và "vô học" Tỳ kheo ni sáu nghìn người, đồng từ chỗ ngồi đứng dậy chấp tay chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời.
Bấy giờ, Thế Tôn bảo Kiều Đàm Di: "Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như Lai, tâm ngươi toan cho rằng ta chẳng nói đến tên ngươi, để thọ ký thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ư?.
Kiều Đàm Di! Ta trước tổng nói tất cả Thanh Văn đều đã được thọ ký, nay ngươi muốn biết thọ ký đó, đời tương lai sau ngươi sẽ ở trong pháp hội của sáu muôn tám nghìn ức đức Phật làm vị đại Pháp Sư và sáu nghìn vị "học" "vô học" Tỳ kheo ni đều làm Pháp sư. Người lần lần đủû đạo hạnh Bồ Tát như thế sẽ đặng thành Phật hiệu là Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Kiều Đàm Di! Đức Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Phật đó và sáu nghìn Bồ Tát tuần tự thọ ký đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác".
GIẢNG:
Đến đây bà dì của Phật là Tỳ kheo ni Đại Ái Đạo cùng quyến thuộc đứng lên khát ngưỡng mong cầu Phật thọ ký. Từ trước đến giờ ở trong hội các vị này chưa ùdám xin Phật thọ ký, vì thấy các vị như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên… là các đệ tử lớn lại là Tỳ kheo, còn mình là thân nữ, mà còn nghĩ đến tướng nữ nên chướng ngại không dám; nhưng khi thấy bà Long nữ mới tám tuổi mà được thành Phật mau chóng, thì bà cũng thấy mình có phần trong đó, tin mình chắc chắn có khả năng thành Phật, do đó mong Phật thọ ký, song không dám nói thẳng, mà chỉ đứng lên chiêm ngưỡng dung nhan của Phật, mắt chẳng tạm rời vậy thôi. Phật thấy vậy biết liền, nên mới bảo: "Cớ chi có sắc buồn mà nhìn Như Lai". Phật liền thọ ký, nghĩa là khi mình có sự cảm thông như vậy rồi, Phật liền biết, mình hợp với Phật và Phật liền thọ ký cho.
CHÁNH VĂN:
Bây giờ, mẹ của La Hầu La là bà Gia Thâu Đà La Tỳ kheo Ni nghĩ rằng: "Thế Tôn ở nơi trong hội thọ ký riêng chẳng nói đến tên tôi". Phật bảo bà Gia Thâu Đà La: "Ngươi ở đời sau trong pháp hội của trăm nghìn muôn ức đức Phật, tu hạnh Bồ Tát, làm vị đại Pháp Sư, lần lần đầy đủ Phật đạo, ở trong cõi Thiện Quốc sẽ đặng thành Phật hiệu là Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, Minh Hạnh Túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn Sư, Phật Thế Tôn. Phật sống lâu vô lượng vô số kiếp.Lúc đó bà Đại Ái Đạo Tỳ Kheo Ni và bà Gia Thâu Đà La, Tỳ kheo ni cùng cả quyến thuộc đều rất vui mừng đặng việc chưa từng có, liền ở trước Phật mà nói kệ rằng:
Đấng Thế Tôn đạo sư
Làm an ổn trời người
Chúng con nghe thọ ký
Lòng an vui đầy đủ.
Các Vị Tỳ kheo ni nói kệ đó rồi bạch Phật rằng: "Chúng con cũng có thể ở cõi nước phương khác rộng tuyên nói kinh này".
GIẢNG:
Bà Tỳ kheo ni Gia Thâu Đà La thấy các vị đều được thọ ký hết, bà cũng mong thọ ký, cho nên nghĩ rằng “sao mà Phật bỏ sót”, ngay đó Phật liền thọ ký. Như vậy đã tin nhận thì liền được thọ ký, nhưng quí vị cũng nên hiểu kỹ hơn, sự thật việc này không phải do Phật thọ ký mới có, mà trọng yếu ở chỗ tự tin nhận, mình tự tin nhận đó mới thành thọ ký. Nghĩa là khi mình tự tin nhận thì cái đó là cái sẵn nơi mình rồi, Phật liền thọ ký cũng như chứng nhận thôi, chớ không phải do thọ ký rồi mới có việc đó.Khi các vị Tỳ kheo ni này được thọ ký hết, các vị mới nói kệ khen Phật, xong rồi các vị cũng phát nguyện trì kinh Pháp Hoa, nhưng cũng phải qua phương khác mà trì không dám ở cõi Ta bà trì.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, đức Thế Tôn nhìn tám mươi muôn ức na do tha vị đại Bồ Tát, các vị Bồ Tát đó đều là bậc bất thối chuyển, chuyển pháp luân bất thối đặng các pháp tổng trì, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật một lòng chấp tay mà nghĩ rằng: "Nếu đức Thế Tôn dạy bảo chúng ta nói kinh này, thời chúng ta sẽ như lời Phật dạy , rộng tuyên nói pháp này". Các vị đó lại nghĩ: "Nay đức Phật yên lặng chẳng thấy dạy bảo, chúng ta phải làm thế nào?".Lúc đó, các vị Bồ Tát kính thuận ý của Phật, và muốn tự thỏa mãn bổn nguyện bèn ở trước Phật nói lớn tiếng mà phát lời thệ rằng: "Thế Tôn! Sau khi Như Lai diệt độ, chúng con đi giáp vòng qua lại khắp mười phương thế giới, hay khiến chúng sanh biên chép kinh này thọ trì, đọc tụng, giải nói nghĩa đó, nghĩ nhớ chơn chánh đúng như pháp mà tu hành, như thế đều là sức oai thần của Phật. Cúi mong đức Thế Tôn ở phương khác xa giữ gìn cho".
GIẢNG:
Đây nói các vị đại Bồ Tát tự phát nguyện thọ trì, ở đây cần chú ý “Phật nhìn tám mươi muôn ức na do tha các vị Bồ Tát”, Phật chỉ nhìn thôi không nói gì hết! Chỉ nhìn thôi là khiến mình với Phật tự tâm thầm cảm thông chớ không có ngôn ngữ lời nói. Các vị Bồ Tát này cũng cảm được, thấy Phật nhìn liền biết, cho nên đứng dậy một lòng chấp tay tự nghĩ, đây mới nghĩ thôi: “nếu được đức Thế Tôn bảo chúng ta nói kinh này, thì chúng ta sẽ như lời Phật mà nhận nói pháp này”. Song đợi Phật bảo nhưng Phật yên lặng không nói gì khiến các vị phải tự phát nguyện, tự nói lên, không đợi bảo, đó mới là sức mạnh lớn, sức tự tin mới vững, lấy sức mạnh đó trì kinh Pháp Hoa này thì chắc chắn thành tựu. Do đó ở đây Phật nhìn mà không bảo để mỗi vị tự phát nguyện, nghĩa là khiến cho mỗi người đầy đủ lòng tự tin chắc chắn, khi mình có lòng tự tin chắc chắn như vậy rồi thì không ai làm gì mình được, vậy là bảo đảm trì kinh Pháp Hoa vững vàng.
CHÁNH VĂN:
Tức thời các vị Bồ Tát đều đồng tiếng mà nói kệ rằng:
Cúi mong Phật chớ lo
Sau khi Phật diệt độ
Trong đời ác ghê sợ
Chúng con sẽ rộng nói
Có những người vô trí
Lời ác mắng rủa thảy
Và dao gậy đánh đập
Chúng con đều phải nhẫn
Tỳ kheo trong đời ác
Trí tà lòng dua vạy
Chưa được nói đã được
Lòng ngã mạn dẫy đầy
Hoặc người mặc áo nạp
Lặng lẽ ở chỗ vắng
Tự nói tu chơn đạo
Khinh rẻ trong nhân gian
Vì ham ưa danh lợi
Nói pháp cho bạch y
Được người đời cung kính
Như lục thông La Hán
Người đó ôm lòng ác
Thường nghĩ việc thế tục
Giả danh "A luyện nhã"
Ưa nói lỗi chúng conMà nói như thế này:
Các bọn Tỳ kheo này
Vì lòng ham lợi dưỡng
Nói luận nghĩa ngoại đạo
Tự làm kinh điển đó
Dối lầm người trong đời
Vì muốn cầu danh tiếng
Mà giải nói kinh đó.
Thường ở trong đại chúng
Vì muốn phá chúng con
Đến Quốc Vương, quan lớn
Bà la môn, cư sĩ
Và chúng Tỳ kheo khác
Chê bai nói xấu con
Đó là người tà kiến
Nói luận nghĩa ngoại đạo
Chúng con vì kính Phật
Đều nhẫn các ác đó.Bị người đó khinh rằng:
Các người đều là Phật
Lời khinh mạn dường ấy
Đều sẽ nhẫn thọ đó.
Trong đời ác kiếp trược
Nhiều các sự sợ sệt
Quỷ dữ nhập thân kia
Mắng rủa hủy nhục con
Chúng con kính tin Phật
Sẽ mặt giáp nhẫn nhục
Vì để nói kinh này
Nên nhẫn các việc khó,
Con chẳng mến thân mạng
Chỉ tiếc đạo Vô thượng.
Chúng con ở đời sau
Hộ trì lời Phật dặn
Thế Tôn tự nên biết
Tỳ kheo ác đời trược
Chẳng biết Phật phương tiện
Tùy cơ nghi nói pháp
Châu mày nói lời ác
Luôn luôn bị xua đuổi
Các điều ác như thế
Nhớ lời Phật dặn bảo
Đều sẽ nhẫn việc đó.
Các thành ấp xóm làng
Kia có người cầu pháp
Con đều đến chỗ đó
Nói pháp của Phật dặn.
Con là sứ của Phật
Ở trong chúng không sợ
Con sẽ khéo nói pháp
Xin Phật an lòng ở
Con ở trước Thế Tôn
Mười phương Phật đến nhóm
Phát lời thệ như thế
Phật tự rõ lòng con.
GIẢNG:
Rồi có những vị sau này cũng tu hành mặc áo nạp, ở chỗ vắng nhưng không phải thật, còn ham danh lợi, ưa nói lỗi, những người đó chê bai trở lại các Ngài thì các Ngài cũng phải nhẫn đối với những người đó. Đây có chỗ sống chân thật rồi thì không có lo, còn nghe họ bảo mình giả, mình dao động thì không phải thứ thiệt, biết mình không giả họ nói giả cũng đâu thành giả mà lo! Cho đến quốc vương, quan lớn, Bà la môn, cư sĩ..Họ nói mình tà kiến mình cũng nhẫn hết. Họ bảo tà kiến mình không có tà kiến thì thôi, khỏi bận lòng. Rồi:“Bị người đó khinh rằng
Các người đều là Phật”
Giống như là mỉa: “Các ông là Phật hết” thì mình cũng nhẫn luôn, nếu mình thật sự hiểu được việc này thì họ nói các ông đều là Phật, thì mình nói: "À các ông cũng là Phật thôi, tôi Phật, ông cũng Phật, ai cũng là có Phật tánh hết”, cười thôi không có sao.
Lời khinh mạn dường ấy
Đều sẽ nhẫn thọ đó
Trong đời ác kiếp-trược
Nhiều các sự sợ sệt
Quỷ dữ nhập thân kia
Mắng rủa huỷ nhục con
Chúng con kính tin Phật
Sẽ mặc giáp nhẫn nhục
Vì để nói kinh này
Nên nhẫn các việc khó,
Con chẳng mến thân mạng
Chỉ tiếc đạo Vô thượng.Tức là có những lúc gặp những loài quỷ nhập vào thân người khác, nó chê bai mình, nhưng mình cũng phải nhẫn, còn nếu mình giận tức là rơi vào bẫy của họ, bởi họ mắng họ sỉ nhục mình, họ chọc cho mình tức, để giận, nhưng mình không tức không giận, thì đó là mình thắng, nghĩa là luôn luôn sống trong đạo vô thượng đó là trên hết, ngoài ra thì không đáng kể.
Chúng con ở đời sau
Hộ trì lời Phật dặn
Thế Tôn tự nên biết
Tỳ-kheo ác đời trược
Chẳng biết Phật phương tiện
Tùy cơ nghi nói Pháp
Chau mày nói lời ác
Luôn luôn bị xua đuổi
Xa rời nơi chùa tháp
Các điều ác như thế
Nhớ lời Phật dặn bảo
Đều sẽ nhẫn việc đó
Đâây là chỗ Thế Tôn tự cảm thông, tự biết, những điều này Thế Tôn biết với mình thôi, bởi vì nó khó nói, khó bày cho nên những Tỳ-kheo ác đời trược kia không biết được phương tiện của Phật, tùy cơ nghi nói pháp có khi họ chau mày, nói lời ác, họ chê bai, xua đuổi mình, thì mình cũng phải thông cảm với họ. Thí dụ như mình nói ai ai cũng đều có Phật tánh hết, mình tin nhận tri kiến Phật ngay đây mình đầy đủ. Cho nên trong nhà thiền gọi là kiến tánh thành Phật, thấy tánh thì thành Phật, có người không hiểu được, nói Phật tu hành, muốn thành Phật là trải qua ba vô số kiếp, tu các đạo Bồ Tát mới thành Phật, bây giờ nói kiến tánh thành Phật, tin nhận Phật tánh thì liền được thọ ký, nói như vậy là nói sai với lời Phật dạy, thì mình biết rằng họ chưa hiểu được hết ý của Phật, mình cũng phải nhẫn chớ không phải lo cãi với họ, bởi vì sao? Nói tu phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật, phải biết đó là phương tiện của Phật. Muốn nói rằng sự tu hành thành Phật trải qua thời gian không nhất định, người tinh tấn thì nhanh, người không tinh tấn thì chậm không cố định thời gian. Kiến tánh thành Phật là ngay đây thấy tánh tức là đầy đủ cái nhân thành Phật, rồi sống được trọn vẹn với tự tánh thì thành Phật vậy thôi.
Các thành ấp xóm làng
Kia có người cầu Pháp
Con đều đến chỗ đó
Nói Pháp của Phật dặn
Con là sứ của Phật
Ở trong chúng không sợ
Con sẽ khéo nói Pháp
Xin Phật an lòng ở
Con ở trước Thế Tôn
Mười phương Phật đến nhóm
Phát lời thệ như thế
Phật tự rõ lòng con
Trong thành ấp xóm làng có người đến cầu Pháp, các Ngài sẵn sàng nói Pháp cho họ, nguyện Phật an lòng đừng có lo. Đây các Ngài một lòng tin chắc chắn không nghi ngờ nên phát ra lời nói mạnh mẽ, quyết định, không có do dự. Trí đó tự phát nguyện rồi thì ở trong cảnh nghịch duyên vẫn giữ vững tri kiến Phật , trì kinh Pháp Hoa không xen gì khác. Phần này,Thiền Sư Minh Chánh của Việt Nam có nói hai câu:Bồ Tát trì kinh nào có tướng
Pháp nhẫn vô sanh trì khéo trì
Nghĩa là Bồ Tát trì kinh này không thấy có tướng nào khác, trì mà không thấy có tướng trì, luôn luôn sống trong pháp nhẫn vô sanh thôi. Pháp nhẫn vô sanh tức là sao? Nghĩa là đối với các pháp mình giữ vững vô tâm, không ở trên các Pháp mà sanh khởi tướng khác, không có động niệm, đó là chỗ Bồ Tát trì kinh. Được như vậy thì ở đâu, chỗ nào mình cũng giữ gìn kinh Pháp Hoa không sợ sệt.
-
15. Phẩm An lạc hạnh
Phẩm An Lạc Hạnh là hạnh an vui, ở đây dạy cách thức để an trụ trong đó, để sống mà trì kinh Pháp Hoa, khiến cho mình không ngăn ngại, gồm có bốn hạnh.
- Hành xứ
- Thân cận xứ
- Thâm tâm
- Đại bi tâm
Hành xứ: là chỗ thực hành, sống trong đó, thì được an lạc.
Thân cận xứ: là chỗ gần gũi như thế nào.
Thâm tâm: là tâm tin sâu vững Phật đạo không thối chuyển.
Đại bi tâm: có lòng từ bi lớn.CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Đại Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Các vị Bồ Tát này rất là ít có, vì kính thuận Phật nên phát thệ nguyện lớn: ở nơi đời ác sau, hộ trì đọc nói kinh Pháp Hoa này. Thế Tôn! Các vị đại Bồ Tát ở đời ác sau, thế nào mà có thể nói kinh này?".
Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: " Nếu vị Bồ Tát ở đời sau muốn nói kinh này phải an trụ trong bốn pháp:
Một, an trụ nơi "hành xứ" và nơi "thân cận xứ" của Bồ Tát, thời có thể vì chúng sanh mà diễn nói kinh này. Văn Thù Sư Lợi! Thế nào gọi là chỗ "hành xứ" của Đại Bồ Tát? Nếu vị Đại Bồ Tát an trụ trong nhẫn nhục hoà dịu khéo thuận mà không vụt chạc, lòng cũng chẳng kinh sợ, lại ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các Pháp, cũng chẳng vin theo, chẳng phân biệt, đó gọi là chỗ "hành xứ" của Bồ Tát.
GIẢNG:
Bởi vì ở trước các vị Bồ Tát đứng lên phát nguyện trì kinh, cho nên đây Ngài Văn Thù tán thán các vị đó rất ít có, nghĩa là ở nơi cõi Ta bà này dù gặp những cảnh nghịch duyên nhưng các Ngài dám thệ nguyện thọ trì để giữ gìn kinh Pháp Hoa luôn luôn có mặt trong thế gian này không đoạn dứt. Song muốn thọ trì như vậy phải có cách gì, sống làm sao để giữ gìn được? Do đó Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi, thỉnh Phật dạy cho cách thức phương tiện an trụ trong đó mà giữ gìn Pháp Hoa, và trước tiên là phải lấy trí tuệ đi đầu, nên Ngài Văn Thù đứng lên thưa hỏi.
Đây Phật dạy phải an trụ trong "hành xứ", và "thân cận xứ".
"Hành xứ" là sao?
Thứ nhất an trụ trong pháp nhẫn, tâm luôn luôn hòa dịu, khéo thuận với tất cả, không có chống trái, không có nghịch. Muốn vậy phải quên cái ta này, bởi vì có "ta" thì có chống trái liền, còn không "ta" lấy ai chống trái ?
Thứ hai là không vụt chạc, không kinh sợ, luôn luôn trầm tĩnh trước mọi cảnh duyên, chớ không phải gặp cảnh nghịch chướng là mình mất bình tĩnh thì không trì nổi Pháp Hoa.
Thí dụ đang giảng kinh, gặp duyên nghịch liền nổi sân lên, đang giảng kinh nổi sân lên là mất tự chủ thì kinh cũng hết linh luôn. Điểm nữa là ở nơi pháp không phân biệt mà quán tướng như thật của các pháp. Tướng như thật của các Pháp là tướng "KHÔNG", không tướng, tức là đối với tất cả Pháp mình lìa niệm phân biệt, đây kia, hơn thua, phải quấy, cao thấp. Ngay đó tâm mình tự như như, đó trì Pháp Hoa dễ dàng. Thường mình đổ lỗi các Pháp nó quấy rối mình, các Pháp nó chướng ngại mình, đây quán kỹ các Pháp như thật, phải thấy do mình sanh tâm phân biệt thôi chớ không phải Pháp nó chướng mình.
Thí dụ cái bàn này nó đâu nói nó đẹp, xấu hay là có, là không gì, do mình xen tâm phân biệt vào đó mới nói đẹp xấu liền thành chướng. Có niệm phân biệt liền thấy có Pháp sanh, thấy có Pháp sanh thì cố diệt nó, là có Pháp diệt, vẫn y nguyên trong tướng sanh diệt thôi. Còn đây thấy rõ cái bàn là cái bàn không xen cái tôi vào trong đó, không có tôi phân biệt thì có chướng ngại gì đâu.
Trong nhà Thiền có vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu: "Khi muôn cảnh cùng một lúc dấy lên thì thế nào?" Có cái khởi trước có cái khởi sau thì mình đối phó kịp, giờ khởi một lúc thì làm sao đây? Triệu Châu đáp: "Muôn cảnh cùng lúc dấy lên". Sư lập lại vậy thôi chớ không đáp gì hết.
Thì ông tăng hỏi thêm:
- Khi một hỏi, một đáp là dấy lên, thế nào là chẳng dấy lên?
Sư đáp:
- "Giường thiền là chẳng dấy lên".
Hiểu được chỗ này mình thấy ý nghĩa rõ ràng. Muôn cảnh cùng lúc dấy lên, thì để nó tự dấy lên mình không xen vào trong đó vấn đề gì. Cho nên Sư đáp "Thì muôn cảnh cùng lúc dấy lên" vậy thôi, đơn giản, nó dấy lên thì dấy lên không xen cái tôi vào trong đó, thì không có gì chướng ngại hết. Cũng như cái giường thiền, tự nó là giường thiền thôi, nó có nói là tôi dấy lên hay chẳng dấy lên gì, mà tự mình chen ý mình vào trong đó, bảo là cái giường dấy lên trong tôi, rồi cố diệt nó thì sanh chuyện. Cho nên ở đây quán sát kỹ tướng như thật của các Pháp, nó vốn là cái tướng không thôi, không sanh tâm phân biệt trong đó thì tâm tự an nhiên, như như. Đó là chỗ "hành xứ" của Bồ Tát, mà muốn như vậy phải có trí tuệ dẫn đường.
CHÁNH VĂN:
Thế nào gọi là chỗ "thân cận" của đại Bồ Tát? Vị đại Bồ Tát chẳng gần gũi Quốc vương, Vương tử, Đại thần, Quan trưởng, chẳng gần gũi các ngoại-đạo, phạm-chí, ni kiền tử,… và chẳng gần những kẻ viết sách thế tục ca ngâm; sách ngoại đạo cùng với phái "lộ-già-da-đà", phái "nghịch-lộ-già-da-đà", cũng chẳng gần gũi những kẻ chơi hung hiểm đâm nhau, đánh nhau, và bọn na la… bày các cuộc chơi biến hiện.
Lại chẳng gần gũi bọn hàng thịt và kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, săn bắn, chài lưới, hạng người sống với nghề ác, những người như thế hoặc có lúc lại đến thời Bồ Tát vì nói Pháp không có lòng mong cầu.
GIẢNG:
Đây là chỗ gần gũi, nghĩa là phải gần gũi người nào, và không nên gần gũi người nào, thì đây không nên gần gũi vị Quốc Vương, Vương Tử, Đại Thần, Quan Trưởng… Đó là để ngừa những niệm dính vào trong hạng quyền thế, danh lợi. Có khi gần gũi đó sẽ gặp những duyên chướng ngăn cho mình.Thí dụ thời Nam Tống Trung Quốc có Thiền sư Đạo Duyệt là vị Thiền sư đạt đạo có đạo lực rất lớn, trụ trì chùa Kim Sơn, Giang Thiên, thuộc Trấn Giang. Sư rất được ông Nhạc Phi tôn kính, nên thường tới lui hỏi đạo. Khi Nhạc Phi bị Tần Cối giả chiếu vua, dùng 12 đạo kim bài gọi về, để hại ông, trên đường đi về ông ngang qua chùa. Thiền sư Đạo Duyệt khuyên ông nên xuất gia không thì chuyến này về ông sẽ chết. Nhưng Nhạc Phi quyết giữ tâm trung, ông coi như là lệnh vua kêu về thì về, khi sắp từ biệt nhau ông xin Thiền Sư Đạo Duyệt khai thị cho ít lời, Sư mới nói bài kệ:
Tuế để bất túc
Cẩn phòng Thiên khốc
Phụng hạ lưỡng điểm
Tương nhân hại độc
***
Cuối năm chẳng đủ
Ngăn ngừa trời khóc
Dưới phụng hai chấm
Đem người hại độc.
Bài kệ như lời sấm báo trước, song lúc đó Nhạc Phi chưa hiểu được ý gì. Khi ông về đến kinh, bị Tần Cối vu hãm, bắt nhốt vào trong ngục. Tháng 12 năm đó là tháng thiếu, chiều hôm đó trời đổ mưa, khi nghe tiếng mưa rơi ngoài ngục đó, Nhạc Phi biết đại nạn sắp tới rồi. Bởi vì ứng lời kệ rõ ràng; "cuối năm chẳng đủ, ngăn ngừa trời khóc" rồi "dưới phụng hai chấm", đây nói theo chữ Hán, dưới chữ phụng hai chấm là chữ Tần, chỉ cho Tần Cối, "đem người hại độc", tức là sẽ bị Tần Cối hại. Quả nhiên hôm đó ông Nhạc Phi bị Tần Cối hại tại Phong Ba Đình. Khi Tần Cối hại xong Nhạc Phi, thì ông tra vấn hỏi xem lúc Nhạc Phi chết có nói gì không? Có người bảo rằng: Trước khi chết Nhạc Phi nói:"Ăn năn chẳng nghe lời Thiền Sư Đạo Duyệt, khuyên ở Kim Sơn". Tần Cối nghe như vậy, liền sai Hà Lập mang binh đến chùa Kim Sơn để giết luôn, nhưng Thiền sư Đạo Duyệt biết trước rồi, trước đó một ngày Sư nhóm chúng, nói Pháp xong liền nói bốn câu kệ:Hà lập tự nam lai
Ngã vãng Tây phương tẩu
Bất thị Pháp lực đại
Cơ hồ lạc tha thủ.
Tức là:
Hà lập từ nam đến
Ta chạy về Tây Phương
Chẳng phải pháp lực lớn
Hẳn rơi vào tay người.Sư nói rằng Hà Lập từ phương Nam đến, còn ta thì chạy về phương Tây, nếu mà ta không có pháp lực lớn thì rơi vào tay người khác, nói xong, Sư liền tịch. Nhưng chúng cũng chưa hiểu hết. Sau đó Hà Lập dẫn binh tới thì mọi người mới rõ. Đó là điểm để mình thấy Sư có thân cận với các vị quan, nhưng đây không phải cố ý thân cận, do đạo lực của Sư cảm ông Nhạc Phi tôn kính gần gũi mà cũng bị liên lụy, cho nên Phật dạy phải tránh thân cận là như vậy. Không gần gũi ngoại đạo, phạm chí, ni-kiền-tử là những người thuộc về tà kiến, mình gần gũi đó nó chướng ngại chánh tri kiến của mình, nếu mình còn sức yếu. Không gần gũi hạng ngoại đạo "lộ già da đà" là thuận thế ngoại đạo. Còn nghịch lộ-già-da-đà là nghịch thế, rồi những người chơi hung hiểm, đâm nhau, chém nhau, đó là thuộc về gần người ác, rồi những bọn hàng thịt nuôi heo dê gà chó, gần nghiệp sát, mình phải tránh, để ngừa sanh lỗi lầm. Còn những người như na la, là những kẻ múa hát, bày những trò chơi biến hiện này kia, gần đó thì nó làm rối tâm mình, cho nên không gần.
CHÁNH VĂN:
Lại chẳng gần gũi những Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hạng người cầu quả Thanh Văn.
GIẢNG:
Những người cầu Thanh Văn cũng không nên gần gũi sợ nhiễm những tập khí Thanh Văn mà chướng ngại chí nguyện lớn của mình, tức là chí nguyện Đại thừa.
CHÁNH VĂN:Hoặc ở trong phòng hoặc chỗ kinh hành, hoặc ở trong giảng đường chẳng cùng ở chung, hoặc có lúc những người đó lại đến, Bồ Tát theo cơ nghi nói Pháp không lòng mong cầu.
GIẢNG:
Ở đây Phật dạy không gần gũi chớ không phải cự tuyệt người ta, nhưng khi người đó đến, mình cũng tùy theo cơ duyên mà nói pháp cho họ, chỉ có điều không lòng mong cầu, không phải nói Pháp mong cầu lợi dưỡng, được danh vọng được cúng dường thế này thế kia, chỉ thuận theo Pháp mà nói thôi.
CHÁNH VĂN:
Văn Thù Sư Lợi! Lại vị đại Bồ Tát chẳng nên ở nơi thân người nữ cho là tướng có thể sanh tư tưởng dục nhiễm mà vì nói Pháp, cũng chẳng ưa thấy. Nếu vào nhà người chẳng cùng với gái nhỏ, gái trinh, gái góa v.v… chung nói chuyện, cũng lại chẳng gần năm giống người bất nam để làm thân hậu.Chẳng riêng mình vào nhà người, nếu lúc có nhơn duyên cần riêng mình vào thời chuyên lòng niệm Phật.
Nếu vì người nữ nói Pháp thời chẳng hở răng cười, chẳng bày hông, ngực, nhẫn đến vì pháp mà còn chẳng thân hậu, huống lại là việc khác.
GIẢNG:
Đây là để tránh lỗi lầm khiến tập khí dục nhiễm sanh khởi, cũng như tránh những duyên đưa đến phiền phức, nếu đạo lực còn yếu kém, không làm chủ được nó sẽ làm rối tâm, bởi vì gần chỗ này nó sẽ sanh nghi kỵ.Có một vị Thiền Sư hiệu Đoan Sư Tử được ông quan là Tiền Mục Phụ thỉnh đến nhà dự trai, sáng sớm hôm đó Ngài Đoan Sư Tử một mình đi đến, giữa đường gặp trời mưa, Ngài phải đến tránh mưa trong nhà bên cạnh. Trong nhà có người vợ trẻ trong gia đình, thấy vậy bước ra tiếp đón Ngài mời vào, giây lát thì người chồng về đến, anh thấy vậy sanh nghi, bèn mắng nhiếc Ngài Đoan Sư Tử, bắt luôn Ngài tố với quan. Ông Mục Phụ lúc đó chờ hoài không thấy, nên ông sai sứ đến mời, thì sứ gặp Ngài hỏi nguyên do, Ngài đáp rằng: "thôi phiền ông, nhắn lại với Ngài Tiền Công, hôm nay đi dự trai tăng dọc đường bị phao gian, hãy mời Tiền Công ăn cơm một mình đi". Khi ông Mục Phụ nghe nhắc lại như vậy, ông cười nói với những người khách chung quanh: "vị Tăng đó không đáng nghi chút nào". Cho thấy, vì tránh mưa thôi, nhưng bị sanh lòng nghi kỵ. Do đó Phật dạy phải tránh để ngăn ngừa lỗi lầm có thể xảy ra.
CHÁNH VĂN:
Chẳng ưa nuôi đệ tử Sa di ít tuổi và các trẻ nhỏ cũng chẳng ưa cùng chúng nó đồng một thầy. Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng, thu nhiếp tâm mình.
GIẢNG:
Nuôi Sa di đệ tử ít tuổi, trẻ nhỏ, nó quấy rầy làm phiền phức, cùng nó đồng thầy thì nó khinh lờn: "Ông đồng thầy với tôi". Thường ưa ngồi thiền ở chỗ vắng vẻ nhiếp tâm tu hành, lìa các vọng duyên. Đó là giúp mình giữ gìn trì kinh Pháp Hoa, không sanh những duyên phiền phức.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, vị đại Bồ Tát quán sát "Nhất Thiết Pháp không, như thiệt tướng" chẳng điên đảo, chẳng động, chẳng thối, chẳng chuyển, như hư không, không có thật tánh, tất cả lời nói phô dứt, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, không danh, không tướng, thiệt không chỗ có, không lường, không ngằn, không ngại, không chướng. Chỉ do nhơn duyên mà có, từ điên đảo mà sanh cho nên nói, thường ưa quán sát pháp tướng như thế đó gọi là "chỗ thân cận" thứ hai của vị Đại Bồ Tát.
GIẢNG:
Đây là thứ hai thuộc về quán, quán tất cả pháp không, đúng như thật tướng của nó. Không điên đảo, không động, không thối, không chuyểnv.v…, tức là chỗ thứ hai này phải có trí tuệ. Rồi quán các pháp xưa nay vốn lặng lẽ, lìa mọi niệm đối đãi. Bởi do mình sanh tâm động niệm mới thành ra có sai biệt.Thí dụ một viên kim cương để trước người gỗ thì có quí tiện gì không, có sanh tâm tham gì không? Nhưng để trước mình thì chóa mắt, đó là không phải tại viên kim cương nó sanh lỗi, lỗi tại mình có lòng tham, rõ ràng là như vậy. Hoặc là cục cứt để trên tượng đá, nó có khởi nhơ sạch gì không? Còn để gần mình biït mũi, là tại mình còn niệm dơ sạch. Quán rõ như vậy thì mình dừng được niệm phân biệt, mà dừng được niệm phân biệt thì rõ các pháp vốn là vô sanh, vốn là tịch diệt thôi. Vậy đâu đâu cũng là Niết Bàn. Cho nên do mình sanh tâm thì pháp thành có lỗi, chớ không phải pháp có lỗi, hiểu như vậy tức soi trở lại mình là chính.
Có câu chuyện về ông cư sĩ, một hôm ông đi tản bộ ở bờ sông, ông thấy có người lái đò đẩy một chiếc thuyền trên bãi cát xuống sông để chuẩn bị chở khách sang sông. Vừa lúc có một Thiền sư đi ngang qua, vị cư sĩ này đi nhanh tới trước vị Thiền Sư đó hỏi:
- Bạch Thầy, vừa rồi có người lái đò họ đẩy chiếc thuyền xuống sông thì nó đè chết rất nhiều là cua, trai, tôm, ốc ở trên bãi cát, như vậy tội lỗi của người khách hay tội lỗi của người lái đò?
Thiền Sư liền đáp ngay không nghi ngờ:
- Chẳng phải tội lỗi người khách cũng chẳng phải tội lỗi người lái đò!
Ông cư sĩ không hiểu, nghi ngờ hỏi lại:
- Cả hai đều không tội lỗi, vậy tội lỗi của ai?
Thiền Sư trừng mắt bảo to:
- Chính là tội lỗi của ông!
Rõ ràng, tại vì ông sanh tâm, chính người sanh tâm là tội lỗi, còn việc kia tự nó có phần của nó rồi, có dính dáng gì tới ông, ông xen vào? Mình cần soi trở lại chính mình là chính, chớ đừng thấy bên ngoài sanh phân biệt đây kia thành tội lỗi.
Cũng ý này Ngài Địa Tạng Quế Sâm, một hôm cùng Trường Khánh, Bảo Phước đi vào trong thành thấy có một đóa hoa Mẫu đơn, Bảo Phước bảo rằng:
- Một đóa hoa Mẫu đơn đẹp.
Trường Khánh bảo:
- Chớ để mắt sanh hoa.
Ngài Quế Sâm nói:
- Đáng tiếc một đóa hoa!
Một đóa hoa bình thường thôi, đâu nói đẹp xấu, nói phải quấy gì. Mình xen cái thấy của mình vào trong đó, thành ra làm méo mó nó. Khi mình xen vào niệm phân biệt của mình, đó là mình đánh mất cái như thật nó là nó, bây giờ nó thành ra có đẹp có xấu, có thật giả theo ý mình, là bóp méo sự thật. Đây mình quán kỹ như vậy đó, thì không sanh tâm phân biệt.
Thấy như vậy thì còn ai là người phỉ báng, ai là người thọ nhận? Tức là mình trì Pháp Hoa dễ dàng, Tri kiến Phật luôn luôn sáng ngời. Cho nên đây dạy mình chỗ "thân cận thứ hai" là phải có trí tuệ, tức là phải thấy được lý vượt ngoài ngôn ngữ, vượt ngoài tâm phân biệt.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó Đức Thế Tôn muốn tuyên lại ý nghĩa này mà nói kệ rằng:
Nếu có vị Bồ Tát
Ở trong đời ác sau
Lòng không hề sợ sệt
Muốn nói kinh pháp này
Nên trụ vào "hành xứ"
Và trụ "thân cận xứ"
Thường xa rời Quốc Vương
Và con của Quốc Vương
Quan đại thần, quan lớn
Kẻ chơi việc hung hiểm
Cùng bọn chiên đà la
Hàng ngoại đạo phạm chí
Cùng chẳng ưa gần gũi
Hạng người tăng thượng mạn
Hàng học giả tham chấp
Kinh luật luận tiểu thừa
Những Tỳ kheo phá giới
Danh tự A La Hán
Và những Tỳ kheo ni
Ưa thích chơi giỡn cười
Các vị Ưu bà di
Tham mê năm món dục
Cầu hiện tại diệt độ
Đều chớ có gần gũi
GIẢNG:
Đó là nói chỗ "hành xứ", "thân cận xứ" xa rời những phương tiện, những duyên đưa đến phiền phức, chướng ngại cho mình, dễ sanh tội lỗi. Sống đúng theo luật nghi Phật đã dạy.
CHÁNH VĂN:
Nếu những hạng người đó
Dùng tâm tốt mà đến
Tại chỗ của Bồ Tát
Để vì nghe Phật đạo
Bồ Tát thời nên dùng
Lòng không chút sợ sệt
Chẳng có niệm mong cầu
Mà vì chúng nói pháp
GIẢNG:
Tức những người đó có đến chỉ thuận theo Pháp mà nói thôi, chớ không có lòng mong cầu được lợi, được danh tiếng, cúng dường thế này, thế kia.
CHÁNH VĂN:Những gái góa, gái trinh
Và các kẻ bất nam
Đều chớ có gần gũi
Để cùng làm thân hậu
(Tức ngừa tâm dục nhiễm.)
Cũng chớ nên gần gũi
Kẻ đồ tể cắt thái
Săn bắn và chài lưới
Vì lợi mà giết hại
Bán thịt để tự sống
Buôn bán sắc gái đẹp
Những người như thế đó
Đều chớ có gần gũi
(Đây là duyên khởi lên tâm dâm và sát thì mình không gần gũi.)
Các cuộc chơi giỡn dữ
Hung hiểm đâm đánh nhau
Và những dâm nữ thảy
Trọn chớ có gần gũi
Chớ nên riêng chỗ khuất
Vì người nữ nói pháp
Nếu lúc vì nói pháp
Chẳng đặng chơi giỡn cười
Khi vào xóm khất thực
Phải dắt một Tỳ kheo
Nếu không có Tỳ kheo
Phải một lòng niệm Phật
Đây thời gọi tên là
"Hành xứ", "thân cận xứ"
Dùng hai xứ trên đây
Có thể an lạc nói.
GIẢNG:Đây là thuận theo giới pháp của Phật. Vào xóm phải dẫn theo một Tỳ kheo, tức không đi một mình dễ sanh chuyện, giữ như vậy đó tâm mình tự an ổn, không phải lo gì. Phật dạy rất kỹ, nhưng người không nghe theo, tự chuốc lỗi lầm thôi, chớ không phải đổ lỗi ai khác.
CHÁNH VĂN:Lại cũng chẳng vin theo
Pháp thượng, trung và hạ
Hữu vi hay vô vi
Thiệt cùng pháp chẳng thiệt
Cũng chẳng có phân biệt
Là nam là nữ thảy
Lại chẳng đặng các pháp
Chẳng biết cũng chẳng thấy
Đây thời gọi tên là
"Hành xứ" của Bồ Tát
GIẢNG:
Lìa pháp thượng trung hạ, hữu vi hay vô vi, thiệt hay không thiệt, tức là hai bên, thấy suốt nơi thật tướng của các Pháp, không sanh những tâm niệm phân biệt, không khởi cái thấy là nam hay là nữ, nhưng không phải như vậy thành vô tri. Cho nên đây "Lại chẳng đặng các pháp. Chẳng biết cũng chẳng thấy", mà đây biết rõ tất cả nhưng không sanh tâm động niệm, không xen niệm phân biệt trong đó.
CHÁNH VĂN:Tất cả các món Pháp
Đều không, chẳng chỗ có
Không có chút thường trụ
Vẫn cũng không khởi diệt
Đây gọi là "thân cận"
Chỗ người trí hằng nương
Chớ đảo điên phân biệt
Các pháp có hoặc không
Là thật, chẳng phải thật
Là sanh chẳng phải sanh
Ở an nơi vắng vẻ
Sửa trau nhiếp tâm mình
An trụ chẳng lay động
Như thể núi Tu Di.
GIẢNG:Đây quán kỹ các pháp là "Không", không sanh khởi các niệm điên đảo có không, thật giả sanh diệt không cho mình có chỗ bám chỗ duyên theo bên ngoài, chỗ này trong nhà Thiền có câu: "Một tâm không sanh, muôn pháp không lỗi"
Nếu tâm mình không sanh thì các pháp không lỗi gì hết hoặc "một tâm không sanh thì muôn pháp nhất như" một tâm mình không sanh, các pháp đều như như. Như cái bàn cái hoa thì thấy cái bàn cái hoa thôi, mình không sanh tâm theo đó, lỗi gì đâu. Trụ chỗ đó là chỗ an trụ vững vàng, nên gọi "an trụ chẳng lay động, như thể núi Tu Di". Đó là muốn nhắc mình xoay về nguồn tâm là gốc chớ đừng theo bên ngoài, theo bên ngoài phân biệt là theo sanh diệt.
CHÁNH VĂN:
Quán sát tất cả pháp
Thảy đều không thật có
Dường như khoảng hư không
Không có chút bền chắc
Chẳng sanh cũng chẳng xuất
Chẳng động cũng chẳng thối
Thường trụ một tướng thể
Đó gọi là "cận xứ"
(Quán sát tất cả pháp không có chỗ nào mình duyên theo hết).
Nếu có vị Tỳ kheo
Sau khi ta diệt độ
Vào được "hành xứ" này
Và "thân cận xứ" đó
Thời lúc nói kinh này
Không có lòng e sợ.
Vị Bồ Tát có lúc
Vào nơi nhà tịnh thất
Lòng nghĩ nhớ chơn chánh
Theo đúng nghĩa quán pháp
Từ trong thiền định dậy
Vì các bực Quốc vương
Vương tử và quan, dân
Hàng Bà la môn thảy
Mà khai hóa diễn bày
Rộng nói kinh điển này
Tâm vị đó an ổn
Không có chút khiếp nhược
Văn Thù Sư Lợi này!
Đó gọi là Bồ Tát
An trụ trong sơ pháp
Có thể ở đời sau
Diễn nói Kinh Pháp Hoa.
GIẢNG:
Nghĩa là mình an trụ được chỗ này thì an ổn truyền bá kinh Pháp Hoa, giữ gìn kinh Pháp Hoa không sợ ngăn ngại, dù là sống trong thời ác cách xa Phật. Tóm lại, lìa những chỗ duyên đưa đến tội lỗi cho mình, rồi quán sát kỹ tướng thật của các pháp để sống trong trí tuệ như vậy đó, là chỗ "thân cận" vững vàng cho mình. Đó là phần thứ hai "thân cận xứ". Phần thứ nhất là "hành xứ" hai hạnh trong bốn hạnh an lạc.
CHÁNH VĂN:Lại Văn Thù Sư Lợi! Sau khi Đức Như Lai diệt độ, ở trong đời mạt pháp muốn nói kinh này, phải trụ nơi hạnh an lạc, hoặc miệng tuyên nói hoặc lúc đọc kinh đều chẳng ưa nói lỗi của người và của kinh điển; cũng chẳng khinh mạn các pháp sư khác, chẳng nói việc hay dở, tốt xấu của người khác. Ở nơi hàng Thanh Văn cũng chẳng kêu tên nói lỗi quấy của người đó, cũng chẳng kêu tên khen ngợi điều tốt của người đó.
Lại cũng chẳng sanh lòng oán hiềm, vì khéo tu lòng an lạc như thế nên những người nghe pháp không trái ý. Có chỗ gạn hỏi, chẳng dùng pháp tiểu thừa đáp, chỉ dùng pháp đại thừa mà vì đó giải nói làm cho đặng bực "Nhứt thiết chủng trí".
GIẢNG:
Tới hạnh an lạc này gồm có phần chánh ngữ, chánh ý. Tức là giữ cho ý nghiệp thanh tịnh, khẩu nghiệp thanh tịnh.Người ưa nói lỗi người khác là tâm mình chưa được chánh, tâm chưa chánh nên còn có niệm nhân ngã, thiếu phản quan trở lại, phần này thường dễ mắc kẹt.
Người ta có lỗi là phần của người ta, không lỗi cũng phần người ta đâu dính gì tới mình, chỉ người có trách nhiệm, cần nhắc nhở để sách tiến, còn mình không trách nhiệm mà cứ lo nói lỗi của người này lỗi của người khác, còn lỗi của mình thì sao? Có những trường hợp thấy nhiều lỗi của người khác còn tự hào mình là người sành đời, người tinh mắt, là mình thấy hết, càng nguy hiểm! Do đó ở đây Phật nhắc, nói Pháp Hoa phải giữ khẩu nghiệp cho thanh tịnh khi nói lỗi người, ngay đó mình có lỗi rồi mà không hay. Ông Khổng Tử có hai câu thường nhắc:
Các nhân tự tảo môn tiền tuyết
Mạc quản tha nhân ốc thượng sương.
Tức là:Mọi người tự quét tuyết trước cửa nhà mình đi,
Chớ quan tâm gì những giọt sương trên nhà người khác.Tuyết nhà mình không lo, cứ lo giọt sương nhà người. Đó là nhà nho họ tu thân mà còn vậy, huống nữa mình là người tu giải thoát, người đang truyền bá Pháp Hoa, truyền bá tri kiến Phật thì chỗ này phải xét cho thật kỹ, ngay khi mình nói lỗi của người khác, thì mình xét lại tâm mình trước xem. Người xưa tu hành miên mật không có thì giờ cắt móng tay nữa, có thì giờ rảnh đâu đi nhìn lỗi người ta. Ở đây mình thấy lỗi người này người khác nhiều quá đó, tức là mình đã quên mình hồi nào không hay, mà trên đời ai không có lỗi?
Trong nhà nho có ông Cừ Bá Ngọc, ông kể: từ năm 20 tuổi, ông giác biết lỗi lầm ngày trước của mình, ông sửa đổi hết, nhưng năm 21 tuổi ông nhìn lại ông thấy lỗi lầm từ trước chưa sửa hết. Năm 22 tuổi xét lại năm 21 tuổi thì cũng giống như trong mộng cũng chưa sửa tốt được hết. Cứ lên một năm ông lần lượt kiểm điểm lại để sửa đổi, đến năm 50 tuổi ông xét lại thì cũng thấy điều sơ sót của năm 49 tuổi. Lúc nào cũng thấy sơ sót chớ không lúc nào trọn vẹn hết, như vậy đó là người biết xét lại chính mình.
Trong đạo như Ngài Đại Huệ Ngài dạy rằng: "Người học đạo ngày tháng trôi suông cũng vì cứ lo kiểm điểm công phu của người khác thôi, nếu như thường tự kiểm điểm thì đạo nghiệp chóng thành. Hoặc là mừng, hoặc là giận hoặc là tình lặng hoặc là náo động đều là lúc cho ta tự kiểm điểm cả". Ngài bảo ngày tháng trôi qua cứ đi kiểm điểm công phu người ta, mà công phu người ta có dính gì tới mình đâu. Lâu lâu nhìn lại rốt cuộc mình công phu chưa tới đâu. Nếu thường tự kiểm điểm chính mình thì chắc chắn đạo nghiệp chóng thành. Cho nên những lúc mừng giận hay những lúc lặng, lúc động đều là lúc để cho mình kiểm điểm hết, đó là chỗ để cho mình tiến lên. Đây Phật nhắc mình là muốn nói Kinh Pháp Hoa cũng phải ở trong hạnh an lạc đó.
Trong Pháp Hoa Đề Cương, Thiền sư Minh Chánh có dẫn bài thơ nói về Thuần Đà.
Hay lắm Thuần Đà, hay lắm Thuần Đà!
Ông Thuần Đà khi cúng dường bữa cơm cuối cho Phật, Phật dùng bữa cơm đó xong Phật tịch, cho nên có nhiều người phê bình ông là kẻ vô phước. Phật biết như vậy nên nói là có hai bữa cúng dường có phước nhất, một là bữa của cô chăn bò, cúng bát sữa Phật dùng xong thành đạo, bữa thứ hai Phật dùng xong rồi nhập Niết Bàn.
Thôi nói dở, chớ bàn hay,
Dở hay tốt xấu bận lòng chi
Người muốn tìm khéo trở thành vụng
Kẻ toan bắn sẻ sói chực đây
Công danh cái thế sương thu sớm
Phú quí kinh nhân giấc mộng dài
Chẳng rõ xưa nay không một vật
Công phu luống uổng dụng tâm ôi.Thấy rõ cứ lo bàn dỡ bàn hay bàn tốt bàn xấu đó, công phu không đi tới đâu hết, cốt là thấy lẽ thật ngay chính mình. Phật nhắc khi nói kinh, phải ngừa miệng không nói lỗi của người khác, thứ hai không nói lỗi kinh điển. Nghĩa là mình có thấu tột ý Phật trong kinh chưa mà lo nói lỗi của kinh? Mình chưa tột ý Phật mà nói lỗi đó là nói theo cái thấy riêng tư của mình. Như vậy là đem tâm phàm đo lường ý thánh, thì ý thánh cũng thành phàm luôn. Rồi đối với những hàng Thanh văn cũng không kêu tên mà nói lỗi của người đó, chẳng khen ngợi điều tốt người đó. Không nói lỗi thì phải rồi, mà cũng không khen, vì khen thì càng khiến họ sanh tâm ngã mạn. Cũng chẳng sanh lòng oán hiềm, tức là quên niệm yêu ghét.
Trong kinh Viên Giác Phật dạy: Thân này còn chẳng thật yêu ghét từ đâu sanh ?
Sở dĩ mình có oán hiềm, có yêu ghét là chỉ nương vào cái bản ngã này thôi, thuận với nó thì yêu, nghịch với nó thì ghét.
Song thân này còn không thật, vậy yêu ghét là yêu ghét cho ai? Thấy như vậy là hết lòng yêu ghét, còn ở đây khởi niệm yêu ghét, khởi niệm oán hiềm đó là ý không thanh tịnh làm sao nói Pháp Hoa? Rồi có người gạn hỏi chớ có đem Pháp tiểu thừa mà đáp, dùng đại thừa mà nói thôi, làm cho họ đặng nhất thiết chủng trí, tức là chỉ thẳng lý thật, mình thấy được lý thật đó, mình sẵn sàng chỉ cho người khác, chớ không có giấu gì. Bởi vì Phật pháp thì không giống thế gian, không sợ người hơn mình, mình thấy lý thật đó, chỉ cho người ta chứ không nói "Nhất thiết chủng trí" này là lý của Phật của Bồ Tát, còn các ông thuộc về hàng nhỏ, hàng tiểu thừa. Đó còn niệm nhân ngã, ở trong Phật pháp không có niệm đó. Đó gọi là hạnh an lạc, là chánh ngữ.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Vị Bồ Tát thường ưa
An ổn nói kinh pháp
Ở nơi chỗ thanh tịnh
Mà sắp đặt sàng tòa
Dùng hương dầu xoa thân
Tắm gội các bụi dơ
Mặc y mới sạch sẽ
Trong ngoài đều sạch thơm
Ngồi an nơi Pháp tòa
Theo chỗ hỏi vì nói.
GIẢNG:
Đây vị Bồ Tát thường nói kinh Pháp Hoa đó thì sắp đặt chỗ thanh tịnh sạch sẽ, vì lòng kính pháp, chăm sóc trang hoàng như vậy, không phải vì trọng thân này. Vì có tâm trọng pháp thì nghe pháp mới sâu, còn hời hợt thì nghe không sâu được.
CHÁNH VĂN:Nếu có vị Tỳ kheo
Cùng các Tỳ kheo ni
Các hàng ưu bà tắc
Và hàng ưu bà di
Quốc vương và vương tử
Các quan cùng sĩ dân
Dùng pháp nghĩa nhiệm mầu
Vui vẻ vì họ nói.
GIẢNG:
Tức là sẵn sàng để ứng cơ đối tiếp với họ mà vui vẻ nói, chớ không tỏ vẻ buồn chán, mệt mỏi và luôn luôn dùng pháp nghĩa nhiệm mầu, tức là nghĩa "sống" ở ngay nơi họ, nó vượt ngoài ngôn ngữ chữ nghĩa, đó mới là căn bản chân thật.
CHÁNH VĂN:Nếu có người gạn hỏi
Theo đúng nghĩa mà đáp
Nhơn duyên hoặc thí dụ
Giải bày phân biệt nói
Dùng trí phương tiện này
Đều khiến kia phát tâm
Lần lần thêm đông nhiều
Vào ở trong Phật đạo
GIẢNG:
Nếu có người hỏi, dùng nhân duyên thí dụ giải bày cho họ, để họ phát tâm thì càng ngày càng có nhiều người trong Phật đạo, tức là khiến cho ánh sáng Pháp Hoa càng ngày càng sáng thêm, thì thế gian bớt tối.
CHÁNH VĂN:Trừ lòng lười biếng trễ
Cùng với tưởng giải đãi
Xa rời các ưu não
Tâm từ lành nói pháp.
GIẢNG:
Đây nói pháp với tâm từ bi không xen ý tưởng riêng tư, không vì phô trương bản ngã của mình, hoặc là khoe khoang những kiến giải, chỉ lòng từ bi nói để đánh thức cho họ, nói như vậy là không có lỗi.
CHÁNH VĂN:
Ngày đêm thường xuyên nói
Giáo pháp vô thượng đạo
Dùng các việc nhơn duyên
Vô lượng món thí dụ
Mở bày dạy chúng sanh
Điều khiến chúng vui mừng
Y phục cùng đồ nằm
Đồ ăn uống thuốc thang
Mà ở nơi trong đó
Không có chỗ mong cầu
Chỉ chuyên một lòng nhớ
Nhơn duyên nói kinh pháp
Nguyện ta thành Phật đạo
Khiến mọi người cũng vậy
Đó là lợi lành lớn
Là an vui cúng dường.
GIẢNG:
Đây nói rõ lại, nói pháp đó nguyện ta thành Phật đạo, khiến mọi người cũng thành Phật đạo như mình, chớ không phải có chỗ mong cầu, không phải vì lợi vì danh.
CHÁNH VĂN:Sau khi ta diệt độ
Nếu có vị Tỳ kheo
Có thể diễn nói được
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Lòng không chút ganh hờn
Không có não chướng ngại
Cũng lại không ưu sầu
Và cùng mắng nhiếc thảy
Lại cũng không sợ sệt
Không dao gậy đánh đập
Cũng không xua đuổi ra
Vì an trụ nhẫn vậy.
GIẢNG:Tức là Bồ Tát khéo tu tập được như vậy phần lợi tha mới rộng lớn là làm cho ánh sáng Pháp Hoa càng ngày càng thêm sáng tỏ.
CHÁNH VĂN:
Người chí khéo tu tập
Tâm mình được dường ấy
Thời hay trụ an lạc
Như ta nói ở trên
Công đức của người đó
Trong nghìn muôn ức kiếp
Tính kể hay thí dụ
Nói chẳng thể hết đặng.
GIẢNG:
Được như vậy đó là mình luôn luôn vững vàng an trụ trong Tri Kiến Phật, không ai làm gì được hết.
CHÁNH VĂN:Lại Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt mà thọ trì đọc tụng kinh điển này, chớ ôm lòng ganh ghét dua dối, cũng chớ khinh mắng người học Phật đạo, vạch tìm chỗ hay dở của kia. Nếu hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, hoặc cầu Thanh Văn, hoặc cầu Duyên Giác, hoặc cầu Bồ Tát đạo đều không đặng làm não đó, khiến cho kia sanh lòng nghi hối mà nói với người đó rằng: "Các người cách đạo rất xa trọn không thể đặng bực nhứt thiết chủng trí. Vì sao? Vì các người là kẻ buông lung, biếng trễ đối với đạo". Lại cũng chẳng nên hí luận các pháp có chỗ giành cãi. Phải ở nơi tất cả chúng sanh, khởi tưởng đại bi, đối với đức Như Lai, sanh tưởng như cha lành, đối với các Bồ Tát, tưởng là bậc đại sư, với các đại Bồ Tát ở mười phương phải thâm tâm lễ lạy, với tất cả chúng sanh đều bình đẳng nói pháp. Vì thuận theo pháp nên chẳng nói nhiều, chẳng nói ít, nhẫn đến người rất ưa pháp, cũng chẳng vì nói nhiều.
GIẢNG:
Đây gọi là chánh ý, giữ ý thanh tịnh, nói pháp không ôm lòng ganh ghét dua dối, không khinh mắng người khác, làm cho họ thối tâm, Kinh Kim Cang Tu Bồ Đề hỏi Phật "Vậy có chúng sanh nào ở đời sau, năm trăm năm sau nghe nghĩa lý như thế hay sinh lòng tin chăng? Phật bảo: chớ nói lời ấy", hỏi chúng sanh năm trăm năm sau nghe như vậy có tin chăng, là nghi có người không tin nổi, mà hỏi như vậy là làm cho người ta nghe mất lòng tin, nên Phật bảo chớ có nói lời ấy, bởi vì chỉ đủ duyên thì liền tin, còn chưa đủ duyên thì chưa tin chớ không phải là không thể tin. Đây đối với Pháp Hoa thì thấy rõ Tri Kiến Phật là cái sẵn ở nơi người, chớ không phải đâu khác, tại sao không thể tin? Phải nhắc như vậy, đánh thức như vậy, khiến cho mọi người có lòng tự tin trở lại, mà có lòng tự tin thì mới vươn lên, mới chuyển mê khai mộ được. Còn nói không thể tin thì mê hoài sao? Rồi chẳng nên lý luận các pháp mà có chỗ tranh cãi. Phật pháp thì không có cãi, còn cãi thì không phải pháp, bởi vì cứ lo tranh cãi tức là còn có tâm hơn thua, mà hơn thua là còn nặng về chấp ngã, đó tức là chưa khế hợp với pháp rồi. Người học đạo phải hiểu cho kỹ!Trong Nhà thiền có câu chuyện Ngài Giáp Sơn với Ngài Định Sơn, hai vị cùng đi trên đường nói chuyện Phật pháp với nhau. Ngài Định Sơn nói:
- Trong sanh tử không Phật tức phi sanh tử.
Ngài Giáp Sơn nói:
- Trong sanh tử có Phật tức chẳng mê sanh tử.
Hai người mới đi lên núi Đại Mai, lễ Thiền Sư Pháp Thường. Khi lễ rồi, Ngài Giáp Sơn mới hỏi Ngài Đại Mai, chưa biết chỗ thấy hai người như vậy đó ai được gần, thì Ngài Đại Mai bảo: "Một gần, một xa". Giáp Sơn hỏi:
- Ai được gần?
Ngài Đại Mai bảo:
- Thôi, hai ông hãy đi nghỉ đi sáng mai trở lại.
Sáng hôm sau Giáp Sơn đến hỏi trước. Ngài Đại Mai bảo:
- Người gần chẳng hỏi, người hỏi thì chẳng gần.
Quí vị thấy đau chưa, lật đật đi hỏi trước thì sao? Tức là mong muốn biết mình đúng hay sai, tức là còn có tâm hơn thua trong đó, là xa rồi, nếu thật sự mình nói ra đúng lý rồi, còn lo gì phải đi hỏi? Đây cũng vậy, cứ lo tranh cãi, là tâm sợ thua chớ gì. Đã nói ra đúng thật mình tin chắc rồi, không còn phải lo cãi, lo cãi là chưa phải. Cho nên, ở đây không có lý luận tranh cãi. Rồi đối với tất cả chúng sanh phải khởi tưởng đại bi thương xót họ, đối với Đức Như Lai, thì khởi tưởng như là cha lành, với các Bồ Tát tưởng là Đại Sư, với các Bồ Tát mười phương phải thâm tâm lễ lạy. Như vậy kính, tin, tôn trọng, bởi dù cho mình có nhận được, có sáng tỏ Tri Kiến Phật, mà chưa phải thực sống được. Vậy công đức mình còn kém xa Phật, xa Bồ Tát, nên ngăn ngừa sanh ngã mạn. Đối với chúng sanh bình đẳng nói pháp không phân là cao là thấp, là quí tiện, trí ngu gì hết, bởi vì thấy rõ ai cũng có phần Tri Kiến Phật, chỉ khéo phương tiện mà đánh thức họ thôi. Cũng không nói nhiều không nói ít, mà chỉ thuận theo pháp mà nói, đúng với Pháp mà nói, nói mà không kẹt ngôn ngữ.
CHÁNH VĂN:
Văn Thù Sư Lợi! Vị Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp muốn diệt nếu thành tựu được hạnh an lạc thứ ba đây, thời lúc nói pháp này không ai có thể não loạn, đặng bạn đồng học tốt chung cùng đọc tụng kinh này, cũng đặng đại chúng thường đến nghe thọ. Nghe rồi hay nhớ, nhớ rồi hay tụng, tụng rồi hay nói, nói rồi hay chép, hoặc bảo người chép, cúng dường quyển kinh cung kính tôn trọng ngợi khen.
GIẢNG:Trong hạnh an lạc này có hai phần.
Một phần giữ cái miệng không nói lỗi của người, không nói lỗi kinh điển.
Thứ hai giữ ý, tức là chánh ngữ và chánh ý. Ý là phải thanh tịnh, không có ôm lòng ganh ghét dua dối, không khinh mắng người ta làm cho họ mất lòng tin, luôn đối với các bậc Như Lai, Bồ Tát phải kính trọng, được hạnh thứ ba này thì an ổn mà nói pháp.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu muốn nói kinh này
Phải bỏ lòng ganh hờn
Ngạo dua dối tà ngụy
Thường tu hạnh chất trực
Chẳng nên khinh miệt người
Cũng chẳng hí luận pháp
Chẳng khiến kia nghi hối
Rằng ngươi chẳng thành Phật
GIẢNG:
Tức không làm cho họ mất lòng tin, mà luôn luôn làm sao gieo giống giác ngộ cho mọi người tin tưởng ai cũng có khả năng giác ngộ đó để vươn lên.
CHÁNH VĂN:
Phật tử đó nói pháp
Thường nhu hòa hay nhẫn
Từ bi với tất cả
Chẳng sanh lòng biếng trễ
Bồ Tát lớn mười phương
Thương chúng nên hành đạo
Phải sanh lòng cung kính
Đó là Đại Sư ta,
Với các Phật Thế Tôn
Tưởng là cha vô thượng
Phá nơi lòng kiêu mạn
Nói pháp không chướng ngại
Pháp thứ ba như thế
Người trí phải giữ gìn
Một lòng an lạc hạnh
Vô lượng chúng cung kính.
GIẢNG:
Đây Ngài nói rõ kính trọng Phật Bồ Tát ở mười phương, đó là phá lòng kiêu mạn, chớ không thấy ta đây là Pháp sư, ta đây là kẻ trên, đó cũng là để ngừa, hiểu trên lý suông.
CHÁNH VĂN:
Lại Văn Thù Sư Lợi! Các vị Đại Bồ Tát ở đời rốt sau lúc pháp gần diệt, có vị nào trì kinh Pháp Hoa này ở trong hàng người tại gia, xuất gia sanh lòng từ lớn, ở trong hạng người chẳng phải Bồ Tát sanh lòng bi lớn, phải nghĩ thế này: những người như thế thời là mất lợi lớn. Đức Như Lai phương tiện tùy nghi nói pháp chẳng nghe, chẳng biết, chẳng hay, chẳng hiểu, chẳng tin, chẳng hỏi. Người đó dầu chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng hiểu kinh này, lúc ta đặng vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, người đó tùy ở chỗ nào, ta dùng sức thần thông, sức trí huệ dẫn dắt đó khiến đặng trụ trong pháp này.GIẢNG:
Hạnh thứ tư này gọi là đại từ bi tâm. Tức là đã thấy người tin nhận được pháp này thì sẽ được lợi ích lớn, như vậy là họ được pháp lạc, mình nên sanh lòng từ. Từ nghĩa là đem đến sự an vui cho người, họ được vậy mình mừng cho họ, muốn được nhiều người lợi ích chân thật, không phải thấy họ được thì mình ganh ghét, đó là tâm thế gian. Còn thấy người chẳng phải Bồ Tát thì sanh lòng bi lớn. Chẳng phải Bồ Tát là người thiếu lòng tin, thấy họ thiếu lòng tin thì sanh lòng bi, thương xót, họ có vật báu mà bỏ quên, không chịu nhận, không chịu tin, mất lợi lớn, nên dùng nhiều phương tiện cho họ tỉnh thức trở lại.
Có vị tăng hỏi Ngài Triệu Châu:
- Thế nào là đại xiển đề?
Xiển đề là người không có lòng tin, nếu với người giải thích theo chữ nghĩa thông thường thì giải thích người đại xiển đề là người không có lòng tin, là người đáng bỏ, Ngài Triệu Châu không giải vậy, mà bảo rằng:
- Lão tăng đáp cho ông, ông có tin chăng?
Ông Tăng thưa:
- Lời quí trọng của Hòa thượng thì làm sao con không tin.
Ngài Triệu Châu bảo:
- Tìm một người xiển đề cũng khó được.
Rất khéo! Ôâng xiển đề mà có lòng tin là hết xiển đề rồi.
Vậy được hạnh đại bi tâm này nói pháp không lỗi lầm, trong trường hợp nào cũng luôn với lòng đại bi thôi, chớ không phải với lòng nhân ngã.
CHÁNH VĂN:
Văn Thù Sư Lợi! Vị đại Bồ Tát đó ở sau lúc Như Lai diệt độ nếu thành tựu đặng pháp thứ tư này thời lúc nói pháp này không có lầm lỗi, thường được hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Quốc vương, Vương tử, Đại thần nhơn dân, Bà la môn, cư sĩ thảy cúng dường cung kính tôn trọng ngợi khen, hàng chư thiên ở trên hư không, vì nghe pháp cũng thường theo hầu. Nếu ở trong xóm làng thành ấp, rừng cây vắng vẻ, có người đến muốn gạn hỏi, hàng chư thiên ngày đêm thường vì pháp mà hộ vệ đó, có thể khiến người nghe đều đặng vui mừng.Vì sao? Vì kinh này được sức thần của tất cả các đức Phật thuở quá khứ, vị lai, hiện tại giữ gìn vậy. Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này ở trong vô lượng cõi nước, nhẫn đến danh tự còn chẳng đặng nghe hà huống là đặng thấy thọ trì đọc tụng.
GIẢNG:
Tóm lại bốn hạnh trên:- Hành xứ, thân cận xứ thuộc về thân nghiệp, là chánh hạnh.
- Chánh ngữ thuộc về khẩu nghiệp, không nói lỗi.
- Chánh ý thuộc về ý nghiệp, giữ thanh tịnh không có lòng oán ghét, hơn thua làm cho người ta mất lòng tin, cũng như kính trọng bậc Như Lai, Bồ Tát bình đẳng nói Pháp.
Phần thứ tư: Đại bi tâm là bốn phần.
Nếu đủ bốn hạnh này thì an ổn nói pháp không sợ, được chư thiên hộ vệ, vì đây là chỗ tiếp nối hạt giống Phật không để đoạn dứt. Kinh này ở trong nhiều cõi nước chưa từng nghe đến tên mà đây mình được nghe đến tên, được học, hiểu thì duyên lành rất là sâu. Hiểu rõ như vậy để mình thấy có niềm tin thêm. Đây Phật thí dụ kế châu là châu trên búi tóc.
CHÁNH VĂN:
Văn Thù Sư Lợi! Thí như vua Chuyển Luân Thánh Vương sức lực mạnh mẽ muốn dùng oai thế hàng phục các nước mà các vua nhỏ chẳng thuận mạng lệnh, bấy giờ Chuyển Luân Thánh Vương đem các binh đạo qua đánh dẹp, vua thấy binh chúng những người đánh giặc có công, liền rất vui mừng theo công mà thưởng ban. Hoặc ban cho ruộng, nhà, xóm làng, thành ấp, hoặc ban cho đồ y phục trang nghiêm nơi thân, hoặc cho các món trân bảo, vàng bạc lưu ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, voi ngựa xe cộ, tôi tớ, nhơn dân, chỉ viên minh châu trong búi tóc chẳng đem cho đó.Vì sao? Vì riêng trên đảnh vua có một viên châu này, nếu đem cho đó thời các quyến thuộc của vua ắt rất kinh lạ.
Văn Thù Sư Lợi! Như Lai cũng như thế, dùng sức thiền định trí tuệ đặng cõi nước pháp, giáo hóa trong ba cõi mà Ma Vương chẳng khứng thuận phục, các tướng hiền thánh của Như Lai cùng ma đánh nhau. Những người có công lòng cũng vui mừng, trong hàng chúng vì nói các kinh khiến tâm kia vui thích, ban cho các pháp thiền định, giải thoát vô lậu căn lực. Và lại ban cho thành Niết Bàn, bảo rằng đặng diệt độ để dẫn dắt lòng chúng làm cho đều đặng vui mừng mà chẳng vì đó nói kinh Pháp Hoa này.
Văn Thù Sư Lợi! Như vua Chuyển Luân thấy các binh chúng những người có công lớn, đem viên minh châu khó tin từ lâu ở trong búi tóc chẳng vọng cho người, mà nay cho đó.
Đức Như Lai cũng lại như thế, làm vị đại Pháp Vương trong ba cõi, đem pháp mầu giáo hóa tất cả chúng sanh, thấy quân hiền thánh cùng ma ngũ ấm, ma phiền não, ma chết, đánh nhau có công lao lớn, diệt ba độc, khỏi ba cõi, phá lưới ma. Lúc ấy Như Lai cũng rất vui mừng, kinh Pháp Hoa này có thể khiến chúng sanh đến bậc "Nhứt thiết trí" là pháp mà tất cả thế gian nhiều oán ghét khó tin, trước chưa từng nói mà nay nói đó.
Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhứt của Như Lai, ở trong các lời nói thời là rất sâu, rốt sau mới ban cho, như vua sức mạnh kia lâu gìn viên minh châu nay mới cho đó.
Văn Thù Sư Lợi! Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các đức Phật Như Lai ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày giữ gìn chẳng vọng tuyên nói, mới ở ngày nay cùng với các ông mà bày nói đó.
GIẢNG:
Đây là Phật thí dụ về kế châu tức là vua Chuyển Luân Thánh Vương, có sức lực mạnh, muốn khắc phục các vua nhỏ, cho nên đem binh đánh dẹp, binh đánh dẹp đó có công thì ban cho cái nầy cái kia, nhưng minh châu trên đảnh thì chưa cho, đợi cuối cùng người có công lớn thì đem cho. Chuyển Luân Thánh Vương đó ví cho Như Lai hay bản giác của mình, còn các vua nhỏ, chỉ cho các tâm sở, buồn vui giận ghét. Những tâm đó không thuận với tánh Như Lai, mà thuận theo lòng chấp ngã riêng tư mới sanh lỗi lầm, do đó vua sai binh đánh dẹp, binh đó là binh gì? Đó là niệm giác. Sai những niệm giác này đánh dẹp giác chiếu những tâm lỗi lầm, sai trái đó. Mà còn có tâm giác chiếu, đem tâm này giác chiếu để dẹp cái kia, là có đối đãi, còn có cái công để khắc phục phiền não, nên đây vua thưởng công. Nhưng hạt châu trên búi tóc thì chưa đem cho. Vì đây là cái Ngài luôn luôn gìn giữ, đó là chỗ sâu kín khó thấy, như vậy là phải giác chiếu, đến chỗ không còn gì giác chiếu, không còn gì so sánh nữa, thì mới cảm nhận được hạt châu này.Có vị tăng hỏi Thiền Sư Sùng Tín:
- Hạt châu trên búi tóc thì người nào được?
Sùng Tín đáp:
- Người chẳng thưởng ngoạn thì được.
Tức là không ngắm, không xem là được.
Vị tăng hỏi:
- Để ở chỗ nào?
Sùng Tín đáp:
- Có chỗ tức nói đến!
Hạt châu đó chỉ cái chân thật nơi mình. Nếu còn có chỗ thưởng ngoạn, còn chỗ soi đến thì thuộc về cái bên ngoài, còn cái này là ngay nơi mình còn nói chỗ nào nữa? Chính chỗ đó mới là chỗ sâu kín. Người mà có công lớn, thấy chỗ đó Như Lai mới cởi châu báu đó cho. Đây phải hiểu chữ "cho", cho nhưng không phải có cái gì để cho, chỉ người công phu tương ứng, thì Ngài ấn chứng vậy thôi, chớ không phải là đem ra cho, còn thấy có cho có được đó là không được hạt châu rồi. Phật nói kinh Pháp Hoa này là pháp mà thế gian đều oán ghét khó tin, trước chưa từng nói bây giờ mới nói, sao pháp quí như vậy mà nhiều người oán ghét? Bởi lâu nay quên nó, trái bỏ nó nên không nhận, không tin oán ghét nó. Bây giờ có đủ duyên, có trồng sâu dày đối với chủng tử Phật pháp giác ngộ nên nghe là tin được. Rồi đây nhấn mạnh lại Kinh Pháp Hoa này là lời nói bậc nhất của Như Lai, ở trong các lời nói rất là sâu, rốt sau mới ban cho. Lời nói sao là bậc nhất, còn lời nói sao bậc nhì, bậc ba? Đây muốn nói chỗ này nó vượt ngoài tất cả ngôn ngữ, bởi vì nó ở ngay nơi tự tánh chính mình, cuối cùng mình phải vượt qua tất cả những phương tiện ngôn ngữ bên ngoài để thầm soi trở lại nơi mình, thầm cảm nơi mình mới thấy hạt châu này. Đó là ngầm ý nói rằng, mấy mươi năm Ngài nói pháp, nhưng cũng chưa từng nói chữ nào, bởi vì đây mới là lời nói bậc nhất, vậy những lời nói từ trước đến giờ so với chỗ này cũng là cái phương tiện thôi. "Kinh Pháp Hoa này là tạng bí mật của các Phật Như Lai, ở trong các kinh thời là bậc trên hết, lâu ngày gìn giữ chẳng vọng tuyên nói bây giờ mới nói".
Tại sao nó bí mật? không gì lạ, tại ngôn ngữ suy nghĩ không thể tới, nghĩa là dùng ngôn ngữ, dùng suy nghĩ không tới được. Chỉ người chứng nghiệm mới biết! Ngay đây phải bặt vọng tình của mình mới cảm nhận được, vậy là nói bí mật, nhưng tới đây bật mí rồi!
CHÁNH VĂN:Lúc đó Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Thường tu hạnh nhẫn nhục
Thương xót tất cả chúng
Kinh của Phật khen ngợi
Đời mạt thế về sau
Người thọ trì kinh này
Với tại gia, xuất gia
Và chẳng phải Bồ Tát
Nên sanh lòng từ bi
Những người đó chẳng nghe
Chẳng tin kinh pháp này
Thời là mất lợi thế
Khi ta chứng Phật đạo
Dùng các sức phương tiện
Vì nói kinh pháp này
Làm cho trụ trong đó.
GIẢNG:
Nghĩa là với hàng tại gia, xuất gia hoặc là không phải Bồ tát, người chẳng nghe chẳng tin, khi mình chứng Phật đạo dùng phương tiện nói kinh này làm cho họ trụ trong đó. Phải có lòng đại bi, thấy họ có, họ không biết nên thương chỉ cho, có khi dùng phương tiện thuận, có khi dùng phương tiện nghịch, có khi nói nghe êm tai, có khi nói nghe cũng chát tai, cốt làm sao đánh thức cho người tỉnh dậy. Chính chỗ này Ngài Đức Sơn khi Ngài đã thấy được đạo, Ngài cảm thông được bệnh của người, nên có đoạn Ngài bảo:- "Nhân giả! Lão Hồ ở Ấn độ không phải là Thánh, còn Phật là cục cứt của lão Hồ".
Sao Ngài nói như xúc phạm dữ vậy? Bởi vì ngày xưa Ngài từng là giảng sư, giảng Kim Cang nổi tiếng mà gặp bà bán bánh hỏi một câu trả lời không được. Giờ đây Ngài thấy lẽ thật rồi, nhìn lại còn bao nhiêu người mắc kẹt trên chữ nghĩa đó, Ngài muốn đánh thức dậy nên nói mạnh. Thường thường mình hiểu Phật là gì? Tức là ông già sanh ở Ấn Độ, tu hành thành Phật, nhưng Phật đó tám mươi tuổi nhập Niết Bàn thiêu rồi, cho nên Ngài nói Lão Hồ không phải là Thánh, còn Phật là cục cứt của lão Hồ, là sao? Là cái tên, đặt ra chỉ cho ông già đó thôi, mình phải thấy được, gì là Phật. Tức là Ngài muốn chỉ, Phật ở ngay nơi tâm giác ngộ, đó mới là Phật sống, còn chữ Phật đó chỉ là cái tên nên đây nói Phật là cục cứt lão Hồ là như vậy. Đây các Ngài dùng sức phương tiện đó mà nói, để cho mình nhận được đi vào lẽ thật.
CHÁNH VĂN:Thí dụ vua Chuyển Luân
Thánh Vương có sức mạnh
Binh tướng đánh có công
Thưởng ban những đồ vật
Voi, ngựa và xe cộ
Đồ trang nghiêm nơi thân
Và những ruộng cùng nhà
Xóm làng thành ấp thảy
Hoặc ban cho y phục
Các món trân báu lạ
Tôi tớ cùng của cải
Đều vui mừng ban cho
Nếu có người mạnh mẽ
Hay làm được việc khó
Vua mới mở búi tóc
Lấy minh châu cho đó.
GIẢNG:
Tức là người còn trong đối đãi thì ban cho ruộng nhà thành ấp vậy thôi. Rốt ráo rồi khiến phải quên hết công phu đó, để sống thẳng vào ngay chân thật lúc đó vua mới mở búi tóc ban cho viên ngọc quý.
CHÁNH VĂN:
Đức Như Lai cũng thế
Là vua trong các pháp
Nhẫn nhục sức rất lớn
Tạng báu trí huệ sáng
Dùng lòng từ bi lớn
Đúng như pháp độ đời
Thấy tất cả mọi người
Chịu các điều khổ não
Muốn cầu được giải thoát
Cùng các ma đánh nhau
Phật vì chúng sanh đó
Nói các món kinh pháp
Dùng sức phương tiện lớn
Nói các kinh điển đó.
Đã biết loài chúng sanh
Đặng sức mạnh kia rồi
Rốt sau mới vì chúng
Nói kinh Pháp Hoa này
Như vua thánh mở tóc
GIẢNG:
Mới ban đầu dùng phương tiện thứ lớp để nói, sau mới chỉ thẳng chỗ rốt ráo không hai này, tức là trừ niệm sai biệt, đến đây chỉ thẳng mỗi người đều có phần tri kiến Phật.
CHÁNH VĂN:
Kinh này là bực tôn
Trên hết trong các kinh
Ta thường giữ gìn luôn
Chẳng vọng vì mở bày
Nay chính đã phải lúc.
Vì các ông mà nói
GIẢNG:
Quý vị đọc đây có nghi gì không? Ngài lúc này đang nói pháp, chưa nói xong, mới nói tới phần an lạc, chưa thành bộ kinh Pháp Hoa, mà đây bảo là kinh này, vậy kinh này là kinh gì? Mình thấy rõ kinh này không phải là kinh giấy mực rồi. Ngài bảo: "Ta thường giữ gìn luôn". Vậy giữ gìn ở đâu? Phải thấy chỗ đó! Tức luôn luôn giữ gìn trong tâm giác đó thôi, là chỗ bặt niệm đối đãi, vừa có niệm đối đãi hai bên là mất nó liền, chính chỗ đó là chỗ Phật giữ gìn.
CHÁNH VĂN:Sau khi ta diệt độ
Người mong cầu Phật đạo
Muốn đặng trụ an ổn
Diễn nói kinh pháp này
Phải nên thường gần gũi
Bốn pháp trên như thế
Người đọc tụng kinh này
Thường không bị ưu não
Lại không có bệnh đau
Nhan sắc được trắng sạch
Chẳng sanh nhà bần cùng
Dòng ti tiện xấu xa
Chúng sanh thường ưa thấy
Như ham mộ hiền thánh
Các đồng tử cõi trời
Dùng làm kẻ sai khiến
Dao gậy chẳng đến được
Độc dữ chẳng hại được
Nếu Người muốn mắng nhiếc
Miệng thời liền ngậm bít
Dạo đi không sợ sệt
Dường như sư tử vương
Trí huệ rất sáng suốt
Như mặt trời chói sáng.
GIẢNG:
Đây nói rằng, sống được ở trong Pháp Hoa này thì mình vượt qua các nạn, các nạn đó không thể đến được chỗ này, dù bao nhiêu nạn đâu đến được tri kiến Phật! Các nạn chỉ đến với cái ngã này thôi. Cho nên mình sống với tri kiến Phật thì các nạn không thể đến được.Ví dụ như Tổ Sư Tử bị vua Kế Tân tới chặt đầu, nhưng Ngài thấy năm ấm còn không, huống gì cái đầu. Do đó ông vua chặt đầu nhưng không có gì để chặt hết, thì nạn nó đến mà không đến được chỗ kia.
CHÁNH VĂN:Nếu ở trong chiêm bao
Chỉ thấy những việc tốt
Thấy các đức Như Lai
Ngồi trên toà sư tử
Các hàng chúng Tỳ kheo
Vây quanh nghe nói pháp
Lại thấy các Long thần
Cùng A tu la thảy
Số như cát sông Hằng
Đều cung kính chắp tay
Tự ngó thấy thân mình
Mà vì chúng nói pháp
Lại thấy các đức Phật
Thân tướng thuần sắc vàng
Phóng vô lượng hào quang
Soi khắp đến tất cả
Dùng giọng tiếng phạm âm
Mà diễn nói các pháp
Phật vì hàng tứ chúng
Nói kinh pháp vô thượng.
Thấy thân mình ở trong
Chắp tay khen ngợi Phật
Nghe pháp lòng vui mừng
Mà vì cúng dường Phật.
Được pháp Đà La Ni
Chứng bực bất thối trí
Phật biết tâm người đó
Đã sâu vào Phật đạo
Liền vì thọ ký cho
Sẽ thành tối chánh giác.Đây do tâm mình thuần tịnh, nên cảnh mộng cũng thanh tịnh, thấy mộng tốt Phật phóng hào quang, thấy mình nói pháp, Phật biết tâm người đó sâu vào Phật đạo liền thọ ký cho.
Thiện nam tử, người này!
Sẽ ở đời vị lai
Chứng đặng vô lượng trí,
Nên đạo lớn của Phật
Cõi nước rất nghiêm tịnh
Rộng lớn không đâu bằng
Cũng có hàng tứ chúng
Chắp tay nghe nói pháp.
Lại thấy thân của mình
Ở trong rừng núi vắng
Tu tập các pháp lành
Chứng thiệt tướng các pháp
Sâu vào trong thiền định
Thấy các Phật mười phương
Các Phật thân sắc vàng
Trăm phước tướng trang nghiêm
Nghe pháp vì người nói
Thường có mộng tốt đó
Lại mộng làm Quốc vương
Bỏ cung điện quyến thuộc
Và ngũ dục thượng diệu
Đi đến nơi đạo tràng
Ở dưới cội Bồ Đề
Mà ngồi tòa sư tử
Cầu đạo quả bảy ngày
Đặng trí của các Phật
Thành đạo vô thượng rồi
Dậy mà chuyển pháp luân
Vì bốn chúng nói pháp
Trải nghìn muôn ức kiếp
Nói pháp mầu vô lậu
Độ vô lượng chúng sanh
Sau sẽ vào Niết Bàn
Như khói hết đèn tắt
Nếu trong đời ác sau
Nói pháp bực nhất này
Người đó được lợi lớn
Các công đức như trên
GIẢNG:
Ở đây nói trong mộng thấy Phật thân tướng sắc vàng, hoặc mộng làm vua bỏ cung điện rồi đi đến đạo tràng ngồi tu thành đạo được như vậy đó, thì tức là ngầm được thọ ký rồi nhưng mà trong đây thấy ý nữa, quí vị thấy ý sao? Bao nhiêu việc làm Phật sự đối với Pháp Hoa này cũng thấy như là mộng thôi hoặc tu hành, hoặc bỏ ngôi vua, hoặc ngồi cội Bồ Đề thành đạo, chuyển pháp luân, nói pháp cũng thấy như là mộng thôi, nếu thấy có thật những việc làm đó thì sao? Nếu thấy đó là thật thì còn mắc kẹt trên tướng ngã, có ta làm, có việc làm thật, đây làm mọi việc đó giống như mộng, chỉ tri kiến Phật là chân thật thôi, bao nhiêu việc có tạo tác, có chuyện này chuyện kia đều là những phương tiện, làm mà không thêm không bớt gì hết, đến đây mới là lẽ thật.Tóm lại, khi rõ tri kiến Phật rồi, thì phải trì, là phải sống, phải gìn giữ để không cho nó mất, không cho nó gián đoạn, không phải nói lý, nói lý không đến được. Cho nên đến đây là phải trì gọi là An Lạc Hạnh đó. Vậy thì bốn Hạnh An Lạc này là chỗ sống, sống trên sự để cho mình làm sao mà lý sự được như như thì mới là chỗ hay, chớ còn nói lý không thì dễ quá, thì nói tri kiến Phật ở ngay nơi mình thôi, nhưng mà sự thì chưa như vậy được, lâu lâu nó cũng còn chạy mất. Sự và lý phải như như, tức là hiểu và hành phải tương ứng, thì mới được hạt châu trên búi tóc. Cho nên hạt châu trên búi tóc cuối cùng mới mở trao cho, còn không thì cũng đứng ngó thôi.
Vậy mỗi người hãy khéo nhận ra và truyền trì, khiến cho ánh sáng Pháp Hoa này sáng mãi trên thế gian, không đoạn dứt, đó là con đường an vui bậc nhất, trăm kiếp ngàn đời không dễ gì gặp được.
-
16. Phẩm Tùng địa dũng xuất
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ Tát ở cõi nước phương khác đông hơn số cát của tám sông Hằng, ở trong đại chúng đứng dậy chắp tay làm lễ mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Nếu bằng lòng cho chúng con lúc sau khi Phật diệt độ ở tại cõi Ta Bà này siêng tu tinh tấn, giữ gìn đọc tụng biên chép cúng dường kinh điển này, thời chúng con sẽ ở trong cõi nước đây mà rộng nói đó".
Khi đó Phật bảo các chúng đại Bồ tát: "Thiện nam tử! Thôi đi chẳng cần các ông hộ trì kinh này. Vì sao? Vì cõi Ta bà của ta tự có chúng đại Bồ tát số đông bằng số cát của sáu muôn sông Hằng. Mỗi vị Bồ tát có sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc những người đó có thể sau khi ta diệt độ hộ trì đọc tụng rộng nói kinh này".
GIẢNG:
Phẩm này tiếp theo phẩm trước, Phật dạy cách thức trì kinh để được an ổn không chướng ngại, nhưng lấy cái gì để trì?
Qua phần Phật dạy bốn hạnh an lạc, các vị Bồ tát ở phương khác đứng dậy bạch Phật, xin ở đây thọ trì, giữ gìn kinh Pháp Hoa này, nhưng mà Phật không nhận, Phật bảo "Thôi đi! Thôi đi! Chẳng cần các ông thọ trì". Ở trước Phật khuyến khích ai cần hộ trì hãy đứng lên hộ trì, bây giờ các vị này đứng lên phát nguyện Phật không cho mà nói cõi Ta Bà ta đây tự có. Như vậy thấy Phật có công bằng không? Nghĩa là Bồ tát ở nơi khác tới không cho, phải ở đây mới được. Tại sao ở phía trước các vị được thọ ký, như các Ngài Đại Mục Kiền Liên, Ngài Ca Diếp rồi Ngài A Nan v.v… Các Ngài phát nguyện qua phương khác mà trì Pháp Hoa thì Phật chấp nhận. Còn bây giờ Bồ tát ở cõi khác phát nguyện ở đây trì kinh Phật không chấp nhận? Đó là ngầm ý của Phật, muốn chỉ rằng, trì kinh Pháp Hoa tức là giữ gìn tri kiến Phật, thì không thể trông cậy ỷ lại vào cái bên ngoài được, mà phải từ nơi chính mình mới giữ gìn được. Trong nhà thiền có câu: "từ cửa mà vào thì không phải là của báu ở trong nhà". Đây cũng vậy, Bồ tát ở phương khác là thuộc về bên ngoài, là trí hữu sư, trí đó không đủ sức giữ gìn tri kiến Phật này, phải trí tự nơi mình phát ra mới giữ lâu dài được. Cho nên quí vị chú ý lời Phật: ở cõi Ta Bà của ta đây "tự có", chỗ tự có là chỗ quan trọng, phải dùng cái tự có, cái sẵn nơi mình đó, thì cái đó mới giữ gìn không gián đoạn, còn cái bên ngoài e có lúc bị gián đoạn. Bồ tát phương khác qua đây trì, lâu các Ngài cũng phải trở về. Mà lúc trở về cõi các Ngài thì bỏ cõi này trống nên Phật không chấp nhận là như vậy, ý nghĩa rất là sâu. Trong nhà thiền có một đoạn:
Một hôm Ngài Nam Tuyền nói với Ngài Hoàng Bá:
- Lão Tăng ngẫu hứng có làm bài ca chăn trâu, bây giờ xin mời trưởng lão cùng hoà.
Chăn trâu là giữ gìn tri kiến Phật. Ngài Hoàng Bá nói: "Tôi tự có thầy rồi". Chính đó là ý đây, mời hòa thì nói tự có thầy, tức là Ngài tự thấy chỗ sáng của Ngài rồi, không phải nương theo cái bên ngoài nữa, thì đó mới thật sự là biết trì kinh, biết giữ gìn. Đó là niềm tự tin vững mạnh, mình tự có sức sống này, rồi lấy cái đó để trì kinh, giữ gìn tri kiến Phật thì bảo đảm không mất.
Cũng ý này, Ngài Bá Trượng một hôm dạy chúng:
- Phật pháp không phải là việc nhỏ, lão tăng xưa kia bị Mã Tổ nạt ba ngày lỗ tai còn điếc.
Hoàng Bá nghe như vậy bất chợt Ngài le lưỡi thì Ngài Bá Trượng bảo: "Con về sau thừa kế Mã Tổ chăng?", Hoàng Bá thưa:
- Dạ không, nay nhân nơi Hoà thượng nhắc lại con mới thấy Mã Tổ đại cơ đại dụng, nhưng vẫn không biết Mã Tổ, nếu con thừa kế Mã Tổ thì về sau mất hết con cháu của con.
Ngài Bá Trượng nghe vậy, mới bảo:
- Đúng vậy! Đúng vậy! Cái thấy bằng thầy thì kém thầy nửa đức, còn cái thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao, con hẳn là có cái thấy vượt hơn thầy.
Ngay đó Hoàng Bá mới lễ bái. Tại sao bảo thừa kế Mã Tổ là về sau mất hết con cháu? Nếu mình nghe đây tưởng có cái thừa kế, tiếp nối bên ngoài, đó là chỗ mất hết con cháu về sau, phải từ nơi mình mà phát xuất, thì cái đó mới là cái lâu dài được, cho nên Hoàng Bá bảo, cái thấy bằng thầy là kém thầy nửa đức cái thấy vượt hơn thầy mới kham truyền trao. Vậy có ngã mạn không? Ở đây muốn nói mình phải có cái thấy tự mình vươn lên, chớ không phải hoàn toàn ỷ lại nơi ông thầy, vượt hơn là như vậy.
CHÁNH VĂN:
Lúc Phật nói lời đó, cõi Ta Bà trong tam thiên đại thiên cõi nước đất đều rúng nứt, mà ở trong đó có vô lượng nghìn muôn ức vị Bồ Tát đồng thời vọt ra. Các vị Bồ Tát đó thân đều sắc vàng, đủ ba mươi hai tướng tốt, cùng vô lượng ánh sáng, trước đây đều ở cõi Ta Bà này, cõi đó trụ giữa hư không. Các vị Bồ Tát đó nghe tiếng nói của đức Thích Ca Mâu Ni Phật nên từ dưới mà đến. Mỗi vị Bồ Tát đều là bực đạo thủ trong đại chúng, đều đem theo sáu muôn hằng hà sa quyến thuộc, huống là những vị đem năm muôn, bốn muôn, ba muôn, hai muôn, một muôn hằng hà sa quyến thuộc. Huống là nhẫn đến những vị đem một hằng hà sa, nửa hằng hà sa, một phần hằng hà sa nhẫn đến một phần trong nghìn muôn ức na do tha phần hằng hà sa quyến thuộc. Huống là những vị đem nghìn muôn ức na do tha quyến thuộc huống là đem ức muôn quyến thuộc, huống là đem nghìn trăm muôn nhẫn đến một muôn, huống là đem một nghìn, một trăm nhẫn đến mười quyến thuộc, huống là đem năm, bốn, ba, hai, một người đệ tử. Huống lại là những vị riêng một mình ưa hạnh viễn ly, số đông vô lượng vô biên dường ấy, tính đếm thí dụ chẳng có thể biết được.
Các vị Bồ Tát từ dưới đất lên, đều đến nơi tháp đẹp bảy báu, chỗ của đức Đa Bửu Như Lai và Thích Ca Mâu Ni Phật, đến nơi rồi hướng về hai vị Thế Tôn mà đầu mặt lạy chân Phật, mà đến chỗ các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, cũng đều làm lễ. Đi quanh bên mặt ba vòng chắp tay cung kính, dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà ngợi khen Phật, rồi đứng qua một phía, ưa vui chiêm ngưỡng hai đấng Thế Tôn.
Từ lúc các vị Bồ Tát do từ dưới đất vọt lên dùng các cách ngợi khen của Bồ Tát mà khen ngợi Phật, thời gian đó trải qua năm mươi tiểu kiếp.
Bấy giờ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật nín lặng ngồi yên, cùng hàng tứ chúng thảy đều nín lặng, năm mươi tiểu kiếp, vì do sức thần của Phật, khiến hàng đại chúng cho là như nửa ngày.
Bấy giờ hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy các Bồ Tát khắp vô lượng nghìn muôn ức cõi nước hư không.
GIẢNG:
Đến đây đất cõi Ta Bà trong tam thiên, đại thiên đều rúng nứt, vô số Bồ Tát vọt ra, những Bồ Tát đó trước đây ở dưới cõi Ta Bà, trụ giữa hư không, các vị này đem theo quyến thuộc cũng vô số, từ nhiều cho đến lần lần có vị một mình thôi. Các vị Bồ Tát từ đất vọt ra đó mới đến nơi hai đức Phật Đa Bửu Như Lai và Thích Ca Mâu Ni cùng các hóa Phật làm lễ hết rồi tán thán cung kính ngợi khen, thời gian trải qua là năm mươi tiểu kiếp. Trong thời gian đó đức Phật Thích Ca cũng như Đức Phật Đa Bảo với đại chúng đều im lặng nhưng hàng đại chúng nhờ sức thần của Phật, thấy như là nửa ngày. Thứ nhất Phật vừa mới nói xong thì đất liền nứt, Bồ Tát vọt ra, đây chỉ cho đại dụng hiện tiền, nghĩa là từ nơi tự tánh ứng dụng ra thôi, chớ không phải từ ngoài mà đến. Bồ Tát đó chỉ cho diệu dụng từ trí vô sư mà phát, trí vô sư là trí thể sẵn có ở nơi chính mình, nên từ đất mà vọt ra, đất tức là đất tâm, vốn ở dưới đất không ai thấy, vì đất đóng cứng, chưa nứt tức là bị vô minh chấp ngã đóng cứng, thành ra nó bị ngăn ngại. Bởi vì khi mê thì mình chỉ biết có thân tâm năm ấm sanh diệt này thôi, đâu có biết gì khác nữa. Còn đây chính khi lời Phật phát ra là từ nơi ánh sáng chánh giác của Phật đó mà khởi, nên vô minh chấp ngã phải tan. Bồ Tát vọt ra vô số, Bồ Tát này ở dưới đất, mà trụ giữa hư không, là chỉ cho mình khi ở trong mê, nhưng nó vẫn không nhiễm ô, trí này lúc mê nó trong lòng đất, mà ở giữa hư không, chớ nó không dính đất, cho nên khi mình đủ duyên phá vô minh thì hiện ra, sẵn sàng tự bao giờ. Đó là ngầm nhắc, muốn cảm được trí vô sư này phải tâm vô trụ, bặt hết mọi cái duyên bên ngoài.
Ngài Lâm Tế từng bảo: "Sắc thân tứ đại của các ông, nó chẳng biết nói pháp, chẳng biết nghe pháp, tỳ vị gan mật chẳng biết nói pháp, chẳng biết nghe pháp, hư không chẳng biết nói pháp chẳng biết nghe pháp mà chính cái gì biết nói pháp, nghe pháp, đó là cái riêng sáng tỏ hiện bày rành rõ ngay trước mắt ông đây, cái đó nó biết nói pháp nghe pháp, nếu thấy được như thế liền cùng Phật tổ không khác". Ngài nói rõ trong đây cái sắc thân bốn đại thì đất nước gió lửa nó không biết nói pháp nghe pháp. Rồi tim, gan, tỳ, phế, thận đó nó cũng đâu có biết nói pháp nghe pháp, hư không cũng vậy, chính một cái riêng sáng tỏ hiện bày ngay trước mắt ông đây, cái đó nó biết nói pháp nghe pháp, cái đó là cái trụ giữa hư không, cái đó nó không có trụ trong bốn đại, nó không trụ trong tim, gan, phổi, thận gì hết, mà tự nó riêng sáng tỏ rõ ràng, đó là cái giữ gìn Pháp Hoa, giữ gìn tri kiến Phật. Trong đây cái gì biết nói biết nghe? Mình cứ nghĩ là cái miệng biết nói, cái lỗ tai biết nghe, chính cái đó là cái nó che, đó gọi là đất đóng cứng, giờ làm sao cho trong đó đất nứt ra, thì Bồ Tát này từ trong đây vọt ra thôi. Rồi Bồ Tát đông vô số, quyến thuộc cũng vô số, cọâng thêm hóa Phật của Phật Thích Ca mười phương tựu về ngồi trên tòa sư tử, thì tất cả những vị đó tính chừng bao nhiêu? Vậy thì để đâu cho hết đây? Phật nói kinh Pháp Hoa này ở nơi Linh Sơn, thì núi Linh Sơn đó chừng bao lớn? Ở đây Bồ Tát ở giữa hư không, hư không đó ở ngay lòng đất, cái không ngay lòng đất, tức là sắc và không không ngăn ngại gì với nhau, rồi nhiều và ít nó cũng vô ngại, bởi vì đến đây là bặt niệm nhiều ít lớn nhỏ, không còn thấy niệm đây kia thì cảm được trí vô sư này, nó mới hiện ra, còn mình vừa nghĩ nhiều ít thì ngay đó đất đóng kín. Rồi chư Bồ Tát đến hai Đức Như Lai cùng với các hóa Phật, làm lễ tán thán thời gian trải qua năm mươi tiểu kiếp. Phật Thích Ca cùng tứ chúng năm mươi tiểu kiếp đều nín lặng do sức thần của Phật, đại chúng tưởng như nửa ngày thôi. Vậy quí vị đọc có nghi không? Trong khi đó thì Phật Thích Ca nhập Niết Bàn tới đây mới hai ngàn mấy trăm năm, vậy các Ngài còn đi loanh quanh đó, phải không? Bởi khi mở trí vô sư này thì trí đó nó thấu suốt qua thời gian lâu mau ngắn dài không thành vấn đề, vì thời gian chỉ là khái niệm thôi, mình dùng tâm phân biệt của mình mà thấy hoặc lâu, hoặc mau, nếu tâm định rồi thì vượt qua thời gian. Ngay đây niệm giác này quí vị sống được trong đó cho đến khi thành Phật thì cũng thành một niệm giác đó, đâu phải có niệm gì khác, thì thời gian vô lượng kiếp cũng ngay một niệm đó thôi, cho nên có câu "ba đời trong một niệm". Rồi Phật cũng im lặng, tứ chúng cũng im lặng, đây là nói lên, chuyện đó là chuyện đối diện ngay trước mắt, thấy rõ ràng đó, nhưng nói không ra, diễn tả không thể đến được, chỉ phải nín lặng thầm nhận, thầm biết thôi, người ở trong đó thì biết còn người ngoài thì không thể rõ. Mình giờ nghe nói cũng tưởng tượng vậy thôi, nếu biết được phải vào trong đó thôi. Cho nên cái im lặng này là im lặng sấm sét chớ không phải thường, im lặng mà vang dội tới tận ngày nay và nó còn vang mãi tới sau này nữa. Ở trong đây ai cảm được cái im lặng này thì hay biết mấy! Nếu cảm sự im lặng này thì thấy ngay Phật Thích Ca, Phật Đa Bảo, vô số Bồ Tát, cảnh đó còn đang hiện tiền. Bởi vì chính mỗi người đó là vị hóa Phật rồi, mỗi vị ngồi đây là vị hóa Phật chứng minh chớ còn gì nữa, nhưng không sống được với hóa Phật, không chứng minh được, mà sống với cái vô minh, nên không thấy được gì hết. Người đọc Pháp Hoa mà đọc theo chữ nghĩa thì thấy chuyện này là chuyện đâu đâu, chuyện của Phật không dính dáng gì tới mình hết, nhưng chính đây là chuyện của mình, chớ không phải là của ai khác.
Bấy giờ hàng tứ chúng cũng nhờ sức thần của Phật, thấy Bồ Tát khắp vô lượng nghìn muôn ức cõi nước hư không.
Vậy mỗi người thử dùng sức thần của Phật xem thấy vị Bồ Tát nào chưa? Phải nương sức thần của Phật mà nhìn, thì sẽ thấy Bồ Tát đông vô số đang đầy ở hư không. Tức là mình quên được niệm chúng sanh này mà thấy bằng cái thấy của tri kiến Phật, thì ngay trước mắt đây, đâu đâu cũng là thanh tịnh sáng ngời, là chỗ nào cũng có Bồ Tát chớ gì.
CHÁNH VĂN:Trong chúng Bồ Tát đó có bốn vị đạo sư: 1. Thượng Hạnh, 2. Vô Biên Hạnh, 3. Tịnh Hạnh, 4. An Lập Hạnh. Bốn vị Bồ Tát này là bực thượng thủ xướng đạo sư trong chúng đó, ở trước đại chúng, bốn vị đồng chắp tay nhìn đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà hỏi thăm rằng: "Thưa Thế Tôn, có được ít bệnh, ít não, an vui luôn chăng, những người đáng độ thọ giáo dễ chăng, chẳng làm cho đức Thế Tôn sanh mỏi nhọc chăng?".
Khi đó bốn vị Bồ Tát nói kệ rằng:
Thế Tôn được an vui
Ít bệnh cùng ít não,
Giáo hóa các chúng sanh
Đặng không mỏi nhọc ư?
Thọ hóa có dễ chăng?
Chẳng làm cho Thế Tôn
Sanh nhọc mệt đó ư?Lúc bấy giờ đức Thế Tôn ở trong đại chúng Bồ Tát mà nói rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Các thiện nam tử! Đức Như Lai an vui, ít bệnh, ít não, các hàng chúng sanh hóa độ được dễ, không có nhọc mệt.
Vì sao? Vì các chúng sanh đó, từ nhiều đời nhẫn lại, thường được ta dạy bảo, mà cũng từng ở nơi các Phật quá khứ, cung kính, tôn trọng, trồng các cội lành. Các chúng sanh đó mới vừa thấy thân ta, nghe ta nói Pháp, liền đều tín nhận, vào được trong huệ của Như Lai, trừ người trước đã tu tập học hạnh tiểu thừa những người như thế ta cũng khiến được nghe kinh này, vào trong huệ của Phật".Lúc ấy các vị đại Bồ Tát nói kệ rằng:
Hay thay! Hay thay!
Đức đại hùng Thế Tôn
Các hàng chúng sanh thảy
Đều hóa độ được dễ
Hay hỏi các đức Phật
Về trí huệ rất sâu
Nghe Pháp rồi tin làm
Chúng con đều tùy hỷ.Khi đó, đức Thế Tôn khen ngợi các vị đại Bồ Tát thượng thủ: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Các ông có thể đối với đức Như Lai mà phát lòng tùy hỷ".
GIẢNG:
Bốn vị thượng thủ đều mang tên có chữ "hạnh", đây muốn nói lên khai phát trí vô sư đó, sống trong trí vô sư đó là hạnh trên hết, là hạnh căn bản thành Phật. Các vị đó đến thăm hỏi đức Phật: có an ổn giáo hóa dễ không? Phật nói "Những chúng sanh được giáo hóa đó, thường được dạy bảo, cũng từng ở nơi các đức Phật quá khứ, trồng cội lành sâu, do đó những chúng sanh này vừa thấy thân ta, nghe ta nói pháp thì liền được tin nhận vào trong huệ của Như Lai". Vừa thấy vừa nghe là đều tin nhận hết, tức là hạt giống Phật đó đã sẵn có rồi, thì gợi lại liền tin nhận. "Trừ người trước tu theo hạnh tiểu thừa, những người này, ta cũng khiến được nghe kinh này vào trong trí huệ Phật", cho thấy rõ Như Lai không bỏ sót ai, bởi vì đây là lẽ thật sẵn có nơi mình, chớ không phải từ ai làm ra, mình tin hay không tin cũng vẫn là nó thôi, chớ không phải không tin là không có. Các Bồ Tát mới khen Phật:
Hay thay! Hay thay!
Đức Đại hùng Thế Tôn
Các hàng chúng sanh thảy
Đều hóa độ được dễ
Hay hỏi các Đức Phật
Về trí huệ rất sâu
Nghe Pháp rồi tin làm
Chúng con đều tùy hỷTrí huệ này không phải nằm trên ngôn ngữ chữ nghĩa, cho nên gọi là trí tuệ sâu. Nghe Pháp tin làm, chúng con đều tùy hỷ, đây là thầm cảm thầm thông với trí tuệ sâu xa đó. Bởi vì việc đó không phải dễ gì tin, nếu mình còn kẹt trong tâm niệm đây kia, có thể là đối trước mặt đó mà vẫn nghi ngờ.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Ngài Di Lặc Bồ Tát cùng tám nghìn hằng hà sa các chúng Bồ Tát đều nghĩ rằng: "Chúng ta từ xưa nhẫn lại, chẳng thấy, chẳng nghe các chúng đại Bồ Tát như thế, từ dưới đất vọt lên, đứng trước đức Thế Tôn, chắp tay cúng dường thăm hỏi Như Lai".
Lúc đó, Ngài Di Lặc Bồ Tát biết tâm niệm của tám nghìn hằng hà sa chúng Bồ Tát, cùng muốn tự giải quyết chỗ nghi của mình, bèn chấp tay hướng về phía Phật, nói kệ hỏi rằng:
Vô lượng nghìn muôn ức
Các Bồ Tát đại chúng
Từ xưa chưa từng thấy
Nguyện đấng Lưỡng Túc nói
Là từ chốn nào đến
Do nhơn duyên gì nhóm?
Thân lớn đại thần thông
Trí huệ chẳng nghĩa bàn
Chí niệm kia bền vững
Có sức nhẫn nhục lớn
Chúng sanh chỗ ưa thấy
Là từ chốn nào đến?
Mỗi mỗi hàng Bồ Tát
Đem theo các quyến thuộc
Số đông không thể lường
Như số hằng hà sa
GIẢNG:
Đây hỏi các vị Bồ Tát đó không biết chỗ nào đến, nhưng tại sao nghi không biết chỗ nào đến? Đó là còn kẹt chỗ nơi, nên còn nghi, mà có chỗ là thuộc về cái bên ngoài rồi.CHÁNH VĂN:
Hoặc có đại Bồ Tát
Đem sáu muôn hằng sa
Các đại chúng như thế
Một lòng cầu Phật đạo
Những đại sư đó thảy
Sáu muôn hằng hà sa
Đều đến cúng dường Phật
Cùng hộ trì kinh này.
Đem năm muôn hằng sa
Số này hơn số trên
Bốn muôn và ba muôn
Hai muôn đến một muôn
Một nghìn một trăm thảy
Nhẫn đến một hằng sa
Nửa và ba bốn phần
Một phần trong ức muôn
Nghìn muôn na do tha
Muôn ức các đệ tử
Nhẫn đến đem nữa ức
Số đông lại hơn trên
Trăm muôn đến một muôn
Một nghìn và một trăm
Năm mươi cùng một mươi
Nhẫn đến ba, hai, một
Riêng mình không quyến thuộc
Ưa thích ở riêng vắng
Đều đi đến chỗ Phật
Số đây càng hơn trên
Các đại chúng như thế
Nếu người phát thẻ đếm
Quá nơi kiếp hằng sa
Còn chẳng thế biết hết
Các vị oai đức lớn
Chúng Bồ Tát tinh tấn.
Ai vì đó nói pháp
Giáo hóa cho thành tựu?
Từ ai, đầu phát tâm?
Xưng dương Phật pháp nào?
Thọ trì tu kinh gì?
Tu tập Phật đạo nào?
Các Bồ Tát như thế?
Thần thông sức trí lớn
Đất bốn phương rúng nứt
Đều từ đất vọt lên
Thế Tôn! Con từ xưa
Chưa từng thấy việc đó
Xin Phật nói danh hiệu
Cõi nước của kia ở.
Con thường qua các nước
Chưa từng thấy chúng này
Bèn chẳng quen một người
Thoạt vậy từ đất lên
Mong nói nhơn duyên đó
Nay trong đại hội này
Vô lượng trăm nghìn ức
Các chúng Bồ Tát đây
Đều muốn biết việc này
Hàng Bồ Tát chúng kia
Gốc ngọn nhơn duyên đó
Thế Tôn đức vô lượng
Cúi mong quyết lòng nghi.
Đó là kệ nghi hỏi xin Phật giải nghi cho.CHÁNH VĂN:
Khi ấy các vị Phật của Đức Thích Ca Mâu Ni phân thân, từ vô lượng nghìn muôn ức cõi nước ở phương khác đến, ngồi xếp bằng trên tòa sư tử, dưới các cội cây báu nơi trong tám phương. Hàng thị giả của Phật đó, đều thấy đại chúng Bồ Tát ở bốn phương cõi tam thiên đại thiên, từ đất vọt lên trụ trên hư không, đều bạch với Phật mình rằng: "Thế Tôn! Các đại chúng vô lượng vô biên a tăng kỳ Bồ Tát đó, từ chốn nào mà đến?".
Lúc ấy các Đức Phật đều bảo thị giả: "Các thiện nam tử! Hãy chờ giây lát, hiện có vị đại Bồ Tát tên là Di Lặc, là vị mà đức Thích Ca Mâu Ni Phật thọ ký kế đây sẽ làm Phật đã hỏi việc đó, đức Phật sẽ đáp, các ông tự đương nhơn đây mà được nghe.
GIẢNG:
Tức là Bồ Tát Di Lặc khởi nghi, thị giả của các hóa Phật cũng nghi. Bồ Tát Di Lặc tượng trưng cho thức, Bồ Tát nhiều như vậy mà không quen vị nào hết, bởi vì tâm thức cứ lo duyên ra ngoài thôi, sống theo cái biết và cái bị biết, do huân tập tích lũy mà thành, cái gì không nằm trong những cái nó huân tập đó, đã quen phân biệt đó thì không biết. Những Bồ Tát này là từ nơi tự tánh ứng hiện ra, không thuộc duyên bên ngoài, không thuộc về cái huân tập tích lũy, nên không quen người nào hết. Ngầm chỉ mình muốn biết chỗ này thì phải quên những niệm phân biệt đó, mới rõ được.CHÁNH VĂN:
Bây giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Di Lặc Bồ Tát: "Hay thay! Hay thay! A Dật Đa, bèn có thể hỏi Phật việc lớn như thế, các ông phải chung một lòng, mặc giáp tinh tấn phát ý bền vững. Nay đức Như Lai muốn hiển phát tuyên bày trí tuệ của các Đức Phật, sức thần thông tự tại của các đức Phật, sức sư tử mạnh nhanh của các đức Phật, sức oai thế mạnh lớn của các đức Phật".
Khi đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Phải một lòng tinh tấn
Ta muốn nói việc này
Chớ nên có nghi hối
Trí Phật chẳng nghĩ bàn
Ông nay gắng sức tin
Trụ nơi trong nhẫn thiện
Chỗ pháp xưa chưa nghe
Nay đều sẽ được nghe
Nay ta an ủi ông
Chớ ôm lòng nghi sợ
Phật không lời chẳng thiệt
Trí huệ chẳng nghĩ bàn
Phật đặng pháp bực nhứt
Rất sâu khó phân biệt
Như thế nay sẽ nói
Các ông một lòng nghe.Khi đức Thế Tôn nói kệ đó, bảo Ngài Di Lặc Bồ tát: "Nay ta ở trong đại chúng này, tuyên bảo các ông. A Dật Đa! Các hàng đại Bồ tát vô lượng vô số a tăng kỳ, từ dưới đất vọt ra mà các ông từ xưa chưa từng thấy đó, chính ta ở cõi Ta Bà lúc đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác rồi, giáo hóa chỉ dẫn các Bồ tát đó điều phục tâm kia khiến phát đạo tâm.
Các vị Bồ Tát đó, ở phía dưới cõi Ta Bà, cõi đó trụ giữa hư không, ở trong các kinh điển đọc tụng thông lẹ, suy ngẫm rõ hiểu, nghĩ tưởng chơn chánh. A Dật Đa! Các thiện nam tử đó chẳng thích ở trong chúng nhiều nói bàn, thường ở chỗ vắng, siêng tu tinh tấn chưa từng thôi dứt. Cũng chẳng nương tựa người trời mà ở, thường ham trí huệ sâu không có chướng ngại, cũng thường ham nơi pháp của đức Phật, chuyên lòng tinh tấn cầu nguyện vô thượng.
GIẢNG:
Đây Phật Thích Ca đáp, nhưng trước khi đáp thì Phật chuẩn bị trước, vì là những điều bất ngờ. Phật khen: Hay thay! Hay thay! Ông có thể hỏi "việc lớn" như vậy. Chỉ hỏi Bồ tát này ở đâu, ai giáo hóa thôi, tại sao Phật bảo là việc lớn, quí vị thấy lớn chỗ nào? Bởi vì đây là chỗ giữ gìn tri kiến Phật không phải thường, rõ được chỗ này là chỗ sống vĩnh viễn của Như Lai, ở thế gian này không có gì sánh kịp. Nhưng mà muốn hiểu được việc đó thì sao? Các ông phải chung một lòng mà nghe. Quí vị giờ đây chung một lòng chưa, hay là còn người nghĩ đông, người nghĩ tây? Rồi phải mặc giáp tinh tấn, ý bền vững, ngay đây phải hết lòng toàn tâm mà lắng nghe! Phật lại nói kệ an ủi các ông phải một lòng tinh tấn, chớ có nghi bởi vì trí Phật không nghĩ bàn. Phật không nói dối. Phật đặng pháp bậc nhứt, rất sâu khó phân biệt, như thế sẽ nói cho các ông nghe. Phật chuẩn bị rất kỹ. Người ngoài nghe tưởng đâu Phật tự khen Ngài, nhưng đây là chuẩn bị điều bất ngờ khó tin! Đây Phật đáp: Bồ tát đó là ở ngay cõi Ta Bà này, chính Ngài thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, mà Ngài giáo hóa không phải từ đâu xa, không phải ở lúc nào hết. Bởi khi Phật thành đạo, Ngài có nói ta thành đạo không thầy, vì lúc đầu đi học ông thầy này thầy kia Ngài không hài lòng, cuối cùng Ngài buông hết, tới dưới cội bồ đề Ngài ngồi thiền qua bốn mươi chín ngày, Ngài tự sáng lên thành đạo, nên nói thành đạo không thầy, đó là chỗ muốn chỉ ở đây. Nghĩa là các vị Bồ tát này chỉ cho trí không thầy đó. Rồi những vị đó ở cõi Ta Bà trụ giữa hư không, tức là trụ mà không trụ, là muốn nói luôn luôn chỗ nào nó cũng hiện tiền, vì không có chỗ nào để trụ hết. Mà muốn rõ chỗ đó thì phải soi lại chính mình thôi, bỏ đi hỏi thì không thấy được.Có lần ông tăng hỏi Ngài Triệu Châu: "Thế nào là vật của học nhân giữ gìn?" Ngài Triệu Châu đáp:
- Tột mé vị lai chọn chẳng ra.
Vật của ông giữ gìn mà đi hỏi ai? Cho nên ông tìm tột mé vị lai cũng chọn không ra được, bởi vì nếu chọn ra thì thuộc vật của người khác rồi. Ở đây các Ngài không nương tựa trời người cũng là một ý nghĩa sâu xa, mà trong nhà thiền thường nói: "Ta chẳng từ trời người mà đến". Tức là chỗ này không phải từ bên ngoài mà vào, nếu người nhạy bén một chút thì nghe chỗ này là mình nhận ra liền, nó có sẵn nơi mình. Nhớ lại câu chuyện của Đức Sơn, đến chỗ Ngài Sùng Tín, một hôm Sư đứng hầu khuya, Sùng Tín bảo: sao ông không xuống đi! Sư đi ra, thấy bên ngoài trời tối, bèn trở vào thưa bên ngoài trời tối đen, Ngài Sùng Tín đốt đèn đưa cho, Đức Sơn đưa tay nhận, Ngài Sùng Tín thổi tắt. Ngay đó Đức Sơn liền ngộ. Tại sao đưa đèn, vừa tiếp lại thổi tắt? Bởi vì Đức Sơn nói trời tối cũng có hai ý, là trời khuya thì tối, và con cũng còn đang tối. Đây ông tối thì ta đưa đèn cho nhưng ông tiếp thì liền thổi tắt, vì đèn là từ bên ngoài đưa ông, ông nhận là cái của người khác, chính ông mở sáng được cái đèn của ông, đèn đó mới sáng mãi. Cái đó mới là cái chân thật, là cái giúp mình giữ tri kiến Phật lâu dài được, cho nên đây nói: "Không từ trời người mà đến, không nương tựa trời người mà ở", phải tự nơi mình phát ra thôi.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
A Dật ông nên biết!
Các Bồ Tát lớn này
Từ vô số kiếp lại
Tu hạnh trí huệ Phật
Đều là ta hóa độ
Khiến phát đại đạo tâm
Chúng đó là con ta
Y chỉ thế giới này
Thường tu hạnh đầu đà
Chỉ thích ở chỗ vắng
Bỏ đại chúng ồn náo
Chẳng ưa nói bàn nhiều
Các vị đó như thế
Học tập đạo pháp ta
Ngày đêm thường tinh tấn
Vì để cầu Phật đạo
Ở phương dưới Ta Bà
Trụ giữa khoảng hư không
Sức chí niệm bền vững
Thường siêng cầu trí huệ
Nói các món pháp mầu
Tâm kia không sợ sệt
Ta ở thành Già Da
Ngồi dưới cội Bồ Đề
Thành bực tối chánh giác
Chuyển pháp luân vô thượng
Rồi mới giáo hóa đó
Khiến đầu phát đạo tâm
Nay đều trụ bất thối
Đều sẽ đặng thành Phật
Nay ta nói lời thiệt
Các ông một lòng tin
Ta từ lâu xa lại
Giáo hóa các chúng đó.Đây nhắc lại những chúng Bồ Tát đó, do Đức Phật giáo hóa khi thành đạo dưới cội Bồ Đề.
CHÁNH VĂN:Lúc bấy giờ, Ngài Di Lặc Bồ Tát cùng vô số chúng Bồ Tát, lòng sanh nghi hoặc lấy làm lạ chưa từng có mà nghĩ rằng: "Thế nào Đức Thế Tôn ở trong thời gian rất ngắn mà có thể giáo hóa vô lượng vô biên a tăng kỳ các đại Bồ Tát đó, làm cho trụ nơi Vô thượng chánh đẳng chánh giác?".
Liền bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Đức Như Lai lúc làm Thái tử rời khỏi cung dòng Thích, ngồi nơi đạo tràng cách thành Già Da chẳng bao xa, đặng thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Từ đó đến nay mới hơn bốn mươi năm, đức Thế Tôn thế nào ở trong thời gian ngắn đó làm nên phật sự lớn! Do thế lực của Phật, do công đức của Phật, giáo hóa vô lượng chúng Bồ Tát lớn như thế sẽ thành vô thượng chánh đẳng, chánh giác?
Thế Tôn! Chúng đại Bồ Tát này giả sử có người trong nghìn muôn ức kiếp đếm không thể hết, chẳng đặng ngằn mé, chúng đó từ lâu nhẫn lại, ở nơi Vô lượng vô biên các đức Phật, trồng các cội lành, thành tựu đạo Bồ Tát, thường tu phạm hạnh.
Thế Tôn! Việc như thế đời rất khó tin. Thí như có người sắc đẹp tóc đen tuổi hai mươi lăm, chỉ người trăm tuổi, nói đó là con của ta. Người trăm tuổi nọ cũng chỉ gã tuổi nhỏ, nói là cha ta, đẻ nuôi ta thảy, việc đó khó tin. Đức Phật cũng như thế.
Từ lúc thành đạo nhẫn đến nay, kỳ thiệt chưa bao lâu, mà các đại chúng Bồ Tát đó, đã ở nơi vô lượng ngàn muôn ức kiếp vì Phật đạo nên siêng tu tinh tấn, khéo nhập xuất trụ nơi vô lượng nghìn muôn ức tam muội, đặng thần thông lớn, tu hạnh thanh tịnh đã lâu, khéo hay thứ đệ tập các pháp lành, giỏi nơi vấn đáp, là báu quý trong loài người, tất cả thế gian rất là ít có.
Ngày nay đức Thế Tôn mới nói, lúc đặng Phật đạo, bắt đầu khiến kia phát tâm, giáo hóa chỉ dạy dìu dắt, làm cho kia hướng về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đức Thế Tôn thành Phật chưa bao lâu mà bèn có thể làm được việc công đức lớn này.
Chúng con dầu lại tin Phật tùy cơ nghi nói pháp, lời Phật nói ra chưa từng hư vọng, chỗ Phật biết thảy đều thông suốt, nhưng các Bồ Tát mới phát tâm, sau khi Phật diệt độ, nếu nghe lời này hoặc chẳng tin nhận, sanh nhơn duyên tội nghiệp phá chánh pháp.
Kính thưa Thế Tôn! Mong vì chúng giải nói trừ lòng nghi của chúng con, và các thiện nam tử đời vị lai nghe việc này rồi cũng chẳng sanh nghi.
GIẢNG:
Phật nói chúng đó là do Ngài giáo hóa, thì Ngài Di Lặc với đại chúng đều nghi, nói rằng Phật thành đạo cách đây mấy mươi năm, mà chúng Bồ Tát này thì vô số tính không thể hết, nên mới thí dụ cha trẻ mà con già, chuyện đó khó tin trái với thế gian. Chính chỗ này Phật biết trước rồi nên Phật dặn kỹ: "Các ông phải mặc giáp tinh tấn, phải chung một lòng, là Ngài nói lời chân thật không dối", nhưng các vị cũng còn thấy nghi. Bởi vì còn kẹt trên trí hữu sư, còn thấy theo tướng năm ấm sai biệt. Thấy Phật Thích Ca mới thành đạo dưới cội Bồ Đề. Nếu mình nghĩ, Phật thành đạo là mới thành, vậy trước đó đạo ở đâu? Tức là trước đó chưa có, khi thành đạo dưới cội Bồ Đề mới có, đó là đạo sanh diệt rồi, vì có rồi nó sẽ mất. Còn đây muốn chỉ Phật pháp thân, là cái sẵn tự bao giờ. Những Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, là diệu dụng từ Pháp thân mà phát ra, vậy muốn thấy chỗ này là phải thấy trở lại pháp thân.
Hiểu như vậy mới thấy Phật nói là giáo hóa chúng Bồ Tát đó thì Phật này là Phật gì mới được. Chớ còn hiểu Phật Thích Ca đã sanh ra ở Ấn Độ, rồi tu hành, thành đạo dưới cội Bồ Đề thì Phật đó thuộc về Phật sanh diệt, có sanh ra có nhập Niết Bàn. Đây muốn mình phải thấy Phật thật kia.
CHÁNH VĂN:Lúc đó Ngài Di Lặc muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Phật xưa từ dòng Thích
Xuất gia gần Già Da
Ngồi dưới cây Bồ Đề
Đến nay còn chưa xa
Các hàng Phật tử này
Số đông không thể lường
Lâu đã tu Phật đạo
Trụ nơi sức thần thông
Khéo học đạo Bồ Tát
Chẳng nhiễm pháp thế gian
Như hoa sen trong nước
Từ đất mà vọt ra
Đều sanh lòng cung kính
Đứng nơi trước Thế Tôn
Việc đó khó nghĩ bàn
Thế nào mà tin được?
Phật đặng đạo rất gần
Chỗ thành tựu rất nhiều
Mong vì trừ lòng nghi
Như thiệt phân biệt nói
Thí như người trẻ mạnh
Tuổi mới hai mươi lăm
Chỉ người trăm tuổi già
Tóc bạc và mặt nhăn
Bọn này của ta sanh
Con cũng nói là cha
Cha trẻ mà con già
Mọi người đều chẳng tin.
Thế Tôn cũng như thế
Đặng đạo đến nay rồi
Các chúng Bồ Tát này
Chí vững không khiếp nhược
Từ vô lượng kiếp lại
Mà tu đạo Bồ Tát
Giỏi nơi gạn hỏi đáp
Tâm kia không sợ sệt
Nhẫn nhục lòng quyết định
Đoan chánh có oai đức
Mười phương Phật khen ngợi
Khéo hay phân biệt nói
Chẳng thích ở trong chúng
Thường ưa ở thiền định
Vì cầu Phật đạo vậy
Trụ hư không phương dưới
Chúng con từ Phật nghe
Nơi việc này không nghi
Nguyện Phật vì người sau
Diễn nói khiến rõ hiểu
Nếu người ở kinh này
Sanh nghi lòng chẳng tin
Liền phải đọa đường dữ
Mong đây vì giải nói
Vô lượng Bồ Tát đó
Thế nào thời gian ngắn
Giáo hóa khiến phát tâm
Mà trụ bực bất thối?
GIẢNG:
Đó là lập lại ý trên, nghi những Bồ Tát nhiều vô số như vậy, mà Phật thì mới thành đạo gần đây sao gọi là Ngài giáo hóa hết được, xin Phật giải nghi cho.Tóm lại đây ngầm chỉ, muốn trì kinh Pháp Hoa phải dùng trí vô sư mà trì, còn trí hữu sư không thể trì nổi, vì là trí học hỏi mà được, từ bên ngoài mà vào, còn vô sư là sẵn có nơi mình, phải phát triển trí của mình, dùng trí đó mà giữ gìn tri kiến Phật.
Có câu chuyện: Người mù tới thăm người bạn nói chuyện mãi tới tối từ giã về, người bạn đưa lồng đèn cho anh, nhưng anh mù nói:
- Anh thiệt lẩm cẩm, tôi mù có đèn cũng như không, cần gì cầm đèn?
Nhưng anh bạn nói:
- Cầm đèn, người khác đi họ thấy đèn họ tránh anh, chớ không họ đâm vào anh.
Anh thấy có lý, cầm đèn đi ra một lúc, gặp người đi đường đâm sầm vào, anh mù la:
- Cái anh này bộ không thấy sao? Tôi cầm đèn mà còn đâm vào tôi?
Anh kia nói:
- Đèn của anh tắt từ lâu rồi anh ơi!
Đèn từ người khác đưa cho mình là chỉ cho trí hữu sư, đưa cho mình cầm mà không dùng được, nó tắt hồi nào cũng không hay. Cầm cây đèn đó mà không cứu được mình, cũng bị người ta đụng mình. Ý nói chỉ có trí vô sư sáng lên mới giúp mình giữ tri kiến Phật, mới qua được nạn.
-
17. Phẩm Như lai Vô lượng thọ
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Phật bảo các Bồ Tát và tất cả các đại chúng: "Các thiện nam tử! Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai. Lại bảo đại chúng: Các ông phải tin hiểu lời nói chắc thật của Như Lai".
Lúc đó, đại chúng Bồ Tát, Ngài Di Lặc làm đầu, chắp tay bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận lời Phật". Ba phen bạch như thế rồi lại nói: "Cúi mong nói đó, chúng con sẽ tin nhận được lời Phật".
GIẢNG:
Phẩm trước là phẩm Tùng Địa Dũng Xuất, đã nêu lên nghi vấn cha trẻ con già, nhưng Phật chưa trả lời, qua phần này Phật trả lời điều đó, nên nói Như Lai thọ lượng tức số lượng tuổi thọ của Như Lai.
Nhưng chỗ này lại rất khó hiểu, vì vậy trước khi nói Phật nhấn mạnh ba lần: "các ông phải tin vào lời nói chắc thật của Như Lai", bảo phải tin, đây là lời nói thành thật, không hư dối, tại sao Phật ân cần dặn kỹ vậy? Đây Phật muốn mọi người đem hết toàn tâm để nghe, chớ không thể nghe một cách hời hợt, vì điều Ngài sắp nói là điều vượt ngoài sức tưởng tượng của mình. Chúng Bồ Tát cũng ba lần bạch Phật: "cúi mong nói đó, chúng con tin nhận lời Phật", đó là phải đợi tâm thiết tha, sẵn sàng tiếp nhận thì đưa ra, mới có lợi ích, chớ họ chưa hết lòng, nói dễ dàng là khinh thường. Như Dương Kỳ với Ngài Từ Minh, mỗi lần đến thưa hỏi Từ Minh chỉ nói:
- Việc trong kho quá nhiều, ông hãy đi đi. Có lúc thì Ngài Từ Minh bảo:
- Giám Tự, ngày sau con cháu đầy khắp thiên hạ cần gì vội gấp.
Để cho lòng khao khát của Dương Kỳ quá mức, hôm đó thấy Từ Minh đi ra ngoài, chợt trời đổ mưa xuống, Dương Kỳ rình chỗ con đường tắt, khi Ngài Từ Minh vừa đi tới thì Sư nắm đứng ngay Từ Minh nói:
- Ông già này, hôm nay ông phải nói cho tôi, ông không nói tôi sẽ đánh ông.
Ngài Từ Minh liền bảo:
- Giám Tự biết việc quanh co liền thôi.
Thì ngay đó Dương Kỳ liền ngộ, Sư lễ ngay dưới bùn luôn. Cho thấy, khi tâm khao khát, sẵn sàng rồi, nói nhẹ liền tiếp nhận.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, đức Thế Tôn biết các vị Bồ Tát ba phen thỉnh chẳng thôi, mà bảo đó rằng: "Các ông lóng nghe! Sức bí mật thần thông của Như Lai, tất cả trong đời, trời, người và A tu La đều cho rằng đức Thích Ca Mâu Ni Phật ra khỏi cung họ Thích, cách thành Già Da chẳng bao xa, ngồi nơi đạo tràng, đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác.Nhưng thiện nam tử! Thiệt ta thành Phật nhẫn lại đây, đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha kiếp. Ví như năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên, đại thiên, giả sử có người nghiền làm vi trần qua phương Đông, cách năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước, bèn rơi một bụi trần, đi qua phía đông như thế cho đến hết vi trần đó.
Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Các thế giới đó có thể suy gẫm so tính biết được số đó chăng?"
Di Lặc Bồ Tát thảy, đều bạch Phật rằng:
"Thế Tôn! Các thế giới đó vô lượng vô biên, chẳng phải tính được đếm được, cũng chẳng phải tâm lực biết đến được. Tất cả Thanh Văn, Duyên Giác dùng trí vô lậu chẳng có thể suy nghĩ biết được hạng số đó. Chúng con trụ bực bất thối, ở trong việc này cũng chẳng thông đạt.
Thế Tôn! Các thế giới như thế, nhiều vô lượng vô biên".
Bấy giờ Phật bảo các chúng Bồ Tát "Các Thiện nam tử! Nay ta sẽ tuyên nói rành rõ cho các ông. Các thế giới đó, hoặc dính vi trần hoặc chẳng dính, đều nghiền cả làm vi trần, cứ một trần là một kiếp, từ ta thành Phật nhẫn lại đến nay, lại lâu hơn số đó trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp. Từ đó nhẫn lại ta thường ở cõi Ta Bà này nói Pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dắt dẫn lợi ích chúng sanh.
Các thiện nam tử! Nơi chặng giữa đó ta nói Phật Nhiên Đăng v.v… và lại có các đức Phật nhập Niết Bàn, như thế đều là dùng phương tiện để phân biệt.
GIẢNG:
Trước khi trả lời Phật dặn: "Các ông phải lóng nghe đây là sức bí mật thần thông của Như Lai". Đó là Ngài ngầm chỉ, mình muốn thấu được chỗ này là phải quên cái hiểu lè tè trên mặt đất đi, bởi vì đây là thần thông bí mật của Như Lai. Theo cái thấy của thế gian sanh diệt này, thì Phật Thích Ca là Thái Tử Tất Đạt Đa bỏ thành ra khỏi cung vua Tịnh Phạn dòng họ Thích đi đến cội Bồ Đề tu hành thành đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Nhưng Phật nói: thiệt ta thành Phật đến nay đã vô lượng trăm nghìn muôn kiếp rồi.Phật thí dụ: Ví như năm trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi tam thiên đại thiên, tất cả đem nghiền làm bụi hết, rồi đi qua phương đông cách năm trăm nghìn ức na do tha cõi nước, mới để rơi một hạt bụi xuống, đi làm sao cho rơi hết các bụi đó. Phật thêm một bước nữa, bây giờ các thế giới đã đi qua đó có dính hạt bụi, hoặc không dính hạt bụi đều nghiền làm hạt bụi hết, một hạt bụi là một kiếp, mà từ Ngài thành Phật đến nay còn hơn số đó nữa, vậy làm sao tin nổi? Cho nên trước khi nói Ngài đã nhấn mạnh: các ông phải tin lời nói chắc thật của Như Lai! Quả là hết sức tưởng tượng, mà chính cái không thể tưởng tượng nổi, đó chính là tuổi thọ Như Lai. Bởi vì ở đây muốn cho mình nhận trở lại gốc chân thật từ xưa mà quên cái thấy theo ngã tưởng Phật có ra đời, có tu hành, có thành đạo thì Phật đó thuộc về sanh diệt rồi. Phật chân thật là Phật pháp thân thì không phải mới thành, nên nói thành từ lâu rồi không tính kể được. Chính chỗ này Ngài Phó Đại Sĩ có bài kệ:
Như Lai nêu thân tướng
Vì thuận tình thế gian
Sợ người sanh đoạn kiến
Tạm lập cái tên suông
Giả nói ba mươi hai,
Tám mươi cũng tiếng rỗng.
Ngài nói Phật có 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp cũng là tiếng rỗng, vì nói pháp thân là không tướng, thì người ta tưởng đâu chuyện đó là chuyện không có, nên phải nói Phật 32 tướng 80 vẻ đẹp cho người ta lấy đó làm chỗ nương, mới khao khát tu hành. Nhưng chỉ bám chặt vào đó thì mắc kẹt. Cho nên:
Có thân chẳng thể giác
Không tướng mới thật hình
Có thân thì chẳng phải là thể giác, chỉ có không tướng mới thân hình chân thật, Phật sở dĩ có nói ra, có hiện ra thân tướng tốt đẹp vì phương tiện cho người thế gian phát tâm tu hành, mà người đã thật hiểu rồi thì thấy còn sâu xa hơn nữa, phải thấy thân không tướng, vượt qua thân tướng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, chỗ đó không có già trẻ, nam nữ, tuổi tác gì. Tu hành thành đạo là thành chỗ đó."Từ đó nhẫn lại ta thường ở cõi Ta Bà này nói pháp giáo hóa, cũng ở trong trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ cõi nước khác, dẫn dắt lợi ích chúng sanh".
Đây Ngài nói thổ lộ rõ ràng từ đó tới nay vẫn ở cõi Ta Bà này nói pháp, vậy bây giờ Ngài có ở đây không? Đó là chỉ cho pháp thân thường trụ, không gián đoạn lúc nào cũng nằm sẵn trong thế giới sanh diệt này, hiểu như vậy thì ngay đây Ngài vẫn đang nói pháp không có mất.
Ông Tô Đông Pha có lần ông ở chùa Đông Lâm luận về vô tình thuyết pháp với thiền sư Chiếu Giác, ông có tỉnh ngộ làm bài kệ:
Khê thinh tận thị quảng trường thiệt
Sơn sắc khởi phi thanh tịnh thân
Dạ lai bát vạn tứ thiên kệ
Tha nhật như hà cử tự nhân?Nghĩa:
Suối reo đấy chính lưỡi rộng dài
Màu non đâu chẳng thân thanh tịnh
Đêm đến tám muôn bốn ngàn kệ
Ngày kia thế nào nói với người?
Chính tiếng suối reo là lưỡi rộng dài của Phật, ngay đó là Phật thuyết pháp rồi, vậy nghe tiếng suối reo là nghe tiếng Phật. Rồi ngay màu núi là thấy pháp thân thanh tịnh đó, vậy không phải lúc nào Phật cũng ở đây thuyết pháp sao? Đêm đến tám muôn bốn ngàn kệ tức là trong đêm học hết tám muôn bốn ngàn pháp muôn, nhưng sáng ra không biết nói sao với người? không biết làm sao mà diễn tả hết. Thấy được ý này là thấy Phật thường ở Ta Bà giáo hóa chúng sanh. Chính chỗ này là chỗ giữ gìn Pháp Hoa, mở trí này mới thấy trí vô sư. Ngài Thuỷ Nham từng dạy chúng "Các ông ra cửa gặp Di Lặc vào cửa gặp Thích Ca" không chạy đâu trốn khỏi hết. Đây Phật nói rõ thêm, ở chặng giữa đó ta nói Phật Nhiên Đăng, hoặc là Phật Ca Diếp… đó, có các Đức Phật nhập Niết Bàn như thế là dùng phương tiện để phân biệt nói thôi. Nghĩa là Ngài nói có Phật này Phật kia, có Phật ra đời có Phật nhập diệt, đó là lời nói phương tiện, chớ không phải là thật nghĩa. Mình cần phải rõ, cái gì là Phật, Phật chính là gì? Chính là thể giác chân thật xưa nay, cái đó mới là Phật sống Phật thật. Cái đó làm sao mà có ra đời, có nhập diệt?
CHÁNH VĂN:
Các Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh nào đến chỗ ta, ta dùng Phật nhãn quan sát tín… các căn lợi độn của chúng tùy theo chỗ đáng độ nơi nơi tự nói văn tự chẳng đồng, niên kỷ hoặc lớn, hoặc nhỏ, cũng lại hiện nói sẽ nhập Niết Bàn, lại dùng các trí phương tiện nói pháp vi diệu, có thể làm cho chúng sanh phát lòng vui mừng.Các thiện nam tử! Như Lai thấy những chúng sanh ưa nơi pháp tiểu thừa, đức mỏng tội nặng. Phật vì người đó nói: Ta lúc trẻ xuất gia đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, nhưng thiệt, từ ta thành Phật nhẫn lại lâu xa dường ấy, chỉ dùng phương tiện giáo hóa chúng sanh, khiến vào Phật đạo, nên nói như thế.
GIẢNG:
Phật nói rõ ràng tùy theo căn cơ chúng sanh mà có khi, hoặc nói về niên kỷ hoặc lớn hoặc nhỏ chẳng đồng, có Phật tuổi thọ dài, có Phật tuổi thọ ngắn, có nhập Niết Bàn, đó là dùng trí phương tiện mà nói thôi. Trên lý, Phật mà có thọ ngắn, thọ dài sao? Phải hiểu được ý sâu trong đó.Thí dụ nói cõi Di Lặc, cõi A Di Đà, ở đó Phật sống lâu tuổi thọ vô lượng, để người chán cõi này cầu cõi kia, hoặc nói Phật sống thời gian rồi nhập Niết Bàn, để đánh thức cho mọi người thấy thân Phật đẹp đẽ, đầy đủ tướng tốt, rồi cũng nhập Niết Bàn, huống nữa thân mình, khiến bớt chấp thân này.
CHÁNH VĂN:
Các Thiện nam tử! Kinh điển của đức Như Lai nói ra, đều vì độ thoát chúng sanh, hoặc nói thân mình, hoặc nói thân người, hoặc chỉ thân mình hoặc chỉ thân người, hoặc chỉ việc mình, hoặc chỉ việc người, các lời nói đều thiệt chẳng dối.Vì sao? Vì Đức Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không có sanh tử, hoặc thối hoặc xuất cũng không ở đời và diệt độ, chẳng phải thật, chẳng phải hư, chẳng phải như, chẳng phải dị, chẳng phải như ba cõi mà thấy nơi ba cõi. Các việc như thế Như Lai thấy rõ, không có sai lầm.
Bởi các chúng sanh có các món tánh, các món dục, các món hạnh, các món nhớ tưởng phân biệt muốn làm cho sanh các căn lành nên dùng bao nhiêu nhơn duyên thí dụ ngôn từ, các cách nói pháp, chỗ làm Phật sự, chưa từng tạm bỏ. Như thế từ ta thành Phật nhẫn lại, thật là sâu xa, thọ mạng vô lượng a tăng kỳ kiếp, thường còn chẳng mất.
Các thiện nam tử! Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát, cảm thành thọ mạng, nay vẫn chưa hết lại còn hơn số trên, nhưng nay chẳng phải thiệt diệt độ, mà bèn xướng nói sẽ diệt độ. Đức Như Lai dùng phương tiện đó, giáo hóa chúng sanh.
Vì sao? Vì nếu Phật ở lâu nơi đời thời người đức mỏng, chẳng trồng cội lành, nghèo cùng hèn hạ, ham ưa năm món dục, sa vào trong lưới nhớ tưởng vọng kiến. Nếu thấy đức Như Lai thường còn chẳng mất, bèn sanh lòng buông lung nhàm trễ, chẳng có thể sanh ra ý tưởng khó gặp gỡ cùng lòng cung kính cho nên đức Như Lai dùng phương tiện nói rằng: "Tỳ kheo phải biết, các đức Phật ra đời, khó có thể gặp gỡ".
Vì sao? Những người đức mỏng trải qua trăm nghìn muôn ức kiếp, hoặc có người thấy Phật, hoặc người chẳng thấy, do việc này, nên ta nói rằng: "Tỳ kheo! Đức Như Lai khó có thể đặng thấy".
Các chúng sanh đó nghe lời như thế, ắt sẽ sanh ý tưởng khó gặp gỡ, ôm lòng luyến mộ khát ngưỡng nơi Phật, bèn trồng cội lành, cho nên đức Như Lai dầu chẳng diệt mà nói diệt độ.
Lại thiện nam tử! Phương pháp của các đức Phật Như Lai đều như thế, vì độ chúng sanh đều thiệt chẳng dối.
GIẢNG:
Đây Phật nói rõ: Trong kinh Phật có khi nói thân mình, khi nói thân người thì các điều đó là chơn thật không dối, Phật nói ra đều có ý chỉ hết, không phải nói suông, Phật nhấn mạnh: “Như Lai đúng như thật thấy biết tướng của tam giới, không có sanh tử hoặc thối hoặc xuất. Như Lai chẳng phải như ba cõi, mà thấy nơi ba cõi”, đó là chỗ đặc biệt chú ý. Sao chẳng phải như ba cõi mà thấy ba cõi? Nghĩa là chỗ thấy của Ngài không phải bỏ ba cõi, phá hoại ba cõi này, mà là không đồng hóa với ba cõi đó, để thành sanh diệt, còn mình thấy ba cõi thì đồng với ba cõi, nên chịu sanh diệt, luân hồi, là lầm lẫn. Ngài muốn chỉ ngay trong sanh diệt, mà Ngài vẫn hằng bất sanh bất diệt, thấy được chỗ này mới thấy Phật thật. Vậy Như Lai đâu phải là không thấy, Ngài vẫn thấy ba cõi mà không như ba cõi thôi, thấy suốt tất cả không chút sai lầm, đó là Như Lai. Ngài nói rõ chúng sanh có các món tánh, món dục sai biệt, cho nên Phật dùng phương tiện sai biệt mà nói tùy theo căn tánh của chúng sanh, sự thật Phật muốn nhắm, muốn chỉ đó là chỗ chân thật không sanh, không sai biệt. Đây Ngài còn nói rõ hơn "Ta xưa tu hành đạo Bồ Tát cảm thành thọ mạng đến nay cũng chưa hết, số đó còn hơn trên nữa". Mình phải thấy thấu qua cái thấy sanh diệt này, để thấy Phật thật đó, thì mới thấy Như Lai chân thật. Ngài nói Như Lai không phải thiệt diệt mà nói diệt là vì những chúng sanh căn lành kém mỏng, nếu thấy Phật ra đời hoài sanh lờn.Thí dụ Phật còn đến bây giờ chắc mình thấy Phật cũng thường, chính Phật diệt độ rồi, muốn thấy mà không được thấy cho nên mới quí, mới khát khao.
CHÁNH VĂN:
Ví như vị lương y, trí huệ sáng suốt, khéo luyện phương thuốc trị các bệnh, người đó nhiều con cái, hoặc mười, hai mươi nhẫn đến số trăm, do có sự duyên đến nước xa khác. Sau lúc đó các người con uống thuốc độc khác, thuốc phát muộn loạn, lăn lộn trên đất.
Bấy giờ, người cha từ nước xa trở về nhà. Các con uống thuốc độc, hoặc người mất bổn tâm, hoặc chẳng mất, xa thấy cha về, đều rất vui mừng, quỳ lạy hỏi thăm. "An lành về an ổn. Chúng con ngu si, lầm uống thuốc độc, xin cứu lành cho, lại ban thọ mạng cho chúng con".
Cha thấy các con khổ não như thế, y theo các kinh phương tìm cỏ thuốc tốt, mùi sắc vị ngon, thảy đều đầy đủ. Đâm nghiền hòa hiệp, đưa bảo các con uống mà nói rằng: "Thuốc đại lương dược này mùi sắc vị ngon thảy đều đầy đủ, các con nên uống, mau trừ khổ não, không còn lại các bệnh hoạn".
Trong các con, những người chẳng thất tâm thấy thuốc lương dược ấy, sắc hương đều tốt, liền bèn uống đó, bệnh trừ hết, được lành mạnh. Ngoài ra những người thất tâm, thấy cha về dầu cũng vui mừng thăm hỏi, cầu xin trị bệnh, song trao thuốc cho mà không chịu uống.
Vì sao? Vì hơi độc đã thâm nhập làm mất bổn tâm, nơi thuốc tốt thơm đẹp này mà cho là không ngon. Người cha nghĩ rằng: "Người con này đáng thương bị trúng độc, tâm đều điên đảo, dầu thấy ta về, mừng cầu xin cứu lành, nhưng thuốc tốt như thế, mà chẳng chịu uống, nay ta bày chước phương tiện khiến chúng uống thuốc này.
Nghĩ thế rồi liền bảo rằng: "Các con phải biết, ta nay già suy, giờ chết đã đến thuốc "lương dược" tốt này nay để ở đây các con nên lấy uống, chớ lo không lành". Bảo thế, rồi lại đến nước khác, sai xứ về nói "cha các ngươi đã chết".
Bấy giờ, các con nghe cha chết, lòng rất sầu khổ mà nghĩ rằng: "Nếu cha ta còn, thương xót chúng ta, có thể được cứu hộ, hôm nay bỏ ta xa chết ở nước khác". Tự nghĩ mình nay côi cút, không có chỗ cậy nhờ, lòng thường bi cảm tâm bèn tỉnh ngộ, biết thuốc này, sắc hương vị ngon, liền lấy uống đó, bịnh độc đều lành. Người cha nghe các con đều đã lành mạnh, liền trở về cho các con đều thấy.
Các thiện nam tử! Ý ông nghĩ sao? Vả có người nào có thể nói ông lương y đó mắc tội hư dối chăng?
- Thưa Thế Tôn, không thể được!
Phật nói: "Ta cũng như thế, từ khi thành Phật đến nay đã vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức na do tha a tăng kỳ kiếp, vì chúng sanh dùng sức phương tiện nói: "Sẽ diệt độ" cũng không ai có thể đúng như pháp mà nói ta có lỗi hư dối".
GIẢNG:
Đây Phật thí dụ người cha là lương y có các con, cha đi nước khác, các con ở nhà uống nhầm thuốc độc phát cuồng loạn, cha trở về, các người con thấy cha về vui mừng, hỏi thăm xin cứu lành, cha mới chế thuốc đưa cho uống, có người uống có người không chịu uống. Ông lương y này thấy vậy ông dùng phương tiện lấy thuốc sẵn để đó, rồi ông bỏ đi qua nước khác nhắn về nói ông đã chết, các con nghe cha mình đã chết, cảm thấy bơ vơ, chới với mới nhớ lại, lấy thuốc uống.Lương y đó chỉ cho Phật, các người con là mình, mình bệnh thì Phật nói pháp để cho mình ứng dụng tu hành trừ sạch những mê lầm của mình, nếu mình có bệnh thuốc sẵn không chịu uống thì Phật cũng đành bó tay thôi. Ở đây lương y này có duyên đi sang nước khác, là chỉ cho Phật ẩn đi mình quên mất Phật. Uống nhầm thuốc độc, tức là lầm nhận những pháp tà, thành mê mờ sanh ra tà kiến, đi trong luân hồi, đau khổ. Người cha đi nước khác trở về, tuy có đi có lại, cũng người cha đó thôi chớ không ai khác. Phật có ẩn có hiện cũng vẫn là Phật không có hai thể, nhưng chúng sanh mê lầm quên mất nên thấy cách xa, đây gọi là xa thấy về, sự thật Phật có đi đâu mà trở về? Các con mừng thấy cha về hỏi thăm cầu xin cứu chữa, là có ý muốn bỏ cái giả trở về cái thật, về gốc đó. Bởi vì trước là mê gốc nên uống lầm các thuốc độc, bây giờ cầu chữa, cầu ban cho thọ mạng nữa, nhưng thọ mạng ai ban cho mình? Đó là còn có hướng ngoại chưa dám tự nhận, cha thấy con khổ thì tìm cỏ thuốc tốt chế ra lương dược bảo cho các con uống thì sẽ trừ hết khổ, là theo lý chân thật sẵn có, Phật phương tiện lập bày ra giáo pháp chỉ dạy khiến cho mình tu hành được giải thoát. Trong đó có người không mất bổn tâm còn nhớ được thấy vậy uống liền, thì hết bệnh, đó là chỉ cho các vị Bồ Tát, các vị lanh lợi, nghe chóng nhận liền ra lẽ thật! Tin nhận thực hành, liền chuyển mê thành giác thoát khổ; có người thấy cha về cũng hỏi thăm mừng rỡ cầu chữa, nhưng đưa thuốc không chịu uống, cứ lo phân tích nói tới nói lui hoài rốt cuộc vẫn đứng ngó đành chịu khổ. Phật thấy vậy thì thôi thuốc để đó, ta có duyên đi chỗ khác. Thuốc để đó tức là kinh giáo còn sẵn đó, ta đã nói hết trong đó rồi, giờ Phật nhập Niết Bàn. Thấy Phật nhập Niết Bàn thì chới với hết chỗ tựa, mới lo tìm thuốc uống. Chúng ta đây cũng vậy, giờ vắng Phật mất chỗ nương mới khao khát nỗ lực tu hành, khi tỏ ngộ thì tỉnh ra Phật vốn sẵn nơi mình không nhập diệt đi đâu. Phật bảo nếu nói có Phật thật nhập diệt đó là chê bai Như Lai. Phật mà có diệt sao? Hiểu như vậy, đây muốn nhắc mình: Phật giống như vị lương y vậy thôi, cho thuốc thì cho nhưng quan trọng là mình phải uống thì mới hết bệnh. Tức phải thực hành, chớ ngồi đó lý luận hoài, lo phân tích tới lui Phật này Phật thật, Phật này Phật giả, Phật này là Phật Ấn Độ..v..v rốt cuộc cũng không thấy đâu là Phật. Căn bản là nhận rõ, tin chắc rồi ứng dụng tu thì có kết quả, đứng ngoài mà bàn luận hoài không tới đâu hết.
CHÁNH VĂN:Khi đó Đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Từ ta thành Phật lại
Trải qua các kiếp số
Vô lượng trăm nghìn muôn
A tăng kỳ ức năm
Thường nói pháp giáo hóa
Vô số ức chúng sanh
Khiến vào nơi Phật đạo
Đến nay vô lượng kiếp
Vì độ chúng sanh vậy
Phương tiện hiện Niết Bàn
Mà thiệt chẳng diệt độ
Thường trụ đây nói pháp
GIẢNG:
Phật thổ lộ rõ ràng, Phật vẫn thường trụ chớ chưa từng vắng mặt, người cần thấy là phải thấy thấu qua chỗ này.
CHÁNH VĂN:Ta thường ở nơi đây
Dùng các sức thần thông
Khiến chúng sanh điên đảo
Dầu gần mà chẳng thấy
GIẢNG:
Tại sao gần mà chẳng thấy? Bởi vì mình thấy nghe trên phân biệt chớ sự thật là chính ngay cái thấy nghe hằng ngày của mình đó là Phật hiện tiền, nên gần mà chẳng thấy.
CHÁNH VĂN:Chúng thấy ta diệt độ
Rộng cúng dường xá lợi
Thảy đều hoài luyến mộ
Mà sanh lòng khát ngưỡng
Chúng sanh đã tín phục
Ngay thiệt ý dịu hòa
Một lòng muốn thấy Phật
Chẳng tự tiếc thân mạng
Giờ ta cùng chúng tăng
Đều ra khỏi Linh Thứu.
GIẢNG:
Nếu mà chúng sanh được tâm ý ngay thiệt diệu hòa chẳng tự tiếc thân mạng thì sẽ thấy Phật cùng chúng tăng đều ra khỏi Linh Thứu, tức là ngay đây mình quên thân mạng, buông chấp ngã này thì thấy Phật hiện ra chớ không đâu khác, còn bám vào cái ngã này, chấp vào thân tướng này thì mê Phật.
CHÁNH VĂN:Ta nói với chúng sanh
Thường ở đây chẳng diệt
Vì dùng sức phương tiện
Hiện có diệt chẳng diệtNgài dùng phương tiện nên có diệt chẳng diệt, chớ Phật chưa từng diệt.
Nước khác có chúng sanh
Lòng cung kính tín nhạo
Ta ở lại trong đó
Vì nói Pháp Vô thượng
Ông chẳng nghe việc đó
Chỉ nói ta diệt độ.
GIẢNG:
Nếu chúng sanh ở nước khác có tin nhận thì Ngài lại ở trong đó nói Pháp Vô thượng, vậy thì ngay đây cũng có Phật không nghi ngờ, nếu có chúng sanh có lòng cung kính tin nhận.
CHÁNH VĂN:Ta thấy các chúng sanh
Chìm ở trong khổ não
Nên chẳng vì hiện thân
Cho kia sanh khát ngưỡng
Nhơn tâm kia luyến mộ
Hiện ra vì nói pháp
Sức thần thông như thế
Ở trong vô số kiếp
Thường tại núi Linh Thứu
Và các trụ xứ khác
GIẢNG:
Đây Phật xác định rõ ràng Ngài ở trong vô số kiếp vẫn thường ở tại núi Linh Thứu và các trụ xứ khác. Vậy Ngài thường ở Linh Thứu mà hiện ở khắp nơi, thì ngay đây mình muốn thấy Phật được không? Chỉ cần bặt niệm sanh diệt đây kia thì đều thấy Phật ngay đây vẫn đang ở Linh Thứu thuyết Pháp chưa từng mất bao giờ, Phật đó không trẻ già gì hết.
CHÁNH VĂN:Chúng sanh thấy tận kiếp
Lúc lửa lớn thiêu đốt
Cõi ta đây an ổn
GIẢNG:
Ngài nói rõ hơn, đến lúc kiếp tận, lửa đốt cháy cả đại địa, nhưng cõi Ngài vẫn an ổn, vậy cõi Ngài chỗ nào? Ngài có cõi nào khác nữa? Chính chỗ này Ngài Dược Sơn gạn hỏi Sa Di Cao:- Ta nghe nói Trường An ồn náo phải chăng?
Sa Di Cao thưa:
- Nước con an ổn.
- Ông do xem kinh mà được hay do thưa hỏi mà được?
- Không do xem kinh mà được cũng không do thưa hỏi mà được.
- Có nhiều người không xem kinh cũng không thưa hỏi tại sao không được?
- Chẳng bảo họ không được, chỉ tại họ không chịu nhận.
Ngài Dược Sơn gạn hỏi: "Ta nghe nói Trường An ồn náo phải chăng?" đáp: "nước con an ổn", vậy nước con ở đâu? Chỗ này "Không do xem kinh, không do thưa hỏi được", tất cả ai ai cũng có một chỗ an ổn, không người động đến được, mà không chịu sống chỗ đó lại sống trong chỗ ồn náo lăng xăng đáng thương! Nhận được chỗ đó tu hành khỏi sợ ai đụng chạm vì không ai đụng tới chỗ đó được, cũng không sợ trộm cắp gì, đó mới thật sự là chỗ tối an ổn.
CHÁNH VĂN:
Trời người thường đông vầy
Vườn rừng các nhà gác
Những món báu trang nghiêm
Chỗ chúng sanh vui chơi
Các trời đánh trống trời
Thường trổi những kỹ nhạc
Rưới bông mạn đà la
Cúng Phật và đại chúng
Tịnh độ ta chẳng hư
Mà chúng thấy cháy rã
GIẢNG:
Ngài nói rõ, cõi Ngài vẫn an ổn, vẫn tốt đẹp như vậy, tịnh độ của Ngài chẳng có hư nhưng chúng thì thấy cháy rã, bởi vì chúng chỉ nhìn theo cái thấy sanh diệt.
CHÁNH VĂN:Lo sợ các khổ não
Như thế đều đầy dẫy
Các chúng sanh tội đó
Vì nhơn duyên nghiệp dữ
Quá a tăng kỳ kiếp
Chẳng nghe tên Tam bảo
Người nhu hòa ngay thiệt
Có tu các công đức
Thời đều thấy thân ta
Ở tại đây nói pháp
GIẢNG:
Người có tu các công đức đều thấy rõ, thân Phật vẫn ở tại đây nói Pháp chưa từng mất bao giờ. Tức là pháp thân đó không có đến không có đi. Cho nên có câu "Trúc biếc xanh xanh thảy là pháp thân", nếu tâm thanh tịnh thì thấy chỗ nào cũng là Phật hiện.CHÁNH VĂN:
Hoặc lúc vì chúng này
Nói Phật thọ vô lượng
Người lâu mới thấy Phật
Vì nói Phật khó gặp
Trí lực ta như thế
Huệ Quang soi vô lượng
Thọ mạng vô số kiếp
Tu hành lâu cảm đặng
GIẢNG:
Phật nói rõ, trí lực của Phật như vậy, ánh sáng trí tuệ đó soi vô lượng, thọ mạng vô số kiếp, tu hành lâu cảm đặng. Tức đây không phải chỗ nói suông, không phải chỗ hiểu suông mà phải thực hành sâu mới cảm đặng. Sâu ở đây là thực hành miên mật, luôn luôn không gián đoạn, lúc nào cũng phải thấy như vậy.
CHÁNH VĂN:
Các ông người có trí
Chớ ở đây sanh nghi
Nên dứt khiến hết hẳn
Lời Phật thiệt không dối
Như Lương y chước khéo
Vì để trị cuồng tử
Thiệt còn mà nói chết
Không thể nói hư dối
GIẢNG:
Như vậy nói chết đó mà không nói dối, là có ý chỉ sâu, Phật nói chết là phải thấy chỗ chẳng chết chớ không phải nghe chết rồi hiểu chết.
CHÁNH VĂN:Ta là cha trong đời
Cứu các người đau khổ
Vì phàm phu điên đảo
Thiệt còn mà nói diệt
Vì cớ thường thấy ta
Mà sanh lòng kiêu tứ
Buông lung ham ngũ dục
Sa vào trong đường dữ
Ta thường thấy chúng sanh
Hành đạo chẳng hành đạo
Tùy chỗ đáng độ được
Vì nói các pháp môn
Hằng tự nghĩ thế này
Lấy gì cho chúng sanh
Đặng vào huệ Vô thượng
Mau thành tựu thân Phật.
GIẢNG:
Ngài nói diệt là để trừ các tâm ỷ lại, mà sanh lòng kiêu mạn buông lung, bản ý của Phật muốn mình trở về gốc chân thật thôi.Tóm lại muốn thấy Như Lai chân thật phải quên niệm sanh diệt này, thấy qua cái thân tướng ứng hóa có ẩn có hiện, cũng như ở đây "Như Lai chẳng như ba cõi, mà thấy suốt ba cõi không sai lầm", như cái gương sáng, soi suốt hết mọi hình tượng, không có cái gì sai lầm, nhưng gương sáng thì không phải là hình tượng nào hết, mình cũng vậy, thấy tất cả mọi sai biệt, nhưng mình không phải là gì hết, thấy được chỗ đó là thấy được Như Lai, còn mình thấy cái gì "là cái đó" liền thành mê, vậy thì rõ ràng lẽ thật sờ sờ đó thôi. Phật nói thuốc để sẵn đó, không giấu đâu hết nhưng người không chịu uống, thì đành chịu. Đây là chỗ phải uống, phải thực hành, phải sống chớ không phải là chỗ để nói. Có câu chuyện:
Pháp sư Chứng Ngộ, đến Thiền Sư Thử Am ở chùa Hộ Quốc giờ tham thiền ban đêm Sư thuật lại bài kệ của ông Tô Đông Pha nói về pháp thân, và nói "cũng chẳng dễ gì mà đến cảnh giới ấy", Thử Am lại bảo: "cũng vẫn chưa thấy lối đi nói gì là đến". Chứng Ngộ thưa: chỉ như ông ấy nói “tiếng khe chính đó lưỡi rộng dài, màu núi đâu chẳng thân thanh tịnh" nếu chẳng đến cảnh giới ấy thì thế nào có được tin tức này? Ngài Thử Am bảo: đó là kẻ ngoài cửa thôi. Pháp Sư Chứng Ngộ thưa: nếu Hòa thượng chẳng tiếc lẫn xin hãy vì con nói phá. Ngài Thử Am bảo "Lại chỉ từ trong ấy mà dõng mãnh tinh tiến rình bắt xem. Nếu ông rình bắt vỡ được ông ấy, ắt cũng biết được chỗ rơi của bổn mạng nguyên thần". Nghe như vậy Pháp Sư Chứng Ngộ suốt đêm đó không ngủ, đến khi chuông sáng đánh, trong lòng bỗng sạch hết mọi ẩn chứa. Sư nương bài kệ đó riêng nói ý của mình:
Cư Sĩ Đông Pha quá nhiều lời
Trong cổng sắc thanh muốn thấu thân
Khe nếu là thanh, núi là sắc
Không non, không nước khéo sầu người.
Sư bảo rằng Đông Pha nói vậy là quá nhiều lời, nếu cứ nhằm trong cổng sắc thanh đó muốn thấy thân thì gặp lúc không khe không núi sẽ làm sao? Nếu hiểu kiểu đó thì còn đứng ngoài cửa rồi. Đây muốn nhắc mình, nói như vậy nhưng phải thực sự sống được trong đó, chớ hiểu trên danh từ, hiểu trên chữ nghĩa thì không dính dáng. Tiếng khe mà nói lưỡi rộng dài của Phật, không có tiếng khe lấy đâu nói? Rồi nói núi xanh đó là pháp thân thanh tịnh, không có núi xanh, pháp thân thanh tịnh không có sao? Nói là tiếng khe, nói là màu núi đó là chỗ hiện bày của Pháp thân thôi, còn pháp thân thanh tịnh chính ngay mình chớ không phải chỗ kia, mình nhận bên ngoài cho là pháp thân thanh tịnh là lầm. Vậy học tới đây có ai thấy tuổi thọ Như Lai chưa? Thấy tuổi thọ Như Lai phải thấy đến chỗ đó!
-
18. Phẩm phân biệt công đức
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, trong đại hội nghe Phật nói thọ mạng, kiếp số dài lâu như thế, vô lượng, vô biên, vô số chúng sanh đặng lợi ích lớn.
Khi đó đức Thế Tôn bảo Ngài Di Lặc đại Bồ Tát: "A Dật Đa! Lúc ta nói đức Như Lai thọ mạng dài lâu như thế, có sáu trăm tám muôn ức na do tha hằng hà sa chúng sanh đặng "Vô sanh pháp nhẫn".
Lại có đại Bồ Tát nghìn lần gấp bội đặng môn "Văn trì đà la ni". Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng "Nhạo Thuyết vô ngại biện tài". Lại có một thế giới vi trần số đại Bồ Tát đặng trăm nghìnmuôn ức vô lượng môn "Triền đà la ni" lại có tam thiên đại thiên thế giới vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân bất thối".
Lại có nhị thiên trung quốc độ vi trần số đại Bồ Tát chuyển được "Pháp luân thanh tịnh". Lại có tiểu thiên quốc độ vi trần số đại Bồ Tát tám đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có bốn tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát bốn đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có ba tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát ba đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có hai tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát hai đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lại có một tứ thiên hạ vi trần số đại Bồ Tát một đời sẽ đặng Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lại có tám thế giới vi trần số chúng sanh đều phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác.
GIẢNG:
Phẩm này với phẩm Như Lai Thọ Lượng và Tùng Địa Dũng Xuất có liên hệ nhau: Bồ Tát dưới đất vọt lên thì các vị trong hội chúng mới nghi, rồi Phật đáp về tuổi thọ Như Lai, thì giải nghi. Qua đây nói về phân biệt công đức những vị nghe đến tuổi thọ của Như Lai được ngộ nhập, nên đến phẩm này do trong đại hội đã nghe được tuổi thọ của Như Lai là dài lâu không tính kể, trong đó những vị ngộ chứng được pháp thân thường trụ có cạn có sâu, Phật phân biệt tán thán những công đức đó, nên gọi là phân biệt công đức. Đến đây nhiều vị đã quên cái thấy sanh diệt, nhơ sạch, ngay cõi Ta Bà này là nó trong sạch trang nghiêm, tịnh độ là ngay đây thôi, vậy là khỏi phải bỏ đây tìm kia, quên niệm đây kia đó mới thành được cái diệu ngộ. Chính chỗ này là chỗ văn tự chữ nghĩa không thể nói hết được. Công đức hữu vi không thể sánh kịp, cho nên ở đây phân biệt công đức này là công đức vô vi, đó mới thật là chỗ trì kinh. Bởi vậy trong đại hội nghe Phật nói thọ mạng dài lâu thì vô số biên vô lượng chúng sanh đặng lợi ích lớn, Phật mới phân biệt trong đây những vị chứng đặng Vô sanh pháp nhẫn, rồi Văn trì đà-la-ni..v.v.. Vô sanh pháp nhẫn, là an trụ trong pháp vô sanh, đây là trí tuệ phá tan được niệm sanh diệt, ngay trong thế giới này mà không thấy một pháp thật chớ không phải là phá hết các pháp mới gọi là vô sanh.Trong nhà thiền có vị tăng hỏi thiền sư Tuấn Cực, đệ tử nối pháp của Hòa thượng Phá Táo Đọa: "Thế nào là người tu hạnh lành?" Ngài Tuấn Cực đáp "Mang gông đeo còng". Rồi hỏi "Thế nào là người tu hạnh dữ" Ngài đáp: "tu thiền nhập định". Ông tăng này không hiểu nổi, ông thưa "Con căn cơ cạn cợt xin thầy chỉ thẳng cho" Ngài Tuấn Cực mới bảo: "Ông hỏi ta dữ, thì dữ chẳng theo lành, còn ông hỏi ta lành, lành chẳng theo dữ". Ôâng tăng nghe vậy hồi lâu chưa hiểu. Ngài Tuấn Cực hỏi "Vậy chớ ông có lãnh hội chăng?" Ông tăng thưa: "chẳng lãnh hội" Ngài Tuấn Cực bảo: "Người dữ thì không có niệm lành, còn người lành thì không có niệm dữ, do đó mà nói lành dữ như mây nổi đều không có chỗ khởi diệt". Đó là pháp vô sanh, ông tăng nghe lời đó liền đại ngộ. Sau Hòa thượng Phá Táo Đọa nghe thuật lại Ngài nói: "Kẻ này lãnh hội tột cùng các pháp vô sanh". Mình hiểu sao? Hỏi lành thì lành không theo dữ, hỏi dữ thì dữ không theo lành. Tức là ngay khi lành thì không có niệm dữ, còn ngay khi dữ thì không có niệm lành, cho thấy lành dữ là cái đối đãi nhau chớ không có thật, hễ có cái này thì không có cái kia, cũng như sáng và tối vậy. Có sáng thì không có tối, có tối thì không có sáng, sáng tối hai cái đối đãi nhau không cố định thật, đây cũng vậy, lành dữ không cố định thật. Sư nói lành dữ như mây nổi đều không có chỗ khởi diệt. Do tâm mình vọng chấp lành thì mới hiện lành, vọng chấp dữ thì nó hiện dữ chớ không thật có cố định nào lành, cố định nào dữ, nếu cố định, dữ thì dữ mãi rồi, vậy quên được niệm lành dữ thì ngay đó ngộ được pháp vô sanh, thấy vô sanh là ngay nơi mình, mình cảm nhận được, chớ không phải chuyện xa xôi. Đây đại hội nghe tới Như Lai thọ lượng thì ngộ được pháp vô sanh, có số vị được văn trì đà la ni. Văn là nghe, trì là giữ, được văn trì đà la ni này, nghe qua lời Phật thì nhận giữ không còn quên mất. Rồi vô số vị được nhạo thuyết vô ngại biện tài, biện luận không cùng không tận, rồi một số nữa được Triền đà la ni, tức là được trí này thì thông suốt vô lượng pháp, mỗi pháp đều dung thông lẫn nhau không có ngại. Còn số lớn nữa là chuyển pháp luân bất thối, lấy đây độ sanh thẳng đến thành Phật, không còn lui sụt. Một số nữa chuyển pháp luân thanh tịnh, tức là không còn nhơ nhiễm, không còn dính thế gian, có số còn tám đời được Vô thượng chánh đẳng chánh giác, cho đến một số chúng sanh lớn phát tâm Vô thượng Bồ Đề.
Như vậy nghe tới tuổi thọ Như Lai này, hoặc ít hoặc nhiều đều có lợi ích, bớt mê lầm, trong đây mỗi người có bớt chút mê lầm chăng? Không nghe chỗ này thì hiểu theo nghĩa thông thường, Phật là đức Thích Ca với thân 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp sanh ra ở Ấn Độ vậy thôi, khi Phật thổ lộ chuyện này thì rõ Phật không phải là thân đó thôi mà còn có cái sâu hơn nữa. Vậy Phật là thân tướng tốt, có công đức như vậy mà rốt cuộc cũng hoại, cũng trở về sanh diệt huống nữa thân mình, cho nên từ đó bớt lầm chấp.
CHÁNH VĂN:
Lúc đức Phật nói các vị đại Bồ tát đó đặng pháp lợi, trên giữa hư không, rưới hoa Mạn đà la, hoa Ma ha mạn đà la, để rải trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cội cây báu, và rải đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Đa Bửu Phật ngồi trên tòa sư tử trong tháp bảy báu: cùng rải tất cả các vị Bồ tát và bốn bộ chúng.
Lại rưới bột gỗ chiên đàn, trầm thủy hương v.v… trong hư không, trống trời tự kêu tiếng hay sâu xa.
Lại rải nghìn thứ thiên y, thòng các chuỗi ngọc, chuỗi ngọc chơn châu, chuỗi châu ma ni, chuỗi châu như ý khắp cả chín phương, các lò hương báu đốt hương vô giá, tự nhiên khắp đến cúng dường đại chúng.
Mỗi trên đức Phật có các vị Đại Bồ tát nắm cầm phan lọng, thứ đệ mà lên đến trời Phạm thiên. Các vị Bồ tát đó dùng tiếng tăm hay ca vô lượng bài tụng ngợi khen các đức Phật.
GIẢNG:
Khi chư Phật nói lên lợi ích của chư vị Đại Bồ tát trong pháp hội thì ở trên trời rưới hoa, hương, rải thiên y, chuỗi ngọc cúng dường, khiến cho khắp nơi đều trang nghiêm, rực rỡ, nhìn đâu cũng hết thấy nhơ. Ngầm chỉ khi mình nhận ra được tuổi thọ Như Lai, thấu được pháp thân chân thật, thì nhìn ra đâu đâu cũng đều thanh tịnh, cho nên quí vị đọc chỗ này, thấy có chỗ nào có bụi bậm không? Trên trời thì rưới hoa Mạn đà la, rưới bột chiên đàn, chuỗi ngọc, lò hương báu, cầm phan lọng tốt, tìm không ra hạt bụi nào. Như vậy nghe đến chỗ chân thật này là có niềm vui lớn lao không thể nói hết, có công đức rất lớn, bởi vì đây là chỗ từ vô lượng kiếp mê lầm, mình chỉ biết thân sanh diệt này thôi, nên chìm trong sanh tử, không biết đâu là lối ra. Bây giờ nghe được chỗ này, có được lối ra rồi, còn có gì vui hơn nữa? Đường giải thoát mở rồi, chỉ còn chịu đi hay không? Sự thật là mình đang sống trong cõi giải thoát, mà không hay, không nhận, mình tưởng giải thoát là tìm đến cõi nào đó, hay một thế giới nào đó thành như xa. Cho nên có vị Tăng hỏi Ngài Triệu Châu:- Học nhân mờ tối chậm lụt, đang một chìm một nổi. Vậy thế nào ra khỏi được?
Ngài Triệu Châu im lặng thôi, không đáp gì hết. Ông tăng thưa:
- Con hỏi thật Hòa thượng mà!
Ngài Triệu Châu bảo:
- Ông đang ở đâu làm một chìm một nổi?
Quý vị thấy chỗ đó là thấy lối ra! Câu hỏi học nhân đang mờ tối, chậm lụt, đang chìm nổi, làm sao ra khỏi, tức tìm lối ra. Nếu người thường giảng theo văn tự chữ nghĩa, muốn ra khỏi phải tu hành đi, phải bỏ này bỏ kia đi, đây đáp "Ông ở đâu mà làm một chìm một nổi?".
Nếu ông đang chìm nổi thì còn ai ở đây hỏi? Do đó Ngài mới hỏi: "Ông đang ở đâu làm một chìm một nổi?". Còn người nào làm một chìm một nổi ông chỉ người đó ra xem?
Ngay chỗ này mình tỉnh lại là xong! Mình cứ tưởng còn có cái gì đó, còn có cái tôi nào đó đang làm một chìm một nổi. Không ngờ là mình đang sống trong chỗ chân thật này mà mê. Chỉ cái tưởng đó, là cái làm mình chìm nổi chớ không gì hết. Còn đây phải thấy ông đang hỏi rõ ràng, đâu còn ai nữa làm một chìm một nổi? Tức là ngay trong cái sanh diệt này, có cái bất sanh bất diệt đó rồi, nhận đó là lối ra liền, là được niềm vui vô kể, lợi ích không nói hết.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, Ngài Di Lặc Bồ tát từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng về phía Phật mà nói kệ rằng:
Phật nói pháp ít có
Từ xưa chưa từng nghe
Thế Tôn có sức lớn
Thọ mạng chẳng thể lường.
GIẢNG:
Đây là tán thán Phật nói pháp rất ít có, từ xưa nay chưa từng nghe, vì ngôn ngữ không thể nói tới chỗ này, phải mắt Phật mới tỏ suốt, còn chúng sanh không thể thấy biết được. Do đó người tu Phật thấy tột đến chỗ ít có này thì mới đến chỗ bản hoài của Phật muốn chỉ.CHÁNH VĂN:
Vô số các Phật tử
Nghe Thế Tôn phân biệt
Nói đặng pháp lợi đó
Vui mừng đầy khắp thân
Hoặc trụ bậc bất thối
Hoặc đặng đà la ni
Hoặc vô ngại nhạo thuyết
Muôn ức triền tổng trì
Hoặc có cõi đại thiên
Số vi trần Bồ tát
Mỗi vị đều nói được
Pháp luân bất thối chuyển
Hoặc có trung thiên giới
Số vi trần Bồ tát
Mỗi vị đều có thể
Chuyển pháp luân thanh tịnh
Lại có tiểu thiên giới
Số vi trần Bồ tát
Còn dư lại tám đời
Sẽ đặng thành Phật đạo
Lại có bốn, hai, ba
Tứ thiên hạ như thế
Số vi trần Bồ tát
Theo số đời thành Phật
Hoặc một tứ thiên hạ
Số vi trần Bồ tát
Còn dư có một đời
Sẽ thành nhứt thiết trí
Hàng chúng sanh như thế
Nghe Phật thọ dài lâu
Đặng vô lượng quả báo
Vô lậu rất thanh tịnh
Lại có tám thế giới
Số vi trần chúng sanh
Nghe Phật nói thọ mạng
Đều phát Tâm Vô thượng
GIẢNG:
Đây nói lại những vị trong hội chúng được lợi ích vô sanh pháp nhẫn, được triền đà la ni cho đến chuyển pháp luân bất thối v.v…, số hội chúng được lợi ích rất lớn khi nghe đến chỗ này, không phải là chỗ tầm thường, không phải là chuyện nhỏ. Đó là muốn nhắc mình chớ xem thường, phải nghe thật kỹ!
CHÁNH VĂN:Thế Tôn nói vô lượng
Bất khả tư nghì pháp
Nhiều được có lợi ích
Như hư không vô biên
Rưới hoa thiên Mạn đà
Hoa ma ha mạn đà.
Thích, Phạm như hằng sa
Vô số cõi Phật đến
Rưới chiên đàn trầm thủy
Lăng xăng loạn xạ xuống
Như chim bay liệng đáp
Rải cúng các đức Phật
Tiếng trời trong hư không
Tự nhiên vang tiếng mầu
Áo trời nghìn muôn thứ
Xoay chuyển mà rơi xuống
Các lò hương đẹp báu
Đất hương quý vô giá
Tự nhiên đều cùng khắp
Cúng dường các Thế Tôn
Chúng đại Bồ tát kia
Cầm phan lọng bảy báu
Cao đẹp muôn ức thứ
Thứ lớp đến Phạm Thiên
Trước mỗi mỗi đức Phật
Tràng báu treo phan tốt
Cúng dường nghìn muôn kệ
Ca vịnh các Như Lai
Từ xưa chưa từng có
Nghe Phật thọ vô lượng
Tất cả đều vui mừng
Phật tiếng đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sanh
Tất cả đủ căn lành
Để trợ tâm vô thượng.
Phật tiếng đồn mười phương
Rộng lợi ích chúng sanh
Để trợ tâm vô thượng.
GIẢNG:
Nghĩa là, hiện những tướng lành này trợ phát tâm Vô thượng Bồ đề cho mình. Những tướng đó nhắc cho mình tin chắc tâm Vô thượng Bồ đề đó nó sáng khắp, đầy khắp. Mở sáng con mắt này thì mình sẽ thấy đâu đâu cũng đều đẹp hết, đều sáng ngời hết, nên những tướng đó trợ phát tâm Vô thượng Bồ đề, chớ không phải mình chấp vào tướng đó. Khi ai nghe, tin được chỗ này, là trồng được giống Phật rồi.CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Di Lặc đại Bồ tát: "A Dật Đa, có chúng sanh nào nghe đức Phật thọ mạng dài lâu như thế, nhẫn đến có thể sanh một niệm tín giải, đặng công đức không thể hạn lượng được. Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, vì đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong tám mươi muôn ức na do tha kiếp tu năm pháp ba la mật: Bố thí ba la mật, trì giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền định ba la mật, trừ trí huệ ba la mật, đem công đức này sánh với công đức tín giải trước, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng kịp một, nhẫn đến tính đếm, thí dụ, không thể biết được. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi Vô thượng chánh đẳng chánh giác, thời quyết không có lẽ đó.
GIẢNG:
Phật nói chúng sanh nào, nghe nói thọ mạng dài lâu của Phật này, mà chỉ sanh một niệm tín giải, thì đặng công đức vô hạn lượng rồi. Vì là chỗ Phật sống, chỗ thành Phật, tin được chỗ này, thì đó là nhân thành Phật, là mở tia sáng trên con đường vô minh để mình trở về quê đã bỏ từ vô thuỷ.Đây Phật nói, người tu năm ba la mật trước mà trừ trí huệ ba la mật so với công đức tín giải này không bằng được, bởi vì sao? Bởi vì tin này là tin vào trí huệ Phật, thì những công đức tạo tác hữu vi đó không sánh kịp là dễ hiểu rồi. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn có công đức như thế mà thối thất nơi đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác thời không có lẽ đó. Cho nên người tu hành phải lấy đây làm nhân chân thật để tu mới khế hợp quả chân thật, nghĩa là tin chắc mình có việc này, lấy đó làm nhân để tu hành, rồi tỏ ngộ được việc này, y theo đó để sống cho đến thành Phật vậy thôi, không còn đi con đường nào khác nữa. Trong kinh nói chỉ một việc này thật, có hai chẳng phải chân là đó.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu người cầu huệ Phật
Trong tám mươi muôn ức
Na do tha kiếp số
Tu năm ba la mật
Ở trong các kiếp đó
Bố thí cúng dường Phật
Và Duyên giác đệ tử
Cùng các chúng Bồ tát
Đồ uống ăn báu lạ
Thượng phục và đồ nằm
Chiên đàn dựng tịnh xá
Dùng vườn rừng trang nghiêm
Bố thí như thế thảy
Các món đều vi diệu
Hết các kiếp số này
Để hồi hướng Phật đạoTức là tu về bố thí.
Nếu lại gìn cấm giới
Thanh tịnh không thiếu sót
Cầu nơi đạo vô thượng
Được các Phật ngợi khenlà thuộc về trì giới.
Nếu lại tu nhẫn nhục
Trụ nơi chỗ điều nhu
Dầu các ác đến hại
Tâm đó chẳng khuynh động
Các người có được pháp
Cưu lòng tăng thượng mạn
Bị bọn này khinh não
Như thế đều nhẫn đượcĐây là tu nhẫn nhục.
Hoặc lại siêng tinh tấn
Chí niệm thường bền vững
Trong vô lượng ức kiếp
Một lòng chẳng trễ thôi.Đây là tinh tấn.
Lại trong vô số kiếp
Trụ nơi chỗ vắng vẻ
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Trừ ngủ, thường nhiếp tâm
Do các nhơn duyên đó
Hay sanh các thiền định
Tám mươi ức muôn kiếp
An trụ tâm chẳng loạn
Đem phước thiền định đó
Nguyện cầu đạo Vô thượngĐây tu về thiền định, tức là tu về năm ba la mật.
Ta đặng nhất thiết trí
Tận ngằn các thiền định
Người đó trong trăm nghìn
Muôn ức kiếp số lâu
Tu các công đức nàyĐây muốn nói các người tu năm ba la mật đó mà trừ Bát Nhã ba la mật.
Như trên đã nói rõ
Các thiện nam, tín nữ
Nghe ta nói thọ mạng
Nhẫn đến một niệm tu
Phước đây hơn phước kia
Nếu người trọn không có
Tất cả các nghi hối
Thân tâm giây lát tin
Phước đó nhiều như thế
GIẢNG:
Người nghe thọ mạng dài lâu của Phật này được một niệm tin, không nghi hối, thì phước này nhiều hơn, tức là nhấn mạnh tin chắc việc này là gốc chơn thật.
CHÁNH VĂN:
Nếu có các Bồ tát
Vô lượng kiếp hành đạo
Nghe ta nói thọ mạng
Đây thời tin nhận được
Các hạng người như thế
Đảnh thọ kinh điển này
Nguyện ta thuở vị lai
Sống lâu độ chúng sanh
Như Thế Tôn ngày nay
Vua trong các họ Thích
Đạo tràng rền tiếng lớn
Nói pháp không sợ sệt
Chúng ta đời vị lai
Được mọi người tôn kính
Lúc ngồi nơi đạo tràng
Nói thọ mạng cũng thế
Nếu có người thâm tâm
Trong sạch mà ngay thiệt
Học rộng hay tổng trì
Tuỳ nghĩa giải lời Phật
Những người như thế đó
Nơi đây không có nghi
GIẢNG:
Đây nói tin nhận thọ trì điều này là có duyên sâu với đạo Vô thượng, không phải là chuyện mới có, chớ còn nghi ngờ gì nữa, đó là cái nhân lành lớn lao, trân qúi!.
CHÁNH VĂN:
Lại A Dật Đa! Nếu có người nghe đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý của lời nói đó, người này đặng công đức không có hạn lượng, có thể sanh huệ vô thượng của Như Lai. Huống là người rộng nghe kinh này, hoặc bảo người nghe, hoặc tự thọ trì, hoặc bảo người thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, hoặc đem hoa hương, chuỗi ngọc, tràng phan, lọng nhiễu, dầu thơm, đèn nến cúng dường quyển kinh, công đức của người này vô lượng vô biên có thể sanh nhứt thiết chủng trí.GIẢNG:
Phật nói, nếu có người nghe thọ mạng dài lâu này, hiểu ý thú, tự mình tin nhận lời đó là công đức lớn rồi, mà còn vì người rộng nói rồi tự mình thọ trì, khiến người khác thọ trì, tức là chính mình rõ được tri kiến Phật đó, còn đem tri kiến Phật đó nhắc cho người khác nữa, là công đức rất lớn, đó là mở ánh sáng chánh giác ngay chính mình, và soi sáng ánh sáng đó cho nó không dứt.
CHÁNH VĂN:A Dật Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe ta nói thọ mạng dài lâu sanh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy đức Phật thường ở núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng Bồ tát lớn và hàng Thanh Văn vây quanh nói pháp.
GIẢNG:
Nghe được thọ mạng này, tin hiểu chắc thì thấy đức Phật thường ở núi Linh Thứu cùng chúng hội vây quanh đó. Như vậy mình tin hiểu chắc chắn rồi, thì ngay đây mình thấy Phật vẫn còn đang ở núi Linh Thứu thôi, không phải đợi lùi lại 25 thế kỷ trước. Bởi tri kiến Phật đâu có xưa nay. Phật ngày xưa nói tri kiến Phật là tri kiến Phật này thôi, bây giờ mình thấy tri kiến Phật này là thấy Phật xưa chớ gì! Tức là vượt ngoài ý niệm thời gian, mà quí vị không kẹt trong ý niệm xưa nay, tướng lớn nhỏ, cao thấp của Phật đó, ngay đây mở được tri kiến Phật đó, thì hiện tại rõ Phật đang nói Pháp Hoa cho mình nghe chưa dứt. Nhưng Phật đó Phật nào? Là Phật pháp thân. Hãy nhớ lại thời gian ở trong phẩm Tùng địa dũng xuất các vị Bồ tát từ dưới đất vọt lên rồi dùng các cách ngợi khen để cúng dường Phật, thời gian đó trong kinh nói trải qua đến 50 tiểu kiếp, sau đó Phật mới nói đến thọ lượng Như Lai, rồi đến phần phân biệt công đức này. Vậy, thời gian mà các vị Bồ Tát tán thán 50 tiểu kiếp, thì mình cách Phật mới có hơn 2500 năm, rõ ràng Phật vẫn còn đang nói Pháp đó chớ mất đi đâu. Cho nên thấy Phật còn ở Linh Thứu nói pháp là thấy như vậy tin được điều đó là người tin sâu đối với đạo Vô thượng. Điểm thứ hai nữa:
CHÁNH VĂN:
Lại thấy cõi Ta bà này đất bằng lưu ly ngang liền bằng phẳng, dây vàng Diêm phù đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bằng hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thứ báu hiệp thành, chúng Bồ Tát đều ở trong đó. Nếu có người tưởng quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu sắc.
GIẢNG:
Làm sao mình ở cõi Ta bà này thấy đất bằng lưu ly, thấy đâu đâu cũng vàng ròng hết? Tức mở được tri kiến Phật này thì thấy đâu đâu cũng đều thanh tịnh, ngay nơi cõi Ta bà này là Tịnh độ rồi. Bởi vì tri kiến Phật đâu có nhơ sạch, nhơ sạch là tại tâm mình. Khi thấy chính đây là Tịnh độ rồi, thì không còn có cái thấy bỏ đây đến đâu nữa. Đó là cái thấy vượt ngoài không gian, vượt ngoài thời gian,Như câu chuyện Bà già ngộ đạo, khi ngộ đạo rồi thấy ở đâu cũng sáng ngời hết. Ngài Bạch Ẩn gạn hỏi: "Sao, còn cái hầm phân có sáng không?". Bà liền thoi ngài Bạch Ẩn nói: -Ông già này chưa ngộ!
Đây Phật nói, người mà tưởng quán được như vậy, thì đó là tướng tin sâu, nghĩa là do chỗ thực hành sâu của mình, mà mình mở được chỗ thấy như vậy, đó mới là chỗ diệu ngộ.
CHÁNH VĂN:
Và lại sau đức Như Lai diệt độ, nếu có người nghe kinh này mà không chê bai, sanh lòng tùy hỉ, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc, huống là người đọc, tụng, thọ trì kinh này, người này thời là kẻ đầu đội đức Như Lai.GIẢNG:
Tin hiểu tùy hỉ đó là tướng tin sâu chắc còn đọc tụng thọ trì nữa, là đang đội đức Như Lai. Đọc tụng đây là học thuộc lòng, mà học thuộc lòng tức là sống hoài trong đó không quên, chớ không phải đọc thuộc lòng từng câu, từng chữ. Thọ trì, gìn giữ như vậy tức là đầu đội đức Như Lai, lúc nào cũng thấy Phật ngồi trên đầu mình rồi, nhưng động niệm thì cách xa. Cổ Đức có câu:
Chân tịnh giới trung tài nhất niệm.
Diêm phù tảo dĩ bát thiên niên.Tức là:
Trong cõi chân tịnh vừa khởi niệm
Diêm phù bỗng chốc tám ngàn năm.
Trong cõi chân thật thanh tịnh này, mình vừa khởi niệm thì rơi vào trong cõi Diêm phù tám ngàn năm. Vừa động niệm thì rơi vào trong sanh diệt, là cách xa rồi. Và mình hiểu ngược lại ngay đây mình chợt dừng niệm thì vượt qua tám ngàn năm. Khởi niệm là trải qua tám ngàn năm rồi, dừng niệm là không sanh, không sanh thì vượt qua tám ngàn năm. Như vậy, rõ ràng thấy Phật ở Linh Sơn dễ dàng, lòng tin vững chắc, chuyện đó Phật nói mình có thể thấy được, nhận được không phải chỉ có trong chữ nghĩa thôi.
CHÁNH VĂN:
A Dật Đa! Thiện nam tử cùng thiện nử nhơn đó chẳng cần lại vì ta mà dựng chùa tháp, và cất tăng phường cùng bốn sự cúng dường để cúng dường chúng tăng. Vì sao? Vì thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó thọ trì, đọc tụng kinh điển này thời là đã dựng tháp tạo lập tăng phường cúng dường tăng, thời là đem xá lợi của Phật dựng tháp bảy báu cao rộng nhỏ lần lên đến trời Phạm thiên, treo các phan lọng và các kinh báu, hoa, hương, chuỗi ngọc, hương bột, hương xoa, hương đốt, các trống, kỹ nhạc, ống tiêu, ống dịch, không hầu, các thứ múa chơi, dùng tiếng giọng tốt ca ngâm, khen ngợi, thời là ở trong vô lượng nghìn muôn ức kiếp đã làm việc cúng dường đó rồi.A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ, nghe kinh điển này, có người hay thọ trì, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, thời là dựng lập tăng phường, dùng gỗ chiên đàn đỏ làm các cung điện nhà cửa ba mươi hai sở, cao bằng tám cây đa la, cao rộng nghiêm đẹp, trăm nghìn Tỳ kheo ở nơi trong đó. Vườn, rừng, ao tắm, chỗ kinh hành, hang ngồi thiền, y phục, đồ uống ăn, giường nệm, thuốc thang, tất cả đồ vui đầy dẫy trong đó, tăng phường có ngần ấy trăm nghìn muôn ức nhà gác như thế, số đó nhiều vô lượng, dùng để hiện tiền cúng dường nơi ta và Tỳ kheo tăng.
GIẢNG:
Phật nói rằng, khi Như Lai diệt độ rồi có người nghe kinh này không chê bai, lòng tùy hỉ, thì đó là tướng tin sâu sắc, giống như là đầu đội đức Như Lai, những người như vậy chẳng cần dựng tháp chùa, cất tăng phường cúng dường, tức là đã cúng dường đức Như Lai rồi. Vậy Phật bảo mình khỏi làm việc cúng dường kia phải không? Tức ngầm chỉ cúng dường này là cúng dường trên hết, chân thật, những việc cúng dường kia là việc làm hữu vi tạo tác.Có một lần Ngài Vô Trước đi lên Ngũ Đài Sơn tìm Bồ Tát Văn Thù. Ngài gặp ông già, chính là hóa thân của Bồ Tát mà Ngài Vô Tước không biết. Khi tiễn về, ông già mới khai thị cho Vô Trước bài kệ rằng:
Nhứt niệm tịnh tâm thị Bồ Đề
Thắng tạo hằng sa thất bảo tháp
Bảo tháp cứu tận toái vi trần
Nhất niệm tịnh tâm thành chánh giác.
Tức là:
Một niệm tịnh tâm ấy Bồ đề
Hơn tạo hằng sa tháp bảy báu
Tháp báu cuối cùng nát thành bụi
Một niệm tịnh tâm thành chánh giác.
Hóa thân Bồ Tát Văn Thù dạy rằng: ngay một niệm tâm mình thanh tịnh đó là Bồ đề rồi khỏi phải cầu đâu khác.Như vậy còn hơn tạo hằng sa tháp bảy báu, vì tháp báu đó dù kiên cố mấy nhưng trải qua thời gian rồi cũng nát thành bụi, cũng phải hư hoại. Còn chính ngay một niệm tịnh tâm đó là cái gốc thành chánh giác. Từ đó thẳng tới thành đạo Vô thượng Bồ đề, không mất. Tức nhấn mạnh mình phải nhận ra chỗ này để sống, không chấp trên hình tướng kia, chớ không bảo mình đừng làm việc kia.
Mình sống được như vậy gọi là chân thật cúng dường Phật. Công đức này là công đức vô lậu, vô vi, những công đức kia không sánh kịp.
CHÁNH VĂN:Cho nên ta nói: Sau khi ta diệt độ, nếu có người thọ trì, đọc tụng, vì người khác nói, hoặc bảo người khác chép, cúng dường quyển kinh thời chẳng cần lại dựng chùa tháp và tạo lập tăng phường cúng dường chúng tăng. Huống lại có người hay thọ trì kinh này mà gồm tu hành bố thí, trì giới, công đức của người đây rất thù thắng vô lượng vô biên.
GIẢNG:
Phật nói như vậy, sợ mình chấp một bên rồi bỏ hết, mọi việc kia không cần phải làm. Cho nên đây Phật nói lại: "Huống nữa người hay thọ trì kinh này gồm tu bố thí, trì giới", thì công đức của người này rất thù thắng, vô lượng vô biên. Tức là được như vậy rồi còn làm việc kia nữa thì quá hay.
CHÁNH VĂN:Thí như hư không, Đông, Tây, Nam, Bắc, bốn phía trên, dưới vô lượng vô biên, công đức của người đó cũng lại như thế vô lượng vô biên mau đến bực thiết chủng trí. Nếu có người đọc tụng, thọ trì kinh này vì người khác nói, hoặc tự chép, hoặc bảo người chép, lại có thể dựng tháp cùng tạo lập tăng phường cúng dường khen ngợi chúng Thanh Văn tăng, cũng dùng trăm nghìn muôn pháp ngợi khen mà ngợi khen mà ngợi khen công đức của Bồ tát.
Lại vì người khác dùng các món nhơn duyên theo nghĩa giải nói kinh Pháp Hoa này, lại có thể thanh tịnh trì giới cùng người nhu hòa mà chung cùng ở, nhẫn nhục không sân, chí niệm bền vững, thường quý ngồi thiền đặng các món định sâu, tinh tấn mạnh mẽ nhiếp các pháp lành, căn lành trí sáng, giỏi gạn hỏi đáp.
A Dật Đa! Nếu sau khi ta diệt độ các thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, đọc tụng kinh điển này lại có các công đức lành như thế, phải biết người đó đã đến đạo tràng gần Vô thượng chánh đẳng chánh giác, ngồi cội đạo thọ.
GIẢNG:
Tin nhận rồi còn tu hành các ba la mật, làm các công đức là hạnh và giải có đủ thì đảm bảo gần Vô thượng bồ đề, sắp thành Phật, chuyện đó dễ hiểu rồi.Chú ý đã đến đạo tràng, gần đạo vô thượng, đó là đạo tràng gì? Đạo tràng là chùa này, chùa kia phải không? Đây đạo tràng chính là tâm thanh tịnh đó thôi. Còn đạo Vô thượng Bồ đề chính là tâm giác ngộ rốt ráo chớ không gì khác, khi mình mở được tri kiến Phật, rõ được pháp thân thường trụ, thì chính chỗ đó là chỗ thành Phật tin chắc, không nghi. Gần đạo là chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
A Dật Đa! Chỗ của thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn đó hoặc ngồi, hoặc đứng, hoặc đi, trong đó bèn nên xây tháp, tất cả trời người đều phải cúng dường như tháp của Phật.GIẢNG:
Người được công đức như vậy, hoặc đi, hoặc đứng, hay ngồi, nằm đều nên xây tháp. Nghĩa là ngay trong mọi cử chỉ, mọi hành động của người đó đều có ánh sáng tri kiến Phật, mà có ánh sáng tri kiến Phật là có pháp thân trong đó rồi, nên phải xây tháp cúng dường. Xây tháp cúng dường là ngầm chỉ phải hết lòng cung kính, để sống trở về với ánh sáng đó, không thể bỏ qua một chỗ nào trong mọi hành động, mọi cử chỉ, chỗ nào cũng là chỗ để mình sống trở về với ánh sáng chân thật đó. Nếu có chỗ nào mình bỏ qua thì chỗ đó là chỗ mê. Mà được như vậy thì bất cứ chỗ nào cũng là chỗ cho mình sáng đạo. Cho nên nghe tiếng chim kêu mình cũng sáng được, đi vấp ngã mình cũng sáng được, không bỏ sót chỗ nào hết.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:Sau khi ta diệt độ
Hay phụng trì kinh này
Người đó phước vô lượng
Như trên đã nói rõ
Đó thời là đầy đủ
Tất cả các cúng dường
Dùng xá lợi xây tháp
Bảy báu để trang nghiêm
Chùa chiền rất cao rộng
Nhỏ lần đến Phạm Thiên
Linh báu nghìn muôn ức
Gió động vang tiếng mầu
Lại trong vô lượng kiếp
Mà cúng dường tháp đó
Hoa, hương các chuỗi ngọc
Thiên y các kỹ nhạc
Thắp đèn dầu nến thơm
Quanh khắp thường soi sáng
Lúc đời ác mạt pháp
Người hay trì kinh này
Thời là đã đầy đủ
Các cúng dường như trên.
GIẢNG:
Đây nói rằng, người trì kinh Pháp Hoa, sống với tri kiến Phật này là đầy đủ các thứ cúng dường đó, tức là muốn nhắc mình mở sáng tri kiến Phật sống được trong đây, là điều căn bản không thể quên.
CHÁNH VĂN:
Nếu hay trì kinh này
Thời như Phật hiện đại
Dùng ngưu đầu chiên đàn
Dựng tăng phường cúng dường
Nhà ba mươi hai sở
Cao tám cây đa la
Đồ ngon y phục tốt
Giường nằm đều đầy đủ
Trăm nghìn chúng nương ở
Vườn rừng các ao tắm
Chỗ kinh hành ngồi thiền
Các món đều nghiêm tốt
Nếu có lòng tin hiểu
Thọ trì, đọc tụng biên
Nếu lại bảo người biên
Và cúng dường kinh quyển
Rải hoa hương, hương bột
Dùng tu mạn, chiêm bặc
A đề mục da đà
Ướp dầu thường tốt đó
Người cúng dường như thế
Đặng công đức vô lượng
Như hư không vô biên
Phước đó cũng như thế
GIẢNG:
Tức là mình thọ trì và nhắc nhở cho người khác, khiến tri kiến Phật này sáng mãi ở trên thế gian, không cho gián đoạn, thì công đức này vô lượng vô biên không tính kể hết.
CHÁNH VĂN:
Huống lại trì kinh này
Gồm bố thí, trì giới
Nhẫn nhục ưa thiền định
Chẳng sân, chẳng ác khẩu
Cung kính nơi tháp miếu
Khiêm hạ các Tỳ kheo
Xa lìa tâm tự cao
Thường nghĩ suy trí tuệ
Có gạn hỏi chẳng sân
Tuỳ thuận vì giải nói
Nếu làm được hạnh đó
Công đức chẳng lường đượcTrì kinh này mà còn thực hành sáu ba la mật nữa thì công đức khó nói hết được.
Nếu thấy pháp sư này
Nên công đức như thế
Phải dùng hoa trời rải
Ao trời trùm thân kia
Đầu mặt tiếp chơn lạy
Sanh lòng tưởng như Phật
Lại nên nghĩ thế này
Chẳng lâu đến đạo thọ
Đặng vô lậu vô vi
Rộng lợi các người trời
Chỗ trụ chỉ chỗ kia
Kinh hành hoặc ngồi nằm.
Nhẫn đến nói một kệ
Trong đây nên xây tháp
Trang nghiêm cho tốt đẹp
Các món đem cúng dường
Phật từ ở chỗ này
Thời là Phật thọ dụng
Thường ở nơi trong đó
Kinh hành và ngồi nằm.
GIẢNG:
Tức là được những công đức này thì sẽ gần đạo Vô thượng chánh đẳng chánh giác, trong chỗ đi đứng ngồi nằm của người đó, nên xây tháp cúng dường, coi như Phật đang hiện tại, Phật đang thọ dụng vậy. Đây kết lại, tại sao nghe thấy thọ mạng dài lâu này được những công đức lớn như vậy? Bởi vì chính đây là chỗ sống của chư Phật, là chỗ cội gốc mê lầm của tất cả chúng sanh. Sở dĩ chúng sanh mà đi vào trong sanh tử luân hồi là bị mê mất chỗ này. Bởi một niệm bất giác, quên nguồn sống chân thật này gọi là vô minh, mà đi vào trong sanh tử, quên đường về. Nhưng ở đây đang sống trong sanh tử, đang lang thang đó, nguồn sống này có mất không? Cũng ngầm ẩn trong đó thôi, không mất đâu hết. Quý vị kiểm lại xem, mình bắt đầu từ lúc mới mê cho đến bây giờ đây thì sanh tử bao nhiêu lần? Không biết tính bao nhiêu kể, mà sao vẫn còn ngồi đây? Sao không tiêu hoại theo sanh tử? Trong đó có khi vào địa ngục, có khi làm con này con kia. Nhưng bây giờ vẫn có mặt đây, thì rõ ràng có cái gì trong đó không mất. Nếu chỉ cái thân sanh diệt này thôi, thì nó tiêu mất từ lâu rồi. Như vậy để mình tin nhận điều này là chân thật, trong thân sanh diệt có tuổt thọ Như Lai vô cùng vô tận. Tại sao mình không sống với tuổi thọ đó sướng hơn không? Nhận được như vậy là mình bắt đầu sống trở về, mình sẽ là một vị Phật, công đức lớn là chuyện rõ ràng. Có lần vị tăng hỏi Thiền Sư Thọ Sơn:- Tuổi thọ của Thọ Sơn là bao nhiêu?
Thiền Sư Thọ Sơn đáp:
- Bằng với hư không.
Ông tăng hỏi:
- Còn hư không bao nhiêu tuổi?
Thọ Sơn đáp:
- Bằng với Thọ Sơn.
Đó là tuổi thọ Như Lai không tính kể. Ngay thân sanh diệt này Ngài thấy rõ có thân vô lượng tuổi đồng với hư không.
Vậy quý vị nghe được tuổi thọ Như Lai, nghe được phẩm Phân Biệt Công Đức này, thì thấy mình có chút nào lợi ích chưa? Có niềm vui là có lợi ích rồi. Mong rằng tất cả những người nghe đây đều nhận được tuổi thọ vô lượng của Như Lai để sống, chớ không sống theo tuổi thọ có ngắn có dài này, thì đó là trên con đường mình trở về quê hương cũ của mình từ vô thuỷ.
-
19. Phẩm Tùy hỷ công đức
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ Ngài Di Lặc Bồ tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào nghe kinh Pháp Hoa này mà tùy hỷ đó, đặng bao nhiêu phước đức? Liền nói kệ rằng:
Sau khi Phật diệt độ
Có người nghe kinh này
Nếu hay tùy hỷ đó
Lại đặng bao nhiêu phước ?GIẢNG:
Tùy hỷ tức là vui theo. Vui theo mà không có lòng trái nghịch, không có ý ganh ghét, chê bai. Nghe kinh Pháp Hoa mình cũng vui theo, mà nghe người nói kinh Pháp Hoa thì mình cũng vui theo. Bởi vì Pháp Hoa là chỉ cho tri kiến Phật, nghe người khác có tri kiến Phật thì mình vui theo người đó, vui như vậy mình cũng khơi dậy tri kiến Phật nơi mình, không phải nghe người ta có thì mình đố kỵ, mình ganh ghét, thành ra nó ngăn ngại mình. Người hiểu đạo, thấy người khác có duyên nghe kinh Pháp Hoa sáng được tri kiến Phật, sớm nhận trước, thì người đó xài trước; mình cũng nhân đó mà tùy hỷ rồi khéo nhận sau, đem ra xài thì cũng không kém họ. Trên đây là Bồ Tát Di Lặc hỏi Phật về công đức tuỳ hỷ.CHÁNH VĂN:
Khi đó Phật bảo Ngài Di Lặc Đại Bồ tát rằng: "A Dật Đa! Sau khi Như Lai diệt độ nếu có tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di và người trí khác, hoặc lớn, hoặc nhỏ nghe kinh này mà tùy hỷ rồi từ trong pháp hội ra đến chỗ khác, hoặc tại tăng phường, hoặc chỗ vắng vẻ, hoặc thành ấp, đường xá, xóm làng, ruộng rẫy, đem pháp đúng như chỗ đã nghe mà vì cha mẹ tôn thân, thiện hữu tri thức tùy sức diễn nói. Các người đó nghe rồi tùy hỷ lại đi dạy người khác, người khác nghe rồi cũng tùy hỷ chuyển dạy, xoay vần như thế đến người thứ năm mươi.
A Dật Đa! Công đức tùy hỷ của thiện nam tử, thiện nữ nhơn thứ năm mươi đó, ta nói, ông phải lắng nghe.
GIẢNG:
Đây nói tới công đức tùy hỷ của người nghe chỉ lại cho người khác. Chú ý, những tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, và những người trí khác, hoặc lớn, hoặc nhỏ, không có phân biệt, nghe tùy hỷ rồi đến chỗ khác mà không phải ở trong chùa thôi, hoặc ở nơi đường xá, xóm làng, ruộng rẫy, những chỗ ngoài pháp hội, mà đem pháp này đúng chỗ nghe mà nói lần lượt tới người thứ năm mươi, công đức này Phật nói:
CHÁNH VĂN:
Nếu bốn trăm muôn ức vô số thế giới có sáu đường chúng sanh trong bốn loài sanh: noãn sanh, thai sanh, thấp sanh, hóa sanh hoặc có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, chẳng phải có tưởng, chẳng phải không tưởng, không chân, hai chân, bốn chân, nhiều chân, tất cả trong số chúng sanh như thế, có người cầu phước tùy theo đồ ưa thích của chúng muốn đều cung cấp cho đó. Mỗi chúng sanh cho các trân bảo tốt, vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách đầy đủ cả Diêm phù đề và voi, ngựa, xe cộ, bảy báu làm thành những cung điện, lầu gác v.v…
Vị đại thí chủ đó bố thí như thế đủ tám mươi năm rồi mà nghĩ rằng: "Ta đã ban cho chúng sanh những đồ ưa thích tùy theo ý muốn, những chúng sanh này đều đã suy, tuổi quá tám mươi, tóc bạc mặt nhăn gần chết chẳng lâu, ta phải dùng Phật pháp mà dạy bảo dìu dắt chúng. Liền nhóm chúng sanh đó tuyên bày pháp giáo hóa, chỉ dạy lợi ích vui mừng. Đồng thời đặng đạo Tu đà hoàn, đạo Tư đà hàm, đạo A na hàm, đạo A la hán dứt hết cả hữu lậu, với những thiền định sâu đều đặng tự tại, đủ tám món giải thoát.
Ý ông nghĩ sao? Công đức của vị đại thí chủ đó đặng có nhiều chăng?
Ngài Di Lặc bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Công đức của người đó rất nhiều vô lượng vô biên. Nếu vị thí chủ đó chỉ thí tất cả đồ ưa thích cho chúng sanh, công đức đã vô lượng rồi, huống là làm cho đều đặng quả A la hán.
GIẢNG:
Trước khi nói công đức kia Phật nói thí dụ để so sánh, như người bố thí cho những chúng sanh không phải chỉ loài người thôi mà cả đến loài noãn sanh, thai sanh, hóa sanh, những loài có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, cho những đồ ưa thích như là vàng bạc, châu báu, gọi là tài thí. Bố thí như vậy xong rồi còn chưa đủ lại giáo hóa cho họ đắc quả Tu đà hoàn, Tư đà hàm, A na hàm, A la hán, đó là pháp thí. Công đức đó hỏi Ngài Di Lặc được nhiều ít?
CHÁNH VĂN:
Phật bảo Ngài Di Lặc: "Ta nay rành rẽ nói cùng ông, người đó đem tất cả đồ vui thích thí cho sáu đường chúng sanh trong bốn trăm ức vô số thế giới, lại khiến đặng quả A la hán, công đức của người đó đặng chẳng bằng công đức của người thứ năm mươi kia nghe một bài kệ kinh Pháp Hoa mà tùy hỷ, trăm phần, nghìn phần, trăm nghìn muôn ức phần chẳng bằng một phần, nhẫn đến, tính đếm, thí dụ không thể biết được.
A Dật Đa! Người thứ năm mươi như thế, xoay vần nghe kinh Pháp Hoa, công đức tùy hỷ, còn vô lượng vô biên a tăng kỳ, huống là người tối sơ ở trong hội nghe kinh mà tùy hỷ, phước đó lại hơn vô lượng vô biên a tăng kỳ không có thể sánh được.
A Dật Đa! Nếu có người vì kinh này mà qua đến tăng phường, hoặc ngồi, hoặc đứng, trong chốc lát nghe nhận, nhờ công đức đó chuyển thân sanh ra đặng voi, ngựa, xe cộ, kiệu, cáng bằng trân bảo tốt đẹp bậc thượng và đặng ở thiên cung.
Nếu có người ngồi trong chỗ giảng pháp, sau lại có người đến khuyên mời ngồi nghe, hoặc chia chỗ cho người, công đức của người đó chuyển thân đặng chỗ ngồi của Đế Thích hoặc chỗ ngồi của Phạm Vương, hoặc chỗ ngồi của Chuyển Luân Thánh Vương.
A Dật Đa! Nếu lại có người nói với người khác rằng: "Có kinh tên Pháp Hoa nên cùng nhau nghe". Liền nhận lời bảo dẫn đến nghe trong giây lát, công đức của người đó, chuyển thân đặng với Đà La Ni Bồ tát, sanh chung một chỗ, căn tánh lanh lợi, có trí huệ, trăm nghìn muôn đời, trọn chẳng ngọng câm, hơi miệng chẳng hôi, lưỡi thường không bịnh, răng chẳng đen dơ, chẳng vàng chẳng thưa, cũng chẳng thiếu rụng, chẳng so le, chẳng sếu gảy, môi chẳng trớt, cũng chẳng rút túm, chẳng thô rít, chẳng ghẻ mụt, cũng chẳng sứt hư, cũng chẳng cong vẹo, chẳng dày chẳng lớn, cũng chẳng đen nám, không có các tướng đáng chê.
Mũi chẳng xệp dẹp, cũng chẳng cong gãy, sắc mặt chẳng đen, chẳng hẹp dài, cũng chẳng hóm gãy, không có tất cả tướng chẳng đáng ưa, môi lưỡi răng nướu thảy đều nghiêm tốt, mũi lớn cao thẳng, diện mạo tròn đầy, mày cao và dài, trán rộng bằng thẳng, tướng người đầy đủ, đời đời sanh ra thấy Phật, nghe pháp tin nhận lời dạy bảo.
A Dật Đa! Ngươi hãy xem nơi một người khiến qua nghe pháp mà công đức như thế, huống là một lòng nghe, nói, đọc, tụng, lại ở trong đại chúng vì người phân biệt, đúng như lời dạy mà tu hành.
GIẢNG:Đây Phật dạy người bố thí của cải cho chúng sanh như trên và dạy cho được chứng tứ quả thanh văn cũng không bằng người thứ năm mươi nghe bài kệ kinh Pháp Hoa rồi tùy hỷ. Người thứ năm mươi được công đức như vậy, để nói người lúc ban đầu trong hội nghe công đức càng lớn hơn nữa. Dạy người chứng đến tứ quả cũng là độ chúng sanh, mà độ chúng sanh bên ngoài, còn thấy có người được độ, có người chưa được độ. Mà còn thấy có người chưa được độ tức là chưa độ tận gốc chúng sanh. Chỗ thấy mà tùy hỷ nghe kinh Pháp Hoa, thì chỗ thấy này mới là tột được bờ mé chúng sanh. Bởi vì chỗ thấy này là chỗ thấy của Phật, thấy ai ai cũng đều có tri kiến Phật, không ai thiếu, là chỗ thấy không có thứ lớp sai biệt. Do đó, Phật tán thán là tán thán chỗ đó, công đức vô lượng quý báu là như vậy. Đây Ngài so sánh người thứ năm mươi chuyển lần được nghe công đức còn lớn như vậy, huống là người trực tiếp nghe. Ngầm chỉ công đức của người sơ phát tâm đó, rất là quan trọng, có cái sơ phát tâm đó, mới có sống trở về. Như vậy mình tin nhận rồi, mình phải sống để cho nó tiếp tục được sáng mãi, cũng như đây chuyển lần, chuyển lần cho người khác nữa chớ không để bỏ qua mất một chỗ nào hay một lúc nào. Rồi ở tăng phường hoặc ngồi hoặc đứng, nghe nhận trong chốc lát cũng được công đức lớn tức là được cái nhân vượt lên thế gian. Rồi chia chỗ ngồi khuyên một người qua nghe, còn công đức lớn như vậy, huống là chính mình một lòng lắng nghe.
Tóm lại, trong đây nhấn mạnh công đức tùy hỷ rất lớn, mình phải học tâm tùy hỷ này, nghe ai tu tốt, có phần sáng được lẽ thật này thì mình cũng tùy hỷ vui theo, tức là mình mừng có thêm bạn trên đường về chớ không có đố kỵ, hoặc mình thấy người có sáng tỏ tri kiến Phật thì tin rằng mình cũng có phần được như vậy. Bởi vì ở thế gian thấy ai hơn mình thì đố kỵ, ganh ghét. Còn đây phải tập sống được tâm tùy hỷ.
CHÁNH VĂN:
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Nếu người trong pháp hội
Đặng nghe kinh điển này
Nhẫn đến một bài kệ
Tùy hỷ vì người nói
Xoay vần dạy như thế
Đến người thứ năm mươi
Người rốt sau đặng phước
Nay sẽ phân biệt đó
Như có đại thí chủ
Cung cấp vô lượng chúng
Đầy đủ tám mươi năm
Tùy ý chúng ưa muốnTức cung cấp đồ ăn uống trân báu, đây thuộc về tài thí.
Thấy chúng tướng già suy
Tóc bạc và mặt nhăn
Răng thưa thân khô gầy
Nghĩ kia sắp phải chết
Ta nay phải nên dạy
Cho chúng đặng đạo quả
Liền vì phương tiện nói
Pháp Niết Bàn chân thật
Đời đều chẳng bền chắc
Như bọt bóng ánh nắng
Các người đều nên phải
Mau sanh lòng nhàm lìa
Các người nghe pháp đó
Đều đặng A la hán
Đầy đủ sáu thần thông
Ba minh, tám giải thoátĐây dạy đạo cho chứng được quả thánh, tức thuộc phần pháp thí.
Người năm mươi rốt sau
Nghe một kệ tùy hỷ
Người này phước hơn kia
Không thể thí dụ đặng
Xoay vần nghe như thế
Phước đó còn vô lượng
Huống là trong pháp hội
Người tùy hỷ ban đầuĐây Ngài so sánh, phước như vậy mà không bằng phước tùy hỉ nghe Pháp Hoa, tức là người tin trở lại tri kiến Phật của mình.
Nếu có khuyên một người
Dắt đến nghe Pháp Hoa
Rằng: kinh này rất mầu
Nghìn muôn kiếp khó gặp
Liền nhận lời qua nghe
Nhẫn đến nghe giây lát
Phước báu của người đó
Nay nên phân biệt nói
Đời đời miệng không bệnh
Răng chẳng thưa, vàng, đen
Môi chẳng dày, teo, thiếu
Không có tướng đáng chê
Lưỡi chẳng thô, đen, ngắn
Mũi cao lớn mà ngay
Trán rộng và bằng phẳng
Mặt, mắt đều trang nghiêm
Được người thấy ưa mến
Hơi miệng không hôi nhơ
Mùi thơm bông ưu bát
Thường từ trong miệng raĐâây nói các căn được đoan nghiêm, tốt đẹp, đó là chuẩn bị mở đường Ngài nói đến sáu căn thanh tịnh sau này.
Nếu cố đến tăng phường
Muốn nghe kinh Pháp Hoa
Giây lát nghe vui mừng
Nay sẽ nói phước đó
Sau sanh trong đời người
Đặng voi, ngựa, xe tốt
Kiệu, cáng bằng trân báu
Cùng ở cung điện trời
Nếu trong chỗ giảng pháp
Khuyên người ngồi nghe kinh
Nhơn vì phước đó đặng
Tòa Thích, Phạm chuyển luân
Huống là một lòng nghe
Giải nói nghĩa thú kinh
Đúng như pháp mà tu
Phước đó chẳng lường đặngKết lại, nói công đức tùy hỷ đó rất lớn, đây là chuẩn bị Ngài nói công đức thọ trì truyền bá thì sẽ được sáu căn thanh tịnh, không thể nghĩ bàn. Nói công đức tùy hỷ, nhưng không phải dừng chỗ công đức tùy hỷ này thôi.
-
20. Phẩm Pháp sư công đức
Phẩm Pháp Sư Công Đức này là nói công đức người trì kinh, truyền bá để khiến cho sức sống Pháp Hoa đó được tiếp nối không gián đoạn, thì người đó sẽ được công đức gì? Trong đây nói sẽ được sáu căn thanh tịnh. Tức là chỗ thấy nghe hiểu biết của mình đây đều luôn luôn sáng ngời, không gián đoạn, không bị sáu trần làm ngăn che lấp mất, chính chỗ đó là chỗ bảo nhậm Pháp Hoa hay là chỗ giữ gìn tri kiến Phật, ánh sáng Pháp Hoa thường hiển lộ nơi sáu căn.
Có được tướng này đó là công đức diệu ngộ sâu, có sức sống chân thật, không còn lui sụt nữa. Nếu người sống được chỗ này là phải một lòng tinh chuyên miên mật, không cho gián đoạn, nên Phật ở đây Ngài nói với Bồ tát Thường Tinh Tấn. Trước có phẩm Pháp sư, đây là Pháp sư công đức. Pháp sư ở trước thì giúp trợ phát cho người có tâm tín giải Pháp Hoa, phẩm Pháp sư công đức này nói thẳng kết quả hiện tiền cảm nghiệm được nơi người trì kinh, cho nên chỗ này sâu hơn,
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Phật bảo Ngài Thường Tinh Tấn đại Bồ tát rằng: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, người đó sẽ đặng tám trăm công đức nơi mắt, một nghìn hai trăm công đức nơi tai, tám trăm công đức nơi mũi, một nghìn hai trăm công đức nơi lưỡi, tám trăm công đức nơi thân, một nghìn hai trăm công đức nơi ý, dùng những công đức này trang nghiêm sáu căn đều được thanh tịnh.Thiện nam tử và thiện nữ nhân đó, nhục nhãn thanh tịnh của cha mẹ sinh ra, thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi, rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A-tỳ, trên đến cõi trời Hữu Đảnh , cũng thấy tất cả chúng sanh trong đó và nghiệp nhân duyên quả báo chỗ sinh ra thảy đều thấy biết.
khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
GIẢNG:
Đây nói người trì kinh Pháp Hoa này, đọc, tụng, giải nói, biên chép sẽ được công đức nơi mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý đó. Nhưng nơi mắt thì được tám trăm công đức, còn tai được một nghìn hai trăm. Tại sao mắt lại ít hơn? Bởi vì nơi mắt thì nó sáng phía trước, nó tối phía sau, hai bên cũng vậy, không được trọn, nên mắt chỉ được tám trăm.Còn tai thì nó nghe khắp hết, cách vách cũng nghe, trước sau bốn phía cũng nghe được hết, nên nó được một nghìn hai trăm.
Mũi ngửi mùi thì phải thông hơi thở ra vào; hơi thở ra, hơi thở vào thông thì mới ngửi mùi được, tuy nhiên hơi thở ra vào thông nhưng giữa hơi thở ra vào giao nhau đó nó khuyết, nên còn thiếu một phần, được tám trăm công đức thôi.
Lưỡi thì chia hai phần: một phần nếm vị, một phần nói chuyện, tuyên bày nói pháp, thì đây nhấn mạnh chỗ tuyên bày nói pháp nhiều hơn. Tức là nó nói được hết, chuyện đâu đâu cũng nói được, nên lưỡi được một ngàn hai trăm.
Thân thì khi hợp mới cảm biết, lìa ra thì nó không biết, nên cũng thiếu một phần.
Ý thì việc trên trời dưới đất, đâu đâu cũng nghĩ được hết. Cho nên ý được một ngàn hai trăm. Đó là muốn nói cái lực dụng của sáu căn này khi mê thì không được gọi là thanh tịnh, bởi nó còn nhiễm ô, nó bị ngăn ngại. Nay trì Pháp Hoa, sống trong ánh sáng của tri kiến Phật, thì nó không lẫn lộn với sáu trần nữa, nên nó thông suốt, không ngăn ngại. Do đó mà biến thành thanh tịnh, tức nó suốt qua sáu trần, không bị trần nào trước mắt che ngăn. Kinh nói: thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó, nhục nhãn của cha mẹ sanh ra thấy khắp cõi tam thiên đại thiên, trong ngoài có những núi rừng, sông, biển, dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến cõi trời Hữu đảnh, cùng thấy tất cả chúng sanh, trong đó có nghiệp nhơn duyên, quả báo, chỗ sanh ra thảy đều thấy biết.
Quý vị nghe như vậy có dễ tin không? Ngay con mắt này đây thấy suốt hết như vậy đó. Sự thật khi mình mở được tri kiến Phật rồi, ở trong đó mà thấy thì có gì ngăn ngại. Thấy trong tri kiến Phật, thì nó thấy qua tất cả những trần cảnh trước mắt không bị che. Nếu có chỗ nào ngăn ngại, không thấy được, đó là thiếu tri kiến Phật, tức là bị che lấp. Do đó trong kinh Lăng Nghiêm có một đoạn Phật dạy: "một người khi trở về nguồn chơn thì mười phương hư không thảy đều tiêu mất", huống là những cảnh vật trước mắt, đâu có gì ngăn ngại, nhưng nói như vậy có người sẽ nghi. Như Thiền sư Huệ Minh, gạn hỏi Thượng tọa Minh Nhan:
- Một người trở về nguồn chơn thì mười phương hư không đều tiêu mất, vậy các bậc tiên thánh, cổ đức từ xưa đến giờ có tỏ ngộ hay không?
Thượng tọa Nhan nói:
- Đã là bậc Thánh tiên đức sao không tỏ ngộ.
Sư bảo:
- Ngọn núi Thiên Thai ở trước mặt đó, sao nói tiêu mất? Ở đây mình phải hiểu, nói tiêu mất là tiêu mất với người trở về nguồn chơn, tức là người sống được trở với nguồn chơn hay mở tri kiến Phật, thì sẽ thấy suốt qua tất cả các pháp ở trước mắt này, luôn luôn là sáng ngời không có mê, cho nên nó tiêu mất là như vậy, chớ không phải tiêu mất là tiêu hoại hết, không còn gì. Điều này mình có thể chứng nghiệm ngay cuộc sống. Như vậy đó là được nhãn căn thanh tịnh, tức con mắt trong sạch. Còn bây giờ mình thấy cái gì trước mắt thì bị cái đó nó che, bởi che nên mình không sáng được tri kiến Phật, không thấy được thanh tịnh. Đây, Phật trùng tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
CHÁNH VĂN:
Nếu người ở trong chúng
Dùng tâm không sợ sệt
Nói kinh Pháp Hoa này
Ông nghe công đức đó
Người đó đặng tám trăm
Công đức thù thắng nhãn
Do dùng đây nghiêm trang
Mắt kia rất thanh tịnh
Mắt thịt cha mẹ sanh
Thấy cả cõi tam thiên
Trong ngoài núi Di lâu
Núi Tu di- Thiết vi
Và các núi rừng khác
Biển lớn nước sông ngòi
Dưới đến ngục A tỳ
Trên đến trời hữu đảnh
Chúng sanh ở trong đó
Tất cả đều thấy rõ
Dầu chưa đặng thiên nhãn
Sức nhục nhãn như thế
Ngay đây, cái nhục nhãn này thấy suốt qua tất cả. Đó nói về nhãn căn.Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu người thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc biên chép, hoặc giải nói, đặng một nghìn hai trăm nhĩ công đức, dùng tai thanh tịnh đó, nghe khắp cõi tam thiên, dưới đến địa ngục vô gián, trên đến trời hữu đảnh, trong ngoài các thứ lời lẽ giọng tiếng.
Tiếng voi, tiếng ngựa, tiếng xe, tiếng trâu, tiếng khóc la, tiếng buồn than, tiếng ốc, tiếng trống, tiếng chuông, tiếng linh, tiếng cười, tiếng nói, tiếng trai, tiếng gái, tiếng đồng tử, tiếng đồng nữ, tiếng pháp, tiếng phi pháp, tiếng khổ, tiếng vui, tiếng phàm phu, tiếng thánh nhơn, tiếng đáng ưa, tiếng chẳng đáng ưa, tiếng trời, tiếng rồng, tiếng dạ xoa, tiếng càn thát bà, tiếng a tu la, tiếng ca lâu la, tiếng khẩn na la, tiếng ma hầu la đà, tiếng lửa, tiếng gió, tiếng địa ngục, tiếng súc sanh, tiếng ngạ quỉ, tiếng tỳ kheo, tiếng tỳ kheo ni, tiếng Thanh văn, tiếng Bích chi Phật, tiếng Bồ tát, tiếng Phật.
Nói tóm đó, trong cõi tam thiên đại thiên, tất cả trong ngoài có các thứ tiếng, dầu chưa đặng thiên nhĩ, dùng tai tầm thường thanh tịnh của cha mẹ sanh, thảy đều nghe biết, phân biệt các thứ tiếng tăm như thế, mà chẳng hư nhĩ căn.
GIẢNG:
Đây người thọ trì truyền bá kinh Pháp Hoa này thì sẽ được nhĩ căn thanh tịnh, nghe suốt qua tất cả mọi thứ tiếng, nhưng vẫn không hư lỗ tai này, cũng ngay lỗ tai này mà nghe suốt hết. Nghĩa là ánh sáng tri kiến Phật hiện qua lỗ tai, nó luôn sáng ngời, nên nghe suốt hết, không có tiếng nào bị che. Còn có tiếng nào bị che tức chỗ đó là chỗ mê, là thiếu ánh sáng tri kiến Phật. Như vậy lúc nào, ở chỗ nào qua lỗ tai này đều luôn sáng ngời. Trì Pháp Hoa luôn luôn tuyên dương chỉ bày cho người là chỉ bày chỗ đó. Nếu người có duyên, ngay bất cứ tiếng gì hiện tại đây, đều có thể ngộ Pháp Hoa, tiếng gì cũng có Pháp Hoa trong đó. Bởi vậy các vị thiền sư, có vị nghe chim kêu, cũng tỏ ngộ, nghe đánh bảng ăn cơm cũng tỏ ngộ, hoặc tiếng ễnh ương kêu, tiếng hai người chửi mắng nhau cũng ngộ được. Các Ngài nghe như vậy đó, thì nhĩ căn thanh tịnh chớ gì. Ngài Động Sơn Lương Giới, hỏi Hòa thượng Vân Nham:- Vô tình thuyết pháp thì người nào được nghe?
Ngài Vân Nham đáp:
- Vô tình thuyết pháp thì vô tình được nghe.
Động Sơn hỏi:
- Hòa thượng có nghe chăng?
Vân Nham nói:
- Ta nếu nghe thì ngươi đâu nghe ta thuyết pháp, (tức ta thành vô tình rồi.)
Động Sơn hỏi:
- Con vì sao chẳng nghe?
Ngài Vân Nham dựng cây phất tử lên bảo:
- Lại nghe chăng?
Động Sơn thưa:
- Chẳng nghe.
Ngài Vân Nham bảo:
- Ta thuyết pháp ngươi còn chẳng nghe, huống là vô tình thuyết pháp.
Động Sơn hỏi:
- Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?
Ngài Vân Nham mới nói:
- Ông đâu chẳng thấy trong kinh Di Đà có nói: nước, chim, cây rừng thảy đều niệm Phật, niệm Pháp.
Ngay đó Động Sơn liền tỉnh ngộ.
Vậy tức là sao? Rõ ràng ngay lỗ tai này Động Sơn nghe suốt đến cõi Cực Lạc, chim rừng, cây, nước đều niệm Phật niệm Pháp. Bởi vì Ngài thanh tịnh nên nghe cái gì cũng đều thanh tịnh, không có mê mờ, thành ra cái gì cũng là nói pháp. Còn mình nghe mà ô nhiễm nên không thành nói pháp.
CHÁNH VĂN:Đây Ngài nói ý nghĩa đó lại bằng kệ:
Tai cha mẹ sanh ra
Trong sạch không đục nhơ
Dùng tai thường này nghe
Cả tiếng cõi tam thiên
Tiếng voi, ngựa, trâu, xe
Tiếng chung linh loa cổ
Tiếng cầm sắc không hầu
Tiếng ống tiêu, ống địch
Tiếng ca hay thanh tịnh
Nghe đó mà chẳng ham.
GIẢNG:
Chỗ này là chỗ phải chú ý, nghe hết, nghe khắp như vậy đó mà không ham, tức là không tham đắm, không dính tiếng nào, không dừng ở một tiếng nào, mới nghe suốt qua hết, còn mình nghe tiếng ca hay hoặc tiếng sáo thổi vừa tai, mình dính nơi đó, thì không nghe suốt được tiếng khác.
CHÁNH VĂN:Tiếng vô số giống người
Nghe đều hiểu rõ đặng
Lại nghe tiếng các trời
Tiếng ca rất nhiệm mầu
Và nghe tiếng trai, gái
Tiếng đồng tử, đồng nữ
Tiếng núi sông hang hiểm
Tiếng ca lăng tần già
Cọng mạng các chim thảy
Đều nghe tiếng của nó.
Địa ngục các đau đớn
Các thứ tiếng độc khổ
Ngạ quỉ đói khát bức
Tiếng tìm cầu uống ăn.
Các hàng A Tu La
Ở nơi bên biển lớn
Lúc cùng nhau nói năng
Vang ra tiếng tăm lớn
Như thế người nói pháp
An trụ ở trong đây
Mà chẳng hư nhĩ căn
Trong cõi nước mười phương
Cầm thú kêu hô nhau
Người nói kinh Pháp Hoa
Ở đây đều nghe đó.
Trên các trời Phạm Thiên
Quang Âm cùng Biến Tịnh
Nhẫn đến trời hữu đãnh
Tiếng tăm của kia nói
Pháp Sư ở nơi đây
Thảy đều đặng nghe đó
Tức nghe suốt cả trên Trời.
Tất cả chúng Tỳ Kheo
Và các Tỳ kheo ni
Hoặc đọc tụng kinh điển
Hoặc vì người khác nói
Pháp Sư ở nơi đây
Thảy đều đặng nghe đó.
Lại có các Bồ Tát
Đọc tụng nơi kinh Pháp
Hoặc vì người khác nói
Soạn tập giải nghĩa kinh
Các tiếng tăm như thế
Các Phật đấng đại thánh
Giáo hóa hàng chúng sanh
Ở trong các đại hội
Diễn nói pháp nhiệm mầu
Người trì Pháp Hoa này
Thảy đều đặng nghe đó
Cõi tam thiên đại thiên
Các tiếng tăm trong ngoài
Dưới đến ngục A Tỳ
Trên đến trời hữu đảnh
Đều nghe tiếng tăm kia
Mà chẳng hư nhĩ căn.
Vì tai kia sáng lẹ
Đều hay phân biệt biết
Người trì kinh Pháp Hoa
Dầu chưa đặng thiên nhiõ
Chỉ dùng tai sanh ra
Công đức đã như thế.
GIẢNG:
Ngay lỗ tai mình đây có thể cảm được việc đó, là suốt hết trên trời dưới đất thông cả mười phương, không có chỗ nào che ngại, vậy thì "ngay đó là cái gì" mà mình chưa tỏ ngộ? Người khéo thì ngay đó liền tỏ sáng được, ánh sáng của Pháp Hoa luôn luôn hiển bày khắp nơi, ngay nơi mỗi thứ tiếng, chớ không phải tìm đâu xa. Đó là nói về nhĩ căn thanh tịnh, ánh sáng tri kiến Phật luôn luôn hiển bày nơi lỗ tai.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn, thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, trọn nên tám trăm tỷ công đức, dùng tỷ căn thanh tịnh đó nghe khắp cõi Tam thiên đại thiên, trên dưới trong ngoài các thứ mùi bông Tu mạn na mùi bông xà đề, mùi bông mạt lợi, mùi bông chiêm bặc, mùi bông ba la la, mùi bông sen đỏ, mùi bông sen xanh, mùi bông sen trắng, mùi cây có bông, mùi cây có trái, mùi cây chiên đàn, mùi trầm thủy, mùi đa ma la bạt, mùi đa dà la, đến trăm nghìn thứ hòa lộn, hoặc là bột, hoặc là viên, hoặc là hương xoa, người trì kinh này ở trong đây đều có thể phân biệt.Và lại rõ biết mùi chúng sanh: mùi voi, mùi ngựa, mùi dê, trâu… mùi trai, mùi gái, mùi đồng tử, mùi đồng nữ và mùi cỏ cây lùm rừng, hoặc gần, hoặc xa, bao nhiêu thứ mùi có ra, thảy đều đặng nghe rõ biết chẳng lầm.
Người trì kinh này dầu ở nơi đây cũng nghe mùi trên các cõi trời: mùi cây ba lợi chất đa la, cây câu bệ đà la, cùng mùi bông mạn đà la, bông đại mạn đà la, bông mạn thù sa, bông đại mạn thù sa, mùi gỗ chiên đàn, trầm thủy các thứ hương bột, mùi các hoa đẹp. Các thứ hương trời như thế hòa hiệp thoảng ra mùi thơm đều nghe biết.
Lại nghe mùi nơi thân của các vị trời: mùi của Thích Đề Hoàn Nhơn lúc ở trên thắng điện, năm món dục vui chơi, hoặc mùi lúc ở trên diệu pháp đường vì các vị trời Đao lợi nói pháp, hoặc mùi lúc dạo chơi trong vườn, cùng mùi nơi thân của các vị Trời nam nữ khác, thảy đều xa nghe biết. Xoay vần như thế nhẫn đến trời Phạm Thế, trên đến mùi nơi thân các vị trời hữu đảnh cũng đều nghe hết.
Và nghe mùi hương của các vị trời đất và mùi Thanh Văn, mùi Bích Chi Phật, mùi Bồ Tát. Mùi nơi thân các đức Phật, cũng đều xa nghe biết chỗ ở của đó. Dầu nghe biết hương ấy, nhưng nơi tỷ căn không hư không sai, nếu muốn phân biệt vì người khác nói, ghi nhớ không lầm.
GIẢNG:
Vậy ngay lỗ mũi này ngửi qua hết mọi thứ mùi, không có mùi nào ngăn ngại hết, tức không bị mùi nào che mờ ánh sáng tri kiến Phật. Nghĩa là ánh sáng tri kiến Phật nó luôn hiển hiện nơi lỗ mũi. Như vậy có một chỗ nào đó không ngửi biết, tức chỗ đó là chỗ bị gián đoạn, chỗ đó là chỗ bị mê mờ. Thế là ngay nơi các mùi đó cũng nói Pháp Hoa rồi. Do đó trong nhà Thiền có Thiền Sư Hối Đường khai thị cho ông Hoàng Sơn Cốc ngửi mùi hoa quế, thì ông được tỏ ngộ. Đó là muốn nói ngay nơi lỗ mũi này nó hiện bày ánh sáng chân thật, chớ không phải phá hoại cái lỗ mũi này, hay là phá hoại tướng thế gian, hiển bày cái thần thông thì mới có được. Cho nên ngay lỗ mũi mình đây, nếu mình mở ánh sáng tri kiến Phật, thì ngửi được suốt qua các mùi mà không bị các mùi làm mê mờ. Đây Phật nhắc lại.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:Người đó mũi thanh tịnh
Ở trong thế giới này
Hoặc vật thơm hoặc hôi
Các thứ đều nghe biết
Tu mạn na xà đề
Đa ma la, chiên đàn
Trầm thủy và mùi quế
Mùi các thứ bông trái
Và biết mùi chúng sanh
Mùi nam tử nữ nhơn
Người nói pháp ở xa
Nghe mùi biết chỗ nàoTức là nghe mùi biết đó ở chỗ nào không lầm lẫn.
Đại thế Chuyển Luân Vương
Tiểu chuyển luân và con
Bầy tôi, các cung nhơn
Nghe mùi biết chỗ nào
Trân bửu đeo nơi thân
Cùng tạng báu trong đất
Bửu nữ của Luân vương
Nghe hương biết chỗ nào
Mọi người đồ nghiêm thân
Y phục và chuỗi ngọc
Các thứ hương xoa thân
Nghe mùi biết thân kia
Các trời hoặc đi, ngồi
Dạo chơi và thần biến
Người trì Pháp Hoa này
Nghe mùi đều biết đặng
Tức nghe mùi đó biết các vị trời đi chơi hoặc ngồi.
Các cây bông trái hột
Và mùi thơm dầu tô
Người trì kinh ở đây
Đều biết ở chỗ nào
Các núi, chỗ sâu hiểm
Cây chiên đàn nở hoa
Chúng sanh ở trong đó
Nghe mùi đều biết đặng.
Tức nghe mùi đều biết có chúng sanh ở trong đó.
Núi thiết vi, biển lớn
Các chúng sanh trong đất
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết đó ở đâu
Trai gái A tu la
Và quyến thuộc của chúng
Lúc đánh cãi dạo chơi
Nghe hương đều biết đặng
Tức là những vị trai, gái, A tu la khi dạo chơi, hoặc lúc cãi, thì ở đây nơi lỗ mũi thanh tịnh này, mình đều nghe biết suốt qua.
Đồng trống chỗ hiểm trở
Sư tử, voi, hùm, sói
Bò rừng, trâu nước thảy
Nghe hương biết chỗ ở
Nếu có người nghén chửa
Chưa rõ trai hay gái
Không căn và phi nhơn
Nghe mùi đều biết đặng
Do vì sức nghe mùi
Biết người mới nghén chửa
Thành tựu hay chẳng thành
An vui đẻ con phước
Do vì sức nghe mùi
Biết tâm niệm trai gái
Lòng nhiễm dục ngu, hờn
Cũng biết người tu hành
Các phục tàng trong đất
Vàng bạc các trân bửu
Đồ đồng chỗ đựng chứa
Nghe mùi đều biết được
Các thứ chuỗi ngọc báu
Không ai biết giá đặng
Nghe mùi biết mắc rẻ
Chỗ sản xuất ở đâu
Tức là ở đây nghe suốt qua hết, không dừng ở chỗ nào, không bị chỗ nào ngăn ngại, tức là tánh ngửi được thanh tịnh.
Các thứ hoa trên trời
Mạn đà, mạn thù sa
Cây Ba lợi chất đa
Nghe mùi đều biết được
Các cung điện trên trời
Thượng trung hạ sai khác
Các hoa báu trang nghiêm
Nghe hương đều biết được
Thắng điện vườn rừng trời
Các nhà diệu pháp đường
Ở trong đó vui chơi
Nghe mùi đều biết được
Diệu pháp đường là chỗ hội họp của Đế Thích với Chư Thiên nói pháp.
Các trời hoặc nghe pháp
Hoặc lúc hưởng ngũ dục
Lại, qua, đi, ngồi, nằm
Nghe mùi đều biết được
Thiên nữ mặc y phục
Hoa hương tốt trang nghiêm
Lúc quanh khắp dạo chơi
Nghe mùi đều biết được
Tức là biết hết mùi cả những vị thiên nữ khi dạo chơi. Ở đây quan trọng là nghe mà biết hết không lầm. Đó là không dừng, không trụ nơi mùi nào hết, còn nghe mùi này, mà nghĩ mùi này thơm quá, thì ngay đó là mất thanh tịnh liền, là bị ngăn ngại không nghe được các mùi khác.Lần lựa lên như thế
Nhẫn đến trời Phạm thế
Nhập thiền cùng xuất thiền
Nghe mùi đều biết được
Trời Quang Âm Biến Tịnh
Nhẫn đến nơi hữu đảnh
Mới sanh và lui chết
Nghe hương đều biết được
Ở trong ánh sáng Pháp Hoa này, ngửi suốt qua tất cả, không có thứ gì che mờ được hết.
Các hàng Tỳ kheo chúng
Nơi pháp thường tinh tấn
Hoặc ngồi hoặc kinh hành
Và đọc tụng kinh điển
Hoặc ở dưới rừng cây
Chuyên ròng mà ngồi thiền
Người trì kinh nghe mùi
Đều biết ở tại đâu
Bồ Tát chí bền chắc
Ngồi thiền hoặc đọc tụng
Hoặc vì người nói pháp
Nghe mùi đều biết được
Nơi nơi chỗ Thế Tôn
Được mọi người cung kính
Thương chúng mà nói pháp
Nghe mùi đều biết được
Chúng sanh ở trước Phật
Nghe kinh đều vui mừng
Đúng pháp mà tu hành
Nghe mùi đều biết đặng
Dầu chưa đặng vô lậu
Pháp sanh tỷ của Bồ Tát
Mà người trì kinh đây
Trước đặng tướng mũi này
GIẢNG:
Đây không phải dùng thần thông, mà ngay nơi mũi cha mẹ sanh này, mình được tướng thanh tịnh này, thì khắp nơi nơi không có mùi gì nó che khuất được ánh sáng Pháp Hoa, nếu người khéo, ngay lỗ mũi đó mình sáng được ánh sáng Pháp Hoa liền, khỏi tìm Pháp Hoa ở đâu khác, hoặc trong quyển sách này quyển sách kia.
CHÁNH VĂN:Lại nữa Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, đặng một nghìn hai trăm thiệt công đức.
Những món hoặc tốt, hoặc xấu, hoặc ngon hoặc dở và các vật đắng chát, ở trên lưỡi của người đó, đều biến thành vị ngon như vị cam lồ trên trời, không món nào là chẳng ngon.
Nếu dùng thiệt căn đó ở trong đại chúng nói pháp có chỗ diễn ra tiếng sâu mầu có thể vào tâm chúng, đều làm cho vui mừng sướng thích.
Đây nói phần nói pháp diễn ra, không dừng trên chữ nghĩa hay văn tự mà đi thẳng vào lòng người, đi thẳng vào tâm của chúng.
Lại các vị Thiên tử, Thiên nữ, các trời Thích, Phạm, nghe tiếng tăm thâm diệu này diễn nói ngôn luận thứ đệ, thảy đều đến nghe. Và các hàng long, long nữ, dạ xoa, dạ xoa nữ, càn thát bà, càn thát bà nữ, A tu la, A tu la nữ, ca lầu la, ca lầu la nữ, khẩn na la, khẩn na la nữ, Ma hầu la dà, Ma hầu la dà nữ, vì để nghe pháp mà đều đến gần gũi cung kính cúng dường.
Và Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, quốc vương, vương tử, quần thần, quyến thuộc, tiểu chuyển luân vương, đại chuyển luân vương, bảy báu, nghìn người con, cùng quyến thuộc trong ngoài, ngồi cung điện đồng đến nghe pháp.
Vì vị Bồ tát này khéo nói pháp, nên hàng Bà la môn, cư sĩ, nhơn dân trong nước trọn đời theo hầu cúng dường. Lại các Thanh văn Bích chi Phật, Bồ tát các đức Phật thường ưa thấy người đó, người đó ở chỗ nào, các đức Phật đều xoay về phía đó nói pháp, người đó đều hay thọ trì tất cả Phật pháp, lại có thể nói ra tiếng pháp sâu mầu.
GIẢNG:
Về lưỡi thanh tịnh thì nếm suốt qua các vị, mà không bị các mùi vị làm lu mờ ánh sáng tri kiến Phật của mình, đó là một điểm. Nói pháp thì nói, vượt qua ngôn ngữ, chữ nghĩa, thấu đến tâm người. Đó thuộc về tánh lưỡi thanh tịnh, nói ra mà không dừng trên tiếng, không dừng trên chữ, mà đi thẳng vào trong lòng người. Vậy là ngay nơi mùi vị nó vẫn lộ bày ánh sáng của Pháp Hoa, rồi ngay nơi ngôn ngữ cũng hiện bày tri kiến Phật, không để cho lời nói làm gián đoạn, làm lu mờ, cho nên nói mãi mà vẫn không mê, đó là điểm đặc biệt, còn mình nói lời nào, kẹt lời đó nên mê. Bởi vậy có vị tăng hỏi Hoà thượng Triệu Châu:- Thế nào là Phật?
Sư đáp:
- Ở trong điện.
Người thường hiểu trong điện là trong chánh điện, mà Phật trong chánh điện là Phật gì? Phật bằng tượng, bằng xi măng, hoặc bằng đồng, thì đó là Phật sao? Đây nói chỗ chánh điện đó là thấu suốt nơi tâm người, thân mình là điện này, ngồi trong chánh điện là điện đó. Ngài nói trong điện mà không kẹt trong điện Phật, trong chánh điện, nên nói ra lời đó nó suốt qua ngôn ngữ. Cho nên các Ngài được thiệt căn thanh tịnh thì nói hoài không mê, nói mà không động niệm, không dính trong câu nói, nên nói mà không lỗi. Ở đây chú ý, người đó ở đâu chư Phật xoay về đó mà nói pháp, không thiếu không vắng.
CHÁNH VĂN:Thế Tôn tuyên lại nghĩa trên nói kệ rằng:
Người đó lưỡi thanh tịnh
Trọn không thọ vị xấu
Người đó ăn uống chi
Đều biến thành cam lồ
Dùng tiếng hay thâm tịnh
Ở trong chúng nói pháp
Dẫn dắt lòng chúng sanh
Người nghe đều vui mừng
Bày đồ cúng dường tốt
Các trời, rồng, dạ xoa
Cùng A tu la thảy
Đều dùng lòng cung kính
Mà đồng đến nghe pháp
Người nói kinh pháp đó
Nếu muốn dùng tiếng mầu
Khắp cùng cõi tam thiên
Tùy ý liền được đến
Và nghìn con quyến thuộc
Chắp tay lòng cung kính
Thường đến nghe thọ pháp
Các trời, rồng, Dạ xoa
La sát, tỳ xá xà
Cũng dùng lòng vui mừng
Thường ưa đến cúng dường
Phạm thiên vương, Ma vương
Tự tại, đại tự tại
Các chúng trời như thế
Thường đến chỗ người đó
Các Phật cùng đệ tử
Nghe người nói tiếng pháp
Thương nhớ giữ gìn cho
Hoặc lúc vì hiện thân.
GIẢNG:
Đây thuật lại công đức thiệt căn thanh tịnh, nói pháp cảm đến cả trời rồng, ma vương đều cúng dường nghe pháp và Phật có lúc hiện thân. Bây giờ đến thân căn thanh tịnh.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, Thường Tinh Tấn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn thọ trì, hoặc đọc hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép đặng tám trăm thân công đức, đặng thanh tịnh như lưu ly sạch chúng sanh ưa thấy. Vì thân đó thanh sạch nên chúng sanh trong cõi Tam thiên, đại thiên, lúc sanh, lúc chết, trên dưới, tốt xấu, sanh chỗ lành, chỗ dữ… đều hiện rõ trong đó.Và núi Thiết vi, núi Đại Thiết vi, núi Di lâu, núi Đại Di lâu… các núi cùng chúng sanh ở trong đều hiện rõ trong thân, dưới đến địa ngục A tỳ, trên đến trời hữu đảnh, cảnh vật cùng chúng sanh đều hiện rõ trong thân. Hoặc là thanh văn, Duyên giác, Bồ tát cùng chư Phật nói pháp đều hiện sắc tượng ở trong thân.
GIẢNG:
Ngay nơi thân này trong sạch, tất cả đều hiện ở trong thân, đây muốn nói khi trì Pháp Hoa, mở ánh sáng tri kiến Phật thì được thân căn thanh tịnh, trong thân căn này nó hiện rõ tất cả mọi cảnh, tức là tính giác ở nơi thân này nó suốt qua mọi cảm xúc, không bị những cảm xúc che mờ, ngăn lấp, cảm xúc gì cũng sáng ngời ánh sáng tri kiến Phật. Do đó ở đây chạm biết tất cả mà không mê, nó suốt tất cả mọi thế gian, cho nên nói tất cả đều hiện trong đó. Như vậy ngay nơi thân này nó sáng ngời, không lầm lẫn một xúc nào khác, chỗ này không phải do thần thông được, mà do cảm nhận sức sống của Pháp Hoa nên hiện bày. Trong nhà thiền có Thiền sư Thần Tán, Ngài đang kỳ lưng ông thầy Bổn Sư, thì Ngài vỗ lưng ông thầy nói:- Điện Phật này đẹp mà Phật không Thánh!
Nghe vậy ông Bổn Sư đó xoay đầu ngó lại.
Ngài Thần Tán liền nói:
- Phật tuy không thánh mà thường hay phóng quang.
Ngay khi xoay đầu ngó lại là Phật phóng quang, không có ánh sáng của Phật thì cái gì biết xoay đầu ngó lại? Biết xoay đầu ngó lại là Phật phóng quang rồi mà không hay. Như vậy ông Bổn Sư nghe mà không ngộ, không thấy được Phật phóng quang. Còn Ngài Thần Tán thì thấy rõ nên muốn nhắc ông thầy. Người nói Pháp Hoa, trì Pháp Hoa, truyền bá Pháp Hoa là ngay đó mà truyền.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:Nếu người trì Pháp Hoa
Thân thể rất thanh tịnh
Như lưu ly sạch kia
Chúng sanh đều ưa thấy
Lại như gương sáng sạch
Đều thấy các sắc tượng
Bồ tát nơi tịnh thân
Thấy cả vật trong đời
Chỉ riêng mình thấy rõ
Người khác không thấy đượcĐây chỉ người trì Pháp Hoa đó mới thấy được thôi, còn người ngoài dùng tâm phân biệt nên không thấy được.
Trong cõi nước tam thiên
Tất cả các chúng sanh
Trời, người, A tu la
Địa ngục, quỷ, súc sanh
Các sắc tượng như thế
Đều hiện rõ trong thân
Mọi sắc tượng đó đều hiện trong thân người này. Tức là hiện trong ánh sáng của Pháp Hoa đó.Cung điện của các trời
Nhẫn đến trời hữu đảnh
Núi Thiết vi, Di lâu
Núi Ma ha Di lâu
Các biển nước lớn thảy
Đều hiện ở trong thân
Các Phật cùng Thanh văn
Phật tử, Bồ tát thảy
Hoặc riêng hoặc tại chúng
Nói pháp thảy đều hiện
Dầu chưa đặng diệu thân
Dùng thân thanh tịnh thường
Tất cả hiện trong đó
Tức là ngay nơi thân mình hiện tại đây, mở sáng được tri kiến Phật đó, sống được trong tri kiến Phật đó thì sẽ thanh tịnh thấu suốt qua mọi cảnh như vậy. Đó là nói về thân căn thanh tịnh. Bấy giờ tới ý căn thanh tịnh.CHÁNH VĂN:
Lại nữa Thường Tinh Tấn! Sau khi đức Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam tử cùng thiện nữ nhơn thọ trì kinh này, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc giải nói, hoặc biên chép, thời đặng một nghìn hai trăm ý công đức.Dùng ý căn thanh tịnh đó nhẫn đến nghe một kệ một câu, suốt thấu vô lượng, vô biên nghĩa, hiểu nghĩa đó rồi, có thể diễn nói một câu, một kệ đến một tháng, bốn tháng nhẫn đến một năm. Các pháp nói ra tùy nghĩa thú kia đều cùng thiệt tướng chẳng trái nhau.
Nếu nói kinh sách trong đời, lời lẽ trị thế, nghề nghiệp nuôi sống v.v đều thuận chánh pháp.
Sáu đường chúng sanh trong cõi tam thiên đại thiên, lòng nghĩ tưởng, lòng động tác, lòng lý luận, thảy đều biết đó.
Dầu chưa đặng trí huệ vô lậu mà ý căn thanh tịnh như thế người đó có suy nghĩ, tính lường, nói năng những chi thời đều là Phật pháp cả, không có gì chẳng chơn thiệt, cũng là lời trong kinh của các Phật thuở trước nói.
GIẢNG:
Đây là ý căn thanh tịnh, ý này suốt qua chữ nghĩa, thấy tột qua nghĩa lý vô lượng, chớ không bị nghĩa lý ngăn che, làm mờ. Do đó mà nghĩ biết rõ ràng các nghĩa lý, không có lẫn lộn. Ngay nơi ý đây thanh tịnh là biết rõ những ý của chúng sanh khác nữa mà không phải do thần thông. Tức không phải do tha tâm thông mà biết. Quí vị học kinh Kim Cang thì thấy rõ. Phật nói chúng sanh trong vô biên cõi nước ở mười phương có bao nhiêu thứ tâm thì Ngài đều biết hết, vì sao? Như Lai nói tâm đó chẳng phải tâm, tâm quá khứ chẳng thể được, tâm hiện tại chẳng thể được, tâm vị lai chẳng thể được, đó là tâm hư vọng, tâm sanh diệt. Bởi có động niệm ra đều là tâm sanh diệt, cho nên biết rõ hết, không lầm lẫn, biết đó không phải do thần thông, đây là do ý căn thanh tịnh thôi.Có lần Ngài Kỉnh Huyền Ngài hỏi Thiền Sư Duyên Quán:
- Thế nào là đạo tràng vô tướng?
Thiền Sư Duyên Quán chỉ tượng Quán Thế Âm bảo:
- Cái này là do Ngô xử Sĩ vẽ.
Ngài Kỉnh Huyền vừa suy nghĩ, ngay lúc đó Ngài Duyên Quán liền nhanh miệng bảo:
- Cái này có tướng, cái kia không tướng.
Vậy là ngay đó Ngài thấy thấu qua ý nghĩ của Kỉnh Huyền "cái nào là cái này". Ông vừa suy nghĩ là cái này có tướng, còn cái kia không tướng, cái kia đó là đạo tràng vô tướng. Vậy ngay lúc Kỉnh Huyền vừa suy nghĩ là Ngài thấy rồi, đó là ý căn thanh tịnh, là thấy thấu qua được ý căn. Chưa có thần thông nhưng cũng biết được, chớ không phải dùng tha tâm thông mới biết. Nghĩa là ngay lúc Ngài Kỉnh Huyền trầm ngâm suy nghĩ đó, thì Ngài Duyên Quán ý căn của Ngài thanh tịnh, cho nên Ngài không bị ý nghĩ che mờ, Ngài mới thấu rõ được chỗ đó. Cho nên đây nói ý căn thanh tịnh biết khắp tất cả mình có thể cảm nhận ngay chính mình, chớ không phải đợi có thần thông mới biết được. Công đức Pháp Sư là như vậy. Mình mở sáng được tri kiến Phật, sống được tri kiến Phật, thì ngay nơi sáu căn của mình đây, thấy nghe hiểu biết soi suốt qua tất cả sáu trần, không có trần nào lầm lẫn được với ánh sáng tri kiến Phật đó.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:Ý người đó thanh tịnh
Sáng lanh không đục nhơ
Dùng ý căn tốt đó
Biết pháp: thượng, trung, hạ
Nhẫn đến nghe một kệ
Thông đạt vô lượng nghĩa
Thứ đệ nói đúng pháp
Tháng, bốn tháng, đến năm
Trong ngoài của cõi này
Tất cả các chúng sanh
Hoặc trời rồng và người
Kia ở trong sáu đường
Nghĩ tưởng bao nhiêu điều
Phước báo trì Pháp Hoa
Đồng thời thảy đều biết
Do sức sống Pháp Hoa này nên đều biết được tâm nghĩ tưởng của các loài chúng sanh trong sáu đường kia.
Vô số Phật mười phương
Trăm phước tướng trang nghiêm
Vì chúng sanh nói pháp
Đều nghe hay thọ trì
Suy gẫm vô lượng nghĩa
Nói pháp cũng vô lượng
Sau trước chẳng quên lộn
Bởi thọ trì Pháp Hoa
Trọn biết các pháp tướng
Theo nghĩa rõ thứ đệ
Suốt danh tự ngữ ngôn.
GIẢNG:
Chỗ này là chỗ phải chú ý, biết hết tất cả đó là nhờ sao? Suốt qua danh tự ngữ ngôn, bởi không kẹt nơi danh tự, không kẹt nơi ngữ ngôn, cho nên ở trong ý thanh tịnh đó, mà biết suốt qua hết nghĩa lý kia. Nếu còn kẹt dừng nơi ngôn ngữ, tức là theo ngôn ngữ, danh tự mà phân biệt thì nó không thanh tịnh, liền bị ngăn ngại.
CHÁNH VĂN:
Như chỗ biết diễn nói
Người đó có nói ra
Là pháp của Phật trước
Vì diễn nói Pháp này
Ở trong chúng không sợ
Người trì kinh Pháp Hoa
Ý căn tịnh như thế
Dầu chưa đặng vô lậu
Trước có tướng dường ấy
Người đó trì kinh này
An trụ bực hi hữu
Được tất cả chúng sanh
Vui mừng mà mến kính
Hay dùng nghìn muôn ức
Lời lẽ rất hay khéo
Phân biệt mà nói pháp
Bởi trì kinh Pháp Hoa
GIẢNG:
Ở đây nói đến người mở sáng tri kiến Phật, thọ trì sống được trong tri kiến Phật đó, thì sẽ được công đức là luôn luôn ánh sáng tri kiến Phật biểu lộ nơi sáu căn, gọi là sáu căn thanh tịnh, thấy, nghe, hiểu biết hết trên trời dưới đất, cả nơi địa ngục, không có chỗ nào che mờ, ngăn ngại. Cho nên thọ trì Pháp Hoa, truyền Pháp Hoa là thọ trì truyền ngay sức sống thanh tịnh này. Khi sáu căn thấy, nghe, hiểu biết thanh tịnh, tỏ suốt không lầm lẫn, thì đó là công đức Pháp Hoa hiện tiền. Như vậy mình cảm nhận công đức Pháp Hoa hiện tiền ngay thân mình đây, để chứng minh cho người đó tin chắc lời Phật dạy: ai ai cũng đều có tri kiến Phật, ai ai cũng đều có kinh Pháp Hoa, không phải chuyện này là chuyện trong sách vở, trong chữ nghĩa, không thể chứng nghiệm được. Vậy đến đây là ánh sáng Pháp Hoa luôn hiện bày nơi sáu căn thấy, nghe, hiểu biết, đó là truyền Pháp Hoa cho mọi người rồi. Nếu chưa khéo nhận, đợi nghe tiếp phẩm sau: Thường Bất Khinh Bồ Tát. -
21. Phẩm Thường bất khinh Bồ tát
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ Phật bảo Ngài Đắc Đại Thế đại Bồ tát rằng: "Ông nay nên biết! Nếu có Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di nào thọ trì kinh Pháp Hoa này đặng công đức như trước đã nói, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân cùng ý thanh tịnh, như có người nói lời thô ác mắng nhiếc chê bai, mắc tội báo lớn cũng như trước đã nói.
GIẢNG:
Ở đây qua phần Bồ tát Thường Bất Khinh.
Bất khinh là không có coi thường ai, luôn có cái nhìn bình đẳng với tất cả. Không khinh ai hết, mà xem tất cả ai ai cũng đều có phần tri kiến Phật. Người trì Pháp Hoa, mà trì đến phần này là tinh trì, trì một cách ròng rặc, không có xen các tạp niệm khác, cho nên ở đây nói về Bồ tát Thường Bất Khinh, tức Phật nhắc lại lợi ích trì kinh, cũng như tội báo chê kinh. Ngài nhắc lại, người nào đối với kinh Pháp Hoa này thọ trì thì được công đức là sáu căn thanh tịnh, như là phần trước phân biệt công đức, Pháp sư công đức đã nói, người nào chê bai sẽ bị tội báo đọa địa ngục, tội báo không tốt, cũng như những phần trước đã nói, tức là ở đây nói rõ hai đường, tội - phước rõ ràng. Phật nhắc rõ như vậy, để cho mình kiên trì vững vàng, không sanh niệm khác, không để cho mình trì mà bị gián đoạn, bị những cái khác chen vào, đó chưa phải tinh trì.
CHÁNH VĂN:Đắc Đại Thế! Và thuở xưa quá vô lượng vô biên bất khả tư nghị, vô số kiếp, có Phật hiệu là Oai Âm Vương Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn.
Kiếp đó tên là Ly Suy, nước đó tên là Đại thành. Đức Oai Âm Vương Phật trong đời đó vì hàng trời, người, A tu la mà nói pháp, vì người cầu Thanh văn nói pháp tứ đế, thoát khỏi sanh, già, bịnh, chết, rốt ráo Niết Bàn, vì người cầu Bích Chi Phật mà nói pháp mười hai nhân duyên, vì các Bồ tát nhân Vô thượng chánh đẳng chánh giác mà nói sáu pháp ba la mật rốt ráo trí huệ của Phật.
Đắc Đại Thế! Đức Oai Âm Vương Phật đó sống lâu bốn mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp, chánh pháp trụ ở đời kiếp số như vi trần trong một Diêm Phù Đề, tượng pháp trụ ở đời kiếp số như bốn vi trần trong bốn châu thiên hạ. Đức Phật đó lợi ích chúng sanh, vậy sau mới diệt độ. Sau khi chánh pháp tượng pháp diệt hết, trong cõi nước đó lại có Phật ra đời, cũng hiệu là Oai Âm Vương, Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, cứ thứ lớp như thế có hai muôn ức đức Phật đều đồng một hiệu.
GIẢNG:
Ở đây nhắc lại thời xa xưa, xa đến vô lượng vô biên bất khả tư nghì vô số kiếp có Phật Oai Âm Vương, vậy Phật này cách mình chừng bao lâu? Đây là đức Phật thuở không kiếp, rất lâu xa. Vậy đức Phật này không phải đức Phật trong lịch sử, đó là Phật ở trong tự tánh. Bởi vậy mà có câu "bên kia Phật Oai Âm Vương" vốn chỉ cho rốt ráo bặt ngôn ngữ, không nghĩ bàn tới. Phật Oai Âm Vương, đây là âm thanh, âm thanh đó khắc phục tất cả, kiếp tên là Ly Suy, nước tên Đại Thành, ban đầu đức Phật đó nói Tứ Đế, rồi mười hai nhơn duyên, Pháp Ba la mật, tuổi thọ đức Phật đó tới bốn mươi vạn ức na do tha hằng hà sa kiếp, tính không hết, rõ ràng Phật này không phải là Phật lịch sử. Phật đó sau khi diệt độ rồi thì có Phật khác ra đời cũng hiệu là Oai Âm Vương Như Lai cả hai mươi ức Phật như vậy. Trước sau đồng nhau một hiệu, Phật Phật in nhau không hai, đó muốn nói lên: tâm tâm ấn nhau không khác, không tâm gián đoạn, đồng một thể giác. Tiếp nói đến Bồ tát Thường Bất Khinh.
CHÁNH VĂN:Đức Oai Âm Vương Như Lai hầu hết diệt độ rồi, sau lúc chánh pháp đã diệt trong đời tượng pháp những Tỳ kheo tăng thượng mạn có thế lực lớn.
Bấy giờ, có vị Bồ tát Tỳ kheo tên Thường Bất Khinh. Đắc Đại Thế vì cớ gì tên Thường Bất Khinh? Vì vị Tỳ kheo đó phàm khi ngó thấy hoặc Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, hoặc Ưu bà tắc, Ưu bà di, thảy đều lễ lạy khen ngợi mà nói rằng: "Tôi rất kính quý Ngài chẳng dám khinh mạn. Vì sao? Vì quý Ngài đều tu hành đạo Bồ tát sẽ đặng làm Phật".
Mà vị Tỳ kheo đó chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ đi lễ lạy, nhẫn đến xa thấy hàng tứ chúng, cũng cố qua lễ lạy ngợi khen mà nói rằng: "Tôi chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ làm Phật". Trong hàng tứ chúng có người lòng bất tịnh sanh giận hờn buông lời ác mắng nhiếc này: "Ông vô trí Tỳ kheo này từ đâu đến đây tự nói ta chẳng khinh Ngài, mà thọ ký cho chúng ta sẽ đặng làm Phật, chúng ta chẳng dùng lời thọ ký hư dối như thế"
Trải qua nhiều năm như vậy, thường bị mắng nhiếc chẳng sanh lòng giận hờn, thường nói: "Ngài sẽ làm Phật". Lúc nói lời đó, chúng nhơn hoặc lấy gậy, cây, ngói đá để đánh ném. Ông liền chạy tránh đứng xa mà vẫn to tiếng xướng rằng: "Ta chẳng dám khinh quý Ngài, quý Ngài đều sẽ thành Phật". Bởi ông thường nói lời đó, nên hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di gọi ông là Thường Bất Khinh.
GIẢNG:
Ở đây nhắc tới Bồ tát Thường Bất Khinh. Bồ tát này đặc biệt là không trì kinh như người thường mà gặp ai trong hàng tứ chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đều lễ lạy khen ngợi là "tôi rất kính quý Ngài, chẳng dám khinh, vì quý Ngài tu hành Bồ tát sẽ thành Phật", gặp ai cũng nói như vậy, mà những người nghe là những bậc tăng thượng mạn, thấy mình đã được đạo gì rồi, ông này là ông Tỳ kheo thường, lại thọ ký cho mình thì đâu chịu nghe, có khi thì mắng nhiếc. Đây Ngài không tu hạnh gì khác mà tu hạnh thường cung kính như vậy, đó là muốn cho mọi người trì Pháp Hoa rồi. "Tôi không dám khinh quý Ngài, quý Ngài sẽ thành Phật". Với con mắt của Ngài, Ngài thấy ai ai cũng đều có tri kiến Phật cho nên ai cũng thành Phật. Nói như vậy tức là đem niềm tin lại cho mọi người, khiến cho mọi người ai cũng đều tin mình có phần tri kiến Phật, có khả năng để giác ngộ, không ai thiếu, vậy sao không chịu giác ngộ? Như vậy tức là Ngài đã nói Pháp Hoa rồi chớ gì? Nói Pháp Hoa mà không nói theo văn tự chữ nghĩa, đây chính là nói theo chân nghĩa của Pháp Hoa. Pháp Hoa là tri kiến Phật, mà Ngài đem tri kiến Phật đó nhắc, đánh thức cho mọi người, quả là nói quá khéo. Nhưng mọi người chưa thấu suốt được chỗ đó, cứ chấp theo trên chữ nghĩa, chưa được cho là được nên đâu thấy. Vì vậy, mà khinh khi, chửi mắng, "ông này là ông vô trí Tỳ kheo, không biết từ đâu đến mà thọ ký cho chúng ta, chúng ta đâu nhận thọ ký như vậy", Phật thọ ký thì mới chịu chớ. Ngài Thường Bất Khinh này chẳng chuyên đọc tụng kinh điển, chỉ làm việc đặc biệt vậy thôi, nhưng như vậy Ngài có tụng kinh không? Không đọc tụng là không đọc kinh điển bằng giấy mực, mà ở đây Ngài đem tri kiến Phật, đem Phật tánh nhắc nhở mọi người, đánh thức cho mọi người, thì đó chính là bộ kinh sống, đó là tụng kinh sống, là chân kinh. Chân kinh thì không có quyển, không có quyển 1, 2, 3 gì. Còn kinh có quyển này quyển kia là kinh giấy mực.
Có lần vua Hương Chí hỏi Tổ Bát Nhã Đa La:
- Tôi thấy các thầy đều tụng kinh hết mà sao Tôn Giả không tụng kinh?
Tổ Bát Nhã Đa La nói rằng:
- Tôi thì hơi thở ra chẳng tiếp với các nhơn duyên, hơi thở hít vào chẳng trụ trong ấm giới, thường tụng thứ kinh này trăm ngàn muôn ức quyển, tụng hoài không dứt.
Tức là hơi thở ra là không tiếp các duyên bên ngoài, rồi hít vào không trụ trong ấm giới này, không kẹt ngoài, không dính trong, tụng bộ kinh đó tụng hoài không dứt, kinh đó mới là kinh sống. Ở đây Bồ tát Thường Bất Khinh cũng vậy, Ngài không tụng kinh bằng giấy mực mà tụng bộ kinh sống đó, tức là luôn luôn trì Pháp Hoa. Trì Pháp Hoa là trì như vậy đó, lúc nào cũng thấy ánh sáng đó luôn luôn có mặt với mình, thì mới là thực trì, chớ không phải trì đọc tụng bộ kinh này hoài, mà không biết Pháp Hoa là gì, phiền não vẫn phiền não. Bởi vậy ở đây Ngài nói như vậy, bị người ta mắng nhiếc cũng không sanh lòng giận hờn, đứng xa xa cũng nói là "các Ngài thành Phật", dù cho ném đá, thì Ngài chạy xa đứng chắp tay xá xá cũng nói: "Các Ngài sẽ thành Phật". Nghĩa là luôn luôn Ngài thấy rằng ai cũng đều có tri kiến Phật, bị mắng bị đánh như vậy đó cũng giữ gìn không để mất ánh sáng tri kiến Phật, dù trong hoàn cảnh thuận hay nghịch, vẫn không mất ánh sáng tri kiến Phật, luôn luôn lúc nào cũng hiện hữu, thì đó mới là trì một cách ròng rặc, vì vậy sau này Ngài sớm thành Phật, còn mình nhiều khi cứ tụng cho nhiều mà tính bộ, người nào tụng nhiều bộ thì hay khiến cho càng tụng nhiều bộ chừng nào, càng sanh bệnh chừng đó như chuyện Ngài Pháp Đạt đến gặp Lục Tổ. Đến để học đạo, để thưa hỏi, mà tới đó lễ đầu không sát đất, ngay đó Lục Tổ thấy thì biết liền trong bụng ông này có chứa sự nghiệp gì rồi, lễ mà chưa thật kính, nghĩ rằng mình có sự nghiệp trong này rồi, lễ ông Tổ này mà không biết ông hơn mình không? Cho nên lễ bất đắc dĩ vậy thôi. Tổ bảo:
- Ông có chứa sự nghiệp gì?
Ông nói ngay:
- Con tụng năm ngàn bộ Pháp Hoa!
Quý vị thấy, ngay đó nó lộ ra liền. Quý vị nghĩ xem, tụng năm ngàn bộ Pháp Hoa, thì tụng bao nhiêu năm? Vậy để thấy, tụng như vậy là cả một công phu lớn, ngay đó Lục Tổ quở liền:
- Dù cho ông tụng muôn bộ đi nữa, mà không nhận được ý kinh, cho mình là hơn, thì vẫn cách xa Tổ, lễ là để dẹp cái ngã mạn, mà ông đầu không sát đất, vậy là còn ngã mạn, còn ngã mạn tức có ngã thì tội liền sanh, phải quên cái ta, không ta thì phước không sánh, phước mới lớn.
Ngài Pháp Đạt nghe qua lời Tổ mới giật mình sám hối tạ lỗi. Cho thấy tụng nhiều mà chấp vào cái tụng đó, cũng sanh bệnh, còn đây phải thấu suốt được ý nghĩa chân thật mới rõ được bản ý của Phật.
CHÁNH VĂN:
Vị Tỳ kheo đó lúc sắp chết, nơi giữa hư không nghe trọn hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của Đức Oai Âm Vương Phật đã nói thuở trước, nghe xong đều có thể thọ trì, liền đặng nhãn căn thanh tịnh, nhĩ, tỷ, thiệt, thân cùng ý căn thanh tịnh như trên. Đặng sáu căn thanh tịnh đó rồi lại sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi, rộng vì người nói kinh Pháp Hoa đó.
GIẢNG:
Ngài chỉ trì bấy nhiêu đó, gặp ai cũng xá xá nói: "Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài đều sẽ làm Phật". Đến khi sắp chết thì ở giữa hư không nghe hai mươi nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa của đức Phật Oai Âm Vương thuở trước đã nói. Nghe xong thọ trì, rồi được sáu căn thanh tịnh, lại sống thêm nữa, quí vị nghe vậy có nghi không? Phật Oai Âm Vương đã diệt độ lâu rồi, qua thời chánh pháp đến tượng Pháp, vậy ai nói trong hư không đó mà nghe? Phải thấy đến chỗ đó. Bởi vì đây, chết là cái giả thân này chết thôi, còn tri kiến Phật đâu có chết, pháp thân Phật đâu có chết, thì ở đây, khi Ngài Thường Bất Khinh này sắp chết, đây là tâm đã thuần thục, nó chín mùi thì sao? Thì ở đâu cũng nghe Pháp Hoa hết, không phải trong mấy chữ, mấy hàng này thôi, tiếng gió thổi cũng nghe nói Pháp Hoa được, tiếng chim cũng nghe nói Pháp Hoa được. Vậy chung quanh mình đều nghe tiếng Pháp Hoa hết. Cho nên nghe hai nghìn muôn ức bài kệ thì dễ hiểu không khó gì. Nghĩa là tâm mình đã sống chín muồi tri kiến Phật thì nghe cái gì cũng nghe trong tri kiến Phật, chỗ nào cũng có ánh sáng tri kiến Phật, thì tiếng gì cũng nói Pháp Hoa. Chính cái đó không bao giờ chết. Đó mới thật sự trì Pháp Hoa liên tục không gián đoạn. Rồi nghe từ đâu? Nghe ở trong hư không. Hư không làm sao nói Pháp Hoa mà nghe? Đây là tri kiến Phật nó vốn không có chỗ trụ, nên từ giữa hư không đó mà nó phát ra. Bởi vì có chỗ trụ là hết thanh tịnh liền. Còn đây là không chỗ trụ cho nên thấy, nghe, hiểu biết đều thanh tịnh. Ngay đây, quí vị chịu khó thấy nghe hiểu biết tất cả đừng trụ vào trần nào hết, thì cũng được sáu căn thanh tịnh ngay. Đó là công dụng lợi ích Pháp Hoa thiết thực chứ không phải chỉ nói lý thôi. Mình nghe mà không trụ vào tiếng nào thì lỗ tai thanh tịnh chớ gì, tức ngay đó ánh sáng Pháp Hoa luôn hiện tiền ngay lỗ tai. Mình thấy cũng vậy, thấy tất cả, không trụ vào sắc gì hết thì ánh sáng của tri kiến Phật ở ngay mắt. Sáu căn luôn luôn đầy đủ ánh sáng tri kiến Phật, nghe Pháp Hoa như vậy thì nghe được Pháp Hoa chân thật. Nghe tới đó, Ngài sống thêm hai trăm muôn ức na do tha tuổi để rộng vì người khác nói Pháp Hoa, quý vị thấy sướng không? Sắp chết mà nghe vậy sống thêm nữa, bởi vì sao? Chỗ này là chỗ không có chết sống, đây là mình đã khế hợp pháp thân thường trụ, cho nên tuổi thọ đó không hạn lượng. Đây là chuyển tuổi thọ này mình ở trong tuổi thọ đó mà nói Pháp Hoa, thêm tuổi thọ là như vậy. Như vậy cũng muốn nhắc mọi người, hãy quên mạng sống này để trở về cái huệ mạng Phật đó mới khế hợp với Pháp Hoa.CHÁNH VĂN:
Lúc đó hàng tăng thượng mạn Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, khinh tiện vị đó đặt cho tên "Bất Khinh" này, thấy vị đó đặng sức thần thông lớn, sức nhạo thuyết biện sức đại thiện tịch, nghe vị đó nói pháp đều tin phục tuỳ tùng.
GIẢNG:
Các vị trước kia khinh khi chửi mắng, lấy đá ném, bây giờ thấy vị: "Thường Khinh Bồ tát" này có sáu căn tịnh, được sức thần thông thì tin phục trở lại. Cho thấy rõ, Ngài do sức trì Pháp Hoa khéo léo tinh trì, dù cho những vị kia đánh mắng chửi gì mình không sanh hận, rốt cuộc rồi cũng chuyển hóa người khác, họ tin trở lại. Cho nên nếu mình không khéo khiến họ mất niềm tin luôn đó là nguy hiểm.
CHÁNH VĂN:Vị Bồ tát giáo hóa nghìn muôn chúng khiến trụ trong Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Sau khi mạng chung đặng gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhựt Nguyệt Đăng Minh, ở trong pháp hội đó nói kinh Pháp Hoa này. Do nhơn duyên đó lại gặp hai nghìn ức Phật đồng hiệu là Vân Tự Tại Đăng Vương, ở trong pháp hội của các đức Phật đó thọ trì, đọc tụng, vì hàng tứ chúng nói kinh điển này, cho nên đặng mắt thanh tịnh thường trên đó, tai mũi lưỡi thân cùng ý các căn thanh tịnh, ở trong bốn chúng nói pháp lòng không sợ sệt.
Đắc Đại Thế! Vị Thường Bất Khinh đại Bồ tát đó cúng dường bao nhiêu đức Phật như thế, cung kính tôn trọng ngợi khen, trồng các cội lành. Lúc sau lại gặp nghìn muôn ức Phật, cũng ở trong các đức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ đặng làm Phật.
GIẢNG:
Bây giờ các vị Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, bốn chúng tăng thượng mạn đó tin phục trở lại, sau đó Ngài Thường Bất Khinh Bồ tát giáo hóa nghìn muôn ức chúng nữa khiến trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, rồi sau khi mạng chung gặp hai nghìn muôn đức Phật đồng hiệu là Nhựt Nguyệt Đăng Minh, ở trong đó nói kinh Pháp Hoa, sau đó gặp Phật Vân Tự Tại Đăng Vương, là nói lên ý nghĩa gì? Điểm thứ nhứt, là người trước đã không tin mà do khéo léo của Ngài Thường Bất Khinh, sau cùng cũng chuyển thành tin phục, được lợi ích. Quả thật rõ ràng không ai là kẻ đáng khinh, ai ai cũng đều có sức giác ngộ đó, đều có phần tri kiến Phật hết. Như vậy thì Pháp Hoa không bỏ ai, chỉ là mình bỏ Pháp Hoa thôi. Sau đó, Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa nghìn muôn ức chúng đều trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, là nói lên lợi ích sức trì kinh Pháp Hoa. Chính cái đó là cái sẵn có nơi người, bây giờ đây chỉ cần nhớ lại là xong, cho nên giáo hóa nhiều người, như vậy mà thấy như không có gì giáo hóa đó mới là thật sự giáo hóa. Còn giáo hóa mà có "Tôi giáo hóa người", tôi đem cái này đem kia giáo hóa, thì dễ sanh ngã mạn. Nếu không nghe tôi thì sao? Thành ra tướng ngã mạn nó hiện tiền. Mình muốn đem cái khác chuyển hóa họ tức phải tạo thành một cái mới, cái đó thành ra cái tạo tác, nằm trong sanh diệt.
Ngài giáo hóa nghìn muôn ức chúng đều trụ trong Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, sau khi mạng chung lại gặp hai nghìn ức Phật đều hiệu Nhật Nguyệt Đăng Minh. Nhựt là mặt trời, tức ban ngày có mặt trời, Nguyệt là mặt trăng. Đăng là đèn, chỗ mặt trời mặt trăng không soi tới thì có đèn soi.
Vậy là lúc nào cũng có ánh sáng tri kiến Phật hết, không lúc nào vắng, luôn luôn là ở trong ánh sáng Pháp Hoa. Rồi sau đó gặp Phật Vân Tự Tại Đăng Vương nữa. Vân là mây, tức là ánh sáng đó bủa khắp như mây, rồi trong đó tự tại soi sáng đến chỗ tối tăm không ngại gì hết.
Như vậy thì chết mà vẫn không chết, chết vẫn trong ánh sáng đó. Trì Pháp Hoa đến độ như vậy quí vị thấy thành Phật là dễ tin rồi, đâu còn khó tin nữa. Ngài Bồ Tát Thường Bất Khinh đó, Ngài còn cúng dường vô số Phật nữa, cung kính ngợi khen trồng các cội lành, lúc sau gặp một nghìn muôn ức Phật nói kinh điển này, công đức thành tựu sẽ đặng thành Phật. Như vậy thì luôn luôn thường gặp Phật cúng dường, rồi cuối cùng cũng thành Phật, tức là sống viên mãn công đức trong đây sẽ thành Phật chớ không gì khác, thành Phật là thành ngay trong tri kiến Phật này, không thành ở đâu hết.
CHÁNH VĂN:Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Thường Bất Khinh Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là thân ta. Nếu ta ở đời trước chẳng thọ trì đọc tụng kinh này, vì người khác giải nói đó thời chẳng có thể mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Vì ta ở chỗ các đức Phật thuở trước thọ trì đọc tụng kinh này vì người khác nói, nên mau đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đắc Đại Thế! Thuở đó bốn chúng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di do lòng giận hờn khinh tiện ta, nên trong hai trăm ức kiếp thường chẳng gặp Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy Tăng, nghìn kiếp ở địa ngục A tỳ chịu khổ não lớn. Hết tội đó rồi lại gặp Thường Bất Khinh Bồ Tát giáo hóa đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đắc Đại Thế! Ý ông nghĩ sao? Bốn chúng thường khinh vị Bồ Tát thuở đó đâu phải người nào lạ, chính là nay trong hội này bọn ông Bạt Đà Bà La năm trăm vị Bồ Tát, bọn ông Sư Tử Nguyệt năm trăm vị Tỳ kheo, bọn ông Ni Tư Phật, năm trăm Ưu bà tắc, đều bất thối chuyển ở nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Ở đây Phật mới thổ lộ rõ, Thường Bất Khinh Bồ Tát không ai khác, chính là tiền thân của Phật Thích Ca do trì kinh này, mà mau thành Phật. Ngài trì kinh thế nào? Chỉ gặp ai cũng xá xá. "Tôi không dám khinh các Ngài, vì các Ngài sẽ thành Phật". Trì kinh như vậy thôi. Ngài xác định rõ ràng, lấy bản thân của Ngài chứng minh. Đây có điểm đặc biệt, những vị trong bốn chúng khinh khi Ngài đó, phải có tội đọa địa ngục chịu khổ. Nhưng mà hết tội đó rồi thì sanh trở lại cũng gặp Ngài nữa, cuối cùng cũng ở trong hội Phật, Bất thối chuyển ở trong đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Thì quý vị thấy, những vị khinh tiện như vậy cuối cùng hết tội sanh trở lại cũng gặp Phật, được nghe Pháp, được chuyển hóa, huống nữa là mình không đến nỗi khinh khi, phải không? Bây giờ tin nhận được, là có chủng duyên sâu dầy với Pháp Hoa, đó là niềm tin vững vàng, nói như vậy cho mọi người đầy đủ niềm tin. Như vậy kinh Pháp Hoa vốn không bỏ người, không bỏ ai hết, chỉ là mình bỏ Pháp Hoa thôi.
CHÁNH VĂN:Đắc Đại Thế! Phải biết kinh Pháp Hoa này rất lợi ích các vị Bồ Tát, có thể làm cho đến nơi đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Cho nên các vị đại Bồ Tát sau khi Phật diệt độ phải thường thọ trì đọc tụng, giải nói, biên chép kinh này.
Khi đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Thuở quá khứ có Phật
Hiệu là Oai Âm Vương
Sức trí thần vô lượng
Dìu dắt tất cả chúng
Hàng trời, người, long thần
Đều chung nhau cúng dường.Đây nhắc lại thời Phật Oai Âm Vương có Bồ Tát Thường Bất Khinh.
Sau khi Phật diệt độ
Lúc Pháp muốn dứt hết
Có một vị Bồ Tát
Tên là Thường Bất Khinh
Bấy giờ hàng tứ chúng
Chấp mê nơi các Pháp
Thường Bất Khinh Bồ Tát
Qua đến chỗ của họMà nói với đó rằng:
Ta chẳng dám khinh Ngài
Quí Ngài tu đạo nghiệp
Đều sẽ đặng làm Phật
Những người đó nghe rồi
Khinh chê thêm mắng nhiếc
Thường Bất Khinh Bồ Tát
Đều hay nhẫn thọ đó.
Đây nhắc lại Bồ Tát Thường Bất Khinh luôn luôn gặp ai cũng xá, cũng chào nói câu: "Không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật", tức là luôn luôn thấy rõ ai cũng có phần tri kiến Phật hết.Tội Bồ Tát hết rồi
Đến lúc gần mạng chung
Đặng nghe kinh Pháp này
Sáu căn đều thanh tịnh
Vì sức thần thông vậy
Sống lâu thêm nhiều tuổi
Lại vì các hạng người
Rộng nói kinh Pháp này.
Tức nhắc lại khi Bồ Tát Thường Bất Khinh sắp chết lại được nghe kinh, sống thêm tuổi thọ, tức là tiếp nối huệ mạng Phật không dứt.Các chúng chấp nơi Pháp
Đều nhờ Bồ Tát đó
Giáo hóa đặng thành tựu
Khiến trụ nơi Phật đạo
Gặp vô số đức Phật
Vì nói kinh này vậy
Đặng vô lượng phước đức
Lần lần đủ công đức
Mau chứng thành Phật đạo
Thuở đó Thường Bất Khinh
Thời chính là thân ta
Bốn bộ chúng khi ấy
Những người chấp nơi phápNghe Thường Bất Khinh nói:
Ngài sẽ đặng làm Phật
Do nhờ nhơn duyên đó
Mà gặp vô số Phật
Chính trong Pháp hội này
Năm trăm chúng Bồ Tát
Và cùng bốn bộ chúng
Thanh tín nam nữ thảy
Nay ở nơi trước ta
Nghe kinh Pháp Hoa đó.
GIẢNG:
Đây nhắc lại Bồ tát Thường Bất Khinh đó, chính là tiền thân Phật chớ không ai khác, còn những chúng chấp nơi pháp, nghe Ngài nói mà không tin, mắng chưởi, nhưng cũng do nhờ nhân duyên đó, mà lại gặp vô số Phật. Như vậy Thường Bất Khinh đã có ở thời xa xưa đó, đến thời Thích Ca thì Ngài nói đó là tiền thân của Ngài. Vậy quí vị thấy Phật Thích Ca là Phật nào? Nếu nói Phật Thích Ca là thân Thái tử Sĩ Đạt Ta đó thì đâu dính dáng gì. Đây Thường Bất Khinh sống từ thời Phật Oai Âm Vương ở không kiếp, cũng chính là Ngài thôi. Vậy thì từ đó tới thời này đã trải qua biết bao nhiêu kiếp, thay đổi sanh tử biết bao lần, vậy cái nào là Ngài, phải thấy thấu chỗ này.CHÁNH VĂN:
Ta ở trong đời đó
Khuyên những hạng người đó
Nghe thọ kinh Pháp Hoa
Là pháp bực thứ nhất
Mở bày dạy cho người
Khiến trụ nơi Niết Bàn
Đời đời thọ trì luôn
Những kinh điển như thế
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Lâu lắm mới nghe đặng
Kinh Diệu Pháp Hoa này
Trải ức ức muôn kiếp
Cho đến bất khả nghì
Các đức Phật Thế Tôn
Lâu mới nói kinh này
Cho nên người tu hành
Sau khi Phật diệt độ
Nghe kinh pháp như thế
Chớ sanh lòng nghi hoặc
Nên phải chuyên một lòng
Rộng nói kinh điển này
Đời đời đặng gặp Phật
Mau chứng thành Phật đạo
GIẢNG:
Đây kết lại khuyên mọi người phải tin nhận thọ trì kinh Pháp Hoa, vì gặp Phật là gặp trong tri kiến này chớ không đâu khác. Vậy nếu sống trong tri kiến Phật này thì thường gặp Phật, phải nhớ như vậy, và luôn luôn nhớ trong mình có Bồ Tát Thường Bất Khinh đó là mình khéo trì kinh Pháp Hoa.Chính phẩm này ngầm ý: ai ai cũng có phần tri kiến Phật, mình phải khéo tin nhận trở lại là xong chớ tự mặc cảm khinh khi mình là chúng sanh cách xa Phật. Quí vị hôm nay được nghe Pháp Hoa thì tin chắc sao? - Mình có hạt giống Phật không nghi. Và trì Pháp Hoa phải liên tục như vậy. Giống như Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát, dù cho gặp người chưởi mắng, ném đá cũng vẫn thấy họ có phần tri kiến Phật, ngay đó vẫn không mất ánh sáng tri kiến Phật nơi chính mình. Như vậy là thấy tất cả mọi người dù là kẻ thân hay là người oán đều bình đẳng, quên ý niệm ta người, trì đến đây mới gọi là tinh trì, trì một cách tinh chuyên ròng rặc.
-
22. Phẩm Như lai thần lực
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, các vị đại Bồ Tát như số vi trần trong nghìn thế giới từ dưới đất vọt lên đó, đều ở trước đức Phật một lòng chắp tay, chiêm ngưỡng dung nhan của Phật mà bạch cùng Phật rằng: "Thế Tôn! Sau khi Phật diệt độ, ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ, chúng con sẽ rộng nói kinh này. Vì sao? Chúng con cũng tự muốn đặng pháp lớn thanh tịnh này để thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép mà cúng dường đó".
GIẢNG:
Tới đây các Bồ Tát từ dưới lòng đất vọt lên đó mới đối trước Phật phát nguyện xin trì kinh, mà các Ngài phát nguyện trì ở đâu? Các Ngài phát nguyện: "Sau khi Phật diệt độ ở nơi cõi nước của đức Thế Tôn phân thân diệt độ - tức không phải ở cõi Ta bà này thôi, ở các cõi nước của Phật phân thân diệt độ đó thì chúng con sẽ rộng nói kinh này". Vậy thì các Ngài sẵn sàng ở tất cả cõi nước Phật phân thân ra, các phân thân đó diệt độ thì các Ngài ở đó mà diễn nói. Như vậy Phật diệt độ nhưng các Ngài vẫn tiếp tục ở trong các cõi đó, mà nói Pháp Hoa này, đó là một ý nghĩa. Ở chỗ nào có Phật phân thân ra là có các Ngài ở đó. Tức là luôn luôn hiện tiền không gián đoạn. Đúng là phải Bồ Tát từ dưới đất vọt lên, tức phải là vô sư trí mới trì nổi như vậy. Vô sư trí là trí sẵn có nơi mình mới có khả năng đó, lúc nào cũng có mặt. Còn trí hữu sư là trí mình học bên ngoài, thì làm sao lúc nào cũng có mặt được. Cho nên đây, các Bồ Tát từ dưới đất vọt lên thì mới dám phát nguyện như vậy, mà phát nguyện như vậy đó mới hợp với tâm Phật, Phật mới chấp nhận, còn các vị Thanh Văn được thọ ký, các Ngài phát nguyện qua phương khác, chớ ở đây chịu không nổi rồi.
Đây tới đức Phật hiện thần lực.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, Thế Tôn ở trước Ngài Văn Thù Sư Lợi v.v… vô lượng trăm nghìn muôn ức vị Đại Bồ Tát cựu trụ ở nơi cõi Ta bà và các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn v.v… trước tất cả chúng, hiện sức thần thông lớn: bày tướng lưỡi rộng dài lên đến trời Phạm Thế, tất cả lỗ chơn lông phóng ra vô lượng vô số tia sáng đủ màu sắc, thảy đều khắp soi cả cõi nước trong mười phương. Các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới cây báu cũng lại như thế: bày tướng lưỡi rộng dài phóng vô lượng tia sáng.
GIẢNG:
Đây hiện sức thần thông, ở trước chúng Phật hiện tướng lưỡi rộng dài trùm lên tới trời Phạm Thiên, tất cả lỗ chân lông phóng ra ánh sáng khắp mười phương thế giới, không những Phật Thích Ca thôi, mà các đức Phật ngồi trên tòa sư tử cũng như vậy. Quí vị đọc tới đó, hiểu được gì? Người có lưỡi đó, quí vị gặp có sợ hay không? Cho nên đây phải hiểu là, ngầm chỉ ở trong ánh sáng của tri kiến Phật đó, đâu đâu cũng là trí Phật, lưỡi trùm cả rộng dài, là đâu đâu cũng lời Phật nói hết, cỏ cây, đất cát đều hiển bày Pháp Hoa, người trì Pháp Hoa, trì đến đây, thì nghe tiếng gì cũng là tiếng Phật, nghe tiếng gì cũng là tiếng Pháp Hoa, không chỗ nào là không Pháp Hoa, bày tướng lưỡi rộng dài đó ngầm chỉ ý như vậy.Còn đây mình học, miệng nói thì có lúc nói lúc nghĩ. Nói dù hay cách mấy, suốt ngày đi nữa thì cũng phải nghỉ. Còn cái lưỡi này lúc nào cũng nói được hết, chỗ nào, cây cối, cỏ hoa gì nó cũng nói Pháp Hoa được. Hiểu được như vậy, thấy được như vậy, thì lúc nào cũng hiện tiền, không lúc nào gián đoạn. Bởi vậy ông Tô Đông Pha ngộ đạo, trong bài kệ có hai câu:
Tiếng khe quả đấy lưỡi rộng dài
Màu non đâu chẳng thân thanh tịnh
***
Khê thanh tận thị quảng trường thiệt
Sơn sắc vô phi thanh tịnh thân.
Tiếng khe chảy cũng lưỡi rộng dài, còn màu núi cũng là pháp thân thanh tịnh, đâu đâu cũng là pháp thân hiện, đâu đâu cũng là lời Phật. Rồi trong tất cả lỗ chơn lông phóng tia sáng nữa. Ý nói, đến đây toàn thể pháp thân lộ bày, không có gì che dấu. Nghĩa là mình nhìn ở đâu, đụng cái gì cũng gặp Phật, không còn có một niệm nào khác xen vào được. Nhà thiền có câu: "Chạm mắt đều Bồ Đề", mắt đụng đâu cũng là Bồ Đề hết, mình trì được như vậy, chắc chỗ nào cũng ngộ được. Cho nên Ngài Vĩnh Minh ngộ đạo khi chẻ củi. Ngài làm bài kệ:
Chẻ rơi không vật khác
Tung hoành chẳng phải trần
Núi sông cùng quả đất
Toàn bày Pháp vương thân
Chẻ rơi cũng nó, không ai khác, ngang dọc cũng không phải trần, cũng là nó.Tất cả núi sông, quả đất đều hiển bày thân Pháp vương, nghĩa là Pháp thân. Lúc đó đâu đâu mình cũng thấy thanh tịnh. Chỗ này không phải là chỗ lý luận để bàn bạc, cho nên đây Phật mới hiện thần lực, muốn nói lên chỗ này suy nghĩ không thể tới, phải người chứng nghiệm trong đó, người tỏ ngộ trong đó thì mới cảm nhận được. Không phải Phật Thích Ca thôi mà các Phật đều hiện như vậy, là chỉ cho Phật Phật đồng như vậy, chứng minh rõ ràng đây không phải riêng Phật Thích Ca, tức là tâm tâm in nhau như vậy.
CHÁNH VĂN:
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật và các đức Phật dưới cây báu hiện sức thần thông mãn trăm nghìn năm vậy sau mới hườn nhiếp tướng lưỡi, đồng thời tằng hắng cùng chung khảy móng tay, hai tiếng vang đó khắp đến cõi nước của các đức Phật trong mười phương, đất đều sáu điệu vang động, chúng sanh trong đó: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn v.v… nhờ sức thần của Phật đều thấy trong cõi Ta bà này vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức các đức Phật ngồi trên tòa sư tử dưới những cây báu và thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật cùng đức Đa Bảo Như Lai, ngồi trên tòa sư tử trong tháp báu.
Lại thấy vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vị đại Bồ Tát và hàng tứ chúng cung kính vây quanh đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đã thấy thế rồi đều rất vui mừng đặng điều chưa từng có.
GIẢNG:
Lúc đức Thích Ca Mâu Ni Phật, các đức Phật hiện sức thần như vậy thì hiện chừng bao lâu? Hiện trăm nghìn năm. Vậy quí vị thấy bây giờ còn không? Phật Thích Ca mới tịch hơn 2500 năm, thì bây giờ vẫn còn phải không, nhưng mà ai thấy được? Cho thấy rõ, khi sống được trong đó rồi quên thời gian, thời gian lâu mau không thành vấn đề. Nếu tâm thanh tịnh khế hợp thì mình ngay đây thấy rõ tướng đó, nghĩa là những tướng lưỡi, ánh sáng đó hiện đủ hết, ở nơi cái bàn này cũng có, bình bông này cũng có, nơi cửa sổ đó cũng có, thấy rõ pháp hội Linh Sơn vẫn còn nguyên đó chưa tan. Bởi vậy Ngài Trí Giả Đại Sư trì kinh Pháp Hoa này tới phẩm Dược Vương, bỗng Ngài nhập tam muội thì thấy hội Linh Sơn còn y nguyên. Đây cũng vậy, nếu tâm mình thanh tịnh, khế hợp rồi, thấy tướng lưỡi rộng dài, thấy ánh sáng đó, nó vẫn hiện đầy đủ khắp nơi. Cho nên, đây hiện cả trăm nghìn năm rồi mới hườn lại. Khi hườn lại thì tằng hắng khảy móng tay, hai tiếng đó vang khắp đến mười phương cõi nước, vậy nghe sao nổi? Bởi vì, ở đây là tự tánh Như Lai ứng ra, nếu tự tánh Như Lai ứng ra một tiếng, một âm cũng thành diệu dụng, đều không thể nghĩ bàn, đều có khả năng khai mở trí tuệ cho người, nên đây, tiếng tằng hắng, tiếng khảy móng tay vang động cả mười phương, tức phá tan vô minh. Rồi chúng sanh ở mười phương nhờ sức thần đó, thấy cõi Ta bà này, các đức Phật cũng như hội chúng Phật Thích Ca Mâu Ni và đức Đa Bảo hiện tiền, từ xa vẫn thấy suốt qua không có ngăn ngại. Lúc này không gian không còn thành vấn đề, không còn thấy có kia có đây. Đây là nhờ sức thần của Phật, tại sao phải nhờ sức thần của Phật? Nếu mình thấy bằng sức con mắt của mình đây thì không thấy được rồi, lấy cái hiểu chúng sanh này là không thể được, phải hiểu trong trí tuệ Phật, nên đây nhờ sức thần của Phật mới thấy được suốt qua thế giới.
CHÁNH VĂN:
Tức thời hàng chư thiên ở giữa hư không lớn tiếng xướng rằng: "Khỏi đây vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số thế giới có nước tên Ta ba,ø trong đó có Phật hiệu Thích Ca Mâu Ni, hiện nay vì các đại Bồ Tát nói kinh đại thừa tên "Diệu Pháp Liên Hoa giáo Bồ Tát pháp Phật sở hộ niệm", các ông phải thâm tâm tùy hỉ, cũng nên lễ bái cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật".Chúng sanh đó nghe tiếng nói giữa hư không rồi, chắp tay xoay về cõi Ta bà nói thế này: "Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật". Dùng các món hoa, hương, chuỗi ngọc, phan, lọng và các đồ trang nghiêm nơi thân, những vật tốt bằng trân báu, đều đồng vói rải vào cõi Ta bà.
Các vật rải đó từ mười phương đến thí như mây nhóm, biến thành màn báu trùm khắp trên các đức Phật ở trong đây. Bây giờ mười phương cõi nước thông đạt không ngại như một cõi Phật.
GIẢNG:
Khi đó ở trên hư không có tiếng chư Thiên xướng: "Qua khỏi đây vô lượng vô biên thế giới có cõi Ta bà, có Phật Thích Ca cùng chúng đại Bồ Tát đang nói kinh đại thừa Diệu Pháp Liên Hoa, các ông phải hết lòng tùy hỉ, khi đó các chúng sanh đó chắp tay hướng về cõi này xưng "Nam Mô Thích Ca Mâu Ni Phật, Nam mô Thích Ca Mâu Ni Phật".Sao mà chư Thiên ở giữa hư không xướng? Tức là ở trong tâm rỗng không của mình, từ tâm không đó, không có niệm kia đây, niệm phải quấy lăng xăng, hơn thua, được tâm không đó, mà cảm được ánh sáng Phật này thì sẽ thấy cả hội Linh Sơn ở ngay trước mắt. Rồi mọi người nghe biết thì đều chấp tay xoay về Phật, một lòng kính xưng "Nam mô Phật Thích Ca, Nam mô Phật Thích Ca". Tức là hết lòng qúi kính trở về, biết có việc này từ lâu mình bỏ quên, xưa giờ không có thấy. Bây giờ nhờ ánh sáng đó, nhờ tiếng đó, mới biết được, nhớ được. Khi biết có rồi, dùng các món hương, hoa, chuỗi ngọc để cúng dường, tức xả chỗ chấp giữ từ lâu. Tức thì mười phương cõi nước thông suốt làm một cõi, không còn thấy có ngăn ngại đây, kia nữa. Trong ánh sáng tri kiến Phật thì không có ranh giới đây kia. Mình vừa nghĩ đây kia là cách tri kiến Phật liền.
CHÁNH VĂN:
Khi đó, Phật bảo đại chúng bực thượng hạnh Bồ Tát thảy: "Thần lực của các đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế; nếu ta dùng thần lực đó trong vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức vô số kiếp, vì để chúc lụy mà nói công đức của kinh này vẫn chẳng hết được.Tóm nói đó, tất cả Pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả tạng bí yếu của Như Lai, tất cả việc rất sâu của Như Lai đều tuyên bày rõ trong kinh này, cho nên các ông sau khi Như Lai diệt độ, phải một lòng thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép đúng như lời nói mà tu hành.
Cõi nước chỗ nào nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói, biên chép, đúng như lời tu hành, hoặc là chỗ có quyển kinh, hoặc trong vườn, hoặc trong rừng, hoặc dưới cây, hoặc tăng phường, hoặc nhà bạch y, hoặc ở điện đường, hoặc núi hang đồng trống, trong đó đều nên dựng tháp cúng dường.
Vì sao ? Phải biết chỗ đó, chính là đạo tràng các đức Phật ở đây mà đặng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, các đức Phật ở đây mà chuyển pháp luân, các đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn".
GIẢNG:
Phật nhấn mạnh lại, đây là thần lực của đức Phật vô lượng vô biên bất khả tư nghì như thế đó. Nếu dùng thần lực đó để chúc lụy, nói về công đức của kinh này cũng không thể nói hết được. Đây, Như Lai sắp trao gia nghiệp này cho người đích thực gìn giữ, khiến cho người cảm nhận ý sâu xa đó, cho nên Ngài mới dùng thần lực để ngầm nêu ý chỉ đó. Nghĩa là chỗ này nói không thể hết được. Đây muốn nhắc người học phải vượt qua mọi dấu vết của ngôn ngữ, chữ nghĩa, để tự mình cảm nhận đến chỗ không thể nghĩ bàn đó. Chỗ đó là chỗ Phật muốn chúc lụy mình, muốn dặn dò mình. Bởi thần lực là chỉ ngoài sức tưởng tượng của mọi người, nhưng thần lực như vậy còn nói không hết nữa. Quả là chỗ này tình thức không thể đến được, mình phải chứng nghiệm qua thôi. Ở đây Phật nói với các vị Bồ Tát bậc thượng hạnh, vậy rõ ràng phần này muốn chỉ chỗ hành trì, chỗ sống, chớ không phải chỗ lý giải. Nếu mình ngồi đó lý giải hoài không tới đâu hết, phải thực sống thôi. Ngài tóm lại, tất cả Pháp Như Lai có, những thần lực Như Lai được đó, đều là từ kinh này, trong kinh này nói rõ hết. Ở chỗ nào có kinh này, có người thọ trì thì đó là đạo tràng, đức Phật ở đây thành đạo, đức Phật ở đây mà nói Pháp, đức Phật ở đây mà nhập Niết Bàn. Nghĩa là sao? Chỗ nào có kinh này, có người thọ trì tức có ánh sáng tri kiến Phật, là chỗ đó có Phật, chính đó là đạo tràng thôi. Phật thành đạo là thành trong đó. Nói Pháp cũng ở trong đó. Nhập Niết Bàn là cũng nhập trong đó, rõ ràng như vậy. Nếu người sống trong đó thì sao? Thì thường thấy Phật. Vậy quí vị hiểu đạo tràng ở đâu? Ở ngay tâm giác ngộ của mình, chớ không phải đạo tràng hình thức ở nơi này nơi kia. Mình nói đạo tràng là chùa, chánh điện, là chỗ sinh hoạt, như vậy có khi ở trong đó tranh giành nhân ngã với nhau nữa. Đạo tràng này là đạo tràng của tôi, đạo tràng kia là đạo tràng của anh. Đạo tràng của tôi hay, đạo tràng của anh dở, vậy thì sao? Hết đạo tràng, hết thanh tịnh rồi. Cho nên tâm thanh tịnh thì ở đâu cũng là đạo tràng. Mỗi bước đi của mình đều đi trong ánh sáng tri kiến Phật đó, thì bước bước đều là đạo tràng, mỗi bước đều nở hoa sen, khỏi cần thần thông mới có. Còn bây giờ đây, ngồi trong chánh điện, ngồi trong nhà Tổ, sanh tâm nhân ngã với nhau, sân si với nhau, thì chỉ thấy cái gì? Thấy là bùn nhơ, là bụi bặm thôi. Vậy thì phải luôn luôn giữ gìn ánh sáng Pháp Hoa, cho nó sáng khắp mọi nơi, đó là chỗ Phật phó chúc. Phật chúc lụy là chúc lụy chỗ đó.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó đức Thế Tôn muốn tuyên lại nghĩa trên mà nói kệ rằng:
Các Phật đấng cứu thế
Trụ trong thần thông lớn
Vì vui đẹp chúng sanh
Hiện vô lượng thần lực
Tướng lưỡi đến Phạm Thiên
Thân phóng vô số quang
Vì người cầu Phật đạo
Hiện việc ít có này.
GIẢNG:
Đây nhắc lại, Phật hiện tướng lưỡi rộng dài, phóng vô lượng hào quang để khiến cho người ngộ tri kiến Phật, vượt ngoài ngôn ngữ, cho nên đây không nói mà hiện thần lực.
CHÁNH VĂN:
Tiếng tằng hắng của Phật
Cùng tiếng khảy móng tay
Khắp vang mười phương cõi
Đất đều sáu món động
Sau khi Phật diệt độ
Người trì được kinh này
Các Phật đều vui mừng
Hiện vô lượng thần lực
GIẢNG:
Tức là những tiếng tằng hắng, tiếng khảy móng tay nó vang khắp hết, nếu mình nghe được tiếng này thì thấy Phật hiện tiền. Ngay đây nếu mình tâm thanh tịnh thì vẫn nghe được, chớ không phải đợi sống trở về với hai ngàn mấy trăm năm về trước.
CHÁNH VĂN:
Vì chúc lụy kinh này
Khen ngợi người thọ trì
Ở trong vô lượng kiếp
Vẫn còn chẳng hết được
Công đức của người đó
Vô biên vô cùng tận
Như mười phương hư không
Chẳng thể đặng ngằn mé
GIẢNG:
Đây là nhắc lại, nói công đức của người trì kinh này, để dặn dò. Nói trong nhiều kiếp mà nói không hết được. Chỉ người ở trong đó biết được thôi, dùng ngôn ngữ không thể nói cho tột.
CHÁNH VĂN:
Người trì được kinh này
Thời là đã thấy ta
Cũng thấy Phật Đa Bảo
Và các Phật phân thân
Lại thấy ta ngày nay
Giáo hóa các Bồ Tát
GIẢNG:
Phật nói rõ ràng, trì được kinh này là thấy Ngài, thấy Phật Đa Bảo, cùng các Phật phân thân, các Bồ Tát. Phật xác định rõ, chớ không phải là chuyện nói dối, nói suông.
CHÁNH VĂN:
Người trì được kinh này
Khiến ta và phân thân
Phật Đa Bảo diệt độ
Tất cả đều vui mừng
Mười phương Phật hiện tại
Cùng quá khứ vị lai
Cũng thấy cũng cúng dường
Cũng khiến đặng vui mừng
Tức là sống được trong đây thì gặp Phật ba đời. Tất cả đều vui mừng, hành giả Pháp Hoa phải vượt qua ngôn ngữ để thể nghiệm chỗ này.
Các Phật ngồi đạo tràng
Pháp bí yếu đã đặng
Người trì được kinh này
Chẳng lâu cũng sẽ đặng
Người trì được kinh này
Nơi nghĩa của các pháp
Danh tự và lời lẽ
Ưa nói không cùng tận
Như gió trong hư không
Tất cả không chướng ngạiRõ ràng sống được trong kinh này rồi, nơi nghĩa trong các pháp nói hoài không hết. Bởi vì lời nói không thể nói tới chỗ này, từ trong đây nói ra, ứng dụng hoài không hết.
Sau khi Như Lai diệt
Biết kinh của Phật nói
Nhơn duyên và thứ đệ
Theo nghĩa nói như thật
Như ánh sáng Nhựt Nguyệt
Hay trừ các tối tăm
Người đó đi trong đời
Hay dứt tối chúng sanh
Dạy vô lượng Bồ Tát
Rốt ráo trụ nhứt thừa
Cho nên người có trí
Nghe công đức lợi này
Sau khi ta diệt độ
Nên thọ trì kinh này
Người đó ở Phật đạo
Quyết định không có nghi.
GIẢNG:
Đây kết lại, mở ánh sáng tri kiến Phật và giữ gìn ánh sáng đó, cho nó sáng mãi không dừng, để cùng soi sáng cho mọi người, thì đó là chỗ Phật hằng dặn dò, Phật hằng chúc lụy, cho nên người tu giác ngộ là phải nhớ, phải rõ được chỗ này. Đoạn trước Phật đã nói hết tình: "Nói tóm đó, tất cả pháp của Như Lai có, tất cả thần lực tự tại của Như Lai, tất cả pháp bí yếu của Như Lai đều tuyên bày nói rõ trong kinh này". Tức Ngài xác định rõ ràng, trong kinh này hay trong ánh sáng tri kiến Phật đã gồm đủ, khỏi tìm ở đâu hết. Như vậy đến đây, Phật hiện sức thần thông, chúc lụy cho các vị Bồ Tát dưới đất vọt lên để trì kinh này. Muốn trì kinh này phải làm sao? Căn bản là phải mở tri kiến Phật. Muốn trì cho được liên tục, không gián đoạn, thì phải từ trí vô sư mà trì. Cho nên đây là những vị Bồ Tát từ dưới đất vọt lên. Và muốn cảm nhận được chỗ đó thì sao? Thì phải thấu qua ngôn ngữ chữ nghĩa, vượt qua văn tự chết, vì vậy đây Phật dùng thần lực để phó chúc, tức không phải chỗ người lý luận mà đến được, phải người thực sống trong đó.Một điểm nữa quí vị thấy đức Phật, Ngài phó chúc đó là phó chúc riêng các vị Bồ Tát, hay có phần mình. Nếu nghĩ phó chúc cho các vị Bồ Tát không có phần mình thì học làm gì?
Các vị Bồ Tát đó là ở trong mình, từ dưới đất vọt lên, là vô sư trí trong tự tâm thôi. Học Pháp Hoa là phải học đến chỗ này - mới thấy mọi người đều tự có Pháp Hoa trong nhà.
-
23. Phẩm Chúc lụy
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nơi pháp tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn: dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng đại Bồ tát mà nói rằng: "Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông, các ông nên phải một lòng lưu bố pháp này làm cho thêm nhiều rộng".
Phật ba phen xoa đảnh các đại Bồ tát như thế mà nói rằng: "Ta ở trong vô lượng trăm nghìn muôn ức vô số kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác này nay đem phó chúc cho các ông, các ông phải thọ trì, đọc tụng rộng tuyên nói pháp này cho tất cả chúng sanh đều đặng nghe biết".
Vì sao? Đức Như Lai có lòng từ bi lớn, không có tánh bỏn xẻn, cũng không sợ sệt, có thể cho chúng sanh trí huệ của Phật, trí huệ của Như Lai, trí huệ tự nhiên. Như Lai là vị đại thí chủ cho tất cả chúng sanh, các ông cũng nên thọ trì học pháp của Như Lai, chớ sanh lòng bỏn xẻn. Ở đời vị lai nếu có người thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào tin trí huệ của Như Lai, thời các ông phải vì đó diễn nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa này khiến đều đặng nghe biết, vì muốn cho người đó đặng trí huệ của Phật vậy.
Nếu có chúng sanh nào chẳng tin nhận thời phải ở trong pháp sâu khác của Như Lai chỉ dạy cho được lợi ích vui mừng, các ông nếu được như thế thời là đã báo được ơn của các đức Phật.
GIẢNG:
Qua phần này là phần chúc lụy, tức là trao phó, dặn dò. Phần trước: Ngộ Tri Kiến Phật đó, tới đây tâm ngộ đã thấu triệt đã khế hợp với tâm Phật. Cho nên Phật hiện thần thông chúc lụy, tức phó chúc gia nghiệp của Phật, khỏi lo sợ nữa. Bây giờ Phật từ tòa đứng dậy, hiện sức thần thông lớn, dùng tay mặt xoa đảnh của vô lượng các Bồ tát, rồi nói ta dùng muôn ức kiếp tu tập pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, bây giờ đây giao phó cho các ông, các ông phải làm cho lưu bố rộng rãi. Như vậy là phó chúc chỗ nào đâu?
Thứ nhứt là Phật đang ngồi ở tòa đứng dậy, quý vị thấy được cái gì trong đó? Thấy Như Lai trong đó thì mình mới kham nhận Ngài phó chúc. Thường chỉ thấy được Phật đứng dậy thôi thì chưa nhận nổi phó chúc đâu. Trong nhà thiền có câu chuyện:
Một hôm Thiền Sư Quốc Nhất đang ngồi, thấy vua Đường Đại Tông đến, Sư liền đứng dậy. Vua Đường mới hỏi:
- Thầy vì sao mà đứng dậy?
Sư đáp:
- Đàn việt đâu được nhằm trong bốn oai nghi mà thấy bần đạo.
Thấy đứng dậy đâu phải thấy được Sư, mà phải thấy cái gì? Không phải nhằm trên tướng đứng ngồi mà thấy. Thấy được như vậy mới thấy được Như Lai chân thật. Đâây cũng vậy, Phật đang ngồi đứng dậy, mình phải thấy Như Lai ở trong đó, thấy được chỗ đó mới đáng nhận Phật phó chúc. Nếu chỉ thấy cái tướng đứng dậy suông, đó là tướng sanh diệt sao nhận nổi phó chúc.
Rồi dùng tay mặt xoa đảnh mà nói hiện sức thần thông lớn. Vậy quý vị thấy hiện ở chỗ nào? Chính ngay xoa đảnh đó, có việc không thể nghĩ bàn, muốn trao phó trong đó. Mình chỉ thấy, chỉ hiểu là lấy tay xoa đảnh thôi, thì chuyện đó bình thường. Tức là ngay trong xoa đảnh đó, tâm tâm in nhau, tâm Phật in qua tâm mình. Ngay đó không có tạp niệm xen vào được. Trao phó là trao phó chỗ đó, thấy được chỗ đó, mới thấy được thần thông lớn của Phật, tức ngoài sức nghĩ bàn.
Quý vị chú ý! Khi xoa đảnh, Phật bảo: "Ta ở trong vô lượng, trăm nghìn, vô số kiếp tu tập pháp Chánh đẳng Chánh giác khó đặng này, nay đem phó chúc cho các ông". Trao chỗ nào đâu? Ngài có cầm pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác ở chỗ nào mà trao? Rồi Bồ tát thì vô số mà tay Phật thì có một tay, làm sao xoa đầu cho hết đây? Những chỗ này tụng theo chữ nghĩa qua qua, làm sao thấy hết được. Thật ra chính khi thấy tay Phật xoa đảnh một vị, tức là xoa tất cả vị rồi, những vị khác cũng thầm cảm nhận được điều đó ngay nơi mình. Phật xoa cho người đó thì mình cảm nhận Phật xoa chính mình rồi. Bởi vì việc đó không phải ở bàn tay. Phần Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác tu tập khó được, lâu đời đó không phải ở bàn tay, mà nó ở đâu? Ngay nơi mình. Bàn tay xoa đó là thầm nói: "nơi mỗi người, mỗi người đều đủ không thiếu, mà ngôn ngữ thì không thể nói hết được”. Cho nên ở đây Ngài dùng tay xoa đầu để cho mỗi người tự rõ. Bởi vì nói không ra. Sức thần thông lớn là như vậy đó. Rồi Phật còn nói tiếp "Ngài ở trong vô số kiếp tu tập pháp khó được này". Vậy pháp này Ngài từ vô lượng vô số kiếp tu tập, chớ không phải thường, thì đó là Ngài muốn nhắn nhủ cái gì? Trước khi trao gia nghiệp, phải nhắn nhủ điều đó. Ngài tu tập từ vô lượng kiếp, tức từng sống trong đó từ lâu rồi. Vậy thì các ông muốn lãnh nhận gia nghiệp này mà giữ gìn thì các ông phải luôn luôn sống trong đó như vậy. Sống thường xuyên không cho gián đoạn, không thể hời hợt xem thường thì mới kham nhận được sự phó chúc đó, còn chỉ ngộ ngay thôi đây, mà không gìn giữ cho nó luôn sáng mãi thì chưa thể nhận được phó chúc này. Rõ ràng như vậy. Tiếp Phật dặn: "Các ông phải thọ trì, rộng tuyên nói cho tất cả chúng sanh đều đặng nghe biết". Vậy vừa dặn dò, vừa có ý sâu trong đó. Tức phải làm cho nó sáng khắp hết không còn có giới hạn, mới thực sự sống được trong đó. Nếu thấy được nó ở chỗ này, mà không thấy được chỗ kia là chưa được trọn, cũng như thấy ở chúng sanh này mà không thấy ở chúng sanh kia, thì cái thấy đó cũng chưa trọn. Cho nên đây Ngài dặn phải lưu bố rộng rãi ra, khiến cho chúng sanh đều được nghe biết. Thấy như vậy đó mới thực sự giữ gìn tri kiến Phật. Còn mình nhiều khi thấy cũng thấy vậy, mà người mình thích thì thấy có, người không thích thì không. Hoặc người cùng tôn giáo mình, mình thấy có, còn người tôn giáo khác không có. Vậy cũng chưa phải trọn. Ở đây phải thấy suốt như vậy. Bởi chân lý mà còn chia chẻ giới hạn thì chưa phải thật là chân lý. Mới thấy Phật pháp chỉ có một chân lý bình đẳng như vậy. Mình còn tâm giới hạn chỗ này, giới hạn chỗ kia, là chưa thật khế hợp, đó cũng là muốn nhắc mình phải quên sạch dấu vết của cái ngã này, còn có cái tôi này là còn có giới hạn. Còn quên cái tôi này rồi mới vô giới hạn được, đó mới là chỗ Phật phó chúc.
Phật nói:"Vì sao? Đức Như Lai Ngài có lòng từ bi lớn, Ngài không có bỏn xẻn, cũng không sợ sệt, Ngài có thể cho chúng sanh trí huệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên". Bởi vì Ngài thấy rõ ai ai cũng có phần đó, đâu phải riêng một mình Ngài có. Như vậy nếu mình chỉ cho họ, dù cho chỉ hết đi nữa cũng đâu tổn thất gì. Còn trí tuệ Phật, trí tuệ Như Lai, trí tuệ tự nhiên thì làm sao cho? Bởi vì chúng sanh mê nên có mà không biết, bây giờ Ngài chỉ cho họ, khiến cho họ mở sáng được, nhận rõ được thì chính đó là trí tuệ Phật, trí tuệ giác ngộ, đó là cho trí huệ Phật, cho là như vậy, chớ không phải có trí tuệ đem cho. Thấy rõ trí đó cùng với Như Lai bình đẳng, xưa nay không sanh không diệt, đó là cho trí tuệ Như Lai. Trí tuệ này là cái sẵn nơi mình chớ không phải do ai tạo tác, do ai làm ra, không phải mới có đây, là cho trí tuệ tự nhiên. Như vậy, nói cho mà có cho gì đâu. Do đó nói Phật cho tất cả chúng sanh mà Ngài không có thiếu, thì có gì đâu phải bỏn xẻn. Có vị tăng đến hỏi Ngài Triệu Châu:
- Khi người nghèo đến thì đem gì cho họ?
Ngài Triệu Châu đáp:
- Y chẳng thiếu thốn.
Tức là sao? Tức là thấy rõ họ có thiếu gì đâu. Bây giờ chỉ cần nhắc lại cái của báu sẵn nơi họ, khiến họ nhớ lại đem ra xài vậy thôi.
Và có vị Tăng hỏi Thiền Sư Thạch Củng:
- Thế nào là hạt châu trong tay Bồ Tát Địa Tạng?
Ngài Thạch Củng đáp:
- Trong tay ông lại có chăng?
Ông lo ông hỏi châu trong tay Địa Tạng còn trong tay ông thì sao? Tiếp theo Ngài nói bài tụng:
Bất thức tự gia bảo
Tùy tha nhận ngoại trần
Nhật trung đào ảnh chất
Cảnh lý thất đầu nhân
Tức là:Báu nhà mình chẳng biết
Theo người nhận ngoại trần
Giữa trưa chạy trốn bóng
Trong gương người mất đầu
Của báu sẵn nơi nhà mình mà không hay, không biết, rồi chạy sang nhà người ta để tìm là chạy theo người nhận ngoại trần, nếu mình có tìm có hiểu được thì cái đó thuộc về ngoại trần, thuộc bị hiểu. Ở giữa trưa thấy bóng chạy hoài không bao giờ hết, giỏi nhất là vào trong mát đứng, là tự an ổn. Cũng vậy, trong gương soi thấy đầu mình, tưởng đâu đầu thật, úp gương lại cho là mất đầu, trong kinh Lăng Nghiêm gọi là kẻ cuồng. Mà cuồng như vậy đó, ngay khi điên cuồng cái đầu có thật mất chăng? Chỉ cần đưa tay lên cú đầu một cái thì biết ngay. Cho nên ai ai cũng tưởng mình mất đầu, tưởng mình mất cái gì đó, rồi chạy tới người khác tìm. Nếu mình là người rõ được điều đó, chạy tới mình tìm, thì mình làm sao đây? Cho cái cú thôi là xong. Vậy thì có gì để bỏn sẻn? Ở đây phải hiểu được ý đó, nghĩa là thấy rõ được lẽ thật như vậy rồi, thì ai cũng đều có lẽ thật đó, sẵn sàng chỉ cho hết, không có bỏn xẻn, sợ chỉ cho họ rồi họ hơn mình là còn mang tướng ngã, thì chưa phải thật. Phật nhắc thêm: "nếu ở đời vị lai, thiện nam thiện nữ nào tin được trí tuệ Như Lai thì các ông phải vì đó mà diễn nói kinh Pháp Hoa này cho họ đều biết được, còn chúng sanh nào chẳng tin hoặc chưa tin được, thì phải ở trong pháp sâu khác của Như Lai, cũng chỉ dạy cho họ để họ được lợi ích, đó là đền ơn Phật". Đền ơn Phật là như vậy. Ở tương lai ai tin mình có phần tri kiến Phật, mình phải chỉ thẳng cho họ tri kiến Phật đó để họ tin nhận họ sống, còn nếu họ chưa có tin nổi thì phải ở những pháp khác, những phương tiện khác, để nhắc họ, để cho họ lợi ích, rồi họ dần dần cũng tiến vào. Tức là không bỏ qua mộât ai hết, nhưng mà bản ý chính là muốn cho người đều tỏ ngộ tri kiến Phật. Đây là đền ơn Phật, chớ không phải đem cái này cái kia cúng dường thì đó chưa hẳn là đền ơn.
CHÁNH VĂN:Lúc đó, các vị đại Bồ Tát nghe Phật nói thế rồi, đều rất vui mừng khắp đầy nơi thân càng thêm cung kính, nghiêng mình chắp tay hướng Phật, đồng lên tiếng bạch rằng: "Như lời Thế Tôn dạy, chúng con sẽ vâng làm đầy đủ, kính xin Thế Tôn chớ lo".
Khi đó Đức Thích Ca Mâu Ni Phật khiến các Đức Phật phân thân ở mười phương đến, đều trở về bổn độ mà nói rằng: "Các Phật đều về yên chỗ, tháp của Phật Đa Bảo đặng hoàn như cũ".
GIẢNG:Các Bồ Tát thọ nhận lời Phật phó chúc, các Phật phân thân ai về chỗ nấy, tháp Phật Đa Bảo hoàn như cũ, tức đóng cửa lại như cũ. Ngay đó quý vị thấy được điều gì? Tức các pháp nó là như thị, ngộ đến đây là xong rồi, là triệt rồi, phần còn lại là để cho mỗi người tự thể nhập, cho nên bây giờ tháp Phật Đa Bảo đóng lại, đóng lại để chi? Để tự mỗi người mở vào. Trước là Thích Ca mở vào, bây giờ tự mỗi người phải mở vào.
CHÁNH VĂN:
Phật nói lời đó rồi, vô lượng các đức Phật phân thân ở mười phương ngồi trên toà sư tử dưới cây báu, và Phật Đa Bảo, cùng vô biên vô số đại chúng Bồ Tát, bực thượng hạnh thảy, Ngài Xá Lợi Phất v.v… bốn chúng hàng Thanh Văn và tất cả trong đời: trời, người, A tu la v.v... nghe Phật nói đều rất vui mừng.GIẢNG:
Tất cả đều vui mừng hết, vì sao? Vì biết rằng mình đã có chỗ nương về chân Phật đó rồi không còn lo lắng gì nữa, đức Phật này dù diệt độ, nhưng Pháp Hoa vẫn còn đó. Vậy chúc lụy xong. Đến đây mở cái nhìn thấy thấu qua Đức Phật Thích Ca bằng da bằng thịt, mà cảm nhận đức Như Lai tuổi thọ vô lượng vô biên không tính kể. Nhưng thấy vậy thôi chưa đủ, vì sao? Không phải thấy Đức Như Lai ở Phật Thích Ca thôi, mà thấy Đức Như Lai ở ngay nơi chính mình, và không phải chỉ ở ngay chính mình mà ở tất cả mọi người nữa. Thấy như vậy mới thấy đầy đủ. Chính đó mới là chỗ Phật phó chúc, để giữ gìn kinh Pháp Hoa sau khi Phật diệt độ, thấy ý đó mới thấy ý sâu của Phật. Nghĩa là Phật diệt độ, nhưng diệt độ đó chỉ là hoá thân diệt, ứng thân diệt thôi, để nhắc cho mọi người có sanh ra thì có diệt, dù là thân Phật có tướng tốt đi nữa, đã có sanh phải có diệt, huống nữa là thân mình. Chỗ đó chưa phải chỗ mình nương tựa lâu dài. Ở phần trước mình có: "Như Lai nói diệt độ mà chẳng phải thiệt diệt độ". Cho nên ai bảo rằng Phật thật có sanh, thật có diệt, người đó chưa thật hiểu được Phật.
Tóm lại, nếu ai thấy được Đức Phật hiện tướng lưỡi rộng dài để phó chúc Pháp Hoa, thì mình ngồi ngay tại đây vẫn thấy Pháp Hội Linh Sơn ngay trước mặt. Bởi vì nghe cái gì cũng là nói Pháp Hoa, rồi Chư Bồ Tát cũng đang ngồi khắp quanh mình đây, nghĩa là nhìn đâu đâu cũng có ánh sáng giác ngộ hết. Khi quý vị chắp tay xá nhau thì cũng thấy đó chính là Bồ Tát Thường Bất Khinh: Xá xá các ông, không dám khinh các ông, các ông đều sẽ thành Phật!
Thật rõ ràng, học Pháp Hoa, nghe Pháp Hoa như vậy đó, mới thấy sâu được Pháp Hoa, thâm nhập được Pháp Hoa, mới nghe được những điều chưa nghe.
Đó là xong phần "NGỘ TRI KIẾN PHẬT".
-
24. Phẩm Dược Vương Bồ tát bổn sự
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát dạo đi nơi cõi ta bà như thế nào? Thế Tôn! Ngài Dược Vương Bồ Tát đó, có bao nhiêu nghìn muôn ức na do tha hạnh khổ khó làm? Hay thay Thế Tôn! Nguyện giải nói cho một ít, các hàng Trời, Rồng, Thần, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn v.v. và các vị Bồ Tát ở các nước khác đến cùng chúng Thanh văn đây nghe đều vui mừng".GIẢNG:
Đây phần "NHẬP TRI KIẾN PHẬT". Đầu tiên là phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự". Bổn sự là việc xưa của Bồ Tát Dược Vương, là vua của các thứ thuốc. Vị thuốc này là vị thuốc vua, có công năng trị tâm bệnh khó trị của người. Trong kinh Thiền Quán nói về Bồ Tát Dược Vương như thế này: "Bồ Tát Dược Vương xưa tên là Tinh Quang. Ngài theo Tôn Giả Nhựt Tạng nghe giảng về trí tuệ Phật. Ngài dùng các thượng dược, thuốc tốt nhất ở trên núi Tuyết cúng dường cho chúng tăng, khi cúng dường nguyện: "Tôi ở đời vị lai hay trị lành thân bệnh và tâm bệnh cho tất cả chúng sanh". Khi phát nguyện xong cả thế gian đều vui mừng. Cho nên, Ngài được hiệu là Dược Vương Bồ Tát.Ở đây mới vào đầu Bồ Tát Tú Vương Hoa hỏi Phật về Bồ Tát Dược Vương.
- Bồ Tát Tú Vương Hoa - là hoa đẹp sáng ngời như vua các vì sao. Tức là lìa mọi sự nhiễm chấp, từ đó đi vào thể nhập. Bồ Tát Tú Vương Hoa hỏi: "Ngài Dược Vương Bồ Tát dạo đi cõi Ta bà thế nào? Có bao nhiêu công hạnh khó làm, xin nói cho một ít". Đây chữ dùng rất hay: Ngài dạo đi trong cõi Ta bà như thế nào? Tức ngài vào cõi Ta bà dạo đi giống đi chơi, làm bao nhiêu Phật sự trong đó, mà giống như dạo chơi vậy thôi, chớ không vướng mắc, không chướng ngại, còn chúng ta ở trong đây làm cái gì, đều vì một cái ngã, làm cái gì dính cái đó, nên đi với tính cách bị nghiệp dẫn, nghiệp lôi, chớ không phải dạo đi. Ở đây Ngài Dược Vương này không phải như vậy. Ngài mới dạo đi một cách tự tại, không có dính gì hết, những hạnh khổ Ngài làm đó là những vị thuốc để trị tâm bệnh cho chúng sanh. Cho nên mình phải học những hạnh đó, mà nói hạnh khổ khó làm, tức là đây thuộc về hành, là phải thực sống chớ không phải nói, chính điều đó mà Ngài Tú Vương Hoa Ngài mới xin nói cho một ít. Vì nói không thể nói hết được, mình đọc kinh phải thấy được ý đó. Ngài nói như vậy ngầm ý chúng ta nghe là phải nghe thấu qua chữ nghĩa, nghe đến chỗ ngoài lời, chỗ lời nói, nói chưa hết, thì mới nghe được đầy đủ. Mà muốn nghe được như vậy thì phải thực hành thôi.
Phần trước phẩm AN LẠC HẠNH có dạy bốn hạnh an lạc, nhưng bốn hạnh dạy ngăn ngừa sự chê trách phỉ báng của người, sống với bốn hạnh đó thì trì Pháp Hoa, truyền Pháp Hoa, người ta không chỉ trích không chê bai. Đây tiếp thêm bước nữa, là diệu hạnh chân thật, khiến cho mình trừ những mê lầm vi tế vô hình ở ngay nơi mình, khiến cho tập khí thật sạch, có như vậy thì mới có thể dạo đi ngay trong cõi Ta bà này mà vẫn sống trong Pháp Hoa không mất, cho nên chỗ này sâu hơn. Đây quý vị nghe Phật dạy.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, Phật bảo Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: "Về thuở quá khứ vô lượng hằng hà sa kiếp trước, có Phật hiệu Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật Thế Tôn.Phật đó có tám mươi ức đại Bồ Tát, bảy mươi hai hằng hà sa chúng đại Thanh Văn, Phật sống lâu bốn mươi hai nghìn kiếp, Bồ Tát sống lâu cũng bằng Phật. Nước đó không có người nữ, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a tu la v.v. và với các khổ nạn. Đất bằng như bàn tay, chất lưu ly làm thành, cây báu trang nghiêm, màn báu trùm lên, thòng các phan báu đẹp, bình báu, lò hương, khắp cùng cả nước, bảy món báu làm đài, một cây có một đài, cây đó cách đài đều một lằn tên. Các cây báu đó đều có Bồ Tát, Thanh Văn ngồi ở dưới. Trên các đài báu đều có trăm ức chư thiên trỗi kỹ nhạc trời, ca khen đức Phật để làm việc cúng dường.
Bấy giờ, Đức Phật đó vì Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, chúng Bồ Tát và chúng Thanh Văn nói Pháp Hoa.
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đó ưa tu tập khổ hạnh, ở trong pháp hội của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, mãn một muôn hai nghìn năm đặng "Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội".
Đặng tam muội đó rồi lòng rất vui mừng liền nghĩ rằng: "Ta đặng Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội này đều là do sức đặng nghe kinh Pháp Hoa, ta nay nên cúng dường Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật và kinh Pháp Hoa".
Tức thời nhập tam muội đó, ở giữa hư không rưới bông mạn đà la, bông ma ha mạn đà la, cùng bột kiên hắc chiên đàn đầy trong hư không như mây rưới xuống. Lại rưới hương hải thử ngạn chiên đàn, sáu thù hương này giá trị cõi Ta bà để cúng dường Phật.
GIẢNG:
Đây Phật nói về Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở thời Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Như Lai, trong thời Phật đó Ngài sống lâu bốn muôn hai nghìn kiếp, Bồ Tát cũng sống bằng Phật, trong nước đó không có người nữ, không có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh v.v. tất cả đều trang nghiêm tốt đẹp hết. Vậy Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức đó là chỉ cái gì? Đây nói lên cái đức thanh tịnh sáng suốt như là mặt trời, mặt trăng. Nhật là mặt trời; Nguyệt là mặt trăng; Tịnh là thanh tịnh; Minh là sáng suốt.
Cái đức thanh tịnh sáng suốt như mặt trời, mặt trăng đó ở đâu? Trong tự tâm mình. Rồi cõi nước đó đều trang nghiêm, thanh tịnh, tức là tâm cảnh đều sáng ngời, lìa các thứ nhiễm ô. Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến tức là tất cả mọi chúng sanh đều ưa thích thấy, hay thấy mà không chán, muốn chỉ thân thanh tịnh, nếu ai thấy được cái đó đều vui hết. Bồ tát này gọi theo tiếng Việt là "Bồ tát ai thấy cũng đều vui". Bồ Tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến ưa tu hạnh khổ hạnh, ở trong pháp hội của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, tinh tấn kinh hành, một lòng cầu thành Phật, trải qua một muôn hai nghìn năm thì được tam muội "Hiện nhứt thiết sắc thân". Tu khổ hạnh, tinh tấn kinh hành, là luôn luôn tỉnh thức, không có mê. Hiện Nhứt Thiết sắc thân tam muội là được chánh định ở trong đó hiện ra tất cả mọi sắc thân, muốn hiện thân gì cũng được, mà tam muội đó ở đâu? tức là ở trong pháp thân thanh tịnh. Ở trong pháp thân thanh tịnh đó, thì hiện ra mọi sắc thân ở chỗ nào, chỗ nào cũng đều hiện hình được. Khi tâm mình thanh tịnh rồi không còn kẹt trong sắc thân này, không còn kẹt trong ngã tướng của năm ấm này, thì nó sẽ thấy đâu đâu cũng hiện bày lẽ thật đó. Ởû đây thấy mọi chỗ, mọi nơi, mọi hình sắc đều hiện bày lẽ thật đó, cho nên thân này có thể hiện cành hoa, ở nải chuối, ở ngay cửa sổ, cho đến ở ngoài chợ nơi sạp bán hàng, nơi nào cũng hiện được thân đó. Thấy được như vậy, quý vị thấy mình cũng có khi mình hiện được như vậy, không phải là được thần thông rồi mới hiện. Ở trong tam muội tức trong tâm thanh tịnh chứ gì? Đây là mở rộng cái ta này ra khắp tất cả, không còn giới hạn nơi thân chút xíu này. Đó là phá cái chấp ngã nơi sắc thân này.
Có lần Ngài Thạch Sương đang ngồi trong phương trượng, có ông Tăng đứng ngoài cửa sổ hỏi:
- Cách nhau mấy tấc sao không thấy mặt thầy?
Ngài Thạch Sương đáp:
- Ta nói khắp hết chẳng từng giấu.
Nhưng ông Tăng chưa hiểu, đến hỏi Ngài Tuyết Phong: "nói khắp hết chẳng từng giấu là ý chỉ thế nào", Ngài Tuyết Phong đáp:
- Chỗ nào chẳng phải Thạch Sương?
Ởû đây ông tăng lo thấy trên sắc tướng mập ốm này, cho nên ngoài cửa sổ cách không thấy được. Trong khi "Thạch Sương chân thật", chỗ nào không có? Nếu thấy được lẽ thật đó, thì chỗ nào mình cũng gặp Ngài Thạch Sương, chớ không phải chỉ gặp trên mặt mày này. Cùng một ý nghĩa này, có vị Tăng hỏi Thiền Sư Quang Dũng:
- Văn Thù là thầy của bảy Đức Phật, vậy Văn Thù có thầy chăng?
Quang Dũng đáp:
- Gặp duyên liền có.
Ông Tăng hỏi:
- Thế nào là thầy của Văn Thù?
Quang Dũng dựng cây phất tử lên.
- Tăng thưa:
- Phải chính cái ấy chăng?
Sư liền ném cây phất tử, đứng khoanh tay.
Vậy quý vị thấy thầy Văn Thù chỗ nào? Giơ phất tử lên, chỗ đó nếu mình khéo là thấy được thầy Văn Thù, chứ không phải thầy Văn Thù là thân có tai, mắt, mũi này. Đó là muốn chỉ cái chân thật, sáng suốt không hình tướng, nó không hình tướng nên hiện khắp mọi hình tướng. Cho nên ngay cây phất tử, thầy Văn Thù hiện.
CHÁNH VĂN:
Cúng dường thế đó rồi, từ tam muội dậy mà tự nghĩ rằng: "Ta dầu dùng thần lực cúng dường nơi Phật, chẳng bằng dùng thân cúng dường". Liền uống các chất thơm: chiên đàn, huân lục, đâu lâu bà, tất lực ca, trầm thủy giao hương; lại uống dầu thơm các thứ bông chiêm bặc v.v… mãn một nghìn hai trăm năm, rồi lấy dầu thơm xoa thân, ở trước đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật dùng y báu cõi trời mà tự quấn thân, rưới các thứ dầu thơm, dùng sức nguyện thần thông mà đốt thân.Ánh sáng khắp soi cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các Đức Phật trong đó đồng thời khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Đó là chơn thiệt tinh tấn gọi là chơn pháp cúng dường Như Lai. Nếu dùng hoa hương chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng bằng lụa cõi trời và hương hải thử ngạn chiên đàn, dùng các món vật cúng dường như thế đều chẳng bằng được. Giả sử quốc thành thê tử bố thí cũng chẳng bằng. Thiện nam tử! Đó gọi là món thí thứ nhứt, ở trong các món thí rất tôn, rất thượng, bởi dùng pháp cúng dường các Đức Như Lai vậy". Các đức Phật nói lời đó rồi đều yên lặng. Thân của Bồ Tát lửa cháy một nghìn hai trăm năm, qua sau lúc đó thân Bồ Tát mới hết.
GIẢNG:
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đó nhập Tam muội ở trên hư không rưới các thứ bông, bột hương mà cúng dường. Khi đốt thân thì ánh sáng soi cả khắp tám mươi ức hằng hà sa thế giới, các đức Phật trong đó khen ngợi: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Đó mới là chân thật tinh tấn, đó mới là chơn pháp cúng dường Như Lai". Ngài Trí Giả Đại Sư tụng tới đây liền nhập tam muội, Ngài thấy pháp hội Linh Sơn đang còn trước mắt. Nghe kinh Pháp Hoa mà được tam muội Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân đó, tức là nghe, nhận được tri kiến Phật này, thì mình biết rõ, ngoài cái thân giới hạn này, có cái thân vô biên không có tuổi thọ, tuổi thọ không thể lường được, nên mình không chấp vào cái thân này do đó mà hiện được khắp các nơi. Đây nói "Nhờ sức nghe Pháp Hoa mà được tam muội hiện khắp các sắc thân, khi nhập tam muội đó, thì ở giữa hư không rưới hoa cúng dường Phật", tức là ở trong tam muội đó sẽ thấy rõ, mỗi mỗi sắc, mỗi mỗi hương, đều nhiệm mầu, cái nào cũng trở về với Phật hết. Kế lại đốt thân cúng dường. Trước nhứt là uống dầu thơm, nhưng không phải uống một ngày hai ngày mà uống đến một nghìn hai trăm năm, tức là sao? Đây là sự huân tập chuyển biến một thời gian dài, bởi vì cái chấp ngã này không dễ gì một hai bữa mà buông sạch được. Ngộ thì có thể ngộ liền, nghe nói thân này vô ngã hiểu liền, nhưng buông nó thì chưa! Cho nên ở đây phải huân tập thời gian dài như vậy đó. Rồi dùng sức nguyện thần thông mà đốt thân. Không phải đốt bằng lửa thường thế gian, mà ở đây do sức nguyện thần thông mà nó đốt cháy, tức là do sức mạnh từ trong nội tâm này, nó mới giải toả được chấp ngã kia, chớ lửa thế gian đốt không nổi đâu. Nếu tâm mình còn chấp ngã, bắt chước về đốt thân nó đau quá rồi phiền não thì còn làm bậy nữa. Đây là phải lửa trí tuệ mới đốt nổi cái chấp ngã lâu đời này. Đốt thân là xả cái chấp ngã. Vì vậy lửa này phải từ bên trong mà nó phát cháy, rồi ánh sáng đó soi khắp cả tám mươi ức hằng hà sa thế giới, trong đó gặp các đức Phật khen ngợi, tức chuyển vô minh tăm tối thành ánh sáng chánh giác thì trong đó mới gặp được Phật. Rồi Phật khen ngợi: "Đó mới là chân thật tinh tấn, đó mới là chân pháp cúng dường, cúng dường này trên hết các thứ cúng dường, dù cho cúng dường hoa hương, tất cả quốc thành thê tử vợ con cũng không bằng". Dù cho bố thí của cải vợ con là cái bên ngoài, còn đây là ngay bản thân này, gọi là nội tài, cái này mới là cái khó, Phật nói đó mới là chân thật tinh tấn. Tinh tấn ở đây là không còn thấy có mình tinh tấn, mới thiệt là chơn tinh tấn, đây là đốt cái ngã luôn.Đây mới gọi là chơn pháp cúng dường Như Lai, là sống trở về với Như Lai chân thật, đó mới là cúng dường trên hết trong các thứ cúng dường. Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương có đoạn nói: "Cúng dường mười phương Chư Phật cũng không bằng cúng dường vị tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng". Hay nói gọn, cúng dường mười phương chư Phật, không bằng cúng dường vị vô tu vô chứng. Vậy vị vô tu vô chứng này có gì đặc biệt? Đây muốn nói: cúng dường mười phương chư Phật là cúng dường Phật bên ngoài, còn cúng dường vị vô tu vô chứng là sống trở về với ông Phật chính mình, cuối cùng mình sẽ là một vị Phật đồng với các vị Phật kia, là muốn nhấn mạnh ở chỗ đó, chớ không phải nói vị vô tu vô chứng này cao hơn nhũng vị Phật kia, thì đây cũng vậy, cúng dường như vậy mới là chơn pháp cúng dường. Cho nên đây nói chuyện khó làm, cái gì buông cũng còn dễ, còn buông cái tôi đó mới chuyện khó. Bởi vậy, buông được cái này thì mới bắt đầu thể nhập vào tri kiến Phật.
Phần này Nhập Tri Kiến Phật, là phần phá sắc ấm để quên cái tôi, cho nên đốt thân cúng dường. Có một đoạn nhân duyên nói về Trường Sa. Mỗi năm Sư thường tham dự khoá thiền với Thiền Sư Bạch Ẩn, năm nào cũng đến dự mà chưa được tỏ ngộ, chưa đạt được cái gì, năm ấy cuối khoá tu, Bạch Ẩn bảo Trường Sa rằng:
- Ông đến đây hằng năm cũng giống như con ngỗng lội dưới nước khi mà trời lạnh vậy, ông đã làm một cuộc hành trình dài vô bổ, không được một chút công phu nào hết, tôi không tưởng tượng ông đã tốn bao nhiêu đôi giày cỏ cho chuyện này. Tôi không dùng những người lười biếng như ông đây. Vì thế ông đừng đến đây nữa.
Bạch Ẩn cảnh giác thúc đẩy Sư. Trường Sa nghe tới đó trong lòng có sự chấn động mạnh, nên tự nghĩ:
- Tôi không phải là người hay sao? Nếu không đạt ngộ lần này tôi sẽ không sống, không trở về nữa.
Sư nhất quyết như vậy, rồi tự hạn cho mình bảy ngày phải sáng việc này. Sư đến ngồi trong cái lều bằng lưới đánh cá ở bên bờ biển bảy ngày. Rốt cuộc tới ngày thứ bảy vẫn không thấy gì, Sư nghĩ chỉ còn nhào xuống biển thôi. Sư bèn cởi giày ra theo đúng nghi thức tự tử, đi xuống thuyền ra biển, khi đứng giữa những con sóng Trường Sa bỗng nhiên thấy mặt biển lung linh sáng ngời, mặt trời rọi sáng cả vùng, ngay đó liền đại ngộ.
Quý vị mới thấy, lúc đó quên hết cái tôi này, không còn nhớ tới nó nữa thì mới có được việc kia. Đây cũng vậy, phải quên cái tôi này thì mới thể nhập được Pháp Hoa. Khi chư Phật nói lời đó rồi, các Ngài đều yên lặng chờ cho thân Bồ Tát cháy một nghìn hai trăm năm mới hết. Quý vị thấy cháy kiểu đó đau chịu nổi không? Đó là một ý nghĩa, phải đốt cháy, nhưng cháy thường xuyên như vậy, cháy qua thời gian dài không gián đoạn, thì mới sạch hết. Chớ còn cháy nửa chừng nó tắt thì không xong rồi.
Như vậy Bồ Tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến thiêu thân cúng dường, là muốn nói lên Ngài xả cái chấp ngã này, đó là ý nghĩa căn bản. Hiểu không kỹ, về bắt chiếc đốt thân đó là không được, đốt thân trong khi chấp ngã còn thì không phải.
CHÁNH VĂN:
Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát, làm việc pháp cúng dường như thế xong, sau khi mạng chung, lại sanh trong nước của Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật, ở nơi nhà vua Tịnh Đức bỗng nhiên ngồi xếp bằng hoá sanh ra, liền vì vua cha mà nói kệ rằng:
Đại vương nay nên biết!
Tôi kinh hành chốn kia
Tức thời đặng Nhứt Thiết
Hiện chư thân tam muội
Siêng tu rất tinh tấn
Bỏ thân thể đáng yêu
Cúng dường Đức Thế Tôn
Để cầu huệ vô thượng.
Nói kệ đó rồi, thưa vua cha rằng: "Đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật nay vẫn hiện còn, tôi trước cúng dường Phật xong, đặng "giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn đà la ni" lại nghe kinh Pháp Hoa này tám trăm nghìn muôn ức na do tha, chân ca la, tần bà la, a súc bà, (A) các bài kệ. Đại Vương! Tôi nay lại nên cúng dường Đức Phật đó". Thưa xong, liền ngồi đài bảy báu, bay lên hư không, cao bằng bảy cây đa la, qua đến chỗ Phật đầu mặt lạy chân, chắp tay nói kệ khen Phật:Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy.
GIẢNG:
Đây là tiếp đoạn trước, Bồ Tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến đốt thân cúng dường, sau khi đốt thân cúng dường rồi, chết sanh trở lại cũng trong nước Phật Tịnh Minh đó, ở trong cung nhà vua tên Tịnh Đức. Nhưng khi sanh là hóa sanh.Ngài chết đi sanh trở lại, nhưng thấy như đi kinh hành vậy thôi, cho nên được tam muội Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân. Thường thường mình sống tâm thế gian, mình nghĩ bỏ thân này rồi không còn gì nữa, nên ai cũng như ai, sợ mất thân này, không dám bỏ nó. Còn đây khi xả bỏ thân này rồi, thì được thân hoá sanh, ngồi trên hoa sen. Thân hóa sanh ngồi hoa sen là thanh tịnh, lìa nhiễm ô. Cho thấy, mất là mất giả tướng này thôi, còn thể thật tướng làm sao mất. Vì vậy khi xả cái chấp bám vào cái ngã năm ấm này thì sẽ được tự tại hoá sanh. Nói hoá sanh là sanh cũng không thật sanh. Vậy thì diệt cũng không thật diệt, ngay đó là không sanh không diệt.
Bài kệ nói là bỏ thân thể đáng yêu này, không bám chấp vào nó, để cầu huệ vô thượng, tức là để sống trở về với trí tuệ chân thật của Phật. Nói kệ đó rồi, Ngài mới thưa với vua cha: Đức Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh đó nay cũng vẫn còn.
Bồ Tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến đó, Ngài chết đi, sanh trở lại, nhưng vẫn không mê mờ, vẫn sáng suốt, còn nhớ Phật Tịnh Minh vẫn còn đó. Gặp mình qua một đời là quên tuốt hết. Rồi Ngài được Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn Đa La Ni, Đà La Ni là tổng trì, tức là gom giữ hết không sót không quên, được tổng trì đó hiểu hết tất cả ngôn ngữ của chúng sanh, quí vị thấy tin nổi không? Bây giờ chỉ cần trên một quả đất này thôi, mà hiểu hết ngôn ngữ, hiểu dễ chăng?
Đây muốn nói, khi thể nhập thật tướng, sống được trong thực tướng thì những lời nói, những âm thanh gì đều là hợp về với chánh pháp, mỗi thứ tiếng đều là tiếng giác ngộ, không có tiếng nào mê mờ; nghe tiếng chim kêu, tiếng xe chạy, cũng sáng tỏ không lầm. Cho đến nghe tiếng chó sủa, tiếng ngựa hý cũng sáng, cũng giác rõ ràng. Vậy là hiểu tất cả mọi tiếng, hiểu rành rẽ như vậy, không có tiếng nào mê lầm hết. Trong đó Ngài nghe nghìn muôn ức bài kệ kinh Pháp Hoa. Đây có những danh từ chuyên môn: na-do-tha, chân-ca-la, tần-bà-la, a-súc-bà, là danh từ chỉ về số lượng.
Chân-ca-la chỉ cho số 16 trong 60 đại số của Ấn Độ. Còn Tần-bà-la là số thứ 18. A súc bà là số thứ 20. Na-do-tha chỉ cho 10 vạn ức. Còn chân-ca-la chỉ cho 100 vạn ức. Tần-bà-la là 1000 vạn ức. A-súc-bà là vạn vạn ức. Tức là những số lớn.
Trong đây là 800 nghìn muôn ức, vạn vạn ức các bài kệ. Kệ ở đâu nhiều như thế mà nghe? Đây không phải chỗ suy nghĩ, chỗ tình thức đến được. Phải ở trong tự tánh mà nghe thì nghe cái gì không phải là kinh Pháp Hoa, đâu phải đợi nghe từng câu từng chữ, như trong đây mình học. Tức nghe cái gì cũng đều nghe trong ánh sáng của tri kiến Phật thì nghe cái gì cũng là nghe Pháp Hoa. Còn bây giờ mình nghe từng câu từng chữ mà nghe với tâm chúng sanh thì có thành nghe Pháp Hoa không? Chưa hẳn, đó là Pháp Hoa mà là Pháp Hoa trên văn tự, chưa phải Pháp Hoa sống. Ngài lại nói thêm, bây giờ đây phải nên cúng dường đức Phật đó nữa, thưa xong thì Ngài ở trên tòa bảy báu bay lên hư không, tới lạy chân Phật, chấp tay nói kệ khen:
Dung nhan rất đẹp lạ
Ánh sáng soi mười phương
Con vừa từng cúng dường
Nay lại về thân thấy.
Nghĩa là sao? Mới cúng dường Phật, đốt thân đó, bây giờ lại thấy nữa, tức là vẫn luôn luôn không rời cái thấy Phật.
CHÁNH VĂN:Lúc đó, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát nói kệ xong mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Đức Thế Tôn vẫn còn ở đời ư?"
Bấy giờ, đức Nhật Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật bảo Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: "Thiện nam tử! Giờ ta nhập Niết Bàn đã đến, giờ diệt tận đã đến ông nên sắp đặt giường tòa. Ta trong đêm nay sẽ nhập Niết Bàn".
Phật lại bảo Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát rằng: "Thiện nam tử! Ta đem Phật Pháp giao phó cho ông, và các Bồ Tát đại đệ tử cùng pháp Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, cũng đem cõi thất bảo tam thiên đại thiên, các cây báu đài báu và hàng chư thiên cung cấp hầu hạ đều giao phó cho ông.
Sau khi ta diệt độ có bao nhiêu xá lợi cũng phó chúc cho ông, nên làm cho lưu bố rộng bày các việc cúng dường, nên xây bao nhiêu nghìn tháp".
Đức Nhật Nguyệt Tinh Minh Đức Phật bảo Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát như thế rồi, vào khoảng cuối đêm nhập Niết Bàn.
GIẢNG:
Ngài Nhứt Thiết Chúng Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát sanh trở lại, rồi đến gặp Phật thưa thỉnh, tán thán xong, thì đức Phật tuyên bố: vào nửa đêm nay Ngài nhập Niết Bàn, Ngài phó chúc lại mọi việc cho Bồ Tát này. Ở đây khi tâm đã khéo khế hợp với pháp thân rồi, tức là đã kham nhận, tự tiếp nối huệ mạng của Phật, thì Phật liền ẩn để cho mình sống dậy, "Giờ ta Niết Bàn đã đến", Phần ta xong rồi, ông phải tự sống dậy cái của ông, Phật Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức đem tất cả những sự nghiệp giao phó dặn dò lại.CHÁNH VĂN:
Lúc đó, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát thấy Phật diệt độ buồn cảm sầu khổ, luyến mộ nơi Phật, liền dùng hải thử ngạïn chiên đàn làm giàn để cúng dường thân Phật mà thiêu đó.Sau khi lửa tắt, thâu lấy xá lợi đựng trong tám muôn bốn nghìn bình báu, để xây tám muôn bốn nghìn tháp, cao ba thế giới, chưng dọn trang nghiêm thòng các phan lọng treo linh báu.
Bấy giờ, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát lại tự nghĩ rằng: "Ta dầu làm việc cúng dường đó lòng chưa đủ, ta nay lại thêm cúng dường xá lợi". Liền nói với các Bồ Tát đại đệ tử và trời, rồng, dạ xoa… tất cả đại chúng rằng: "Các ông phải một lòng ghi nhớ, tôi nay cúng dường xá lợi của đức Nhựt Nguyệt Tịnh Minh Đức Phật". Nói xong liền ở trước tám muôn bốn nghìn tháp đốt cánh tay trăm phước trang nghiêm, mãn bảy muôn hai nghìn năm để cúng dường. Khiến vô số chúng cầu Thanh văn, vô lượng vô số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, đều làm cho trụ trong "Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội". Lúc đó, các Bồ Tát, trời, người, A tu la… thấy Ngài không có tay bèn sầu khổ buồn thương mà nói rằng: "Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát này là thầy chúng ta, giáo hóa chúng ta, mà nay đốt tay, thân chẳng đầy đủ".
Lúc ấy, Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát ở trong đại chúng lập lời thề rằng: "Tôi bỏ hai tay ắt sẽ đặng thân sắc vàng của Phật, nếu thiệt không dối, thời khiến hai tay tôi hoàn phục như cũ". Nói lời thề xong hai tay tự nhiên hoàn phục đó là do phước đức trí huệ thuần thục của Bồ Tát cảm nên.
Đương lúc đó cõi tam thiên đại thiên thế giới sáu điệu vang động. Trời rưới hoa báu, tất cả người, trời đặng việc chưa từng có.
GIẢNG:
Tới đây Ngài Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến đốt tay cúng dường xá lợi. Tay này, Ngài gọi là tay gì? Gọi tay trăm phước trang nghiêm. Đó là muốn nói lên xả chấp, xả cái chấp ngã, chấp pháp, không còn có chỗ để bám, cái tay tốt đẹp trang nghiêm đó, nhưng cũng xả, để sống trong pháp thân cho được trọn. Nhưng ở đây đốt tay cháy tới bảy muôn hai nghìn năm mới xong, quí vị thấy tay gì mà cháy lâu vậy. Ý nói chấp ngã, chấp pháp này xả không phải xả một lần mà hết, mà phải xả thời gian dài, năm này qua tháng kia, cuối cùng mới hết được. Những hàng Thanh Văn vô số người phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, trụ trong Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân tam muội tức là cũng khiến cho những hàng Thanh văn thấy như vậy đều phát tâm Bồ Đề không còn bám vào chỗ không tịch của hàng Thanh văn. Rồi Bồ Tát, trời, người thấy Ngài không có tay liền buồn. Đây cũng giống như mình, còn sống trong cái tình chấp, bởi tình chấp chưa sạch nên thấy mất tay, sợ không còn chỗ bám, sợ không còn có chỗ để được. Bởi vì Ngài là bậc thầy của mình mà giờ mất tay rồi, thì sợ mất tay thì Ngài lấy gì để cho? Cho nên trong tình chấp đó thấy buồn. Trái lại nếu người lanh lợi, khi thấy Bồ Tát mất tay tức là Ngài sạch hết hai tay để cho thì mình sạch hết chỗ được, chính đó chân thật hiện tiền. Đây Ngài liền lập thệ: "Tôi bỏ hai tay này ắt được thân sắc vàng của Phật", khi thề xong thì hai tay hoàn lại như cũ. Vậy có mất đi đâu. Như vậy khi buông sạch hết rồi, chính cái thể buông, đó là gì? Cái thể buông đó làm sao buông?CHÁNH VĂN:
Đức Phật bảo Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát: "Ý ông nghĩ sao? Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát đâu phải người nào lạ, chính nay là ông Dược Vương Bồ Tát đó. Ông ấy bỏ thân bố thí vô số nhiều vô lượng trăm nghìn muôn ức na do tha như thế.Tú Vương Hoa! Nếu người phát tâm muốn đặng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, có thể đốt một ngón tay nhẫn đến một ngón chân để cúng dường tháp của Phật, hơn đem quốc thành, thê tử và cõi tam thiên đại thiên: núi, rừng, sông, ao, các vật trân báu mà cúng dường.
Nếu lại có người đem bảy thứ báu đầy cả cõi tam thiên đại thiên cúng dường nơi Phật, cùng đại Bồ Tát, Duyên Giác và A la Hán, công đức của người đó đặng chẳng bằng người thọ trì kinh Pháp Hoa này nhẫn đến một bài kệ bốn câu, phước của người này rất nhiều. Tú Vương Hoa! Thí như trong các dòng nước: sông, ngòi, kinh, rạch, thời biển là lớn thứ nhứt; kinh Pháp Hoa này cũng như thế, ở trong các kinh của đức Như Lai nói rất là sâu lớn.
Lại như trong các núi non: thổ sơn, hắc sơn, núi tiểu Thiết Vi, núi đại Thiết Vi cùng mười núi báu thời núi Diệu cao là bậc nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế; ở trong các kinh rất là bực thượng.
Lại như trong các ngôi sao, mặt trăng là bực nhứt, kinh Pháp Hoa này cũng như thế ở trong nghìn muôn ức các kinh pháp rất là sáng.
Lại như mặt trời hay trừ các chỗ tối tăm kinh này cũng thế, hay phá tất cả sự tối bất thiện.
Lại như trong các vua nhỏ, vua Chuyển Luân Thánh Vương rất là bực nhứt, kinh này cũng như thế ở trong các kinh là bực tôn kính hơn cả.
Lại như Đế Thích là vua trong ba mươi ba cõi trời, kinh này cũng thế, là vua trong các kinh.
Lại như trời Đại Phạm Thiên Vương là cha của tất cả chúng sanh, kinh này cũng thế, là cha của tất cả hiền thánh: bực hữu học, vô học cùng hàng phát lòng Bồ Đề.
Lại như trong tất cả phàm phu thời bực Dự lưu, Nhứt lai, Bất lai, Vô sanh, Duyên giác, là bực nhứt, kinh này cũng thế, tất cả Như Lai nói, hoặc Bồ Tát nói, hoặc Thanh Văn nói, trong các kinh pháp là bực nhứt hơn cả, có người thọ trì được kinh điển này cũng lại như thế, ở trong tất cả chúng sanh cũng là bực nhứt.
Trong tất cả Thanh Văn cùng Duyên giác, Bồ Tát là bực nhứt, kinh này cũng thế, trong tất cả các kinh pháp rất là bực nhứt.
Như Phật là vua của các pháp, kinh này cũng thế, là vua của các kinh.
GIẢNG:
Phật giờ mới nói rõ Ngài Nhứt Thiết Hỷ Kiến Chúng Sanh Bồ Tát đó cũng không người nào lạ, là Bồ Tát Dược Vương đây thôi. Dược Vương, vị thuốc vua đó, là buông chấp ngã này, đó là vị thuốc vua trừ các bệnh, mình buông được cái chấp ngã này, là chỗ trừ mọi thứ bệnh. Đây Ngài mới khen ngợi, Ngài bảo kinh này rất là tôn nhứt. Đây thí dụ trong kinh rạch, sông ngòi nhỏ, thì biển là lớn, kinh Pháp Hoa này là lớn sâu hơn các kinh, kinh này là bậc thượng trong các kinh, giống như núi Diệu cao, là núi bậc nhất trong các núi, cho đến là kinh này là vua trong các kinh. Bởi kinh này chỉ cho tri kiến Phật, thì chư Phật ngộ được tri kiến Phật này, sống được trọn vẹn trong tri kiến Phật này thành Phật chớ gì. Rồi Ngài từ trong tri kiến Phật đó, Ngài nói ra các kinh, thì kinh điển đều trở về chỗ tri kiến Phật này là gốc. Nhiều khi mình đọc vậy thấy hay quá, rồi cứ lo đọc tụng bộ kinh để trước mặt này, nói đó là bộ kinh vua các kinh, lỡ khi nào nó hỏa hoạn cháy thì còn vua không? Rõ ràng kinh này là tri kiến Phật, đó mới là vua các kinh.
CHÁNH VĂN:
Tú Vương Hoa! Kinh này có thể cứu tất cả chúng sanh, kinh này có thể làm cho tất cả chúng sanh xa rời các khổ não, kinh này có thể lợi ích cho tất cả chúng sanh đầy mãn chỗ mong cầu của chúng, như ao nước trong mát có thể đầy đủ cho những người khát nước, như kẻ lạnh được lửa, như kẻ trần truồng đặng y phục, như người buôn đặng chủ, như con gặp mẹ, như qua sông gặp ghe, như người bệnh gặp thầy thuốc, như tối đặng đèn, như nghèo đặng của báu, như dân gặp vua, như khách buôn đặng biển, như đuốc trừ tối. Kinh Pháp Hoa này cũng thế, có thể làm cho chúng sanh xa rời tất cả khổ, tất cả bệnh tật đau đớn, có thể mở sự trăn trói của tất cả sanh tử.Nếu người đặng nghe kinh Pháp Hoa này, hoặc chép, hoặc bảo người chép đặng công đức, dùng trí huệ của Phật tính lường nhiều ít chẳng thể đặng ngằn mé đó. Nếu chép kinh sách này, dùng hoa hương, chuỗi ngọc, hương đốt, hương bột, hương xoa, phan, lọng, y phục, các thứ đèn, nến, đèn dầu, các thứ đèn dầu thơm: đèn dầu chiêm bặc, đèn dầu tu mạn na, đèn dầu ba la la, đèn dầu bà lợi sư ca, đèn dầu na ba ma lợi đem cúng dường, đặng công đức cũng là vô lượng.
GIẢNG:
Đây là tán thán kinh này cứu khổ tất cả chúng sanh, kinh này làm cho xa rời khổ não, làm đầy đủ chỗ mong cầu cho chúng sanh, nên người thường thích tụng kinh này, thấy quá hay mà không biết hay ở chỗ nào. Bởi vì bao nhiêu cái khổ của chúng sanh đều do quên gốc tri kiến Phật này, chấp vào cái thân sanh tử đây, vì nó tạo nghiệp mà chịu khổ thôi. Bây giờ giác ngộ tri kiến Phật này, sống trở về tri kiến Phật này thì hết khổ. Cho nên kinh này cứu khổ chúng sanh là cứu chỗ đó, chớ không phải đọc tới đọc lui hoài mà hết khổ. Nhiều khi ham đọc cho nhiều, một ngày làm sao tụng hết bộ chẳng hạn, đọc quá mệt lại dễ nổi sân nữa, vậy là cứu khổ nổi không? Rồi nếu tự chép hay bảo người chép đặng công đức dùng trí tuệ Phật tính cũng không thể đặng ngằn mé. Chép ở đây là mình ứng dụng để tu hành, rồi còn nhắc nhở người khác tu hành nữa. Như vậy là mình chuyển kinh Pháp Hoa ở nơi đức Phật thành ra Pháp Hoa ở nơi chính mình, nên công đức vô lượng. Phải hiểu được ý đó.
CHÁNH VĂN:
Tú Vương Hoa! Nếu có người nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này cũng đặng vô lượng vô biên công đức.Nếu có người nữ nghe phẩm "Dược Vương Bồ Tát bổn sự" này mà có thể thọ trì thời sau khi dứt báo thân đàn bà đó không còn thọ lại nữa.
Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nữ nghe kinh điển này, đúng như lời mà tu hành, thời khi ở đây chết liền qua cõi An Lạc, chỗ trụ xứ của Đức A Di Đà Phật cùng chúng Đại Bồ Tát vây quanh, mà sanh trên tòa báu trong hoa sen.
Chẳng còn bị lòng tham dục làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng giận dỗi, ngu si làm khổ, cũng lại chẳng bị lòng kiêu mạn ganh ghét, các tánh nhơ làm khổ, đặng thần thông vô sanh pháp nhẫn của Bồ Tát, đặng pháp nhẫn đó thời nhãn căn thanh tịnh. Do nhãn căn thanh tịnh đó thấy bảy trăm muôn hai nghìn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật Như Lai.
GIẢNG:
Phật nói người nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát này thôi cũng được công đức vô lượng, còn người nữ nào nghe phẩm này thì sau khi dứt báo thân này không còn thọ lại nữa, được sanh nơi cõi An lạc của Phật Di Đà, không còn tham sân si, quý vị thấy dễ quá không? Bởi vì đây là nói lên ý nghĩa, người nữ mà nghe kinh này xả lòng ái chấp vào sắc thân, sẽ vào tri kiến Phật, thì sẽ đến chỗ an lạc, tức là cõi nước an lạc đó, rồi gặp Phật A Di Đà. Phật A Di Đà tức là Phật vô lượng thọ, là pháp thân bất sanh bất diệt, rồi được Bồ Tát vây quanh, nhìn đâu cũng gặp Bồ Tát hết. Còn đây mình nhìn đâu cũng thấy chúng sanh, nên đâu cũng có thể phiền não được. Bây giờ nếu thể nhập trong tri kiến Phật này rồi, thì nhìn quanh đâu cũng là Bồ Tát, nhìn đâu cũng gặp ánh sáng giác ngộ, rồi được sanh trong tòa báu ở trong hoa sen, tức là được lìa cái nhiễm ô không còn dính mắc, không còn bị tham sân si làm khổ, bởi vì ở trong tri kiến Phật thì tham sân si đâu có đến trong đó được, rồi được thần thông vô sanh pháp nhẫn. Ở nơi đó thì mình sẽ thấy nghe tất cả mà không động niệm khởi. Rồi sẽ được nhãn căn thanh tịnh tức là con mắt thanh tịnh, trong sạch, khi đó nhìn ra cái gì cũng thấy Phật không còn mê lầm che đậy.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, các đức Phật đồng nói khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Thiện nam tử! Ông có thể ở trong pháp hội của đức Thích Ca Mâu Ni Phật mà thọ trì đọc tụng suy gẫm kinh này vì người khác nói, ông đặng công đức vô lượng vô biên, lửa chẳng đốt đặng, nước chẳng trôi đặng, công đức của ông, nghìn Phật chung nói chẳng thể hết đặng. Ông nay đã có thể phá các giặc ma, hoại quân sanh tử, các oán địch khác thảy đều trừ diệt.Thiện nam tử! Trăm nghìn các đức Phật dùng sức thần thông đồng chung thủ hộ ông, tất cả trời người trong đời không ai bằng ông. Chỉ trừ các đức Như Lai, bao nhiêu thiền định trí tuệ của các Thanh văn, Duyên giác, nhẫn đến Bồ Tát không có ai bằng ông.
Tú Vương Hoa! Vị Bồ Tát đó thành tựu sức công đức trí huệ như thế.
GIẢNG:
Đây tất cả chư Phật đồng khen ngợi, tức là khi được công đức như vậy đó là khế hợp với chư Phật, tâm tâm được tương ứng, công đức này nghìn Phật chung nói cũng chẳng hết, bởi chỗ đó lời nói đâu thể đến được, là phải sống thôi, chỗ này cũng là chỗ chư Phật đồng thủ hộ, cho nên sống được trong đây thì trên thế gian này không có gì so sánh kịp. Đây Ngài kết lại.
CHÁNH VĂN:
Nếu có người nghe phẩm: "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này mà có thể tùy hỷ khen ngợi, thời người đó trong đời hiện tại trong miệng thường thoảng ra mùi thơm hoa sen xanh; trong lỗ chân lông nơi thân, thường thoảng ra mùi thơm ngưu đầu chiên đàn, đặng công đức như đã nói ở trên.Tú Vương Hoa! Vì thế ta đem phẩm "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này chúc lụy cho ông. Năm trăm năm sau khi ta diệt độ phải tuyên nói lưu bố rộng truyền ở cõi Diêm Phù Đề, chớ để dứt mất. Chớ cho hàng ác ma, dân ma, các trời, rồng, Dạ xoa, Cưu bàn trà… phá khuấy đặng.
Tú Vương Hoa! Ông phải dùng sức thần thông giữ gìn kinh này. Vì sao? Vì kinh này là món lương dược của người bịnh trong cõi Diêm phù đề; nếu có người bịnh đặng nghe kinh này bị bệnh liền tiêu diệt, chẳng già, chẳng chết.
Tú Vương Hoa! Nếu ông thấy có người thọ trì kinh này, phải dùng hoa sen xanh đựng đầy hương bột rãi trên người đó. Rải xong nghĩ rằng: "Người này chẳng bao lâu quyết sẽ lấy cỏ trải ngồi nơi đạo tràng, phá các quân ma, sẽ thổi ốc pháp, đánh trống pháp, độ thoát tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh, già, bịnh, chết.
Lúc đức Phật nói phẩm: "Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự" này, có tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đặng pháp "Giải nhứt thiết chúng sanh ngữ ngôn đà la ni".
Đức Đa Bảo Như Lai ở trong tháp báu, khen Ngài Tú Vương Hoa Bồ Tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Tú Vương Hoa! Ông thành tựu bất khả tư nghì công đức mới có thể hỏi đức Thích Ca Mâu Ni Phật việc như thế, làm vô lượng lợi ích cho tất cả chúng sanh".
GIẢNG:
Đây Phật nói là người nghe phẩm Dược Vương mà tùy hỉ khen ngợi, ngay trong đời đây, miệng thường thoảng mùi thơm, các lỗ chân lông cũng đều thoảng mùi thơm, Ngài đem phẩm này chúc lụy cho Ngài Tú Vương Hoa, phải làm lưu bố rộng truyền ở thế gian này, tại sao nghe phẩm này thôi, công đức lớn như vậy. Đây phải hiểu ý nghĩa, nghe phẩm Dược Vương Bồ Tát Bổn Sự này là cái gì? Tức là nghe thấu qua được sắc ấm, trừ được lòng ái nhiễm chấp ngã. Đó là bước quan trọng trên đường tu hành phải vượt qua. Cho nên nghe thấu như vậy đó thì công đức rất là lớn, lớn là như vậy. Bởi vì dù cho mình tu sáng tỏ, có ngộ cái gì đi nữa mà chưa qua được cửa này là còn phải xét lại, ngộ gì thì ngộ mà còn thấy sắc thân này là thật, còn thấy có chấp ngã này, thì cái ngộ đó e là ngộ lầm. Đó là bước quan trọng phải nhớ, nhưng cái sắc ấm này kiên cố, khó phá vô cùng, ở đây mượn những hình ảnh cho mình thấy rõ phải đốt thân, đốt tay, tay lại do phước tướng trang nghiêm mà được, bây giờ đốt bỏ thì dễ gì. Phải phá cái tâm ái luyến chấp trước đó, khi qua được ý niệm sắc không rồi, chỉ còn ánh sáng tri kiến Phật sáng ngời là mình khéo trì Pháp Hoa, khéo nhập Pháp Hoa. Đây nói các Bồ Tát đó nghe như vậy được Giải Nhứt Thiết Chúng Sanh Ngữ Ngôn Đà La Ni, bởi vì nghe phẩm này, giải trừ chấp sắc ấm này, đó là chỗ mọi chúng sanh đều bám chấp, khi giải trừ được cái đó rồi thì bao nhiêu những ngôn ngữ chúng sanh đặt ra mình được hiểu, hiểu được mọi ngôn ngữ của chúng sanh. Quý vị nghĩ lại coi, mọi ngôn ngữ chúng sanh đặt ra đó là do cái ngã này chớ gì? Bao nhiêu ngôn ngữ đặt ra cũng quanh quẩn cái ngã này thôi. Mình đặt ra cái này, cái kia là để cho cái ngã này sống. Phá được cái chấp này rồi thì phá được các ngôn ngữ, tức không còn lầm ngôn ngữ nào nữa, sáng tỏ mọi lời nói. Đến cuối cùng được Phật Đa Bảo Ngài khen ngợi. Tức là chứng minh cho thấy rằng thấu suốt được chỗ này là khế hợp với pháp thân, thể nhập được tri kiến Phật.Tóm lại phẩm này là phẩm phá về sắc ấm, thể nhập vào tri kiến Phật. Đi vào phẩm này là trừ chấp ngã kiên cố. Bởi vậy đây là chỗ quên thân, xả tay, không còn chỗ nương tựa, không còn có chỗ bám chấp, không cho mình chết trên cái ngã giả dối này, để mình sống dậy cái tri kiến Phật. Nếu mình quên cái ngã này, quên cái chấp này thì mình sống với một thể pháp thân thường còn, thì cái đó không quí hơn sao? Bây giờ sở dĩ mình bám chấp vào cái này vì chưa có sáng tỏ được, chưa biết được còn có tri kiến Phật, còn có pháp thân chỉ thấy cái này thôi. Khi biết rõ còn có pháp thân chân thật bất sanh bất diệt nữa, thì xả cái này được pháp thân kia, mới là cái quí hơn hết, thì mới không có sợ sệt, mới bớt chấp vào cái này. Cho nên đây nói xả chấp này rồi, không phải là mất hết không còn gì. Trong đây rõ ràng qua hình ảnh Bồ Tát Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến đó đốt thân thì được thân hóa sanh, rồi đốt tay, sau đó được hoàn phục.
Bởi đốt thân, đốt tay nhưng làm sao đốt đến tri kiến Phật kia? Thân này có thể đốt, tay này có thể đốt còn tri kiến Phật làm sao có thể đốt.
Chứng đạo ca có câu:
Buông bốn đạị đừng nắm bắt
Thì trong tánh tịch diệt tùy ăn nuốt
Các hạnh vô thường thảy thảy không
Đấy chính Như Lai Đại Viên Giác.
Đó nói rằng buông bốn đại này đừng nắm bắt nó, thì sẽ được trong tánh tịch diệt bất sanh bất diệt tùy ý mà ăn mà uống, tùy ý mà dụng tự tại. Còn mọi cái tạo tác trên thế gian này, đều là vô thường, đều là rỗng không hết, không gì thật. Chính khi rõ biết được mọi cái tạo tác vô thường rỗng không này, ngay đó là Như Lai Đại Viên giác, chớ không phải tất cả đều không hết, là không còn gì! Nghe được như vậy là mình thấu qua được phẩm Dược Vương chứ không phải nghe trên danh từ thôi. -
25. Phẩm Diệu âm Bồ tát
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật từ nhục kế tướng đại nhơn, phóng ra ánh sáng, và phóng ánh sáng nơi tướng lông trắng giữa chặng mày, soi khắp tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các cõi Phật ở phương Đông.Qua khỏi số cõi đó có thế giới tên Tịnh Quang Trang Nghiêm. Nước đó có Phật hiệu: Tịnh Hoa Tú Vương Trí Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hạnh túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhơn sư, Phật Thế Tôn, được vô lượng vô biên đại chúng Bồ Tát cung kính vây quanh mà vì chúng nói pháp.
Ánh sáng lông trắng của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi khắp cõi nước đó.
Lúc đó, trong nước Nhứt Thiết Tịnh Quang Trang Nghiêm có một vị Bồ Tát tên là Diệu Âm, từ lâu đã trồng các cội công đức cúng dường gần gũi vô lượng trăm nghìn muôn ức các đức Phật, mà đều đặng trọn nên trí huệ rất sâu, đặng môn "Diệu Tràng Tướng tam muội", "Pháp Hoa tam muội", "Tịnh Đức tam muội", "Tú Vương Hý tam muội", "Vô Duyên tam muội", "Trí Ấn tam muội", "Giải Nhứt Thiết Chúng Sanh ngữ ngôn tam muội", "Tập Nhứt Thiết công đức tam muội", "Thanh Tịnh tam muội", "Thần thông du hý tam muội", "Huệ Cự tam muội", "Trang Nghiêm Vương tam muội", "Tịnh Quang Minh tam muội", "Tịnh tạng tam muội", "Bất Cọâng tam muội", "Nhựt Triền tam muội"… đặng trăm nghìn muôn ức hằng hà sa các đại tam muội như thế.
Quang Minh của đức Thích Ca Mâu Ni Phật soi đến thân vị Bồ Tát đó, liền bạch cùng đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật rằng: "Thế Tôn! Con phải qua đến cõi Ta bà để lễ lạy gần gũi cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật, cùng để ra mắt Ngài Văn Thù Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, Dược Vương Bồ tát, Dõng Thí Bồ tát, Tú Vương Hoa Bồ tát, Thượng Hạnh Ý Bồ Tát, Trang Nghiêm Vương Bồ Tát, Dược Thượng Bồ tát".
Khi đó, đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật bảo Ngài Diệu Âm Bồ tát: "Ông chớ có khinh nước Ta bà sanh lòng tưởng cho là hạ liệt. Thiện nam tử! Cõi Ta bà kia cao thấp không bằng, các núi đất đá đầy rẫy sự dơ xấu, thân Phật kém nhỏ, các chúng Bồ Tát thân hình cũng nhỏ, mà thân của ông cao đến bốn muôn hai nghìn do tuần, thân của ta sáu trăm tám mươi muôn do tuần. Thân của ông tốt đẹp thứ nhứt, trăm nghìn muôn phước sáng rỡ đẹp lạ, cho nên ông qua chớ khinh nước kia, hoặc ở nơi Phật, Bồ tát cùng cõi nước mà sanh lòng tưởng cho là hạ liệt".
Ngài Diệu Âm Bồ tát bạch với Phật đó rằng: "Thế Tôn! Con nay qua cõi Ta bà đều là do sức thần của Như Lai, do thần thông du hý của Như Lai, do công đức trí huệ trang nghiêm của Như Lai".
GIẢNG:
Đây phần phá thọ ấm. Thọ ấm là phần tinh thần, tức là thọ, tưởng, hành, thức, trong bốn phần tinh thần đó, thọ ấm là phần thô, là cảm giác khổ vui… nhưng nó tế nhị hơn sắc ấm. Vì vậy tới Bồ Tát Diệu Âm này, thì thân tướng của Ngài cũng tế nhị hơn.
Bấy giờ vào đầu đức Phật Thích Ca từ nơi tướng nhục kế, tức là tướng trên đỉnh đầu, từ đó mà phóng ánh sáng, rồi từ nơi giữa chặng mày cũng phóng ánh sáng, hai chỗ đó phóng ánh sáng qua hằng sa cõi nước ở phương Đông cho đến thế giới Tịnh Quang Trang Nghiêm, của đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, trong đó có vị Bồ Tát tên Diệu Âm, vị Bồ Tát này được trăm nghìn muôn ức các thứ tam muội. Ở đây thứ nhứt là phóng ánh sáng, lúc vào đầu kinh Pháp Hoa đức Phật phóng ánh sáng giữa chặng mày thôi, nhưng ở đây phóng cả hai chỗ: Một là từ tướng nhục kế tức là vô kiến đảnh tướng, thứ hai từ lông trắng giữa chặng mày, đó là ý nghĩa sâu hơn một tầng. Phóng ánh sáng từ tướng nhục kế là chỗ tột trên đỉnh đầu, đó là chỉ cho chỗ tột cùng của quả giác. Rồi phóng quang từ lông trắng giữa chặng mày, đó là cái nhân giác. Nhân tức là khai thị tri kiến Phật, nhân này là lìa hai bên đối đãi, phân biệt. Phóng ánh sáng này là lìa hai bên đối đãi và phân biệt. Đây hai chỗ cùng phóng quang, là muốn nói lên nhân và quả giác nó khế hợp nhau, đó là đi vào trong thể nhập Tri kiến Phật. Ở trước chỉ có phóng quang từ nơi lông trắng giữa chặng mày thôi, đó là khiến cho mọi người tỏ ngộ cái nhân chân thật này, mà lìa mọi thứ điên đảo, là khai thị cái nhân. Ở đây bắt đầu thể nhập, cho nên hai chỗ đều phóng quang, nhân quả nhất như, nghĩa là đến đây khiến cho người tỏ ngộ tri kiến Phật rồi, thì cái lý nó như vậy, nhưng cái sự cũng phải như vậy. Rồi soi khắp cõi nước Tịnh Quang Trang Nghiêm, tức là tâm thanh tịnh sáng suốt trang nghiêm chớ gì! Khi ánh sáng của Phật Thích Ca soi khắp cõi nước đó thì cảm đến Bồ Tát Diệu Âm. Phần này phá thọ ấm mà thọ vốn là không có hình tướng thật, chỉ do xúc với cảnh mà sanh, xúc với cảnh vui thì nó liền sanh vui, cảnh buồn nó sanh buồn. Cho nên ở đây ánh sáng Phật Thích Ca soi đến Diệu Âm, thì Bồ Tát liền bạch đức Phật bên đó, bây giờ con phải qua cõi Ta bà ra mắt Đức Phật Thích Ca cùng các Bồ Tát, tức là có cảm đến thì mới có hiện, nhưng mà hiện ở đây nó không giống với mình. Bồ Tát bạch với đức Phật đó, bây giờ con qua cõi Ta bà, mà qua để chi? Để ra mắt đức Phật Thích Ca cùng các vị Bồ Tát, tức là thọ nhưng đây không mê, qua đó gặp Phật, chớ không phải qua đó đi vào tham nhiễm trần cảnh như chúng sanh, vậy mới là Bồ Tát được. Chỗ này quí vị thấy thọ qua hình ảnh của Bồ Tát Diệu Âm, thọ mà sao lấy Bồ Tát tượng trưng? Là có ý sâu, khi thọ thì nó có cảm giác, cảm giác vui hoặc là buồn, hoặc là khổ, mà có cảm giác tức là có biết, có biết tức là gốc của nó cũng từ tánh giác mà ra, chớ không phải nó là cái riêng có.
Do đó, ở đây nói lên Bồ Tát Diệu Âm, Ngài đã từng trồng cội lành, đã từng gần gũi các đức Phật được các thứ tam muội, ø không phải được một thứ, mà được trăm nghìn muôn ức hằng ha sa tam muội.
Nghĩa là Bồ Tát Diệu Âm đã từng trồng căn lành rồi, vậy tức là thọ, tuy thuộc về sanh diệt, nhưng mà trong đó gốc từ tánh giác, nên đây cũng từng gần gũi các đức Phật. Bởi vậy, khi phá thọ, không phải phá thành tiêu tán hết giống như cây đất hết cảm giác mà là chuyển lại thành diệu giác.
Nếu thấu tột được chỗ này mới thấu tột được cội nguồn của thọ ấm, mới không bị ấm che, mới cảm được ánh sáng của Phật. Như vậy từ nơi thọ mình thể nhập được pháp thân chân thật hay là tri kiến Phật, từ thọ đó mà trở về Như Lai. Do đó Bồ Tát Diệu Âm được các thứ tam muội, tam muội có hai nghĩa: một là chánh định, một là chánh thọ, mà chánh thọ là gì? Là thọ tất cả, mà không có thọ gì hết. Thọ tất cả mà không có trụ, không có dừng ở một cái gì, thọ tất cả mà không có chỗ gì để thọ, thì đó là chánh thọ. Còn mình thọ cái gì là dính chỗ đó nên không có chánh thọ, thành đi vào trong sanh diệt, đó là thọ ấm. Bây giờ thọ tất cả mà không là gì hết, không ở chỗ nào hết thì thành chánh thọ, nên Ngài Diệu Âm được các thứ tam muội.
Khi Bồ Tát Diệu Âm bạch với đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí: "Bây giờ con phải qua cõi Ta bà để lễ lạy gần gũi Phật Thích Ca, cũng như ra mắt các vị Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Dược Vương, Bồ Tát Dũng Thí, Bồ Tát Tú Vương Hoa…". Đức Phật bảo ông qua đó thì qua mà chớ khinh nước Ta bà, bởi vì nước Ta bà là cao thấp, núi non lồi lõm không giống như ở đây, thân của các vị đó, từ đức Phật cho đến các vị Bồ Tát cũng kém nhỏ. Còn bên đây thân to lớn, là có ý nghĩa gì trong đó?
Đó là muốn nói lên: chớ theo cảm thọ mà sanh tâm sai biệt, đây là tốt, kia là xấu. Nếu theo thọ có tâm sai biệt liền có khen chê, có khổ vui nó sanh theo, mà theo đó là quên mất thể giác. Còn đây tri kiến Phật thì nó có lớn nhỏ cao thấp gì đâu, như vậy quên niệm sai biệt đó thì mới thể nhập tri kiến Phật được, nên Phật dặn trước. Bồ tát Diệu Âm Ngài bạch Phật là: "Con nay qua cõi Ta bà đó, đều do sức thần của Như Lai, cũng như do công đức trí tuệ của Như Lai thôi". Qua đó do sức thần của Như Lai, do công đức của Như Lai, chớ không phải là tự ý. Như vậy tuy có ở bên kia, qua bên đây nhưng vẫn không rời ánh sáng của Như Lai, cũng như không phải vì cái ngã này mà qua. Do sức thần của Như Lai, tức là ở trong ánh sáng của Như Lai đó mà hiện. Còn nếu rời ánh sáng của Như Lai đó, mà hiện mà qua đây, thì tức là theo thọ mà vào sanh diệt liền. Kiểu đó qua Ta bà thì bị Ta bà chuyển. Phải nhớ mình không phải dẹp thọ thành ra cây đá nhưng đây do sức thần mà nó hiện từ cõi Phật trang nghiêm qua cõi Ta bà, như vậy mình khéo thể nhập trở về tri kiến Phật.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, Ngài Diệu Âm Bồ tát chẳng rời khỏi toà, thân chẳng lay động mà vào trong tam muội, dùng sức tam muội ở nơi núi Kỳ Xà Quật, cách pháp toà chẳng bao xa hóa làm tám muôn bốn nghìn các hoa sen báu: vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài.
Bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử thấy hoa sen đó bèn bạch cùng Phật rằng: "Thế Tôn! Đây do nhơn duyên gì mà hiện điềm tốt này, có ngần ấy nghìn vạn hoa sen: vàng diêm phù đàn làm cọng, bạc làm cánh, kim cang làm nhụy, chân thúc ca bảo làm đài?".
Khi ấy, đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi rằng: "Đó là Diệu Âm đại Bồ tát từ cõi nước của đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật muốn cùng tám muôn bốn nghìn Bồ tát vây quanh mà đến cõi ta bà này, để cúng dường gần gũi lễ lạy nơi ta cùng muốn cúng dường nghe kinh Pháp Hoa".
Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Vị Bồ tát đó trồng cội lành gì, tu công đức gì mà có đặng sức đại thần thông như thế? Tu tam muội gì? Mong Phật vì chúng con nói danh tự của Tam muội đó, chúng con cũng muốn siêng tu hành đó. Tu hành môn Tam muội này mới thấy được sắc tướng lớn nhỏ oai nghi tấn chỉ của vị Bồ tát đó. Cúi mong đức Thế Tôn dùng sức thần thông khi vị Bồ tát đó đến khiến chúng con đặng thấy".
Lúc ấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo Ngài Văn Thù Sư Lợi: "Đức Đa Bảo Như Lai đã diệt độ từ lâu đây, sẽ vì các ông mà hiện bày thân tướng của Bồ tát đó".
Tức thời đức Đa Bảo Phật bảo Bồ tát đó rằng: "Thiện nam tử đến đây! Văn Thù Sư Lợi pháp vương tử muốn thấy thân của ông".
GIẢNG:
Bồ tát Diệu Âm đến, Ngài không rời khỏi toà, thân cũng không lay động, ở trong tam muội mà hiện ra tám mươi bốn ngàn hoa sen, như vậy, hiện hoa sen trước chưa có hiện thân, do đó Ngài Văn Thù Sư Lợi thấy hoa sen mà không biết điều gì, mới bạch hỏi Phật Thích Ca thì Phật Thích Ca mới nói là có Bồ tát Diệu Âm ở cõi Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, muốn qua đây để ø gần gũi lễ lạy đức Phật Thích Ca cúng dường nghe kinh Pháp Hoa, rồi Ngài Văn Thù hỏi công hạnh của Bồ tát Diệu Âm, do tu hạnh gì, Tam muội gì mà được như vậy? Phật Thích Ca không trả lời, lại bảo đức Phật Đa Bảo sẽ vì các ông mà hiện.Thứ nhứt là Bồ Tát Diệu Âm không rời khỏi tòa, thân cũng chẳng động, và trong các tam muội, hóa thành các hoa sen hiện nơi núi Linh Thứu, tức là sao? Tức là ở bên kia hiện qua bên đây, nhưng hiện mà không có chỗ hiện, cũng như thọ mà không có chỗ thọ thì mới ở trong chánh định. Ở trong chánh định đó lìa các tướng trần cảnh, nhiễm ô, nên đây ở trong chánh định mà hiện các hoa sen. Như vậy mới hợp trở về tánh giác được. Còn có chỗ thọ tức hợp với trần cảnh thôi. Thọ mà không chỗ thọ, thọ mà không mê. Ở trong chánh định thọ mà không động. Nếu mình khéo như vậy, ngay nơi thọ đây mình trở về tánh giác liền.
Như câu chuyện Hoài Hải một hôm đi dạo với Mã Tổ thấy bầy vịt trời bay trên trời. Mã Tổ hỏi "là cái gì?". Sư đáp: "Bầy vịt trời". Sau đó đợi cho bay qua. Mã Tổ hỏi: "bay đi đâu?" Sư đáp: "bay qua mất rồi?" Mã Tổ bèn nắm mũi nhéo một cái thật mạnh. Sư đau quá la lên. Mã Tổ nói: “Sao không nói bay qua mất đi?" Ngay đó Sư liền ngộ. Nhéo mũi đau la, tức là sao? Có cảm thọ rồi, đau quá! Cảm giác đau quá. Ngay đó Ngài Mã Tổ nhấn mạnh: "vậy sao không nói bay qua mất đi". Ngay đó Ngài Hoài Hải ngộ trở lại liền. Vậy tức là ngay cảm giác sống trở về với tri kiến Phật chớ gì.
Mình nghe đau quá chỉ biết đau thôi, đây nhờ Mã Tổ đánh thức lại. Cái gì biết đau? Là gốc từ tánh giác đó. Cho nên ngay cái đau đó mà trở về với tánh giác, liền tỉnh ngộ, tri kiến Phật gọi là thọ mà không chỗ thọ thì trở về với tánh giác. Còn nếu mình thấy bị nhéo mũi đau thôi, vậy là bị cái thọ che, gọi là ấm, quên mất tánh giác. Khi Bồ Tát Văn Thù hỏi đức Phật Thích Ca, Ngài không trả lời mà bảo: "Phật Đa Bảo vì các ông mà hiện bày thân tướng Bồ Tát đó". Tức muốn cảm nhận tiếng nhiệm mầu đó, tức là Diệu Âm thì phải từ pháp thân mà thầm cảm nhận. Đa Bảo là chỉ cho pháp thân. Tức là phải soi lại tự tánh. Không theo xúc nơi cảnh sanh tình, thì sẽ thấy được tiếng nhiệm mầu đó, tức là Diệu Âm. Hiểu được ý đó rồi thì ở đây, Phật Đa Bảo bảo Bồ Tát Diệu Âm đó đến đây để Ngài Văn Thù Sư Lợi muốn thấy thân ông.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Ngài Diệu Âm Bồ Tát nơi cõi nước kia ẩn mặt, cùng với tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đồng nhau qua cõi Ta bà, ở các nước trải qua, sáu điệu vang động, thảy đều rưới hoa sen bằng bảy báu, trăm nghìn nhạc trời chẳng trỗi tự kêu, mắt của vị Bồ Tát đó như cánh hoa sen xanh rộng lớn. Giả sử hòa hiệp trăm nghìn muôn mặt trăng, diện mạo của Ngài tốt đẹp lại hơn nơi đây, thân sắc vàng ròng vô lượng trăm nghìn công đức trang nghiêm, oai đức rất thạnh, ánh sáng chói rực, các tướng đầy đủ như thân Na La Diên bền chắc.
Ngài vào trong đài thất bảo bay lên hư không cách đất bằng bảy cây đa la. Các chúng Bồ Tát cung kính vây quanh, mà đồng đến núi Kỳ Xà Quật ở cõi Ta bà này, đến rồi xuống đài thất bảo, dùng chuỗi ngọc giá trị trăm nghìn, đem đến chỗ Thích Ca Mâu Ni Phật, đầu mặt lễ chưa Phật dưng chuỗi ngọc lên mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật hỏi thăm Đức Thế Tôn ít bịnh, ít khổ, đi đứng thơ thới, sở hành an vui chăng? Bốn đại đều điều hòa chăng? Việc đời nhẫn được chăng? Chúng sanh dễ độ chăng? Không có người nhiều tham dục, giận hờn, ngu si, ganh ghét, bỏn xẻn, kiêu mạn chăng? Không kẻ chẳng thảo cha mẹ, chẳng kính Sa môn, tà kiến tâm chẳng lành, chẳng nhiếp năm tình chăng?
Thế Tôn! Chúng sanh hàng phục được các ma oán chăng? Đức Đa Bảo Như Lai diệt độ từ lâu ở trong tháp bảy báu có đến nghe pháp chăng? Lại hỏi thăm đức Đa Bảo Như Lai: an ổn, ít khổ, kham nhẫn ở lâu đặng chăng? Thế Tôn! Nay con muốn thấy thân đức Đa Bảo Phật, cúi mong Thế Tôn chỉ bày cho con được thấy".
Lúc đó, đức Thích Ca Mâu Ni Phật nói với Phật Đa Bảo rằng: "Ông Diệu Âm Bồ Tát này muốn đặng ra mắt Phật".
Đức Đa Bảo Phật liền nói với Diệu Âm Bồ Tát rằng: "Hay thay! Hay thay! Ông có thể vì cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và nghe kinh Pháp Hoa cùng ra mắt Văn Thù Sư Lợi v.v… nên qua đến cõi này".
GIẢNG:
Bây giờ Bồ Tát Diệu Âm hiện thân qua cõi Ta Bà, nhưng trước khi hiện thân thì ẩn nơi cõi kia, rồi cùng với tám muôn bốn nghìn vị Bồ Tát đồng qua cõi Ta Bà này, những cõi nước đi qua đó đều sáu điệu chấn động. Ẩn nơi kia, rồi hiện ra nơi đây, tức là cũng chưa rời khỏi kia đây, bởi vì phá thọ ấm, nhưng chưa phải là xong, còn tưởng, hành, thức nữa. Đi qua với tám muôn bốn nghìn Bồ Tát đồng nhau qua cõi Ta Bà, tức là vẫn luôn luôn có ánh sáng giác ngộ đó đi theo, có 84000 Bồ Tát đi theo, luôn đi trong sáng suốt. Bồ Tát Diệu Âm hỏi thăm Phật Đa Bảo, muốn gặp Phật Đa Bảo, trước đó Bồ Tát Diệu Âm cởi chuỗi ngọc để dâng lên Phật Thích Ca. Từ phẩm này đến phẩm Bồ Tát Quán Thế Âm, phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương thì các vị thường cởi chuỗi ngọc mà dâng lên, phẩm Quán Thế Âm thì Ngài Vô Tận Ý cũng cởi chuỗi ngọc dâng lên Phật, qua phẩm Diệu Trang Nghiêm thì vua Diệu Trang Nghiêm cũng cởi chuỗi ngọc dâng lên Phật, thì đây cũng cởi chuỗi ngọc dâng lên Phật, tức là sao? Đây là xả thọ. Qua bên đây muốn gặp Phật Đa Bảo tức là lìa trần cảnh để khế hợp trở về với Pháp thân, thầm hợp với Pháp thân đó. Do đó Phật Đa Bảo khen: "Hay thay! Hay thay". Như vậy người lanh lợi chút thì ngộ ngay. Hỏi thăm Phật Đa Bảo, Phật Đa Bảo liền khen, Pháp thân sẵn đó thôi. Mình không hỏi thăm nên không lên tiếng, hỏi thăm thì Phật lên tiếng liền đó, không đâu xa hết. Nhưng đây người học phải chú ý: Bồ Tát Diệu Âm qua đến cõi Ta Bà này là để vì nghe kinh Pháp Hoa và ra mắt các vị Bồ Tát, chớ không phải qua đây mà tham đắm cõi Ta Bà. Còn mình qua Ta Bà để chi? Từ chỗ thanh tịnh đó qua chỗ Ta Bà để cảm thọ cái kia thành mê.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ Ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Diệu Âm Bồ Tát trồng cội lành gì, tu công đức gì, mà có sức thần thông như thế?".
Đức Phật bảo Ngài Hoa Đức Bồ Tát: "Thuở quá khứ có Phật hiệu Vân Lôi Âm Vương Như Lai, Ứng Cúng, Chánh biến tri, cõi nước tên là Hiện Nhứt thiết thế gian, kiếp tên Hỉ Kiến. Diệu Âm Bồ Tát ở trong một vạn hai nghìn năm, dùng mười muôn thứ kỹ nhạc cúng dường Đức Vân Lôi Âm Vương Phật cùng dưng lên tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhơn duyên quả báo đó nay sanh tại nước của Đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật, có sức thần như thế.
Hoa Đức! Ý ông nghĩ sao? Thuở đó, nơi chỗ Đức Vân Lôi Âm Vương Phật, Diệu Âm Bồ Tát cúng dường kỹ nhạc cùng dưng bát báu lên đó, đâu phải người nào lạ, chính nay là Diệu Âm Đại Bồ Tát đây!
Hoa Đức! Diệu Âm Bồ Tát này đã từng cúng dường gần gũi vô lượng các Đức Phật từ lâu trồng cội công đức, lại gặp hằng hà sa trăm nghìn muôn ức na do tha đức Phật".Hoa Đức! Ông chỉ thấy Diệu Âm Bồ Tát thân hình ở tại đây, mà Bồ Tát đó hiện các thứ thân hình nơi nơi vì hàng chúng sanh nói kinh điển này. Hoặc hiện thân Phạm Vương, hoặc hiện thân Đế Thích, hoặc hiện thân Tự Tại Thiên, hoặc hiện thân Đại Tự Tại Thiên, hoặc hiện thân Thiên đại tướng quân, hoặc hiện thân Tỳ Sa môn thiên vương, hoặc hiện thân chuyển luân Thánh vương, hoặc hiện thân các Tiểu Vương, hoặc hiện thân Trưởng giả, hoặc hiện thân Cư sĩ, hoặc hiện thân Tể quan, hoặc hiện thân Bà La Môn, hoặc hiện thân Tỳ kheo, tỳ kheo ni, ưu bà tắc, ưu bà di, hoặc hiện thân phụ nữ của Tể quan, hoặc hiện thân đồng nam, đồng nữ, hoặc hiện thân trời, rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn cùng phi nhơn… mà nói kinh này.
Bao nhiêu địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh và các chỗ nạn đều có thể cứu giúp, nhẫn đến trong hậu cung của vua biến làm thân người nữ mà nói kinh này.
Hoa Đức! Diệu Âm Bồ Tát này, hay cứu hộ các chúng sanh trong cõi Ta Bà, Diệu Âm Bồ Tát này biến hóa luôn các thứ thân hình như thế ở tại cõi Ta Bà này vì chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa, ở nơi trí tuệ thần thông biến hóa không hề tổn giảm. Vị Bồ Tát này dùng ngần ấy trí huệ sáng soi cõi Ta Bà, khiến tất cả chúng sanh đều đặng hiểu biết, ở trong hằng hà sa cõi nước trong mười phương cũng lại như thế.
Nếu chúng sanh đáng dùng thân hình Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân hình Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Duyên Giác đặng độ thoát, liền hiện thân hình Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Bồ Tát đặng độ thoát, liền hiện thân hình Bồ Tát mà vì đó nói pháp.
Đáng dùng thân hình Phật đặng độ thoát liền hiện thân hình Phật mà vì đó nói pháp.
Theo chỗ đáng độ mà vì chúng hiện các thứ thân hình như thế, nhẫn đến đáng dùng diệt độ mà đặng độ thoát liền thị hiện diệt độ.
Hoa Đức! Diệu Âm Đại Bồ Tát trọn nên sức đại thần thông trí huệ, việc đó như thế.
Lúc ấy Ngài Hoa Đức Bồ Tát bạch cùng Phật rằng: "Thế Tôn! Ngài Diệu Âm Bồ Tát sâu trồng căn lành. Thế Tôn! Bồ Tát đó trụ tam muội gì mà có thể ở các nơi biến hiện thân hình độ thoát chúng sanh như thế?".
Phật bảo Ngài Hoa Đức Bồ Tát: "Thiện nam tử! Tam muội đó tên là "Hiện nhứt thiết sắc thân".
Diệu Âm Bồ Tát trụ trong tam muội đó có thể nhiêu ích vô lượng chúng sanh như thế".
GIẢNG:
Đây Bồ Tát Hoa Đức hỏi đức Phật Thích Ca: Bồ Tát Diệu Âm trồng cội lành gì? Tu công đức gì? Mà có sức thần như vậy? Đức Phật thuật lại việc xưa của Ngài Diệu Âm, ở nơi Đức Phật Vân Lôi Âm Vương, Bồ Tát này cúng dường trong một vạn hai nghìn năm mười muôn thứ kỹ nhạc cùng với tám muôn bốn ngàn cái bát bảy báu. Do nhân duyên đó, hiện nay mới sanh cõi đức Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí, có sức thần như thế. Đây nói lên ý nghĩa phá thọ ấm, cúng dường kỹ nhạc, là âm thanh, bát báu là sắc tướng, là buông xả các thứ sắc thinh, mà sắc thinh là đại diện cho sáu trần, liền được sanh nơi cõi Phật Tịnh Quang Trang Nghiêm của Phật Tịnh Hoa Tú Vương Trí. Tức là nơi các căn mà buông xả các trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp thì "thọ" trở lại tâm thanh tịnh sáng suốt trang nghiêm. Đó là chỗ trí giác sáng hơn các vì sao nên Phật hiệù Tịnh Hoa Tú Vương Trí. Như vậy xả thọ không phải thành như cây đá. Rồi đức Phật nói thêm: Bồ Tát Diệu Âm còn hiện thân ở nơi nơi, tùy theo loại để nói kinh Pháp Hoa này. Có thể hiện thân Phạm Vương Đế Thích, hiện thân vua quan, cho đến cư sĩ nam, cư sĩ nữ v.v… cả đến Thiên Long, Bát bộ, cần hiện thân gì Ngài hiện thân đó, cho đến cuối cùng, nếu cần hiện diệt độ thì cũng hiện diệt độ được.Tức là tùy duyên mà ứng hiện. Cần tướng gì thì hiện tướng đó. Vậy tướng nào là tướng Diệu Âm? Thí dụ hiện tướng Bà la môn, rồi chỉ đó phải tướng Ngài Diệu Âm không? Chỉ đó một hồi, Ngài hiện tướng khác, tướng cư sĩ. Cũng vậy, thọ khi gặp cảnh vui thì hiện tướng vui, gặp cảnh buồn thì hiện tướng buồn. Vậy tướng nào là tướng thật. Muốn thấy tướng thật của Ngài Diệu Âm đó, phải thấy sao? Phải thấy thật tướng không tướng ngay liền đây thì mới thấy được. Nghĩa là ngay cảm thọ này mà lìa mọi đối tượng, có đối tượng là có tướng, lìa đối tượng thì nó có tướng gì? Mình thấy được chỗ đó thì thấy thực tướng Diệu Âm. Cho nên đây Ngài ở trong tam muội Hiện Nhứt Thiết Sắc Thân mà hiện ra tất cả những hình tướng đó. Tam muội đó ở đâu? Là ở ngay trong tự tâm mà chánh định. Bởi vậy mỗi tướng huyễn hóa đó, mình không chấp vào, không trụ vào những tướng huyễn hóa đó thì mình mới trở về với thật tướng được. Ngay cái thọ đó mình mới khế hợp trở về với pháp thân, với tri kiến Phật.
CHÁNH VĂN:Lúc nói phẩm: "Diệu Âm Bồ Tát" này những Bồ Tát cùng đi chung với Diệu Âm Bồ Tát tám muôn bốn nghìn người đều đặng: "Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội". Vô lượng Bồ Tát trong cõi Ta Bà này cũng đặng tam muội đó và đà la ni.
Khi Ngài Diệu Âm đại Bồ Tát cúng dường đức Thích Ca Mâu Ni Phật và tháp của Đa Bảo Phật xong rồi, trở về bổn độ, các nước trải qua đều sáu điệu vang động, rưới hoa sen báu, trổi trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc, đã đến bổn quốc cùng tám muôn bốn nghìn Bồ Tát vây quanh đến chỗ đức Tịnh Hoa Tú Vương Trí Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Con đến cõi Ta Bà lợi ích chúng sanh, ra mắt đức Thích Ca Mâu Ni Phật và ra mắt tháp đức Đa Bảo Phật lễ lạy cúng dường, lại ra mắt Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử Bồ Tát, Dược Vương Bồ Tát, Đắc Cần Tinh Tấn Lực Bồ Tát, Dõng Thí Bồ Tát, cũng làm cho tám muôn bốn nghìn vị Bồ Tát này đặng "Hiện nhứt thiết sắc thân tam muội".
Lúc nói phẩm "Diệu Âm Bồ Tát lai vãng" này, bốn muôn hai nghìn vị Thiên tử đặng vô sanh pháp nhẫn. Hoa Đức Bồ Tát đặng Pháp Hoa tam muội.
GIẢNG:
Ở đây Bồ Tát Diệu Âm cúng dường xong rồi trở về, các cõi nước đi qua đều sáu điệu vang động. Vậy rõ ràng, đây hiện thọ là có đến có đi, đến đó xong rồi thì trở về. Do xúc với cảnh thì mới sang thọ, cảnh qua rồi, thì thọ cũng theo đó mà mất. Thọ là tướng sanh diệt. Đây mình chuyển thọ thành chánh giác thì thành ra Diệu Âm. Diệu Âm là tiếng nhiệm mầu tuy hiện có qua có lại, có đến có đi, nhưng vẫn ở trong thể giác, vẫn không rời tri kiến Phật. Rồi đi qua đâu cũng tan vỡ cái vô minh nên đi qua chỗ nào cũng chấn động hết. Còn mình đi qua chỗ nào thì dính chỗ đó.Tóm lại Bồ Tát Diệu Âm là tiếng nói nhiệm mầu. Tức tiếng nói giác ngộ nơi người chớ không gì khác. Mà tiếng nói đó có hình tướng gì? Không có hình tướng gì cố định. Cho nên đây tùy loại mà hiện hình, nghĩa là nó không thuộc về tướng đến, tướng đi, tướng qua, tướng lại. Nếu mình ngay nơi đây khéo soi trở lại tự tánh để thể nhập tri kiến Phật thì mình sẽ tự cảm nhận Bồ Tát Diệu Âm ngay chính mình. Nếu cảm nhận Bồ Tát Diệu Âm ngay chính mình rồi thì sẽ rõ nó vượt ngoài mọi tướng lớn nhỏ, đây kia, như trước Phật dặn Bồ Tát Diệu Âm qua đây không khởi niệm lớn nhỏ.
Thí dụ như ăn cơm còn biết ngon, nhưng không có mê, không có lầm như hồi xưa nữa, nghĩa là xúc cảnh có hiện, nhưng vẫn luôn luôn ở trong chánh định, không phải một thứ, mà trăm ngàn muôn ức thứ chính định, tức là cảm cái gì đều ở trong chánh định hết, vậy mới phá thọ được, mới không bị những cái khổ vui chuyển theo sanh diệt, trì Pháp Hoa là như vậy.
-
26. Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn phẩm
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy trịch áo bày vai hữu, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: "Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?".
Phật bảo Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não, nghe Quán Thế Âm Bồ Tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ Tát tức thời xem xét tiếng tăm kia, đều đặng giải thoát.
Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát này, dầu vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy đặng, vì do sức thần của Bồ Tát này đặng như vậy.
Nếu bị nước lớn làm trôi, xưng danh hiệu Bồ Tát này liền đặng chỗ cạn.
Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sanh vì tìm vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu, nên vào trong biểnlớn, giả sử gió lớn thổi ghe thuyền của kia trôi tấp nơi nước La sát, trong ấy nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các người đó đều đặng thoát khỏi nạn quỉ La sát. Do nhơn duyên đó mà tên là Quán Thế Âm.
Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời dao gậy của người cầm liền gãy từng khúc, mà đặng thoát khỏi.
Nếu quỉ Dạ xoa cùng La sát đầy trong cõi tam thiên đại thiên muốn đến hại người, nghe người xưng hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thời các quỉ dữ đó còn không có thể dùng mắt dữ mà nhìn người, huống lại làm hại đặng.
Dầu lại có người hoặc có tội, hoặc không tội, gông cùm xiềng xích trói buộc nơi thân, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thảy đều đứt rã, liền đặng thoát khỏi.
Nếu kẻ oán tặc đầy trong cõi tam thiên đại thiên, có một vị thương chủ dắt các người buôn đem theo nhiều của báu. Trải qua nơi đường hiểm trở, trong đó có một người xướng rằng: "Các thiện nam tử! Chớ nên sợ sệt, các ông phải nên một lòng xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát đó hay đem pháp vô úy thí cho chúng sanh, các ông nếu xưng danh hiệu thời sẽ đặng thoát khỏi oán tặc này.
Các người buôn nghe rồi, đều lên tiếng xưng rằng: "Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát", vì xưng danh hiệu Bồ Tát nên liền đặng thoát khỏi.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Đại Bồ Tát sức oai thần cao lớn như thế.
GIẢNG:
Nhiều người thường thích tụng Phổ Môn như vậy đó, vì nghe nói cầu gì cũng được hết, nhưng không hiểu được ý sâu xa của phẩm Phổ Môn. Nếu phẩm Phổ Môn tụng cho mình cầu cái này, thoát khỏi cái kia, thì có gì sâu xa lắm? Ở đây phẩm này đợi qua phần thể nhập tri kiến Phật mới nói thì phải biết ý nghĩa rất sâu.
Phổ Môn là gì? Là cửa rộng khắp, đây là phá tưởng ấm. Mà tưởng thì đâu đâu nó cũng đến, đâu đâu cũng tới được. Ngồi đây tưởng tới bên Mỹ, tưởng tới trên trời, cho nên cửa này là cửa rộng khắp, phá được nó thì mình sẽ thông suốt khắp nơi. Mới vào, Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật Thích Ca: "Bồ Tát Quán Thế Âm do nhân duyên gì mà tên Quán Thế Âm". Tức do Bồ Tát Vô Tận Ý khơi dậy, phát khởi.
Vô Tận Ý là tâm ý vô tận, không cùng, không ranh giới. Phải từ cái tâm ý không cùng tận, không ranh giới đó thì mới thấu qua được cái tưởng nổi. Nếu dùng tâm có giới hạn thì không phá nó nổi. Vậy nên đây Bồ Tát Vô Tận Ý đứng dậy hỏi. Phật dạy: Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sanh chịu các khổ não nghe đến Bồ Tát Quán Thế Âm này, một lòng xưng danh, Bồ Tát Quán Thế Âm liền xem xét tiếng tăm kia mà đặng giải thoát, hết khổ. Chỉ cần bao nhiêu đó liền hết khổ, mà hết nổi không? Người đọc kinh thường không đọc hết ý nghĩa, trong đây có chỗ quan trọng ít ai để ý, chỉ nhớ là xưng danh Bồ Tát thôi, mà quên mất "một lòng": tức là "nhất tâm", nhất tâm mà xưng danh thì mới hết khổ. Chỉ niệm Bồ Tát thôi, nhưng niệm không có nhất tâm thì không hết khổ nổi, phải hiểu được ý đó. Nghe danh là nghe tên mà niệm Ngài tức là chưa thấy, chưa thấy tức là Tưởng thôi. Một lòng xưng danh mới bặt những niệm lăng xăng, niệm lăng xăng mới hợp trở về với tự tánh nên mới cảm được Bồ Tát mà giải thoát. Vị Bồ Tát này là quán nơi tiếng thế gian. Quán thế âm mà cứu khổ. Chỉ quán nơi tiếng mà sao cứu khổ được, mình phải thấy ý đó. Bởi vì chúng sanh thì theo tiếng, theo nơi danh mà khởi tưởng nên thành khổ. Nghe người ta nói nặng là gì? Là tiếng thôi, rồi khởi tưởng phân biệt. Hoặc ngồi đây, nghe người kể bên Mỹ thế này thế kia rồi tưởng muốn đi qua bên đó, suy nghĩ tìm cách này cách kia để đi.
Bây giờ, Bồ Tát Quán Thế Âm khiến cho mình dứt tưởng, lìa tiếng thì qua nơi khổ. Vậy niệm Bồ Tát Quán Thế Âm không phải niệm cái tên, mà niệm Bồ Tát Quán Thế Âm là dứt tưởng, nhớ lại tự tánh của mình thì đó là con đường thoát khổ. Đây nói có ai trì danh hiệu Ngài, vào trong nước cũng không bị trôi chìm, vào lửa, lửa không cháy. Vậy quí vị niệm rồi vào bếp đưa tay vào lửa coi cháy không? Cho nên phải hiểu được ý này. Ở đây là luôn luôn niệm phải nhất tâm, phải một lòng, mà nhất tâm một lòng không có niệm gì khác nó chen vào, thì còn nhớ tới cái ta này nữa không? Không còn nhớ cái ta này, không còn tưởng cái tôi này, thì hợp trở về tự tánh lúc đó mới gọi là vào lửa không cháy, vào nước không chìm. Không tôi lấy gì cháy? không có tôi thì chìm cái gì? Nước, lửa làm sao cháy đến chỗ nhất tâm kia, thấy không?
Vậy niệm Quan Thế Âm nhất tâm là quên danh, quên tướng mà trở về tánh thì mới qua được lửa cháy, qua được nước chìm.
Có vị Tăng hỏi Thiền Sư Tùng Triển:
- Thế nào vào lửa chẳng cháy? Vào nước chẳng chìm?
Thiền Sư Tùng Triển đáp:
- Nếu là nước, lửa liền bị cháy, chìm.
Sư đáp đơn giản mà rất chí lý. Nghĩa là nếu ở trong nước, trong lửa, vừa khởi cái hiểu là nước, là lửa, thì bị cháy, bị chìm ngay. Vừa khởi hiểu là động tâm, động tâm là có ngã, là cháy chìm. Còn bây giờ quý vị khéo xét trở lại, trước khi khởi niệm, thì làm sao mà cháy tới chỗ đó. Dù cho mình ở trong nước, trong lửa, mà mình chưa động niệm thì cũng không thấy khổ, nước lửa không cháy được chỗ đó.
Rồi người đi tìm vàng bạc và trân châu, vào trong biển lớn, gặp gió lớn (hắc phong) thổi ghe thuyền trôi vào trong nước quỷ La sát có người niệm Quán Âm liền được thoát khỏi. Chỗ này bây giờ mình ít thấy, nước quỉ La sát ở đâu? Gió lớn hay gió đen muốn chỉ cái gì? Chỗ này có lần Tướng công Vu Địch hỏi Thiền sư Đạo Thông vốn đắc pháp với Mã Tổ:
- Thế nào là gió đen thổi thuyền bè trôi dạt vào nước quỉ La sát?
Thiền sư Đạo Thông không giải thích theo danh từ chữ nghĩa, mà bảo:
- Cái gã khách Vu Địch này hỏi việc ấy làm gì?
Một ông Tướng bị gọi lại tên như bị hạ bệ vậy, thì ông liền tự ái, đỏ mặt, Đạo Thông liền chỉ vô mặt nói:
- Chính cái đó là trôi dạt vào nước quỉ La sát.
Tâm đang bình thường, an ổn bị gió sân thổi thì trôi vào chỗ nguy haiï, chết chóc liền, chỗ đó mà không dừng được là rất nguy hiểm, không phải trôi vào chỗ quỉ La sát sao? Nếu ngay đó niệm Quan Âm, một lòng không động, tức dừng cái tưởng, bặt niệm lăng xăng thì qua khỏi nạn liền, đâu còn sân hận. Như vậy thấy rõ nước quỉ La sát đó ở khắp nơi trước mắt mình đây, bất giác thì gặp liền.
Thêm niệm Quán Âm thì dao gậy đều bị gãy hết, rồi quỉ Dạ xoa, La sát muốn nhìn không còn dùng mắt dữ nhìn nữa, mà thành ra bà con bạn bè hết dữ dằn. Dao gậy tức là niệm đấu tranh đó. Nếu niệm Quan Âm nhất tâm thì những niệm đấu tranh đâu còn đến được chỗ đó, thì đều gãy hết thôi.
Còn quỉ dữ là những niệm ác, nhưng bây giờ niệm đến nhất tâm rồi những niệm đó cũng đâu còn, nó được chuyển hết. Gông cùm, xiềng xích là niệm dính mắc chỗ này chỗ kia. Nhất tâm rồi nó cởi mở hết.
Và trong khi đi buôn, trong những đường hiểm trở, gặp kẻ oán tặc, niệm Quán Thế Âm cũng qua được. Đường hiểm là đường hiểm sanh tử, lo sợ. Niệm oán tặc là niệm thù hận đó. Mình niệm Quán Thế Âm nhất tâm bặt tưởng rồi thì cũng qua hết.
Cho nên theo tiếng mà khởi tưởng thì đi vào khổ nạn, đi vào lo sợ, còn quên tiếng, lìa tưởng, lìa danh đó để sống về tự tánh thì sẽ thoát được các khổ.
CHÁNH VĂN:Nếu có chúng sinh nào nhiều lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng ly dục. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền đặng lìa ngu si.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có những sức oai thần lớn, nhiều lợi ích như thế, cho nên chúng sanh thường phải một lòng tưởng nhớ.
Nếu có người nữ, giả sử muốn cầu con trai, lễ lạy cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sanh con trai phước đức trí huệ; giả sử muốn cầu con gái, bèn sanh con gái có tướng xinh đẹp, trước đã trồng cội phước đức, mọi người đều kính mến.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm có sức thần như thế.
Nếu có chúng sanh cung kính lễ lạy Quán Thế Âm Bồ Tát, thời phước đức chẳng luống mất. Cho nên chúng sanh đều phải thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.
Vô Tận Ý! Nếu có người thọ trì danh tự của sáu mươi hai ức hằng hà sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dường đồ ăn uống, y phục, giường nằm, thuốc thang. Ý ông nghĩ sao? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhơn đó có nhiều chăng?
Vô Tận Ý thưa: "Bạch Thế Tôn! Rất nhiều". Phật nói: "Nếu lại có người thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, thời phước của hai người đó bằng nhau không khác, trong trăm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận.
Vô Tận Ý! Thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát đặng vô lượng vô biên phước đức lợi ích như thế.
GIẢNG:
Đây là thọ trì danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm lìa cả tham, sân si. Có nhiều tham dục, niệm thì cũng được lìa dục. Giận hờn niệm Quán Thế Âm cũng được lìa lòng giận. Nhiều ngu si niệm Quán Thế Âm cũng lìa ngu si. Đây rất rõ ràng, mình theo tưởng mà quên tự tánh là si, rồi theo cái tưởng đó mà sanh tình, khởi tham, tham không được thì sân. Còn đây mình dừng tưởng, trở về tự tánh là lìa tham, sân, si.Tiếp là cầu con trai được con trai, cầu con gái được con gái. Nếu mình nhất tâm trở về tự tánh thì kết quả được như ý, công đức trí tuệ theo đó mà thanh tịnh gọi là cầu liền được. Chuyện Ngài Huệ Nam, cứ mỗi lần tham vấn Ngài Từ Minh đều bị mắng chửi. Ngài buồn tủi, hổ thẹn, hôm đó Ngài nhìn hai bên mà nói rằng:
- Bây giờ chính vì chưa hiểu cho nên mới cầu giải quyết các nghi ngờ, còn mắng chửi đâu phải là qui củ của từ bi thí pháp.
Ngài Từ Minh cười bảo: Đó là mắng chửi sao?
Thì ngay đó Huệ Nam liền tỉnh ngộ, mới thấy chính cái đó là khai thị. Vì mình nghe chửi mắng thì theo tiếng đó thôi, nên tưởng đó là mắng chửi thành khổ, thành có sân, có si trong đó. Còn khi Ngài Từ Minh bảo đó là mắng chửi sao? Ngay đó Ngài tỉnh lại lìa tướng, thì tỉnh ngộ liền. Khi ngộ trở lại thì liền giải thoát, hết có niệm buồn, khổ, sân. Vậy niệm Quán Âm phải hiểu ý đó.
Rồi thọ trì danh hiệu 62 ức hằng sa Bồ Tát, dùng cả tứ sự cúng dường so với người niệm danh hiệu Bồ Tát Quán Thế Âm nhẫn đến một thời lễ lạy cúng dường, phước hai bên bằng nhau, quí vị tin nổi không? Niệm danh hiệu của 62 ức Bồ Tát tức là theo danh bên ngoài, hướng ra bên ngoài để tu, thì mất công phu rất nhiều. Còn niệm Bồ Tát Quán Âm nghĩa là soi trở về tự tánh, quên danh, quên tướng, thì sẽ ít tốn công phu mà được lợi ích lớn. Cho nên trong đây muốn ngầm ý trở về tự tánh mình, quên cái niệm là một, là nhiều sai biệt. Vì mình còn thấy niệm nhiều danh hiệu Bồ Tát là có phước nhiều, còn đây niệm một Bồ Tát là ít, đó là còn niệm "một, nhiều" sai biệt. Còn đây mình quay về tự tánh, quên niệm sai biệt đó khi trở về tự tánh, rõ tự tánh rồi thì bao nhiêu Bồ Tát cũng trở về chỗ đó thôi. Do đó quên niệm sai biệt đó, thì công đức ngang nhau.
CHÁNH VĂN:Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi trong cõi Ta Bà như thế nào? Nói pháp cho chúng sanh như thế nào? Sức phương tiện việc đó thế nào?".
Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát: "Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh trong quốc độ nào đáng dùng thân Phật đặng độ thoát, thời Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Duyên Giác đặng độ thoát, liền hiện thân Duyên Giác mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thanh Văn đặng độ thoát, liền hiện thân Thanh Văn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Phạm Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Phạm Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đế Thích đặng độ thoát, liền hiện thân Đế Thích mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tự Tại Thiên đặng độ thoát, liền hiện thân Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Đại Tự Tại Thiên đặng độ hoát, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Thiên Đại Tướng Quân đặng độ thoát, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ Sa Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ Sa Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tiểu Vương đặng độ thoát, liền hiện thân Tiểu Vương mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trưởng Giả đặng độ thoát, liền hiện thân Trưởng Giả mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Cư sĩ đặng độ thoát, liền hiện thân Cư sĩ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tể quan đặng độ thoát, liền hiện thân Tể quan mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Bà La Môn đặng độ thoát, liền hiện thân Bà La Môn mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân phụ nữ của Trưởng Giả, Cư sĩ, Tể quan, Bà La môn đặng độ thoát, liền hiện thân phụ nữ đó vì đó mà nói pháp.
Người đáng dùng thân đồng nam, đồng nữ đặng độ thoát, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, nhơn cùng phi nhơn đặng độ thoát, liền đều hiện ra mà vì đó nói pháp.
Người đáng dùng thân Chấp Kim Cang thần đặng độ thoát, liền hiện Chấp Kim Cang thần mà vì đó nói pháp.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát đó thành tựu công đức như thế, dùng các thân hình, dạo đi trong các cõi nước để độ thoát chúng sanh, cho nên các ông phải một lòng cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát.
Quán Thế Âm Đại Bồ Tát đó ở trong chỗ nạn gấp sợ sệt hay ban sự vô úy, cho nên cõi Ta bà này đều gọi Ngài là vị "Thí Vô Úy".
GIẢNG:
Đây gọi là 32 ứng thân của Bồ Tát Quán Thế Âm cần hiện thân gì độ, thì hiện thân đó ra mà độ. Vậy thân nào là thân thiệt của Ngài? Đây là ý nghĩa ngay nơi sanh tử tức là vô sanh. Thí dụ hiện ra thân người nữ, khi Ngài hết duyên thân người nữ rồi, thì Ngài ẩn, hiện ra thân khác, thân đồng nam chẳng hạn.Vậy khi hiện thân người nữ thì thấy là sanh, có sanh ra, mà khi ẩn là diệt nhưng trong đó, cái gì là sanh? cái gì là diệt? Đó là Ngài tạm hiện thân thôi, chưa phải là thân thật của Ngài. Nếu thật diệt rồi thì làm sao hiện thân khác được? Cho thấy rõ, hiện thân này, thân kia, đó là tướng huyễn hóa thôi, ngay khi sanh đó không thật sanh, ngay nơi diệt đó không thật diệt, thì ngay đó là vô sanh rồi. Quý vị thấy cái tưởng của mình giống vậy không? Mới tưởng này rồi diệt qua tưởng khác. Vậy cái tưởng nào là cái tưởng của mình, chỉ ra xem? Khi một cái tưởng hiện ra tức là sanh, nó mất đi là diệt mà nếu thật diệt rồi thì làm sao tưởng khác được? Ngay nơi cái tưởng đó thấy nghĩa vô sanh rồi. Cho nên tuy có hiện có ẩn mà không mất đi đâu.
Đây muốn thấy Ngài Quán Thế Âm, phải khéo vượt qua những tướng đó, thầm ngộ trở về tự tánh pháp thân, thì mới thấy được tướng thật của Ngài, và thể nhập đó là thể nhập vô sanh. Vì vậy vô sanh không phải một bề chết lặng, mà tùy duyên ứng hiện. Cũng vậy không phải mình phá được tưởng, thành ra không còn hiểu biết gì hết. Lúc đó nó biết còn nhanh, còn bén nữa, vì nó không còn mắc kẹt trong tướng sanh diệt. Thường cái tưởng của mình có giới hạn, ngồi đây mình tưởng về Sài Gòn, khi mình tưởng về Sài Gòn, chỉ nhớ Sài Gòn thôi, không nhớ chỗ khác được, hoặc nhớ đến lúc năm ba tuổi thôi. Nhưng khi dừng vọng tưởng, sống về tự tánh, nó thành diệu trí rồi, thì nó nhớ còn vi diệu hơn. Khi Phật thành đạo Ngài nhớ đến vô lượng kiếp. Bây giờ mình hôm nay mà nhớ hôm qua, thấy đó là vọng tưởng rồi. Còn lúc đó Ngài nhớ vô lượng kiếp nữa mà không vọng tưởng, nhớ trong sáng suốt. Mình nhớ hôm qua thì quên mất tướng hiện tiền hôm nay nên thành vọng tưởng, còn Ngài nhớ bằng trí nên nhớ mà vẫn sáng suốt không lầm mê, vẫn ở trong chánh giác. Hiểu được như vậy thì mọi tướng hiện ra đó là huyễn hóa hết. Ngay tướng sanh đó mình rõ được vô sanh, ngay sanh tức là vô sanh.
Chính chỗ này Tiệm Nguyên cùng Ngài Đạo Ngô đi điếu tang, đến nhà thí chủ, khi đến quan tài, Tiệm Nguyên vỗ quan tài, nói: Đây sanh ư, tử ư?
Thì Ngài Đạo Ngô nói:
- Sanh cũng chẳng nói, tử cũng chẳng nói.
Tiệm Nguyên hỏi: Tại sao không nói? Đạo Ngô bảo: không nói là không nói. Sau đó hai thầy trò đi về giữa đường, Tiệm Nguyên chịu hết nổi, thưa với Ngài Đạo Ngô:
- Hòa thượng phải vì con mà nói, nếu không nói con đánh Hòa thượng.
Ngài Đạo Ngô bảo:
- Đánh thì cứ đánh, nhưng nói thì không nói.
Ngay đó, Tiệm Nguyên liền đánh. Ngài Đạo Ngô bảo:
- Vậy thôi ông hãy tìm một chỗ ông ẩn, nếu về chùa, tri sự biết được việc này e không tốt cho ông.
Sau đó Tiệm Nguyên tìm ngôi chùa nhỏ trong thôn ở, một hôm nghe vị Tăng tụng phẩm Phổ Môn này đến chỗ: "Đáng dùng thân Tỳ kheo đặng độ thoát, liền hiện thân Tỳ kheo mà vì nói pháp". Sư liền ngộ, thấy được ý sanh ư, tử ư.
Hỏi sanh ư? Tử ư? Là Tiệm Nguyên còn mắc kẹt trong đầu hai ý niệm sanh tử, còn Ngài Đạo Ngô nói: "sanh chẳng nói, tử cũng chẳng nói". Hỏi "tại sao chẳng nói", Ngài nói: Chẳng nói là chẳng nói. Bởi sanh tử không thật, làm sao nói cố định là sanh hay cố định là tử. Nếu nói cố định là sanh, cố định là tử thì mình mắc kẹt trong cái ngã giả dối này rồi. Nếu người lanh lợi ngay đó ngộ liền, sanh tử vốn là vô sanh, đâu nói là sanh hay tử. Tiệm Nguyên không ngộ, cứ nghi chỗ đó hoài, giữa đường bức ép ngài Đạo Ngô nói, nhưng ngài vẫn không nói để cho Sư thắc mắc chỗ đó. Đến khi nghe tụng phẩm Phổ Môn này tới chỗ: "đáng dùng thân Tỳ Kheo đặng độ thoát, thì dùng thân Tỳ kheo mà vì nói pháp", là sanh nhưng không phải thật sanh, thì ngay đó ngộ liền: Sanh tức vô sanh, giải quyết xong cái nghi sanh tử.
Nói Bồ Tát Quán Thế Âm ở chỗ nạn gấp sợ sệt ban cho sự "vô úy". Vô úy tức là không sợ hãi, trong chỗ nạn gấp, chỗ sợ sệt đó, mà mình nhất tâm niệm Quán Âm lìa tưởng, thì đâu còn sợ sệt.
Thí dụ đang đêm đi qua chỗ nghĩa địa, thì sợ sệt liền, có khi nghe gì xẹp xẹp sau, tưởng ma, đó rõ ràng là tưởng thôi. Lúc đó nhất tâm niệm Quán Âm chỉ còn nhớ có danh từ Quán Âm thôi, thì đâu còn tưởng gì nữa, dứt tưởng thì hết sợ, sợ là do tưởng. Cho nên đây niệm Quán Âm qua được sợ sệt là như vậy. Thêm một ý nghĩa nữa. Thí dụ trong này mê lầm, tưởng tượng sai biệt mới sanh ra những cái sợ sệt, chẳng hạn đang đêm đi xa xa thấy sợi dây tưởng con rắn, liền sợ. Nhưng khi đốt đèn lên thấy rõ sợi dây là hết sợ. Cũng vậy do cái chấp sai lầm cho nên tưởng thân mình là thiệt, cảnh là thiệt, rồi tạo thành những khổ sở, sợ sệt này nọ. Nếu dùng con mắt trí tuệ nhìn trở lại đúng như thật: Thân này nó không phải thật là mình, cảnh là tướng vô thường sanh diệt thôi, không lầm lẫn nữa là giải thoát được cái đau khổ, sợ sệt của thế gian. Bồ Tát Quán Thế Âm bố thí vô úy là như vậy.
CHÁNH VĂN:Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật: "Thế Tôn! Con nay phải cúng dường Quán Thế Âm Bồ Tát". Liền mở chuỗi ngọc bằng các châu báu nơi cổ giá trị trăm nghìn lượng vàng, đem trao cho Ngài Quán Thế Âm mà nói rằng: "Xin Ngài nhận chuỗi trân bảo pháp thí này".
Khi ấy Quán Thế Âm Bồ Tát chẳng chịu nhận chuỗi. Ngài Vô Tận Ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát rằng: "Xin Ngài vì thương chúng tôi mà nhận chuỗi ngọc này".
Bấy giờ, Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận Ý Bồ Tát này và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn và phi nhơn… mà nhận chuỗi ngọc đó".
Tức thời Quán Thế Âm Bồ Tát thương hàng tứ chúng và Trời, Rồng, nhơn, phi nhơn… mà nhận chuỗi ngọc đó chia làm hai phần: một phần dâng đức Thích Ca Mâu Ni Phật, một phần dâng tháp của Phật Đa Bảo.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi nơi cõi Ta bà".
GIẢNG:
Đây Ngài Vô Tận Ý mở chuỗi ngọc, dâng lên Bồ Tát Quán Thế Âm, nhưng Bồ Tát không nhận, sau đó Phật bảo, Ngài mới nhận nhưng Ngài nhận là vì tất cả tứ chúng. Vậy cởi chuỗi ngọc đó là cởi cái gì? Đó là cởi những cái tưởng quí báu, tưởng cao siêu. Xả những công đức đã đeo mang từ lâu đó. Ngài Vô Tận Ý cởi đó dâng cho Bồ Tát Quán Âm, mà Bồ Tát Quán Âm không chịu nhận, bởi vì còn thấy có dâng, còn thấy có nhận là chưa tự tại. Còn thấy có người dâng cho, có nhận, vậy làm sao tự tại, làm sao quán khắp thế gian được, gọi là Quán Thế Âm? Khi Phật bảo: "Thôi ông vì thương Bồ Tát Vô Tận Ý cũng như hàng tứ chúng mà nhận". Thì bây giờ Bồ Tát Quán Âm thương hàng tứ chúng mới nhận chuỗi ngọc đó, vậy nhận không vì "ta nhận", mà vì tứ chúng thôi, nhưng nhận rồi thì chia hai dâng lên cho đức Phật Thích Ca và tháp Phật Đa Bảo. Đây muốn nói lìa cái tưởng là pháp thân là ứng thân sai biệt tách rời nhau. Phật Đa Bảo chỉ cho pháp thân, Phật Thích Ca chỉ ứng thân, còn có cái tưởng đây là pháp thân, đây là ứng thân tách rời nhau tức cũng còn nằm trong niệm sai biệt. Cho nên đây chia hai cùng dâng lên hai đức Phật hết. Chính đó mới rõ được Thể và Dụng không có hai. Bởi vì pháp thân là chỉ cho thể, ứng thân là dụng, thể dụng không hai thì ứng dụng được tự tại, còn chia ra đây là thể, kia là dụng, làm sao được tự tại.CHÁNH VĂN:
Lúc đó Bồ Tát Vô Tận Ý nói kệ hỏi Phật:
Thế Tôn đủ tướng tốt
Con nay lại hỏi kia
Phật tử nhơn duyên gì
Tên là Quán Thế Âm
Đấng đầy đủ tướng tốt
Kệ đáp Vô Tận Ý
Ông nghe hạnh Quán Âm
Khéo ứng các nơi chỗ
Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn
Hầu nhiều nghìn ức Phật
Phát nguyện thanh tịnh lớn.
GIẢNG:
Thuật lại Bồ Tát Quán Âm đó khéo ứng thân nơi các chỗ và theo hầu nhiều đức Phật, Ngài phát nguyện lớn thanh tịnh, khéo ứng thân các nơi, chỗ nào cũng đến được. Nếu khéo nhận, ở chỗ nào cũng gặp được Bồ Tát Quán Thế Âm.
Ta vì ông lược nói
Nghe tên cùng thấy thân
Tâm niệm chẳng luống qua
Hay diệt khổ các cõi
Tức là nghe tiếng mình nhớ lại tự tánh thì dừng được tưởng, qua được khổ, cho nên nghe tên hay thấy thân, tâm niệm chẳng luống qua hay khiến diệt được khổ các cõi.Giả sử sanh lòng hại
Xô rớt hầm lửa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn
Các nạn quỉ, cá, rồng
Do sức niệm Quán Âm
Sóng mòi chẳng chìm đặng
Đây nói rằng mình dừng được tưởng, xoay về tự tánh đó thì qua khỏi những nạn nước nạn lửa, lửa không cháy, nước không chìm.
Hoặc ở chót Tu Di
Bị người xô rớt xuống
Do sức niệm Quán Âm
Như mặt nhựt treo không
Hoặc bị người dữ rượt
Rớt xuống núi Kim Cang
Do sức niệm Quán Âm
Chẳng tổn đến mảy lông.
Đây nói nếu bặt tưởng quên ngã, thì qua được khổ không còn chỗ rơi. Núi Tu Di là chỗ ngã mạn to mà bị rớt xuống, do sức niệm Quan Âm, thì giống như rớt trong không, tức là bặt tưởng, quên ngã, thì rơi chỗ nào? Có gì rơi? Cũng giống như rơi trong không thôi, còn thấy có ngã thì có khổ liền. Rồi bị người dữ rượt rớt xuống núi Kim Cang, cũng vậy, nếu quên cái ngã tưởng, thì có gì tổn hại.
Hoặc gặp oán tặc vây
Đều cầm dao làm hại
Do sức niệm Quán Âm
Đều liền sanh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua
Khi hành hình sắp chết
Do sức niệm Quán Âm
Dao liền gãy từng đoạn
Hoặc tù cấm xiềng xích
Tay chân bị gông cùm
Do sức niệm Quán Âm
Tháo rã đặng giải thoát
Nguyền rủa các thuốc độc
Muốn hại đến thân đó
Do sức niệm Quán Âm
Trở lại nơi bổn nhơn.
Đây là quên được niệm thù hận, đấu tranh, hơn thua, soi trở về tự tánh thì qua được những cái khổ này.
Hoặc gặp La sát dữ
Rồng độc các loài quỉ
Do sức niệm Quán Âm
Liền đều không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh
Nanh vút nhọn đáng sợ
Do sức niệm Quán Âm
Vội vàng bỏ chạy thẳng
Rắn độc cùng bò cạp
Hơi độc khói lửa đốt
Do sức niệm Quán Âm
Theo tiếng tự bỏ đi
Mây sấm nổ sét đánh
Tuôn giá, xối mưa lớn
Do sức niệm Quán Âm
Liền đặng tiêu tan cả.
Đây là bặt những niệm ác hại, những niệm đối nghịch, chỉ nhất tâm quay trở về nơi tự tánh liền qua được hết khổ này.
Chúng sanh bị khổ ách
Vô lượng khổ bức thân
Quán Âm sức trí diệu
Hay cứu khổ thế gian
Đầy đủ sức thần thông
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiện
Tức là chúng sanh bị vô lượng khổ làm bức thân mình, nhưng do sức trí diệu của Quán Âm đó hay cứu khổ cho hết. Bây giờ sức trí diệu Quán Âm đó là sức nào mà hay cứu khổ những cái đó? Trong nhà thiền có câu chuyện:Có vị Tăng hỏi Ngài Qui Tông:
- Thế nào là sức trí diệu Quán Âm?
Ngài Qui Tông gõ cái đỉnh ba tiếng hỏi:
- Ông có nghe chăng?
Vị Tăng đó đáp:
- Dạ nghe.
Ngài Qui Tông bảo:
- Sao ta chẳng nghe?
Ông Tăng không đáp được, Sư đánh đuổi ra.
Hỏi sức trí diệu Quán Âm, Ngài gõ cái đỉnh ba tiếng hỏi: "nghe chăng?" Ông Tăng đáp: nghe. Ngài nói: "sao ta không nghe". Vậy quý vị thấy sức trí diệu ở chỗ nào? Ông tăng nghe gõ ba tiếng thì theo tiếng mà nghe, quên mất chính mình, cho nên Ngài nói: sao ta chẳng nghe? Đó là muốn nhắc ông Tăng, nghe đó phải nhớ lại chính mình, thì đó là sức trí diệu Quán Âm, mới qua hết mọi khổ, còn theo tiếng đó mà nghe là bị khổ, nhưng ông Tăng không tỉnh được, nên Ngài mới đánh đuổi ra.
Sức trí diệu là như vậy, còn mình không hiểu, theo danh từ giải hoài không thấy.
Rộng tu trí phương tiện
Các cõi nước mười phương
Không cõi nào chẳng hiệnTheo phương tiện, Ngài hiện khắp mười phương không cõi nào mà không có hiện. Nói rõ hơn thì cõi nào cũng hiện hết, vậy ngay đây có hiện không? Tức nghe tiếng gió, nghe tiếng chim, nghe tiếng trống gì đều có hiện cả, nếu mình khéo nghe trở lại.
Các loài trong đường dữ
Địa ngục, quỉ, súc sanh
Sanh, già, bệnh, chết, khổ
Lần đều khiến dứt hết
Trở về tự tánh thì qua được khổ này, cả khổ địa ngục, súc sanh, tức là trong ba đường dữ.
Chơn quán thanh tịnh quán
Trí huệ quán rộng lớn
Bi quán và từ quán
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Sáng thanh tịnh không nhơ
Huệ nhựt phá các tối
Hay tiêu tai khói lửa
Khắp soi sáng thế gian
Đây quán chân thật, quán thanh tịnh, quán trí tuệ rộng lớn, quán từ quán bi.Rồi trong đó sáng thanh tịnh, không nhơ, giống như mặt trời trí tuệ phá các tối. Quán Âm là quán như vậy, chính chỗ này là chỗ Ngài thổ lộ rõ ràng, nhưng nhiều khi đọc chữ nghĩa không thấy. Quán chân, quán thanh tịnh, quán trí tuệ rộng lớn, quán từ bi đó là cái gì? Đó là lìa tưởng, trở về tánh, nếu có tướng thì hết thanh tịnh, hết chân thật rồi. Tánh chân thật đó vốn sáng suốt đâu có nhơ.
Lòng bi răn như sấm
Ý từ diệu dường mây
Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Lòng bi như sấm nổ, bây giờ có ai nghe được? Tâm từ nó bủa khắp, có ai cảm được? Tại sao không nghe được, không cảm được trong khi nó vang như sấm, nó bủa khắp hết? tại vì còn đang sống theo tưởng thôi. Còn nếu cảm được cái đó thì dứt trừ lửa phiền não.Cãi kiện qua chỗ gian
Trong quân trận sợ sệt
Do sức niệm Quán Âm
Cừu oán đều lui tan
Diệu Âm, Quán Thế Âm
Phạm Âm, Hải Triều Âm
Tiếng hơn thế gian kia
Cho nên phải thường niệm.
Diệu Âm là tiếng nhiệm mầu, Quán Thế Âm là quán tiếng của thế gian. Phạm Âm là tiếng thanh tịnh. Hải triều âm là tiếng sóng biển nó vang không dừng.Vậy tiếng gì là tiếng nhiệm mầu, tiếng thanh tịnh, tiếng hải triều? Đó là tiếng không lời ở nơi mình, nghĩa là vượt khỏi căn và trần này, không còn mất kẹt nơi căn, không còn mắc kẹt nơi trần thì mới nghe được tiếng đó. Cho nên ở đây thường niệm luôn luôn, nhớ chỗ đó không quên, được như vậy đó là không theo tiếng mà mất mình.
Niệm niệm chớ sanh nghi
Quán Âm bực tịnh thánh
Nơi khổ não nạn chết
Hay vì làm nương cậy
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh
Biển phước lớn không lường
Cho nên phải đảnh lễ.
Đây kết lại, Quán Âm đó là bậc thánh thanh tịnh, nơi mọi khổ não hay làm chỗ nương tựa. Nếu mình khéo dừng tưởng trở về tự tánh, thì đó là chỗ nương tựa qua khổ, trong đó đủ tất cả công đức. Mắt lành trông chúng sanh là trông sao? Tức là quên cái niệm ta, quên cái niệm người, không còn thấy có ta, không còn thấy có người, chỉ có tâm từ đó mà nhìn tất cả thôi. Bởi vì sống trong tri kiến Phật thì thấy ai ai cũng có tri kiến Phật, không còn thấy có mình khác, có người khác, thì mới dùng được con mắt từ mà nhìn chúng sanh. Nếu dùng con mắt từ mà nhìn chúng sanh thì sao? Bớt khổ liền.
CHÁNH VĂN:
Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật bạch rằng: "Thế Tôn! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này, thời phải biết công đức người đó chẳng ít".Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tám muôn bốn nghìn chúng sanh đều phát tâm Vô đẳng đẳng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
GIẢNG:
Bây giờ Bồ Tát Trì Địa, từ chỗ ngồi đứng dậy, đến trước Phật bạch rằng: Nếu có chúng sanh vào nghe phẩm này, thời phải biết công đức của người đó rất là lớn, không ít! Tại sao đến đây Bồ Tát Trì Địa đứng dậy? Trì là giữ gìn, Địa là đất. Giữ gìn đất tâm. Bồ Tát Trì Địa tu công hạnh thường đi chỗ nào đất lồi lõm thì Ngài ban, sửa cho nó bằng phẳn. Ngầm nhắc mọi người phải soi về đất tâm của mình, hễ tâm bình thì thế giới bình. Nếu cứ lo bình bên ngoài thì không bao giờ bình nổi. Soi lại tâm mình đó, rõ được chỗ chân thật thì thấy rõ mình với mọi người đều có lẽ thật đó, mới có thông cảm thì mới bình được. Sống trở về tự tâm, thì đâu cũng là cửa Phổ Môn tự tại. Khi Phật nói phẩm Phổ Môn này, trong chúng có tới 84000 chúng sanh phát tâm Vô đẳng đẳng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Tâm đó ở đâu mà phát? Thường người tu hướng về ở đâu đâu mà phát tâm Vô thượng Bồ đề, quên mất tâm đó ở nơi mình, nhớ mình có tâm thật đó, tin chắc mình có tâm thật sáng ra tức là phát tâm chứ gì. Có người nghĩ rằng tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác đó tức là tâm của Phật. Mình phát tâm là hướng về Phật, đó là hiểu theo chữ nghĩa rồi. Sự thật tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác là tâm giác ngộ hằng hữu, không bao giờ gián đoạn, tâm đó ngay cái thấy nghe hiểu biết của mình ở đây, không đâu khác hết. Vậy ở đây, ai không phát tâm được? Cửa này là cửa Phổ Môn rộng khắp đâu có chừa ai ?
-
27. Phẩm Đà la ni
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Ngài Dược Vương Bồ Tát liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch áo bày vai hữu chắp tay hướng Phật mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn hay thọ trì được kinh Pháp Hoa này, hoặc đọc tụng thông lẹ, hoặc biên chép quyển kinh, đặng bao nhiêu phước đức?".
Phật bảo Ngài Dược Vương: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn cúng dường tám trăm muôn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật, ý ông nghĩ sao? Người đó đặng phước đức có nhiều chăng?". Thưa Thế Tôn! Rất nhiều.
Phật nói: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn ở nơi kinh này có thể thọ trì nhẫn đến một bài kệ bốn câu đọc tụng giải nghĩa, đúng như lời mà tu hành thời công đức rất nhiều".
Lúc đó, Ngài Dược Vương Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Con nay sẽ cho người nói kinh Pháp Hoa chú đà la ni để giữ gìn đó. Liền nói chú rằng. (bài chú - không giải nghĩa).
GIẢNG:
Bồ Tát Dược Vương nói chú, kế Bồ Tát Dõng Thí nói chú, tới bài chú của Tỳ Sa Môn Thiên Vương, bài chú của Trì Quốc Thiên Vương, sau cùng là bài chú của các vị La sát nữ và quỷ Tử Mẫu.
Đến đây mấy vị này nói chú hộ trì gia bị cho người trì tụng kinh Pháp Hoa. Chú thì không cho phép giải nghĩa, giải nghĩa thì hết còn là chú.
Trước là phá sắc ấm, thọ ấm, tưởng ấm tới đây là phá hành ấm.
Hành ấm là những niệm nghĩ ngợi, niệm thầm kín, nó vi tế sanh diệt khó thấy. Tưởng thì quí vị dễ thấy rồi, còn cái niệm nó nghĩ ngợi âm thầm trong này làm sao thấy? Như vậy, muốn phá nó phải sao? Rất là khó, phải niệm niệm luôn luôn miên mật, luôn luôn âm thầm gìn giữ, không để cho gián đoạn tri kiến Phật thì mới phá nổi nó. Nghĩa là giữ gìn luôn luôn không để cho ý nghĩ nào nó xen vào, nếu có hở chút là ma có dịp thuận tiện liền. Do đó ở đây nói chú để gia bị. Đồng thời để cắt đứt những ý nghĩ kia đây. Quí vị đọc chú nghĩ gì được trong đó?ù Không có chỗ động niệm được. Nếu giữ được miên mật như vậy, mỗi cử chỉ, mỗi hành động mình mới đều thể nhập trong tri kiến Phật và thể nhập mới sâu xa, muốn vậy, mỗi cử chỉ mỗi hành động đều có câu chú hết. Luôn luôn sống miên mật không có kẽ hở, nếu một cử chỉ nào thiếu câu chú thì có kẻ hở, có kẻ hở là có dịp tạp niệm nó xen vào, mà đây gọi là có ma, ma có cơ hội. Vì vậy khi nói chú gia bị thì mình sống được trong đó. Thể nhập được trong tri kiến Phật đó thì nhập mà không thấy mình có nhập gì. Vì đây là sức nó thầm thầm gia bị thôi, không còn thấy có mình nhập, nếu còn thấy có mình nhập lại bị mắc kẹt, đó là ý nghĩa phá hành ấm.
Thứ hai nữa, khi phá tưởng ấm hết, thì nó lặng lẽ. Lặng lẽ quá không khéo mình chết trong cái lặng lẽ đó. Mấy vị tu diệt tận định, khi diệt thọ, diệt tưởng rồi rất lặng lẽ, ngồi suốt hàng ngàn năm. Đây phải nhờ sức Phật, sức Bồ Tát gia trì để nhắc nhở, để vươn lên, phát khởi cái diệu dụng, khiến cho nó sáng khắp chớ không mắc kẹt trong chỗ lặng. Làm sao mọi động dụng, mọi cử chỉ đều hiện tri kiến Phật, chớ không phải chỉ âm thầm lặng lẽ đó thôi. Như vậy lặng lẽ mà sáng ngời không mê, tri kiến Phật mới sáng khắp, mà không có kẽ hở nào động niệm, nếu chỗ lặng giữ được, chỗ động không giữ được, là có kẻ hở rồi. Trì Pháp Hoa mà trì tới chỗ này mới tinh diệu. Bởi vậy nói chú thì không cho giải nghĩa, giải nghĩa là có suy nghĩ, là có hiểu được, thì thức tình nó xen vào.
Thiền Sư Trì Bát ở Việt Nam, khi sắp tịch Sư nói bài kệ,:
Có tử ắt có sanh
Có sanh ắt có tử
Tử là người đời buồn
Sanh là người đời vui
Buồn vui hai không cùng
Chợt vậy thành kia đây
Đối sanh tử chẳng để lòng
Án tố rô tố rô tất rị.
****
Âm:( Hữu tử tất hữu sanh
Hữu sanh tất hữu tử
Tử vi thế sở bi
Sanh vi thế sở hỉ
Bi hỉ lưỡng vô cùng
Hốt nhiên thành bỉ thử
Ư sanh tử bất quan hoài,
Án tố rô tố rô tất rị ).Tức là người đời mê lầm theo cái sanh tử, buồn vui thay đổi luôn luôn đó, thành ra có kia đây, bây giờ đối với sanh tử chẳng bận lòng, vì Thiền sư có chỗ sống của mình, là chỗ nào?
Án tố rô, tố rô tất rị. Chỗ này là chỗ sắp tịch. Cuối cùng niệm chú là bặt niệm sanh tử, không chỗ xen hở, không chỗ để thấy gì hết, Ngài ra đi, đi như vậy là đi không chỗ thấy để đi.
Đó là phần nói chú, phá hành ấm.
-
28. Phẩm Diệu trang nghiêm vương bổn sự
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Phật bảo hàng đại chúng rằng: Về thuở xưa, cách đây vô lượng vô biên bất khả tư nghì a tăng kỳ kiếp, có đức Phật hiệu là Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri. Nước đó tên Quang Minh Trang Nghiêm, kiếp tên Hỉ Kiến.
Trong pháp hội của Phật đó có vị vua tên Diệu Trang Nghiêm, phu nhân của vua tên Tịnh Đức, có hai người con, một tên Tịnh Tạng hai tên Tịnh Nhãn. Hai người con đó có sức thần thông lớn, phước đức trí huệ, từ lâu tu tập đạo hạnh của Bồ Tát, những là: thí ba la mật, giới ba la mật, nhẫn nhục ba la mật, tinh tấn ba la mật, thiền ba la mật, trí huệ ba la mật, phương tiện ba la mật, từ bi hỷ xả nhẫn đến ba mươi bảy phẩm trợ đạo thảy đều rành rẽ suốt thấu.
Lại đặng các môn Tam Muội của Bồ Tát: Nhựt Tinh Tú tam muội, Tịnh Quang tam muội, Tịnh sắc tam muội, Tịnh chiếu minh tam muội, Trường Trang Nghiêm tam muội, Đại oai đức tạng tam muội, ở nơi các môn tam muội này cũng đều thấu suốt.
Lúc đó, đức Phật kia vì muốn dẫn dắt vua Diệu Trang Nghiêm cùng thương tưởng hàng chúng sanh nên nói kinh Pháp Hoa này.
Bấy giờ, Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai người con đến chỗ của mẹ, chắp tay thưa mẹ rằng: "Mong mẹ đến nơi chỗ đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí, chúng con cũng sẽ theo hầu gần gũi cúng dường lễ lạy".
Vì sao? Vì đức Phật đó ở trong tất cả chúng trời người mà nói kinh Pháp Hoa, nên phải nghe và tin nhận.
Mẹ bảo con rằng: "Cha con tin theo ngoại đạo, rất ham pháp Bà la môn, các con nên qua thưa với cha để cùng nhau đồng đi".
Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ: "Chúng con là pháp vương tử mà lại sanh vào nhà tà kiến này".
Mẹ bảo các con rằng: "Các con nên thương tưởng cha các con, mà vì đó hiển phép thần thông biến hóa, nếu cha con đặng thấy lòng ắt thanh tịnh, hoặc là chịu cho chúng ta qua đến chỗ Phật".
GIẢNG:
Phẩm này gọi Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự. Diệu Trang Nghiêm Vương là vua Diệu Trang Nghiêm. Bổn sự là việc xưa của vua này.
Cái gì là cái Diệu Trang Nghiêm Vương. Đó là chỉ cho tâm. Tâm trang nghiêm, thanh tịnh, nhiệm mầu tự tại.
Đây là phá thức ấm, mà thức ấm khi nó đang còn trong mê, thức mà nó còn bị che, tức là nó còn ở trong sanh tử mà gốc là trang nghiêm thanh tịnh nhiệm mầu tự tại, tức là Diệu Trang Nghiêm Vương. Nhắc lại chuyện xưa tức nhắc chuyện đã quên, ông vua này ở bên đức Phật gọi là Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Như Lai, ở cõi quang minh trang nghiêm. Tú Vương Hoa Trí là chỉ cho trí sáng, mà sáng hơn các trí nhỏ, dụ các vì sao. Vân Lôi Âm là chỉ cho tiếng sấm mà nó vang dội bủa khắp. Như vậy muốn nói rằng thức này vốn là gốc ở chỗ tâm trang nghiêm thanh tịnh, chỗ đó là chỗ vốn chưa từng mê, chỉ mình bỏ quên vậy thôi. Ở đây diễn tả qua hình ảnh vua Diệu Trang Nghiêm. Vua đó có phu nhân tên là Tịnh Đức, hai người con tên là Tịnh Tạng và Tịnh Nhãn, nhưng hai người con này lại là tu tập trước ông vua, nên có thần thông có trí tuệ, rồi đã tu tập pháp ba la mật, cho đến từ bi hỉ xả, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, được các môn tam muội nữa. Đây Đức Phật Vân Lôi Âm đó muốn dắt dẫn vua Diệu Trang Nghiêm mới nói kinh Pháp Hoa. Vua Diệu Trang Nghiêm chỉ cho thức thứ tám, tức tàng thức. Đây là kho chứa mọi chủng tử của mình, làm thiện làm ác gì cũng dồn vào cái kho đó hết. Thức này cũng là thể của các thức sau. Rồi phu nhân, chỉ cho thức thứ bảy. Hai người con chỉ cho thức thứ sáu và năm thức trước. Thức thứ tám là chủ thể, nên nó chứa mọi chủng tử. Thức thứ bảy là mạt na, đây tượng trưng là phu nhân, tức nương ông vua, thức này gọi là truyền tống thức, nó có nhiệm vụ đưa vào đưa ra, truyền chủng tử bên ngoài đưa vào trong kho đó, rồi từ kho đó đưa ra.
Thức này cũng gọi là thức chấp ngã, bình thường không thấy nó đâu, đụng chuyện nó mới hiện ra.
Thí dụ như bây giờ, ngồi bình thường đây thấy như không có nó. Rồi đi ra bờ hồ, có cây cầu đưa ra hồ, mà cầu chênh vênh, mình đứng gần mé cầu thì sao? Hơi sợ sợ, tức là nó hiện ra đó! Sợ sợ đó là chấp ngã, sợ nó rơi chết. Hoặc mình đi lên chót núi đứng nhìn hố thẳm, cảm giác chân hơi run run, thì đó nó hiện ra! Rồi thức thứ sáu là ý thức, ý thức nó phân biệt, thì dễ thấy rồi. Đến năm thức trước: nhãn thức, nhĩ thức, tỉ thức, thiệt thức, thân thức. Thức của mắt, tai, mũi, lưỡi cũng dễ thấy. Vậy thức thứ sáu với năm cái thức này là dụng bên ngoài, thức thứ tám là thể bên trong. Bởi là dụng bên ngoài, nó phân biệt, tìm kiếm khắp các trần để đưa vào thức thứ tám, đưa vào qua gián tiếp là thức thứ bảy. Như vậy mình tu là tu từ thức thứ sáu với năm thức này. Còn thức thứ bảy, thức thứ tám làm sao tu? Thức thứ bảy thì nó ngầm bên trong làm sao tu? Thức thứ tám là chủ thể của các thức cũng làm sao tu? Do thức thứ sáu là phân biệt, nó mê thì phân biệt đủ thứ, phân biệt cái này phân biệt cái kia, rồi tạo nghiệp, nhưng cũng nhờ nó phân biệt, nên phân biệt phải trái, tốt xấu, chánh tà, mình mới biết bỏ tà về chánh, bỏ quấy làm phải, cho nên nó được gọi là công vi thủ, tội vi khôi. Công cũng đứng đầu, tội cũng đứng đầu. Mình tu là chuyển nó, khiến nó trở về tự tánh không mê theo phân biệt các trần để tìm chủng tử đem vô kho thì nó thành trí sáng.
Rồi năm thức trước nó đối trước năm trần hiện tiền, từ đó mới đưa vào trong cái kho, bây giờ ngay đây khi đối trước mọi trần đó, mà mình chuyển nó tức là không còn mê nữa, là không còn đưa vào trong kho, thì nó vẫn luôn luôn sáng ngời, nghĩa là năm cái này, mặc dầu nó đối với trần, nhưng nó vẫn sáng ngời không mê. Khi mình chuyển hai thức này thì thức thứ tám, thứ bảy nó cũng chuyển theo, căn bản là hai thức này. Bởi vì chuyển cái này rồi, bên ngoài đâu còn đưa tin tức vào nữa, vì vậy mà đây hai người con tu tập trước, tu các đạo Bồ Tát được các thứ tam muội, nhưng đặt biệt khi thọ ký, thì Phật thọ ký cho ông vua trước, vì vua là chính. Trong đây Phật cũng nói, Phật dắt dẫn vua Diệu Trang Nghiêm và chúng sanh mà nói kinh Pháp Hoa. Thì rõ ràng đó là nhắm vào ông vua. Khi đó Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn, hai đứa con mới đến chỗ của mẹ, chắp tay thưa mẹ, mong mẹ đến chỗ của Phật, nhưng người mẹ bảo con: Bây giờ cha con đang còn tin ngoại đạo, tức là còn tà kiến chấp pháp Bà La môn, con hãy đến qua thưa với cha đi để rồi cùng đi, rõ ràng người mẹ là phu nhân đó, là thức thứ bảy, nó nương theo thức thứ tám. Thức thứ tám nó còn mê tức là mê cái chân thật đó, nên gọi là theo ngoại đạo, theo tà kiến. Tịnh Tạng, Tịnh Nhãn chắp tay thưa mẹ chúng con là Pháp Vương Tử mà lại sanh vào nhà tà kiến, thì người mẹ bảo: thôi các con cũng nên thương cha, hiển phép thần thông biến hóa khiến cho cha lòng thanh tịnh, khi người cha chịu qua chỗ Phật thì mình cũng đi. Như vậy tức là sao? Hai người con nói: con là Pháp Vương Tử, mà lại sanh vào nhà tà kiến, bởi vì hai thức này nó là gốc từ thể giác, cho nên gọi đây là Pháp Vương tử, nhưng mà sanh vào tà kiến, tức là ông vua mê đó. Bởi vậy mình tu thì sáu thức này đều là chỗ chứng viên thông, trong kinh Lăng Nghiêm có nói rõ.
CHÁNH VĂN:
Lúc ấy, hai người con thương cha nên bay lên hư không cao bằng bảy cây đa la, hiện các món thần biến. Ở trong hư không đi, đứng, ngồi, nằm, trên thân ra nước, dưới thân ra lửa, dưới thân ra nước, trên thân ra lửa, hoặc hiện thân lớn đầy trong hư không rồi lại hiện nhỏ, nhỏ lại hiện lớn, ở trong hư không ẩn mất, bỗng nhiên hiện trên đất, vào đất như vào nước, đi trên nước như đi trên đất, hiện các món thần biến như thế làm cho vua cha lòng thanh tịnh tin hiểu.
Bấy giờ, cha thấy con có sức thần như thế, lòng rất vui mừng đặng điều chưa từng có, chắp tay hướng về phía con mà nói rằng: "Thầy các con là ai, con là đệ tử của ai?".
Hai người con thưa rằng: "Đại Vương! Đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật kia nay đương ngồi trên pháp tòa dưới cây bồ đề bằng bảy báu, ở trong tất cả chúng trời người thế gian, rộng nói kinh Pháp Hoa, đó là thầy chúng con, con là đệ tử".
Cha nói với con rằng: "Ta nay cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng nhau đồng đi". Khi đó hai người con từ trong hư không xuống, đến chỗ của mẹ chắp tay thưa mẹ rằng: "Phụ vương nay đã tin hiểu, có thể kham phát được tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, chúng con đã vì cha làm Phật sự rồi, mong mẹ bằng lòng cho chúng con, ở nơi chỗ đức Phật kia mà xuất gia tu hành Phật đạo".
Lúc đó, hai người con muốn tuyên lại ý mình nói kệ thưa mẹ:Mong mẹ cho các con
Xuất gia làm Sa môn
Các Phật rất khó gặp
Chúng con theo Phật học
Như hoa Ưu đàm bát
Gặp Phật lại khó hơn.
Khỏi các nạn cũng khó
Mong cho các con xuất gia.Mẹ liền bảo con rằng:
"Cho các con xuất gia, vì sao?
Vì Phật khó gặp vậy".GIẢNG:
Đây là hai người con hiện thần thông, người cha thấy vậy liền phát tâm, lúc đầu hỏi thầy của con là ai, thì hai con nói thầy là đức Phật Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, ông vua bây giờ phát tâm, ta cũng muốn ra mắt thầy các con, nên cùng nhau đồng đi. Vậy rõ ràng hai thứ thức này thức thứ sáu và năm thức trước là nó dẫn đường về, nên hiện thần thông cho cha phát tâm đến Phật. Hai thức này chuyển thì tàng thức chuyển theo. Vì vậy ở đây, hai người con xuất gia trước, chứng minh là nó chuyển trước, sau tới phần ông vua và hậu cung.
CHÁNH VĂN:Bấy giờ, hai người con thưa cha mẹ rằng: "Lành thay, cha mẹ! Xin liền qua đến chỗ đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật để gần gũi cúng dường.
Vì sao? Vì Phật khó gặp đặng, như hoa Linh thoại, lại như rùa một mắt gặp bộng cây nổi mà chúng ta do phước đời trước sâu dày, sanh đời này gặp Phật pháp, xin cha mẹ nên cho chúng con đặng xuất gia.
Vì sao? Vì các đức Phật khó gặp được, thời kỳ gặp Phật cũng khó có.
Lúc đó, nơi hậu cung của Vua Diệu Trang Nghiêm có tám muôn bốn nghìn người thảy đều có thể kham thọ trì kinh Pháp Hoa này. Tịnh Nhãn Bồ Tát từ lâu đã thông đạt nơi "Pháp Hoa tam muội". Tịnh Tạng Bồ Tát đã từ vô lượng trăm nghìn muôn ức kiếp thông đạt môn "Ly chư ác thú tam muội", vì muốn làm cho tất cả chúng sanh lìa các đường dữ vậy.
Phu nhơn của vua đặng môn "Chư Phật Tập tam muội", hay biết đặng tạng pháp bí mật của các đức Phật. Hai người con dùng sức phương tiện, khéo hóa độ vua cha như thế, khiến cho lòng cha tin hiểu ưa mến Phật Pháp.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng chung với quần thần quyến thuộc, Tịnh Đức phu nhơn cùng chung với thể nữ quyến thuộc nơi hậu cung, hai người con của vua, cùng chung với bốn muôn hai nghìn người đồng một lúc đi qua chỗ Phật. Đến rồi đầu mặt lạy chân Phật, đi quanh Phật ba vòng, rồi đứng qua một phía.
Lúc đó, đức Phật kia vì vua nói pháp, chỉ dạy làm cho được lợi ích vui mừng, vua rất vui đẹp.
Bấy giờ, vua Diệu Trang Nghiêm cùng phu nhơn mở chuỗi chơn châu giá trị trăm nghìn đeo nơi cổ, để rải trên đức Phật, chuỗi đó ở giữa hư không hóa thành đài báu bốn trụ, trong đài có giường báu lớn trải trăm nghìn muôn thiên y, trên đó có đức Phật ngồi xếp bằng phóng hào quang sáng lớn.
GIẢNG:
Đây hai người con này được mẹ cho rồi, bây giờ cùng với vua cha, những quần thần, phu nhân, quyến thuộc những vị ở hậu cung cũng đến chỗ Phật. Nghĩa là khi hai người con là thức thứ sáu và năm thức chuyển rồi, thì thức thứ tám và thứ bảy cũng chuyển theo. Thức thứ tám và bảy chuyển theo thì những cái phụ thuộc cũng phải chuyển theo, cho nên quần thần, quyến thuộc, hậu cung cũng chuyển theo, quần thần, quyến thuộc, hậu cung là chỉ cho cái gì? Tức là chỉ tâm sở, tâm buồn, vui, giận, ghét… nó chuyển theo luôn. Trước vua mê, nó buồn, vui, giận, ghét, bây giờ vua chuyển rồi thì những cái đó chuyển theo. Còn hậu cung đó là chỗ sâu ở trong, là những tâm niệm thầm kín, vi tế bên trong thì cũng theo đó mà chuyển, cho nên đây, tất cả đều theo vua đến Phật. Khi đến Phật thì ông vua cùng phu nhân mở chuỗi ngọc đeo nơi cổ đó để rải lên cúng dường, là xả thức. Xưa giờ mắc kẹt, giờ xả thức chuyển thành trí.CHÁNH VĂN:
Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm nghĩ rằng: "Thân Phật tốt đẹp riêng lạ, ít có, thành tựu sắc thân vi diệu thứ nhứt.
Bấy giờ, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật, bảo bốn chúng rằng: "Các người thấy vua Diệu Trang Nghiêm chắp tay đứng trước ta đó chăng? Vị vua này ở trong pháp ta làm Tỳ kheo siêng ròng tu tập các món trợ Phật đạo pháp, sẽ đặng làm Phật hiệu Ta La Thọ Vương, nước tên Đại Quang, kiếp tên Đại Cao Vương.
Đức Ta La Thọ Vương Phật có vô lượng chúng Bồ Tát và vô lượng Thanh Văn, nước đó bằng thẳng công đức như thế".
Vua Diệu Trang Nghiêm liền đem nước giao cho em, rồi cùng phu nhân, hai người con và các quyến thuộc, ở trong Phật pháp xuất gia tu hành đạo hạnh.
Vua xuất gia rồi trong tám muôn bốn nghìn năm thường siêng tinh tấn tu hành kinh Diệu Pháp Liên Hoa, qua sau lúc đây, đặng môn "Nhứt Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm tam muội".
Liền bay lên hư không cao bảy cây đa la mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Hai người con của con đây đã làm Phật sự, dùng sức thần thông biến hóa, xoay tâm của con, làm cho con được an trụ trong Phật pháp, được thấy Thế Tôn. Hai người con này là thiện tri thức của con, vì muốn phát khởi căn lành đời trước lợi ích cho con nên đến sanh vào nhà con".
Lúc đó, đức Vân Lôi Âm Tú Vương Hoa Trí Phật bảo vua Diệu Trang Nghiêm rằng: "Đúng thế! Đúng thế! Như lời ông nói, nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhơn nào trồng cội lành thời đời đời đặng gặp thiện tri thức, vị thiện tri thức hay làm Phật sự, chỉ dạy cho lợi ích vui mừng, khiến vào đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại vương nên biết! Vị thiện tri thức đó là nhơn duyên lớn, giáo hóa dìu dắt làm cho đặng thấy Phật, phát tâm vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Đại vương! Ông thấy hai người con này chăng? Hai người con này đã từng cúng dường sáu mươi lăm trăm nghìn muôn ức na do tha hằng hà sa các đức Phật, gần gũi cung kính, nơi chỗ các đức Phật thọ trì kinh Pháp Hoa, thương tưởng những chúng sanh tà kiến làm cho trụ trong chánh kiến.
GIẢNG:
Đây Phật Vân Lôi Âm thọ ký cho vua. Quí vị thấy, hai người con tu trước mà không thọ ký, giờ thọ ký cho vua trước, rõ ràng hai thức trước là nó chuyển trước, nhưng mà cái gốc là thức thứ tám, nó là chủ thể của các thức, cho nên được thọ ký là thức này được thọ ký trước. Bởi vì tàng thức này khi nó mê, thì nó gọi là tàng thức, khi nó giác gọi là Như Lai tàng, tức nó là kho Như Lai. Bởi vậy không phải chuyển rồi nó thành cái gì khác. Cũng chính nó, khi mê nó là tàng thức, là kho của thức chứa chủng tử lộn xộn, rồi bây giờ khi chuyển nó là kho Như Lai, chứa toàn là chủng tử Như Lai. Rồi ông vua cùng quyến thuộc xuất gia, xuất gia rồi tu tập, cũng tu tập kinh Pháp Hoa này, tức là tu tập tri kiến Phật, rồi được tam muội Nhứt Thiết Tịnh Công Đức Trang Nghiêm. Nhứt thiết là tất cả. Tịnh là thanh tịnh, là được tất cả những công đức thanh tịnh trang nghiêm. Rõ ràng nó chuyển thành kho Như Lai, trong đó nó chứa tất cả công đức trang nghiêm thanh tịnh. Sau đó ông vua bay lên hư không tới bảy cây đa la mà bạch Phật: "hai người con của con đây làm Phật sự, dùng thần thông biến hóa xoay tâm tà của con, cho con được an trụ trong Phật pháp. Cho nên hai người con này là thiện tri thức của con". Rõ ràng hai người con này là thiện tri thức dẫn đường về. Vua bay lên hư không là nói lên ý gì? Đang dưới đất bay lên hư không, đó là vượt khỏi chỗ sống bình thường, tức là chỗ mê lầm lâu nay là đã chuyển.
Khi tàng thức nó chuyển rồi thì trong này nó hết còn chứa những chủng tử mê lầm, những chủng tử sanh tử nữa. Do đó mà bao nhiêu những niệm sâu kín, nó cũng phải chuyển theo, đều thanh tịnh theo, nên tất cả theo vua đến gặp Phật hết, cũng được xuất gia hết.
Phật dạy hai người con này thì sao? Đã từng cúng dường chư Phật, rõ ràng hai thức này vốn từ thể giác mà ra, chớ không phải đâu xa lạ tự riêng có, bởi vậy khi chuyển là chuyển cái tên thôi, không phải là cái thể nó cũng chuyển, không có cái thể nào khác.
Người học theo chữ nghĩa nghe nói chuyển thức thành trí không biết chuyển sao, cố tìm coi nó chuyển thế nào, sự thật chuyển cái tên thôi chớ có gì khác mà chuyển. Cũng là cái thấy biết phân biệt này mà nó mê thì gọi là thức, nó giác thì gọi là trí vậy thôi. Phải hiểu được chỗ đó, còn không cứ đi tìm để chuyển mà có cái để chuyển thì thành ra người khác rồi.
CHÁNH VĂN:
Diệu Trang Nghiêm Vương liền từ trong hư không xuống mà bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Như Lai rất ít có do công đức trí huệ nên nhục kế trên đỉnh sáng suốt chói rỡ, mắt Phật dài rộng mà sắc xanh biếc, tướng lông trắng chặng mày như ngọc Kha nguyệt, răng trắng bằng và khít thường có ánh sáng, môi sắc đỏ đẹp như trái tần bà".
Lúc đó vua Diệu Trang Nghiêm khen ngợi Phật có vô lượng trăm nghìn muôn ức công đức như thế rồi, ở trước Như Lai một lòng chắp tay lại bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Chưa từng có vậy! Pháp của Như Lai đầy đủ trọn nên bất khả tư nghì công đức vi diệu, dạy răn chỗ tu hành an ổn rất hay. Con từ ngày nay chẳng còn lại tự theo tâm hành của mình chẳng sanh những lòng ác: kiêu mạn giận hờn tà kiến". Vua thưa lời đó rồi, lạy Phật mà ra.
GIẢNG:
Đây là sao? Vua trở xuống đất khen Phật có những tướng tốt, con từ nay không còn theo tâm hành của mình từ xưa, để sanh những lòng ác như là kiêu mạn giận hờn, tà kiến. Trước đó là bay lên hư không, bây giờ là trở xuống đất. Rốt cuộc không đi đâu khỏi mặt đất, tức là trở lại chỗ sống bình thường, trước đó là vượt lên chỗ sống bình thường. Nhưng bây giờ không còn theo tâm hành cũ nữa. Tức là bây giờ không còn mê lầm như xưa nữa, không còn theo tâm hành suy nghĩ, hành động theo chiều sanh tử, mà bây giờ có chỗ sống bất tư nghì rồi, chỗ sống giác ngộ rồi. Vậy cho nên đây vua trở lại xuống dưới đất.
CHÁNH VĂN:
Phật bảo đại chúng: "Ý các ông nghĩ sao? Vua Diệu Trang Nghiêm đâu phải người nào lạ, nay chính là Hoa Đức Bồ Tát. Bà Tịnh Đức phu nhân nay chính là Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng Bồ Tát hiện đương ở trước Phật. Hai người con vì thương xót vua Diệu Trang Nghiêm và các quyến thuộc nên sanh vào trong cung vua, nay chính là Dược Vương Bồ Tát cùng Dược Thượng Bồ Tát.
Dược Vương và Dược Thượng Bồ Tát này thành tựu các công đức lớn như thế, đã ở chỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức, các đức Phật trồng các cội công đức, thành tựu bất khả tư nghì những công đức lành. Nếu có người biết danh tự của hai vị Bồ Tát này thời tất cả trong đời, hàng Trời, nhân dân cũng nên lễ lạy.
GIẢNG:
Quí vị thấy đơn giản không? Biết tên, danh tự của hai vị này thôi, tất cả mọi người cũng nên lễ lạy. Vậy thì bây giờ, quí vị biết tên chưa? Cho nên đức Phật nói phẩm Diệu Trang Nghiêm Vương Bổn Sự này thì có 84000 người xa trần lụy, rời cấu nhiễm, ở trong các pháp, chứng được pháp nhẫn tịnh.
Nghe tới đây, quí vị thấy được gì chưa? Đây Phật kết lại, vua Diệu Trang Nghiêm đó, không phải ai khác, chính là ông Bồ Tát Hoa Đức. Còn bà phu nhân Tịnh Đức cũng không phải ai khác mà chính là Bồ Tát Quang Chiếu Trang Nghiêm Tướng; và hai người con đó tức là Bồ Tát Dược Vương và Bồ Tát Dược Thượng.
Vậy nói lên, chỗ xưa đó, cũng chính là nay đây chớ không đâu khác, chính là chỗ hiện tiền đây thôi. Mình nghe nói là Diệu Trang Nghiêm Vương, nghe nói là tàng thức, nghe nói là Như Lai tàng, mình tưởng là chuyện đó ở đâu xa xưa, không ngờ chính ngay đây, cho nên đến chỗ này xưa và nay vốn không hai. Bặt ý niệm kia đây, xưa nay, chỉ còn một tri kiến Phật hiện tiền.
Phật tán thán hai Bồ Tát Dược Vương, Dược Thượng, bởi vì sao? Vì hai vị này là thức thứ sáu và năm thức trước, hai thức đó mà nó chuyển thì diệu dụng lợi ích vô cùng.
Dược Vương là vị thuốc vua. Dược Thượng là vị thuốc trên hết. Nghĩa là khi nó chuyển rồi thì những diệu dụng lợi ích rất lớn, chính đó là món thuốc nhiệm mầu; là vị thuốc cứu khổ chúng sanh, trị lành bệnh mê lầm, bệnh sanh tử. Bởi vì thức thứ sáu và năm thức này nó là cái đối diện với sáu trần. Nếu bây giờ nó chuyển rồi, nó cũng đối diện với sáu trần, nhưng nó sáng suốt không mê, nhờ nó sáng suốt không mê nên khiến mình làm tất cả mọi việc gì đều thành công đức hết. Do đó công đức nó vô lượng. Ở đây, Phật nói biết danh tự của hai vị Bồ Tát đó thì mọi người cũng nên lễ lạy cúng dường là ý gì? Biết hai vị Bồ Tát là biết "tin tức chân thật" này, khi biết được tin tức này thì phải luôn luôn theo đó mà sống trở lại ánh sáng tri kiến Phật, nên phải luôn luôn lễ lạy cúng dường mà sống trở lại không thể để cho nó mê lầm theo tướng, theo trần nữa. Vậy là Tàng thức nó vốn là Diệu Trang Nghiêm Vương, mạt na thức vốn là thanh tịnh, cả nhà đều chung hợp trong ánh sáng Như Lai, cuối cùng cũng không bỏ đi đâu, mấy thức đó nó chuyển cũng sống chung một nhà thôi, nhưng là ở trong nhà Như Lai. Vì vậy đến đây là Nhập Phật Tri Kiến. Chuyển được rồi là nhập Phật tri kiến, đến đây là nhập xong, phá được năm ấm.
-
29. Phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát dùng sức thần thông tự tại oai đức danh văn, cùng vô lượng vô biên bất khả xưng sổ chúng đại Bồ Tát từ phương Đông mà đến; các nước đi ngang qua khắp đều rúng động, rưới hoa sen báu, trỗ vô lượng trăm nghìn muôn ức các thứ kỹ nhạc.
Lại cùng vô số các đại chúng: Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, nhơn, phi nhơn… vây quanh, đều hiện sức oai đức thần thông đến cõi Ta bà trong núi Kỳ Xà Quật, đầu mặt lạy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, đi quanh bên hữu bảy vòng, bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Con ở nơi nước của đức Bảo Oai Đức Thượng Vương Phật, xa nghe cõi Ta bà này nói kinh Pháp Hoa, nên cùng với vô lượng vô biên trăm nghìn muôn ức chúng Bồ Tát đồng đến để nghe thọ, cúi mong đức Thế Tôn nên vì chúng con nói đó".
Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn sau khi Như Lai diệt độ, thế nào mà có thể đặng kinh Pháp Hoa này?".
Phật bảo Phổ Hiền Bồ Tát rằng: "Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp, thời sau khi Như Lai diệt độ sẽ đặng kinh Pháp Hoa này: một là được các đức Phật hộ niệm, hai là trồng các cội công đức, ba là vào trong chánh định, bốn là phát lòng cứu tất cả chúng sanh.
Thiện nam tử, thiện nữ nhơn thành tựu bốn pháp như thế, sau khi Như Lai diệt độ quyết đặng kinh này.
GIẢNG:
Bồ Tát Phổ Hiền, kinh Lăng Nghiêm nói Ngài tu nhĩ thức, là chỉ cho tâm nghe, nghe tự tại, nên ở phương xa đó, mà đây nói kinh Pháp Hoa cũng nghe mà tới. Ngài sẵn sàng hiện ra bất cứ chỗ nào có kinh Pháp Hoa. Như vậy, hiện giờ đang nói kinh Pháp Hoa, Ngài Phổ Hiền có hiện tới không? Nếu không thì Ngài không nói thật sao? Nhiều người tưởng tượng theo chữ nghĩa, ngồi đây nghe kinh Pháp Hoa, chờ cho Phổ Hiền hiện tới. Trong khi đó Ngài đang hiện đây mà không thấy. Bởi vì Phổ Hiền là chỉ cho tâm nghe tự tại, mình đang nghe Pháp Hoa đây, nghe trong sự sáng suốt, mở tâm nghe này thì Phổ Hiền đang hiện ra thôi, vì Ngài sẵn sàng hiện, quí vị cũng đang sẵn sàng nghe. Đến đây mở rộng ánh sáng tri kiến Phật đến vô cùng vô tận. Ở phần trước là nhập Phật tri kiến rồi, nhưng không phải lấy đó làm chỗ tự mãn, không thể dừng chỗ đó, mà làm sao mở rộng tri kiến Phật đó đến chỗ không cùng tận, thì mới trọn vẹn được. Còn có chỗ dừng, là còn có giới hạn, nếu dừng ở chỗ này thì nó không đến chỗ kia, vậy là tri kiến Phật đâu có viên mãn. Cho nên thể nhập trọn vẹn trong tri kiến Phật, phá sạch được năm ấm thì nó đầy đủ diệu dụng tự tại bất khả tư nghì, để hóa độ chúng sanh. Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, chỗ nào Ngài cũng tới được hết. Đặc biệt kinh này, mới vào đầu thì Bồ Tát Văn Thù giải nghi cho Bồ Tát Di Lặc, nhưng tới đây kết thúc là Ngài Phổ Hiền. Vào đầu là Bồ Tát Văn Thù, chỉ cho trí thể chân thật sẵn có: Căn bản trí. Đó là cái sẵn có nơi mọi chúng sanh, phải từ chỗ đó mà tiến vào. Sau cùng, Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài kết thúc, tức là kết thúc bằng sai biệt trí, sai biệt trí viên mãn, diệu dụng tròn khắp, không cùng. Như vậy thể và dụng khế hợp không hai, không còn phân chia, thì mới trọn vẹn được.
CHÁNH VĂN:
Lúc đó, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát bạch Phật rằng: "Thế Tôn! Năm trăm năm sau trong đời ác trược, nếu có người thọ trì kinh điển này, con sẽ giữ gìn trừ các sự khổ hoạn làm cho đặng an ổn, khiến không ai đặng tiện lợi rình tìm hại, hoặc ma, hoặc con trai của ma, hoặc người bị ma dựa, hoặc Dạ xoa, hoặc La sát, hoặc Cưu bàn Trà, hoặc Tỳ xá xà, hoặc Kiết giá, hoặc Phú đơn na, hoặc Vi đà la… những kẻ làm hại người đều chẳng đặng tiện lợi.
Người đó hoặc đi, hoặc đứng, đọc tụng kinh này, bấy giờ con cỡi tượng vương trắng sáu ngà cùng chúng đại Bồ Tát, đều đến chỗ người đó mà tự hiện thân ra, để cúng dường thủ hộ an ủi tâm người đó, cùng để cúng dường kinh Pháp Hoa.
Người đó nếu ngồi suy nghĩ kinh này, bấy giờ con lại cỡi tượng vương trắng hiện ra trước người đó, người đó nếu ở trong kinh Pháp Hoa có quên mất một câu một bài kệ, con sẽ dạy đó chung cùng đọc tụng làm cho thông thuộc.
Bấy giờ, người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa đặng thấy thân con, lòng rất vui mừng lại càng tinh tấn, do thấy thân con nên liền đặng tam muội và đa la ni tên là: "triền đà la ni" trăm nghìn muôn ức "triền đà la ni", "pháp âm phương tiện đà la ni", đặng những môn đà la ni như thế.
GIẢNG:
Đây Ngài Phổ Hiền thưa với Phật năm trăm năm sau ở trong đời ác trược, Ngài sẽ giữ gìn ủng hộ người trì kinh Pháp Hoa này, khiến cho ma không tiện lợi rình rập, những người nào đi đứng đọc tụng kinh này thì Ngài sẽ cỡi tượng trắng sáu ngà cùng với các Bồ Tát hiện đến đó. Ai ngồi suy nghĩ kinh này thì Ngài cũng cỡi tượng vương trắng sáu ngà hiện ra trước. Nếu người nào đối với kinh này quên mất câu nào đó, Ngài nhắc. Quên Pháp Hoa, quên câu kệ kinh Pháp Hoa tức là lui sụt, mình lui sụt tri kiến Phật thì có Đại hạnh Phổ Hiền nhắc, nhắc mình tiến mãi không dừng, không để cho mình có chút ít cho là đủ. Đại hạnh Phổ Hiền là giác cùng khắp, giác mãi không cùng tận, đó mới là tâm giác ngộ viên mãn. Nếu giác ngộ mà còn thấy có chừa chỗ nào, chừa chúng sanh nào, là tâm giác mình chưa trọn. Đây khi giác trọn vẹn rồi thì thấy là thấy cùng khắp hết không thấy chúng sanh nào ở ngoài tánh giác, ai ai cũng có đủ tánh giác đó. Mình nếu gặp người không ưa thì chắc không có. Do đó phải nhờ Đại Hạnh Phổ Hiền nhắc.
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn! Nếu đời sau, sau năm trăm năm trong đời ác trược, hàng Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, người cầu tìm, người thọ trì, người đọc tụng, người biên chép, mà muốn tu tập kinh Pháp Hoa này, thời trong hai mươi mốt ngày, phải một lòng tinh tấn, mãn hai mươi mốt ngày rồi, con sẽ cỡi tượng trắng sáu ngà, cùng vô lượng Bồ Tát vây quanh, dùng thân mà tất cả chúng sanh ưa thấy, hiện nơi trước người đó để vì nói pháp chỉ dạy cho lợi ích vui mừng cũng lại cho chú đà la ni.
Đặng chú đà la ni này thời không có phi nhơn nào có thể phá hoại được, cũng chẳng bị người nữ làm hoặc loạn. Con cũng đích thân thường hộ người đó. Cúi mong đức Thế Tôn nghe con nói chú đà la ni này, liền ở trước Phật mà nói chú rằng:
GIẢNG:
Đây Bồ Tát Phổ Hiền thưa với Phật: sau này người muốn tu tập kinh Pháp Hoa, ở trong 21 ngày một lòng tinh tấn, xong rồi, mãn 21 ngày đó, Ngài sẽ cỡi tượng trắng sáu ngà với vô lượng Bồ Tát hiện ra cho thấy.
Đây nói chuyên tu 21 ngày thì sẽ thấy Bồ Tát Phổ Hiền, Ngài hiện ra, quí vị tin không? Sự thật bảo đảm là thấy, nếu chuyên 21 ngày, chuyên đây, là chuyên tâm, ròng rặc không có niệm nào khác, chắc chắn thấy Phổ Hiền hiện tiền. Phổ Hiền là tâm nghe trùm khắp chứ gì?
Nếu mình theo chữ nghĩa, lo tụng 21 ngày cho xong, ngồi đó chờ Phổ Hiền tới, không thấy hiện thì nói kinh không linh, sự thật đây ý nghĩa rất là rõ, 21 ngày “chuyên tâm không xen hở”, nhất định thấy Phổ Hiền, không những thấy Phổ Hiền mà thấy cả pháp hội Linh Sơn ngay trước mặt, tức tri kiến Phật hiện tiền, ý nghĩa sâu xa như vậy. Đến đây Ngài nói chú, là khiến hết nghĩ bậy, chuyên tâm như vậy thì có kết quả liền. Bài chú:
"A đàn địa, đàn đà bà địa, đàn đà bà đế, đàn đà cưu xá lệ, đàn đa tu đà lệ, tu đà lệ, tu đà la bà để, Phật đà ba chuyên nể, tác bà đà la ni a ba đa ni, tu a bà đa ni, tăng già bà lý xoa ni, tăng già niết đà đà ni, a tăng kỳ, tăng già bà dà địa, đế lệ a đọa tăng già đâu lược, a la đế, ba la đế, tát bà tăng già địa, tam ma địa, dà lan địa, tát bà đạt ma tu ba lợi sát đế, tát bà tát đỏa lâu đà kiêu xá lược, a nâu dà địa, tân a tỳ kiết lợi địa đế".
Nói chú xong, Ngài thưa:
CHÁNH VĂN:
Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát nào đặng nghe chú đà la ni này, phải biết đó là sức thần thông của Phổ Hiền.
Nếu kinh Pháp Hoa lưu hành trong Diêm phù đề có người thọ trì, thời nên nghĩ rằng: đều là sức oai thần của Phổ Hiền.
Nếu có người thọ trì, đọc tụng ghi nhớ chơn chánh hiểu nghĩa thú trong kinh đúng như lời mà tu hành, phải biết người đó tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật, sâu trồng cội lành, được các Như Lai, lấy tay xoa đầu. Nếu chỉ biên chép người này mạng chung sẽ sanh lên Trời Đao Lợi.
Bấy giờ, bốn muôn tám nghìn thiên nữ trỗ các kỹ nhạc mà đến rước đó, người đó liền đội mão bảy báu ở trong hàng thế nữ, vui chơi khoái lạc, luống là thọ trì đọc tụng ghi nhớ chơn chánh hiểu nghĩa thú kinh, đúng như lời mà tu hành.
Nếu có người nào thọ trì, đọc tụng, giải nghĩa thú kinh này, người đó khi mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, khiến chẳng sợ sệt, chẳng đọa vào đường dữ, liền lên cung Trời Đâu Suất, chỗ Di Lặc Bồ Tát mà sanh vào hàng quyến thuộc trăm nghìn muôn ức thiên nữ, đức Di Lặc Bồ Tát có ba mươi hai tướng chúng đại Bồ Tát cùng nhau vây quanh. Có công đức lợi ích như thế cho nên người trí phải một lòng tự chép hoặc bảo người chép thọ trì đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh đúng như lời tu hành.
Thế Tôn! Con nay dùng sức thần thông giữ gìn kinh này, sau khi Như Lai diệt độ, làm cho rộng lưu bố Trong Diêm Phù Đề khiến chẳng dứt mất.
GIẢNG:
Đây Phổ Hiền Ngài nói rằng: người thọ trì kinh này đó là sức Phổ Hiền nếu người nào tho trì đọc tụng hiểu nghĩa thú kinh này, thì đó là tu hạnh Phổ Hiền, ở nơi vô lượng vô biên các đức Phật sâu trồng cội lành rồi. Nếu biên chép thôi, mạng chung được sanh lên cõi Trời, còn thọ trì, đọc tụng giải nghĩa thú nữa thì mạng chung được nghìn đức Phật trao tay, được sanh lên Trời Đâu Suất, gặp Bồ Tát Di Lặc, tán thán kinh này rất là lớn.
Ở đây Ngài nói là Ngài dùng hạnh Phổ Hiền làm cho rộng lưu bố kinh này, tức là khiến cho đâu đâu cũng có kinh Pháp Hoa này hết. Cho nên người thọ trì kinh này thì bất cứ chỗ nào cũng thấy được, gặp được Ngài Phổ Hiền.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, đức Thích Ca Mâu Ni Phật khen rằng: "Hay thay! Hay thay! Phổ Hiền! Ông có thể hộ trợ kinh này làm cho nhiều chúng sanh an vui lợi ích. Ông đã thành tựu bất khả tư nghì công đức, lòng từ bi sâu lớn, từ lâu xa đến nay, phát tâm Vô thượng chánh đẳng chánh giác, mà có thể thật hành nguyện thần thông đó, để giữ gìn kinh này. Ta sẽ dùng sức thần thông giữ gìn người hay thọ trì danh hiệu Phổ Hiền Bồ Tát.
Phổ Hiền! Nếu có người thọ trì, đọc tụng, ghi nhớ chơn chánh tu tập biên chép kinh Pháp Hoa này, phải biết người đó thời là thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật, như từ miệng Phật mà nghe kinh điển này. Phải biết người đó cúng dường cho Đức Thích Ca Mâu Ni Phật, phải biết người đó được Phật, Ngài khen lành thay, phải biết người đó được Thích Ca Mâu Ni Phật lấy tay xoa đầu. Phải biết người đó được đức Thích Ca Mâu Ni Phật lấy y trùm cho. Người như thế chẳng còn lại ham ưa sự vui trong đời, chẳng ưa kinh sách viết chép của ngoại đạo, cũng lại chẳng ưa gần gũi ngoại đạo và các kẻ ác, hoặc kẻ hàng thịt, hoặc kẻ nuôi heo, dê, gà, chó, hoặc thợ săn hoặc kẻ buôn bán sắc gái. Người đó tâm ý ngay thiệt, có lòng nghĩ nhớ, chơn chánh có sức phước đức. Người đó chẳng bị ba món độc làm não hại, cũng chẳng bị tánh ganh ghét, ngã mạn, tà mạn, tăng thượng mạn làm não hại. Người đó ít muốn biết đủ, có thể tu hạnh Phổ Hiền.
GIẢNG:
Nếu chơn chánh biên chép thọ trì kinh này thì phải biết người đó như từ miệng Phật mà nghe kinh, được Phật Thích Ca lấy tay xoa đầu, lấy y trùm cho, khen lành thay! Bởi vì thọ trì, đọc tụng, biên chép kinh này là sống giữ gìn tri kiến Phật, thì tức nhiên gặp Phật chớ gì nữa, phải hiểu được ý đó. Được như vậy đâu còn ham gần gũi những ngoại đạo, những kẻ ác, đâu còn bị món độc làm não hại, mình sở dĩ còn là chưa nhận được, chưa sống được tri kiến Phật này. Nếu nhận được, sống được đâu còn ham mấy thứ này chi nữa.
CHÁNH VĂN:
Phổ Hiền! Sau khi Như Lai diệt độ, năm trăm năm sau, nếu có người nào thấy người thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa phải nghĩ rằng: Người này chẳng bao lâu sẽ đến đạo tràng, phá các chúng ma thành vô thượng chánh đẳng chánh giác, chuyển pháp luân, đánh pháp cổ, thổi pháp loa, rưới pháp vũ, sẽ ngồi trên pháp tòa sư tử trong đại chúng Trời người.
Phổ Hiền! Nếu ở đời sau, có người thọ trì đọc tụng kinh điển này, người đó chẳng còn lại ham ưa y phục, giường nằm, những vật nuôi sống, chỗ mong cầu chẳng luống, cùng ở trong hiện đời đặng phước báo đó.
Nếu có người khinh chê đó rằng: "Ông là người điên cuồng vậy, luống làm hạnh ấy trọn không đặng lợi ích". Tội báo như thế sẽ đời đời không mắt. Nếu có người cúng dường khen ngợi đó, sẽ ở trong đời nay đặng quả báo hiện tại.
Nếu lại thấy người thọ trì kinh này mà nói bày lỗi quấy của người đó, hoặc thiệt, hoặc chẳng thiệt, người này trong hiện đời mắc bệnh bạch lại. Nếu khinh cười người trì kinh sẽ đời đời răng nướu thưa thiếu, môi xấu, mũi xẹp, tay chân cong quẹo, mắt lé, thân thể hôi dơ, ghẻ dữ máu mủ, bụng thủng, hơi ngắn, bị các bệnh nặng dữ.
Cho nên Phổ Hiền! Nếu thấy người thọ trì kinh điển này phải đứng dậy xa rước phải như kính Phật.
Lúc Phật nói phẩm Phổ Hiền Bồ Tát khuyến phát này có hằng hà sa vô lượng vô biên Bồ Tát đặng trăm nghìn muôn ức môn "Triền đà là ni", tam thiên, đại thiên, thế giới vi trần số các đại Bồ Tát, đủ đạo Phổ Hiền.
Lúc Phật nói kinh này, Phổ Hiền… các vị Bồ Tát, Xá Lợi Phất… các vị Thanh Văn và hàng Trời, rồng, nhơn, phi nhơn… tất cả đại chúng đều rất vui thọ trì lời Phật làm lễ mà đi.
GIẢNG:
Đây Phật rất tán thán, sau này thấy ai thọ trì đọc tụng kinh Pháp Hoa, phải nghĩ người đó không bao lâu sẽ đến đạo tràng phá chúng ma mà thành Phật. Người đã nhận tri kiến Phật này, khéo sống thì sẽ đến đạo quả giác ngộ, đến thành Phật thôi, thành Phật là thành tri kiến Phật này chớ gì. Cho nên sau thấy người thọ trì đọc tụng kinh này phải cung kính. Còn nếu chê bai thì bị quả báo. Ở đây cho thấy rằng, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát sẵn sàng hiện để nhắc mọi người, vậy bất cứ chỗ nào có thọ trì kinh Pháp Hoa là Ngài sẵn sàng tới tới để chỉ, để nhắc. Như vậy chỉ còn có điều là mình có chịu tỉnh hay không thôi.Bởi vậy Phật cũng như Bồ Tát luôn luôn nhắc nhở, đánh thức mỗi người nhận ra cái đó, sống được với cái đó, là bản hoài của Phật.
Đây tóm lại: quí vị học kinh Pháp Hoa thì kinh Pháp Hoa này nói lên bản hoài của Phật là KHAI THỊ - NGỘ - NHẬP TRI KIẾN PHẬT. Tức là đánh thức tri kiến Phật nơi mỗi chúng sanh, khiến cho mỗi người đủ niềm tin mình có khả năng giác ngộ, khả năng thành Phật. Bởi vì thành Phật đây là thành nơi chính mình chứ không phải thành đâu khác.
Thứ hai: xóa tan ý niệm phân chia thứ lớp, tam thừa. Cho nên đây gọi là không còn có Thanh Văn - Duyên Giác - Bồ Tát - đều có một thừa thôi, bởi vì tất cả đều là phương tiện, chỉ có nhất thừa mới là chân thật.
Thứ ba: là những hình ảnh trong đây đều là phương tiện ngầm chỉ ý Phật sâu xa trong đó. Mình học Pháp Hoa phải học thấu qua chữ nghĩa để đạt được ý sâu trong đó. Thí dụ như hình ảnh bảo tháp hiện ra, hoặc hình ảnh cùng tử chẳng hạn, những thứ đó đều ngầm chỉ ý sâu ở trong, cần thấu đạt những ý đó, chứ không thể chết trên hình ảnh đó, theo hình ảnh, chữ nghĩa, có người đọc Pháp Hoa thấy như đọc tiểu thuyết lâu lâu thấy Bồ Tát đâu dưới đất vọt lên, rồi tưởng tượng, mong cầu xa xôi thành lầm.
Thứ tư: với kinh Pháp Hoa phải thấy đức Phật Thích Ca suốt qua thân tướng hiện tại của Ngài, Phật đó tuổi thọ vô lượng, chớ không phải ông Phật hiện ở Ấn Độ. Phật tuổi thọ vô lượng là không hạn cuộc thân tướng nào hết, thấy được chỗ đó rồi mình mới tin chắc là Phật thường trụ, không sanh không diệt. Còn Phật hiện Ấn Độ là có sanh có diệt, tin được như thế là mình đã gieo trồng căn lành sâu nhiều đời với Pháp Hoa, tức là đã có hạt giống Phật sâu rồi. Chỉ còn có điều nữa là gặp duyên cho nó nẩy mầm, để cho tri kiến Phật hiện ra thôi. Đây tóm kết bằng bài kệ để quí vị nhớ:
Vui thay! Diệu pháp sẵn đây rồi,
Tri kiến hằng ngày đấy Phật thôi.
Chỉ hãy thấy nghe không nơi chốn,
Linh Sơn hội ấy vẫn sáng ngời !!!. -
30. Tổng kết Kinh Pháp Hoa
1. Diệu pháp tức là Tri Kiến Phật.
Diệu Pháp là pháp gì? Là pháp nhiệm mầu, tức là pháp không thể nghĩ bàn được, pháp gì không thể nghĩ bàn? Chính là tri kiến Phật chứ không gì khác.
Chính tri kiến Phật, nó vượt ngoài thức tình suy nghĩ, nó cũng không có chỗ để mình hiểu biết, thì đó mới là Diệu Pháp. Nếu mình nghĩ được thì hết diệu rồi. Trong kinh, Ngài Xá Lợi Phất thỉnh Phật nói Pháp Hoa, Phật liền ngăn, "thôi thôi, chẳng nên nói, pháp ta diệu khó nghĩ". Tại sao Phật ngăn, bởi vì nó khó nói, chỗ đó khó diễn tả, nói không thể nói hết được, cũng như dùng tâm suy nghĩ, cũng không nghĩ đến được. Cho nên Phật ngăn, ngầm muốn chỉ chỗ đó là chỗ vượt ngoài ngôn ngữ. Cho nên ở trong kinh, có đoạn Phật thí dụ bao nhiêu Xá Lợi Phất cũng không biết được.
1. Diệu pháp tức là Tri Kiến Phật.
Diệu Pháp là pháp gì? Là pháp nhiệm mầu, tức là pháp không thể nghĩ bàn được, pháp gì không thể nghĩ bàn? Chính là tri kiến Phật chứ không gì khác.
Chính tri kiến Phật, nó vượt ngoài thức tình suy nghĩ, nó cũng không có chỗ để mình hiểu biết, thì đó mới là Diệu Pháp. Nếu mình nghĩ được thì hết diệu rồi. Trong kinh, Ngài Xá Lợi Phất thỉnh Phật nói Pháp Hoa, Phật liền ngăn, "thôi thôi, chẳng nên nói, pháp ta diệu khó nghĩ". Tại sao Phật ngăn, bởi vì nó khó nói, chỗ đó khó diễn tả, nói không thể nói hết được, cũng như dùng tâm suy nghĩ, cũng không nghĩ đến được. Cho nên Phật ngăn, ngầm muốn chỉ chỗ đó là chỗ vượt ngoài ngôn ngữ. Cho nên ở trong kinh, có đoạn Phật thí dụ bao nhiêu Xá Lợi Phất cũng không biết được.
Chánh sử khắp mười phương
Đều như Xá Lợi Phất
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.Nghĩa là, đầy mười phương đều như Xá Lợi Phất mà cùng nhau chung lại để suy lường cũng không biết được trí Phật. Lỗi tại chỗ nào? Tại chỗ là suy lường thôi. Bởi vì suy lường là suy lường về nó, là còn cách xa với nó. Đoạn cuối Phật thổ lộ qua hai câu kệ:
Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năngPháp đó là pháp gì? Tức là diệu pháp này. Khi mình nói ra là nói về nó thôi, mình suy về nó thôi, tức là thuộc về khái niệm. Nói hay cách mấy cũng là khái niệm thôi, vẫn trái với cái hiện tiền rồi.Ở đây, nó như vậy là như vậy không thêm bớt gì trong đó hết. Do đó khi Phật mới thành đạo Ngài muốn Nhập Niết Bàn, vì thấy pháp Ngài chứng được nó quá chỗ hiểu biết của thế gian, quá ngôn ngữ diễn tả.
Cũng như Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa, gặp vua Lương Võ Đế đối đáp mà không thông cảm được, Ngài bỏ đi đến chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi quay mặt vô vách. Tại sao vậy? Là bởi vì chưa gặp người tri âm, chưa gặp người thông cảm được, khó nói, chỉ đành ngồi nhìn vào vách để chờ, chờ gặp người. Khi gặp được Ngài Thần Quang, nói ra thì Ngài cảm thông được, Tổ mới truyền Pháp. Cho nên chữ Diệu này không thể giải thích bằng chữ nghĩa cho hết.
Trong bộ Pháp Hoa Đề Cương của Thiền Sư Minh Chánh có bài tụng nói về chữ Diệu này:
Nan hình nan trạng diệc nan danh
Diệu tại kỳ trung nhứt điểm linh
Thường tịch viên thông minh pháp giới
Bản lai thanh tịnh oánh chơn tinh.
Do tư năng xuất sanh chư Phật
Diệc thị thành vi hữu chúng sanh
Thán nhĩ! chúng sanh mê giác phụ,
Cam vi cùng tử tẩu linh bình.
Tạm dịch là:Không hình, không dáng cũng không tên,
Diệu ở trong đây một điểm linh.
Pháp giới suốt thông thường lặng lẽ
Xưa nay thanh tịnh rực tánh chân.
Từ đây chư Phật sanh ra cả,
Cũng lại hay thành có chúng sanh.
Ơi hỡi! Chúng sanh quên cha giác!
Đành làm cùng tử chạy lang thang.Ngài nói chỗ Diệu nó không hình không tướng gì hết, cũng không tên nên không diễn tả nổi. Chính một điểm linh này, nó lặng lẽ sáng suốt thông cả pháp giới, không có chỗ nào chướng ngại. Vậy ngay đây cũng vẫn có, nhưng mê. Nó là xưa nay vẫn thanh tịnh như vậy, vốn chân thật nguyên vẹn, chói sáng chưa từng mê, chư Phật, chúng sanh từ đó mà hiện ra. Nói chư Phật từ đó hiện ra phải rồi, còn chúng sanh cũng từ đó hiện ra nữa sao? Bởi vì giác ngộ trọn vẹn chỗ này gọi chư Phật, còn mê mất chỗ này gọi là chúng sanh, cho nên cũng từ đó ra chớ không đâu khác. Như vậy ai ai cũng có "một ông cha tánh giác" này, nhưng bỏ quên, nên đành làm kẻ ăn mày lang thang, nghèo khổ, bữa đói bữa no, thật đáng thương! Trong kinh gọi là chàng cùng tử bỏ cha đi ăn xin, xin được chút ít thấy chịu rồi, còn khi gặp cha thì không dám nhận. Như vậy chữ Diệu, nó sẵn nơi chỗ này đây chớ không đâu khác, mà người không thấy là bị mê. Nếu tỏ ngộ diệu pháp này tức là khai tri kiến Phật là mở con mắt đạo Nhất thừa, đó chính là mở bộ kinh Pháp Hoa nơi chính mình.
2- Tri kiến Phật ở đâu ?
Biết Diệu pháp là tri kiến Phật rồi, bây giờ cái tri kiến Phật đó ở đâu? Nó ở đâu mà khó nói, khó chỉ? Sự thật hỏi ở đâu là lầm to, hỏi ở đâu là không biết gì về Tri Kiến Phật. Có ở đâu là nó thành ra cái bị thấy, là có chỗ nơi, mà đã có chỗ thấy, có chỗ nơi là ngoài mình rồi. Nên đặt câu hỏi đó, là không dính dáng gì rồi. Cho nên chỗ này phải chín chắn. Phải biết: tri là biết, kiến là thấy. Phật là giác ngộ, tức là thấy biết giác ngộ. Mà cái gì thấy biết, chính là tự tâm mình thôi. Ngoài tự tâm lấy gì thấy biết? Ngay đó thấy rõ ở đâu liền.
Soi lại tự tâm mình đó là căn bản để tu hành, đó cũng là gốc của muôn pháp, mọi pháp mà nói ra là chủ về tâm chớ gì. Tam tạng kinh điển nói cho nhiều, rốt cuộc là chỉ cái gì? Chỉ cho mình sáng lại tâm mình chớ không gì khác. Cho nên ngoài tự tâm mà đi tìm thì thuộc về kinh giáo để lại thôi. Nếu có, đó là tri kiến Phật văn tự, mà nói mạnh hơn là tri kiến Phật chết. Còn tri kiến Phật sống là ở ngay nơi mình. Vậy ai có tâm thì đều có phần, không phân biệt là nam hay nữ, là tăng hay tục. Bởi vậy trong kinh, Long nữ tám tuổi cũng thành Phật được. Trong kinh có bài kệ nói rằng:
Các Thế Tôn vị lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như Lai đó
Cũng phương tiện nói pháp
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Vào trí vô lậu Phật
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành PhậtĐây nói các Thế Tôn vị lai là ai? Tức là những người đang ngồi đó chứ gì?ù Phật thọ ký có người nghe pháp, không ai chẳng thành Phật.
Và:
Nếu người lòng tán loạn
Nhẫn đến dùng một bông
Cúng dường nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc là người lễ lạy
Hoặc là chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo vô thượngChỉ hơi cúi đầu thôi cũng dần dần thành đạo Vô thượng, như vậy trong đây Phật thọ ký cho hết. Mà đây đặc biệt, câu: ‘Tự thành đạo Vô thượng”, thành đó là tự thành, là thành ngay chính mình thôi chứ không đâu khác. Rõ đó thì mình thấy ngay ý nghĩa tri kiến Phật ở đâu liền.
3. Nói về khai thị tri kiến Phật.
Tức là đã có rồi làm sao chỉ bày đây? Nó là cái không hình không tướng, ngôn ngữ nói không tới, chỉ bày đây thế nào? Đây là chỉ đánh thức nhắc lại, gợi ý thôi, chớ làm sao chỉ thẳng ra được. Nghĩa là gợi ý cho người tự nhận nơi mình đó là khéo thôi. Cho nên trong kinh lúc Phật phóng ánh sáng, bài kệ cuối nói rằng:
Nay Phật phóng ánh sáng
Giúp bày nghĩa thực tướng
Phóng ánh sáng là giúp bày nghĩa thật tướng đó, bởi vì khó nói, không thể nói hết. Người lanh lợi, ngay khi thấy phóng ánh sáng đó thì nhận biết liền. Tức là phóng ánh sáng giữa chặng mày, soi suốt cả phương Đông, soi cả trên trời, soi cả địa ngục, không chỗ nào ngăn ngại. Ánh sáng mà soi đó để đánh thức ngay trong mắt này. Nghĩa là ngay cái thấy biết này mà lìa mọi phân biệt, đối đãi, thì ngay đó tri kiến Phật sẵn hiện tiền, cái đó nó thấu suốt tất cả các trần. Cho nên đây nói suốt qua các cõi, không chỗ nào nó không suốt. Nhưng Phật lúc đó chỉ nhập định phóng quang thôi, không nói. Tại sao vậy? Đó là để cho mỗi người tự thầm nhận, chớ không chết trên ngôn ngữ. Ngay buổi đầu nói kinh Pháp Hoa Ngài đã ngầm chỉ mình một cách khéo léo như vậy.Rồi phóng hào quang suốt qua các cõi, thấy các cõi như một cõi thôi, không ngăn chia gì nữa.
Lúc đó coi như hết niệm kia đây, quên cả ý niệm về không gian. Mình mắc kẹt không gian cho nên chướng ngại. Đây quên ý niệm không gian, ngay đó thực tại hiện tiền, tri kiến sáng ngời. Nhưng người học kinh Pháp Hoa nghe nói ánh sáng do Phật phóng như vậy, bây giờ ngồi tưởng tượng không biết bao giờ mình mới thấy được ánh sáng đó, ánh sáng đó ở đâu? Hiện giờ còn hay chăng? Chỗ này, trong kinh Phật cũng có ngầm ý này rồi, nói phóng nhưng cuối cùng không nói thâu, tức là ngày nay cũng vẫn còn. Cho nên trong nhà thiền, Thiền sư Viên Chiếu có lần Ngài thượng đường, bảo:
- Các ông hãy xem kìa, ánh sáng tốt lành rực rỡ, đang chiếu sáng cõi thế giới đại thiên, trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức biển cả, trăm ức núi Tu di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, cho đến trăm ức bốn châu thiên hạ, cho đến cõi Phật nhiều như bụi nhỏ đều ở trong ánh sáng đó hiện ra cùng một lúc. Này các vị, các vị có thấy chăng? Nếu mà thấy được là chính các vị đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy, còn không thấy được thì đừng nói ánh sáng tốt lành ấy chẳng chiếu soi, hãy tham đi!
Thiền Sư Viên Chiếu này là Thiền Sư bên Trung Hoa, sống thời Đường cách thời Phật nói kinh Pháp Hoa này cả ngàn năm hơn, mà Ngài vẫn thấy như trước mắt vậy, vậy là ánh sáng đó ở đâu? Tại sao Ngài thấy được, còn chúng ta thì không thấy? Đây Ngài Viên Chiếu bảo là nếu không thấy đừng bảo là không có, nó vẫn chiếu soi đó thôi, nên tham cứu trở lại xem. Tại vì mình không ở trong hội Pháp Hoa, nếu đang ở trong hội Pháp Hoa thì thấy liền, tức là mở tri kiến Phật thì thấy ngay, còn chưa mở thì nghe nói như chuyện đâu đâu. Rồi trong kinh lại nói: Phật Đại ThôngTrí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp cũng chẳng hiện tiền. Như vậy ngồi đạo tràng rồi mà mười kiếp Phật pháp chẳng hiện tiền. Nhiều người đọc đến chỗ này thắc mắc, không biết sao? Đã ngồi đạo tràng mà sao Phật pháp chưa hiện tiền, vậy Phật pháp ở đâu? Với người chưa sáng thì luôn luôn thắc mắc khó hiểu, mà càng tìm hiểu chừng nào càng không thể hiểu. Với người sáng mắt thì rất đơn giản, tại sao nó không hiện tiền? Là bởi vì còn muốn thấy hiện tiền, cho nên chẳng hiện thôi, nghĩa là còn thấy có Phật pháp để hiện nên nó không hiện. Tức là thấy ngoài mình riêng có cái Phật pháp nữa để mà hiện, là trái với hiện tiền rồi làm sao hiện. Bây giờ quên bặt khái niệm về Phật pháp đi, thì Phật pháp hiện ngay nơi mình thôi, khỏi cần chờ hiện mà nó cũng hiện. Cho nên Thiền Sư Hiểu Thuấn nói: "Nghe hai chữ Phật pháp là sớm để làm nhơ tai mắt của ta rồi". Tại sao vậy? Bởi Phật pháp đâu phải cái tên vô tri đó, nhưng mình nghe Phật pháp mình tưởng theo tên đó, rồi còn giải ra nữa. Phật là giác, nghĩa là pháp giác ngộ, thì quên mất hiện tiền đây rồi, khiến cho người nghe tưởng tượng có cái Phật pháp gì đó nữa, nên Ngài nói: nghe tên là làm nhơ tai mắt rồi.
Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, một hôm giờ tham vấn ban đêm có vị tăng vào thất, Sư hỏi là ai, vị Tăng không có đáp. Sư bảo:
- Ta biết được ngươi rồi.
Ông Tăng liền cười, Sư bảo:
- Lại đâu phải người nào khác.
Nhân đó Sư có bài kệ:
Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi
Trí giả chỉ kim mãnh đề thủ,
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.
Tức là:
Bước chân nhè nhẹ ngại người hay,
Cười nói rõ ràng có gì nghi.
Kẻ trí hiện nay liền nắm lấy,
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.Sư nói ông bước chân nhè nhẹ sợ người ta hay, nhưng mà ông cười, nói rõ ràng còn dối ai được nữa, rõ ràng nó lộ ra rồi. Cho nên: "Kẻ trí liền đó nắm lấy đi", ngay đó nhận liền, còn đợi sáng mai thì gà đi mất . Đợi suy nghĩ là nó xa, còn ngay đó nắm lấy là xong liền, rõ ràng chỉ ngay mọi hành động của mình, ngay chỗ mình cười nói rõ ràng đó, đã biểu lộ ánh sáng chân thật, chưa từng thiếu vắng bao giờ. Nhưng chỉ vì mọi người cứ lo nhớ cảnh trước mắt, lo sống theo cái bị biết, nên đành mê. Ở đây, nếu quí vị nhớ và thấy theo Như Lai thấy, thì lúc nào cũng hiện tiền hết.
Trong kinh Pháp Hoa có đoạn Phật nói: "Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không sai lầm".
Mình cũng vậy, nếu chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi thì thấy suốt không chỗ nào sai lầm hết, nghĩa là sao? Không như ba cõi mà thấy ba cõi, tức là thấy tất cả mọi sự mọi vật giữa cõi thế gian này, thấy hết không sót gì, nhưng thấy tất cả, mà không là cái gì hết. Liền đó là thấy suốt, không có chỗ nào lầm lẫn, không gì che mờ được.
Còn mình thấy cái gì, “là cái đó” , nó mê là mê chỗ đó thôi. Thấy cái bông là cái bông rồi, làm sao mà thấy suốt cái khác được. Còn đây là thấy tất cả mà đi qua hết, không dừng ở một cái gì, thì thấy vẫn y nguyên thấy, mê, giác, chỉ có chút xíu đó thôi. Ngay cái hoa này, mê cũng nó, giác cũng nó. Tri kiến Phật, tri kiến chúng sanh cũng ngay đó. Thiền sư Trí Thông ở trong hội của Ngài Qui Tông, đang đêm bỗng la:
- Tôi đại ngộ rồi, tôi đại ngộ rồi!
Sáng ra Ngài Qui Tông hỏi:
- Khi đêm ai la đại ngộ đâu, ra đây xem!
Sư liền ra thưa:
- Bạch Hòa thượng, là con.
Ngài Qui Tông hỏi:
- Ông thấy cái gì?
Ông nói:
- Sư cô là người nữ.
Sư cô là cô ni, cô ni là người nữ chớ có gì đâu? Ngài ngộ có bấy nhiêu đó.
Vậy ngộ cái gì? Tức không có gì khác, không có gì lạ lùng, chính ngay chỗ sống hàng ngày của mình, bây giờ nhớ lại ngộ thôi, cũng như sư cô là người nữ, chớ không gì khác. Người nghe tưởng tượng trong đầu ngộ phải phóng hào quang, phải là rực rỡ gì đó, thành quá xa. Có bài kệ Cổ Đức nói rằng:
Ngã tâm bổn dữ Phật tâm tề
Khoáng kiếp phiêu trầm chỉ vị mê
Bồ Đề Phạn ngữ Đường ngôn giác
Tâm tịch nhi tri thị Bồ Đề
Tức là:
Tâm ta tâm Phật vốn không hai,
Nhiều kiếp nổi chìm bởi tại mê,
Tiếng Phạn Bồ Đề, Tàu gọi giác,
Tâm tịch mà tri ấy Bồ Đề.Tâm mình tâm Phật không hai, chỉ tại mê lầm mà phải bao nhiêu kiếp nổi chìm trong biển luân hồi sanh tử. Sự thật Bồ đề là tiếng Phạn, Tàu gọi là giác chớ không gì khác, mà giác đó là cái gì? “Tâm tịch mà tri ấy Bồ Đề”à, tức tâm lặng mà biết. Biết mà lặng lẽ đó là giác, là Bồ Đề. Còn biết mà động đi theo duyên là thức là mê. Cho nên tâm Phật, tâm ta cũng chỗ đó, không khác.
4. Hội tam qui nhất
Hội tam qui nhất là gom ba về một, hội ba thừa về nhất thừa. Tức là đưa ba thừa về nơi một thừa, không còn chia hai chia ba sai biệt nữa. Tức đến kinh Pháp Hoa này, hay là đến chỗ tri kiến Phật này là gom về một thừa, không còn chia có hai, có ba sai biệt nữa. Đó là phá cái niệm sai biệt, không còn thấy có tiểu thừa, đại thừa. Không còn kẹt trong giai cấp tu chứng, Trong kinh nói : "Chỉ một việc này thật, có hai chẳng phải chân". Mình vừa thấy có hai tức là có cái bóng rồi, huống là thứ ba.
Nếu còn thấy có cái tâm thể Thanh Văn khác, có tâm thể Duyên Giác khác, có tâm thể Bồ Tát khác, có tâm thể Phật khác, thì sao? Rõ ràng chưa hết mê, tức là mình cách biệt với Phật rồi.
Ở đây mỗi người nghiệm rõ trở lại xem. Thí dụ khi mình mới phát tâm, thì mới phát tâm đó là ai? Rồi tới rốt ráo giác ngộ đó là ai? Có ai khác xen vào trong đó không? Mà đây chia tâm thể Thanh Văn khác, tâm thể Duyên Giác khác, tâm thể Bồ Tát khác, tâm thể Phật khác, thành ra có nhiều người trong đó rồi. Đây rõ ràng, từ lúc mới phát tâm đến lúc giác ngộ, có ai khác xen vào trong đó đâu. Nghĩa là chỉ một tri kiến Phật thôi. Nhưng mà tùy theo người ngộ nhập có sâu có cạn mới thành sai biệt. Người ngộ cạn thì nói là Bồ Tát mới, ngộ sâu thì Bồ Tát lên đăng địa, còn ngộ viên mãn thì thành Phật vậy thôi, nghĩa là thể tri kiến Phật vốn không hai. Cho nên ở chỗ này rõ rồi, nếu tự cho mình là A La Hán, mà không tin có tri kiến Phật, tức thấy có A La Hán riêng ngoài tri kiến Phật, thì có thật A La Hán chưa?
Vậy muốn sống trong tri kiến Phật này phải xóa tan hết ranh giới ba thừa phân biệt, không còn có tâm kia đây, mà muốn thấu được chỗ này thì sao? Phải thu hồi các hóa Phật về một chỗ, thì ngay Ta bà đây chuyển thành Tịnh độ liền. Ngay nơi đây núi, sông, gò nỗng cũng dời chỗ khác.
Như trong phẩm Hiện Bảo Tháp.
Lúc bấy giờ cõi Ta bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây, giăng ngang tám đường, không có các tụ lạc, làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông, cùng rừng bụi, trong đó đốt hương báu lớn, hoa mạn đà la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, rồi treo những linh báu. Có điều đặc biệt là chỉ lưu lại chúng trong hội này, còn dời các trời người ở chỗ khác, nghe tới đây quý vị thấy có buồn không? Đây để nói rằng, người ở trong tri kiến Phật đó thì mới thấy được, còn người ngoài làm sao thấy, dời là vậy chớ không phải dời đi đâu.
Cũng vậy, như mình ở đây, đang ngồi nghe tri kiến Phật đó, nhưng còn dùng vọng tưởng để nghe, thì giống như mình bị dời chỗ khác còn ngay đây cảm nhận tri kiến Phật thì tất cả đều sáng ngời, có thể nói ngay đây là pháp hội Linh Sơn cũng vẫn còn đang diễn bày đó. Nhưng chỉ người ở trong ánh sáng tri kiến Phật thì thấy rõ, còn người chưa vào trong đó thì không thấy. Đóù là để nói lên, tâm mình thanh tịnh rồi thì nhìn ra cái gì cũng thanh tịnh sáng suốt hết. Còn tâm mình tối, mê thì nhìn gì cũng tối, cũng mê, tâm mình có cao có thấp, nhìn ra thấy có cao có thấp, tâm bình đẳng thì nhìn đâu cũng bình đẳng.
Điểm kế nữa, hiểu rõ như vậy rồi, thì bây giờ thọ trì Pháp Hoa sao đây? Làm sao thọ trì, tức là gìn giữ để nó không gián đoạn, không mất? Mỗi tối phải tụng tới tụng lui hoài phải không? Dù cho tụng hay cách mấy cũng có gián đoạn, đâu phải tụng suốt cả ngày. Tức phải dùng trí vô sư ngay trong chính mình mới giữ nổi kinh Pháp Hoa này không mất thôi. Dù cho mình dùng trí thông minh lanh lợi cách mấy, dùng trí bên ngoài đó, thì có lúc cũng phải trả lại, cũng phải vắng mặt. Trí học ở ngoài của thầy lâu lâu cũng phải quên. Thí dụ đây, ngồi nghe thì biết có Pháp Hoa đó, nhưng ra ngoài thì quên mất rồi. Còn mình mở trí vô sư của mình đó thì không mất. Cho nên hình ảnh ở trong kinh Pháp Hoa là phó chúc cho các vị Bồ Tát từ dưới lòng đất vọt lên. Các vị Bồ Tát ở nơi cõi khác xin hộï trì Pháp Hoa, nhưng Phật không nhận mà nhận các vị Bồ Tát từ lòng đất vọt lên. Bồ Tát từ lòng đất vọt lên là trí vô sư từ tâm mình hiện ra. Phải mở trí vô sư này mới từ đó giữ gìn Pháp Hoa không mất được, vì nó ở ngay nơi mình. Mà khi mở trí vô sư này rồi thì nói theo kinh Pháp Hoa, mình mới bật ngửa một điều! Là tuổi thọ của Phật không tính kể! Bởi vì mình thấy, đây Phật không phải ở thân tướng, có hình có dạng này, mà thấy suốt qua pháp thân Phật. Như vậy cái thân này, dù Phật có nhập Niết Bàn nhưng tuổi thọ kia nó không cùng tận, dù cho thế giới có hoại, nó cũng không động đến tuổi thọ kia, sống với tuổi thọ đó mới là chỗ thọ trì Pháp Hoa chân thật, đúng với nghĩa thọ trì.
Thọ là nhận. Trì là gìn giữ. Nhận và gìn giữ không bao giờ mất. Còn quý vị nhận gìn giữ bộ Pháp Hoa để trên bàn đây, thế nào cũng mất thôi. Phải thấy được ý đó. Cho nên kế sau đó thì Như Lai chúc lụy: Ngài hiện tướng lưỡi rộng dài, từ đây trùm lên cả Trời Phạm Thiên: rồi tằng hắng, tiếng đó vang cả mười phương thế giới, Ngài dùng hình ảnh đó mà chúc lụy, tại sao không dùng lời nói mà chúc lụy nghe dễ hiểu không? Bởi đó là chỗ không nói hết bằng lời. Nghĩa là hiện tướng lưỡi rộng dài, ở đây trùm khắp hết cõi trời, rồi tằng hắng một tiếng vọng cả mười phương, ai nghe được tiếng tằng hắng đó, thì được Phật chúc lụy, ai thấy được tướng lưỡi rộng dài đó cũng được Phật chúc lụy. Vậy trên cái hoa, cái bàn nó cũng có cái tướng lưỡi của Phật đó, nếu mình thấy được. Mình thọ trì Pháp Hoa là thọ trì như vậy.
Điều quan trọng cuối cùng là phải thể nhập Pháp Hoa, nói gì nói phải thể nhập mới được, có thể nhập thì mới sống trọn vẹn trong tri kiến Phật, còn nói hay, hiểu gì cũng bên ngoài thôi. Có câu chuyện: có vị học giả Tông Thiên Thai, tên là Đạo Văn, ông đã trên 50 tuổi, từng nghiên cứu giáo nghĩa Thiên thai này trên 30 năm, ông nghe tiếng Thiền sư Chân Quán, là vị Thiền sư trước kia cũng từng nghiên cứu giáo nghĩa của Tông Thiên thai này, tức là giáo nghĩa Pháp Hoa, nhưng sau này tham thiền được sáng đạo thành Thiền sư. Đạo Văn đến tham vấn Ngài Chân Quán, thành khẩn thưa:
- Con đã học qua tư tưởng Pháp Hoa của tông Thiên thai từ nhỏ, nhưng chỉ có một vấn đề trước sau là chưa hiểu rõ.
Quí vị nghe chỗ này phải chú ý! Nghĩa là học qua tư tưởng kinh Pháp Hoa từ nhỏ, nhưng có một vấn đề không hiểu thôi. Chính chỗ đó là chỗ Thiền sư thấy ra.
Ngài Chân Quán bảo:
- Tư tưởng Pháp Hoa của Tông Thiên Thai rất là rộng lớn sâu xa, viên dung vô ngại, nên trong đó bao gồm rất nhiều vấn đề, thế mà ông chỉ có một vấn đề chẳng hiểu, như vậy chẳng biết đó là vấn đề gì ?
Đạo Văn thưa:
- Kinh Pháp Hoa nói tình với vô tình đồng tròn chủng trí (tình dữ vô tình, đồng viên cảnh trí). Ý này nhận cỏ cây hoa lá đều hay thành Phật được. Vậy xin hỏi thầy, cỏ hoa đó thật có khả năng thành Phật chăng ?
Quý vị học Pháp Hoa có nghi không? Trong đó nói tình dữ vô tình đồng thành chủng trí, vậy cỏ hoa đều có khả năng thành Phật hết. Cho nên đây ông mới nghi: cỏ hoa thật có khả năng thành Phật hay không ?
Thiền Sư Chân Quán bảo:
- Ba mươi năm nay ông mang cái niệm cỏ hoa cây lá có thành Phật hay không, đối với ông có ích gì ?
Ông nên quan tâm đến “tự chính mình, thế nào thành Phật” cần xét nghĩ như thế mới đúng hơn.
Đạo Văn ngạc nhiên mới thưa:
- Con quả thật chưa có nghĩ đến như thế, Vậy xin hỏi: Tự chính mình của con thế nào thành Phật ?
Thiền sư Chân Quán bảo:
- Ông đã nói chỉ có một vấn đề hỏi ta thôi, vậy liên quan tới vấn đề thứ hai, tự ông đã giải quyết xong rồi.
Mới đó ông nói chỉ có một vấn đề là không hiểu thôi, mà bây giờ vấn đề đó ông hỏi ta là vấn đề thứ hai rồi, mà vấn đề thứ hai là ông tự giải quyết xong rồi.
Cho thấy rõ ràng ông Pháp sư Đạo Văn này chỉ học trên chữ nghĩa. Nghiên cứu cũng nghiên cứu chữ nghĩa nên bị khái niệm tưởng tượng quá nhiều. Qua ngôn ngữ trình bày thì mình thấy rõ, ông nói tưởng đâu ông thông hết rồi, chỉ còn có một vấn đề thôi. Cho nên Ngài Chân Quán mới nhấn mạnh lại: "ông đã nói chỉ có vấn đề thôi, bây giờ liên quan đến vấn đề thứ hai, kể như ông giải quyết xong".
Như vậy đây là tưởng tượng thôi, chớ không phải thật là ông chỉ có vấn đề. Cho nên gặp Thiền Sư Chân Quán nhìn ra chỗ hở của ông rồi, do đó Thiền sư muốn đánh thức, đưa ông trực tiếp thể nghiệm vào, chớ không còn khái niệm suông.
Cho nên cuối cùng là Nhập Tri Kiến Phật, phá năm ấm, phá sạch hết tình chấp ngã, rỗng suốt qua các ấm đó, chỉ còn Tri Kiến Phật sáng ngời hiện hữu, lúc đó mình mới thật sự hiểu Pháp Hoa, mới có sức sống Pháp Hoa, thì ngay đây chính mình là bộ kinh Pháp Hoa. Nhưng nếu chỉ có sáng ở nơi mình thôi thì cũng chưa đủ. Mình sáng cho mình, nhưng chưa soi sáng cho tất cả mọi loài, cũng như chưa soi sáng cùng tột vị lai. Nên cuối cùng là phẩm Phổ Hiền, Ngài sẵn sàng hiện đến bất cứ chỗ nào có người trì Pháp Hoa. Vậy ngay đây mình trì Pháp Hoa, Ngài cũng sẵn sàng hiện đến, không có chừa. Nếu còn chừa một chúng sanh là còn chừa chỗ chưa giác. Tức là mình thấy còn một chúng sanh thật. Ở đây không có một chúng sanh nào thật hết, mà đều đầy đủ tri kiến Phật, thì cái thấy tri kiến Phật đó mới là triệt để, mới thấu suốt hoàn toàn.
Tóm lại, ai ai cũng đều có bộ kinh Pháp Hoa, cũng như Pháp Hội Linh Sơn cũng vẫn còn ngay trước mắt đây chớ chưa mất đi đâu, khỏi cần phải sợ. Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quán Âm cũng sẵn sàng ngay đây hết. Bởi vì Bồ Tát Phổ Hiền nói rõ: bất cứ chỗ nào có trì kinh Pháp Hoa thì Ngài sẵn sàng hiện tới. Mình cứ nghe Bồ Tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà, rồi tưởng tượng, trông hoài không thấy, chớ sự thật Bồ Tát Phổ Hiền là đang ở đây.
Ngài Lâm Tế có dạy ở điểm này, Ngài nói rằng: “Có hạng người học cứ nhắm vào trong núi Ngũ Đài để mà tìm Văn Thù, sớm đã lầm rồi. Núi Ngũ Đài không có Văn Thù, các ông muốn biết Văn Thù chăng? Chỉ là chỗ dùng ngay trước mắt của ông đây, trước sau chẳng có đổi khác, nơi nơi chẳng nghi ngờ, chính cái này là Văn Thù sống, các ông tâm niệm sáng soi không sai biệt, thì nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền, các ông một tâm niệm tự tại hay cởi trói tùy chỗ giải thoát thì chính đó là chánh định Quán Âm”. Vậy, ba vị Bồ Tát: Văn Thù - Quán Âm hay Phổ Hiền là cũng ngay nơi mình thôi, ngay trong tri kiến Phật là có đủ, nếu mình khéo mở cái tri kiến Phật. Phật tuy đã nói Pháp Hoa này cách đây hai ngàn mấy trăm năm rồi, nhưng mình nghe thấu chỗ này thì thấy như ngay trước mắt.
Nghe kinh Pháp Hoa phóng ánh sáng, rồi Bồ Tát dưới đất lên đầy cả cõi, mình tưởng tượng không biết là bao giờ cho thấy được. Rồi mong thấy nữa, thành ra tưởng tượng quá nhiều, trái xa với Phật đang hiện tiền đây.
Vậy kết thúc bằng bài kệ:
Hay thay! Diệu pháp chẳng nghĩ bàn,
Giữa dòng sanh tử vẫn tròn nguyên.
Dù bao Thu Tử chung lường biết,
Chỉ nhọc Thế Tôn bảo, bảo: dừng!
****
Nhắn gởi người người tụng Pháp Hoa,
Tụng suông muôn thuở vẫn mù lòa,
Phải liền soi lại nơi mình đấy,
“Nghe, thấy” bao giờ chẳng Pháp Hoa!!!
"font-family: Tahoma; font-size: small;" face="Tahoma" size="2"> Chánh sử khắp mười phương
Đều như Xá Lợi Phất
Và các đệ tử khác
Cũng đầy mười phương cõi
Cùng suy chung so lường
Cũng lại chẳng biết được.Nghĩa là, đầy mười phương đều như Xá Lợi Phất mà cùng nhau chung lại để suy lường cũng không biết được trí Phật. Lỗi tại chỗ nào? Tại chỗ là suy lường thôi. Bởi vì suy lường là suy lường về nó, là còn cách xa với nó. Đoạn cuối Phật thổ lộ qua hai câu kệ:
Pháp đó không chỉ được
Vắng bặt tướng nói năngPháp đó là pháp gì? Tức là diệu pháp này. Khi mình nói ra là nói về nó thôi, mình suy về nó thôi, tức là thuộc về khái niệm. Nói hay cách mấy cũng là khái niệm thôi, vẫn trái với cái hiện tiền rồi.Ở đây, nó như vậy là như vậy không thêm bớt gì trong đó hết. Do đó khi Phật mới thành đạo Ngài muốn Nhập Niết Bàn, vì thấy pháp Ngài chứng được nó quá chỗ hiểu biết của thế gian, quá ngôn ngữ diễn tả.
Cũng như Tổ Bồ Đề Đạt Ma khi sang Trung Hoa, gặp vua Lương Võ Đế đối đáp mà không thông cảm được, Ngài bỏ đi đến chùa Thiếu Lâm, chín năm ngồi quay mặt vô vách. Tại sao vậy? Là bởi vì chưa gặp người tri âm, chưa gặp người thông cảm được, khó nói, chỉ đành ngồi nhìn vào vách để chờ, chờ gặp người. Khi gặp được Ngài Thần Quang, nói ra thì Ngài cảm thông được, Tổ mới truyền Pháp. Cho nên chữ Diệu này không thể giải thích bằng chữ nghĩa cho hết.
Trong bộ Pháp Hoa Đề Cương của Thiền Sư Minh Chánh có bài tụng nói về chữ Diệu này:
Nan hình nan trạng diệc nan danh
Diệu tại kỳ trung nhứt điểm linh
Thường tịch viên thông minh pháp giới
Bản lai thanh tịnh oánh chơn tinh.
Do tư năng xuất sanh chư Phật
Diệc thị thành vi hữu chúng sanh
Thán nhĩ! chúng sanh mê giác phụ,
Cam vi cùng tử tẩu linh bình.
Tạm dịch là:Không hình, không dáng cũng không tên,
Diệu ở trong đây một điểm linh.
Pháp giới suốt thông thường lặng lẽ
Xưa nay thanh tịnh rực tánh chân.
Từ đây chư Phật sanh ra cả,
Cũng lại hay thành có chúng sanh.
Ơi hỡi! Chúng sanh quên cha giác!
Đành làm cùng tử chạy lang thang.Ngài nói chỗ Diệu nó không hình không tướng gì hết, cũng không tên nên không diễn tả nổi. Chính một điểm linh này, nó lặng lẽ sáng suốt thông cả pháp giới, không có chỗ nào chướng ngại. Vậy ngay đây cũng vẫn có, nhưng mê. Nó là xưa nay vẫn thanh tịnh như vậy, vốn chân thật nguyên vẹn, chói sáng chưa từng mê, chư Phật, chúng sanh từ đó mà hiện ra. Nói chư Phật từ đó hiện ra phải rồi, còn chúng sanh cũng từ đó hiện ra nữa sao? Bởi vì giác ngộ trọn vẹn chỗ này gọi chư Phật, còn mê mất chỗ này gọi là chúng sanh, cho nên cũng từ đó ra chớ không đâu khác. Như vậy ai ai cũng có "một ông cha tánh giác" này, nhưng bỏ quên, nên đành làm kẻ ăn mày lang thang, nghèo khổ, bữa đói bữa no, thật đáng thương! Trong kinh gọi là chàng cùng tử bỏ cha đi ăn xin, xin được chút ít thấy chịu rồi, còn khi gặp cha thì không dám nhận. Như vậy chữ Diệu, nó sẵn nơi chỗ này đây chớ không đâu khác, mà người không thấy là bị mê. Nếu tỏ ngộ diệu pháp này tức là khai tri kiến Phật là mở con mắt đạo Nhất thừa, đó chính là mở bộ kinh Pháp Hoa nơi chính mình.
2- Tri kiến Phật ở đâu ?
Biết Diệu pháp là tri kiến Phật rồi, bây giờ cái tri kiến Phật đó ở đâu? Nó ở đâu mà khó nói, khó chỉ? Sự thật hỏi ở đâu là lầm to, hỏi ở đâu là không biết gì về Tri Kiến Phật. Có ở đâu là nó thành ra cái bị thấy, là có chỗ nơi, mà đã có chỗ thấy, có chỗ nơi là ngoài mình rồi. Nên đặt câu hỏi đó, là không dính dáng gì rồi. Cho nên chỗ này phải chín chắn. Phải biết: tri là biết, kiến là thấy. Phật là giác ngộ, tức là thấy biết giác ngộ. Mà cái gì thấy biết, chính là tự tâm mình thôi. Ngoài tự tâm lấy gì thấy biết? Ngay đó thấy rõ ở đâu liền.
Soi lại tự tâm mình đó là căn bản để tu hành, đó cũng là gốc của muôn pháp, mọi pháp mà nói ra là chủ về tâm chớ gì. Tam tạng kinh điển nói cho nhiều, rốt cuộc là chỉ cái gì? Chỉ cho mình sáng lại tâm mình chớ không gì khác. Cho nên ngoài tự tâm mà đi tìm thì thuộc về kinh giáo để lại thôi. Nếu có, đó là tri kiến Phật văn tự, mà nói mạnh hơn là tri kiến Phật chết. Còn tri kiến Phật sống là ở ngay nơi mình. Vậy ai có tâm thì đều có phần, không phân biệt là nam hay nữ, là tăng hay tục. Bởi vậy trong kinh, Long nữ tám tuổi cũng thành Phật được. Trong kinh có bài kệ nói rằng:
Các Thế Tôn vị lai
Số nhiều không thể lường
Các đức Như Lai đó
Cũng phương tiện nói pháp
Tất cả các Như Lai
Dùng vô lượng phương tiện
Độ thoát các chúng sanh
Vào trí vô lậu Phật
Nếu có người nghe pháp
Không ai chẳng thành PhậtĐây nói các Thế Tôn vị lai là ai? Tức là những người đang ngồi đó chứ gì?ù Phật thọ ký có người nghe pháp, không ai chẳng thành Phật.
Và:
Nếu người lòng tán loạn
Nhẫn đến dùng một bông
Cúng dường nơi tượng vẽ
Lần thấy các đức Phật
Hoặc là người lễ lạy
Hoặc là chỉ chắp tay
Nhẫn đến giơ một tay
Hoặc lại hơi cúi đầu
Dùng đây cúng dường tượng
Lần thấy vô lượng Phật
Tự thành đạo vô thượngChỉ hơi cúi đầu thôi cũng dần dần thành đạo Vô thượng, như vậy trong đây Phật thọ ký cho hết. Mà đây đặc biệt, câu: ‘Tự thành đạo Vô thượng”, thành đó là tự thành, là thành ngay chính mình thôi chứ không đâu khác. Rõ đó thì mình thấy ngay ý nghĩa tri kiến Phật ở đâu liền.
3. Nói về khai thị tri kiến Phật.
Tức là đã có rồi làm sao chỉ bày đây? Nó là cái không hình không tướng, ngôn ngữ nói không tới, chỉ bày đây thế nào? Đây là chỉ đánh thức nhắc lại, gợi ý thôi, chớ làm sao chỉ thẳng ra được. Nghĩa là gợi ý cho người tự nhận nơi mình đó là khéo thôi. Cho nên trong kinh lúc Phật phóng ánh sáng, bài kệ cuối nói rằng:
Nay Phật phóng ánh sáng
Giúp bày nghĩa thực tướng
Phóng ánh sáng là giúp bày nghĩa thật tướng đó, bởi vì khó nói, không thể nói hết. Người lanh lợi, ngay khi thấy phóng ánh sáng đó thì nhận biết liền. Tức là phóng ánh sáng giữa chặng mày, soi suốt cả phương Đông, soi cả trên trời, soi cả địa ngục, không chỗ nào ngăn ngại. Ánh sáng mà soi đó để đánh thức ngay trong mắt này. Nghĩa là ngay cái thấy biết này mà lìa mọi phân biệt, đối đãi, thì ngay đó tri kiến Phật sẵn hiện tiền, cái đó nó thấu suốt tất cả các trần. Cho nên đây nói suốt qua các cõi, không chỗ nào nó không suốt. Nhưng Phật lúc đó chỉ nhập định phóng quang thôi, không nói. Tại sao vậy? Đó là để cho mỗi người tự thầm nhận, chớ không chết trên ngôn ngữ. Ngay buổi đầu nói kinh Pháp Hoa Ngài đã ngầm chỉ mình một cách khéo léo như vậy.Rồi phóng hào quang suốt qua các cõi, thấy các cõi như một cõi thôi, không ngăn chia gì nữa.
Lúc đó coi như hết niệm kia đây, quên cả ý niệm về không gian. Mình mắc kẹt không gian cho nên chướng ngại. Đây quên ý niệm không gian, ngay đó thực tại hiện tiền, tri kiến sáng ngời. Nhưng người học kinh Pháp Hoa nghe nói ánh sáng do Phật phóng như vậy, bây giờ ngồi tưởng tượng không biết bao giờ mình mới thấy được ánh sáng đó, ánh sáng đó ở đâu? Hiện giờ còn hay chăng? Chỗ này, trong kinh Phật cũng có ngầm ý này rồi, nói phóng nhưng cuối cùng không nói thâu, tức là ngày nay cũng vẫn còn. Cho nên trong nhà thiền, Thiền sư Viên Chiếu có lần Ngài thượng đường, bảo:
- Các ông hãy xem kìa, ánh sáng tốt lành rực rỡ, đang chiếu sáng cõi thế giới đại thiên, trăm ức vi trần cõi nước, trăm ức biển cả, trăm ức núi Tu di, trăm ức mặt trời, mặt trăng, cho đến trăm ức bốn châu thiên hạ, cho đến cõi Phật nhiều như bụi nhỏ đều ở trong ánh sáng đó hiện ra cùng một lúc. Này các vị, các vị có thấy chăng? Nếu mà thấy được là chính các vị đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành ấy, còn không thấy được thì đừng nói ánh sáng tốt lành ấy chẳng chiếu soi, hãy tham đi!
Thiền Sư Viên Chiếu này là Thiền Sư bên Trung Hoa, sống thời Đường cách thời Phật nói kinh Pháp Hoa này cả ngàn năm hơn, mà Ngài vẫn thấy như trước mắt vậy, vậy là ánh sáng đó ở đâu? Tại sao Ngài thấy được, còn chúng ta thì không thấy? Đây Ngài Viên Chiếu bảo là nếu không thấy đừng bảo là không có, nó vẫn chiếu soi đó thôi, nên tham cứu trở lại xem. Tại vì mình không ở trong hội Pháp Hoa, nếu đang ở trong hội Pháp Hoa thì thấy liền, tức là mở tri kiến Phật thì thấy ngay, còn chưa mở thì nghe nói như chuyện đâu đâu. Rồi trong kinh lại nói: Phật Đại ThôngTrí Thắng mười kiếp ngồi đạo tràng, Phật pháp cũng chẳng hiện tiền. Như vậy ngồi đạo tràng rồi mà mười kiếp Phật pháp chẳng hiện tiền. Nhiều người đọc đến chỗ này thắc mắc, không biết sao? Đã ngồi đạo tràng mà sao Phật pháp chưa hiện tiền, vậy Phật pháp ở đâu? Với người chưa sáng thì luôn luôn thắc mắc khó hiểu, mà càng tìm hiểu chừng nào càng không thể hiểu. Với người sáng mắt thì rất đơn giản, tại sao nó không hiện tiền? Là bởi vì còn muốn thấy hiện tiền, cho nên chẳng hiện thôi, nghĩa là còn thấy có Phật pháp để hiện nên nó không hiện. Tức là thấy ngoài mình riêng có cái Phật pháp nữa để mà hiện, là trái với hiện tiền rồi làm sao hiện. Bây giờ quên bặt khái niệm về Phật pháp đi, thì Phật pháp hiện ngay nơi mình thôi, khỏi cần chờ hiện mà nó cũng hiện. Cho nên Thiền Sư Hiểu Thuấn nói: "Nghe hai chữ Phật pháp là sớm để làm nhơ tai mắt của ta rồi". Tại sao vậy? Bởi Phật pháp đâu phải cái tên vô tri đó, nhưng mình nghe Phật pháp mình tưởng theo tên đó, rồi còn giải ra nữa. Phật là giác, nghĩa là pháp giác ngộ, thì quên mất hiện tiền đây rồi, khiến cho người nghe tưởng tượng có cái Phật pháp gì đó nữa, nên Ngài nói: nghe tên là làm nhơ tai mắt rồi.
Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, một hôm giờ tham vấn ban đêm có vị tăng vào thất, Sư hỏi là ai, vị Tăng không có đáp. Sư bảo:
- Ta biết được ngươi rồi.
Ông Tăng liền cười, Sư bảo:
- Lại đâu phải người nào khác.
Nhân đó Sư có bài kệ:
Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi
Trí giả chỉ kim mãnh đề thủ,
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.
Tức là:
Bước chân nhè nhẹ ngại người hay,
Cười nói rõ ràng có gì nghi.
Kẻ trí hiện nay liền nắm lấy,
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.Sư nói ông bước chân nhè nhẹ sợ người ta hay, nhưng mà ông cười, nói rõ ràng còn dối ai được nữa, rõ ràng nó lộ ra rồi. Cho nên: "Kẻ trí liền đó nắm lấy đi", ngay đó nhận liền, còn đợi sáng mai thì gà đi mất . Đợi suy nghĩ là nó xa, còn ngay đó nắm lấy là xong liền, rõ ràng chỉ ngay mọi hành động của mình, ngay chỗ mình cười nói rõ ràng đó, đã biểu lộ ánh sáng chân thật, chưa từng thiếu vắng bao giờ. Nhưng chỉ vì mọi người cứ lo nhớ cảnh trước mắt, lo sống theo cái bị biết, nên đành mê. Ở đây, nếu quí vị nhớ và thấy theo Như Lai thấy, thì lúc nào cũng hiện tiền hết.
Trong kinh Pháp Hoa có đoạn Phật nói: "Như Lai chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi, Như Lai thấy suốt không sai lầm".
Mình cũng vậy, nếu chẳng như ba cõi mà thấy ba cõi thì thấy suốt không chỗ nào sai lầm hết, nghĩa là sao? Không như ba cõi mà thấy ba cõi, tức là thấy tất cả mọi sự mọi vật giữa cõi thế gian này, thấy hết không sót gì, nhưng thấy tất cả, mà không là cái gì hết. Liền đó là thấy suốt, không có chỗ nào lầm lẫn, không gì che mờ được.
Còn mình thấy cái gì, “là cái đó” , nó mê là mê chỗ đó thôi. Thấy cái bông là cái bông rồi, làm sao mà thấy suốt cái khác được. Còn đây là thấy tất cả mà đi qua hết, không dừng ở một cái gì, thì thấy vẫn y nguyên thấy, mê, giác, chỉ có chút xíu đó thôi. Ngay cái hoa này, mê cũng nó, giác cũng nó. Tri kiến Phật, tri kiến chúng sanh cũng ngay đó. Thiền sư Trí Thông ở trong hội của Ngài Qui Tông, đang đêm bỗng la:
- Tôi đại ngộ rồi, tôi đại ngộ rồi!
Sáng ra Ngài Qui Tông hỏi:
- Khi đêm ai la đại ngộ đâu, ra đây xem!
Sư liền ra thưa:
- Bạch Hòa thượng, là con.
Ngài Qui Tông hỏi:
- Ông thấy cái gì?
Ông nói:
- Sư cô là người nữ.
Sư cô là cô ni, cô ni là người nữ chớ có gì đâu? Ngài ngộ có bấy nhiêu đó.
Vậy ngộ cái gì? Tức không có gì khác, không có gì lạ lùng, chính ngay chỗ sống hàng ngày của mình, bây giờ nhớ lại ngộ thôi, cũng như sư cô là người nữ, chớ không gì khác. Người nghe tưởng tượng trong đầu ngộ phải phóng hào quang, phải là rực rỡ gì đó, thành quá xa. Có bài kệ Cổ Đức nói rằng:
Ngã tâm bổn dữ Phật tâm tề
Khoáng kiếp phiêu trầm chỉ vị mê
Bồ Đề Phạn ngữ Đường ngôn giác
Tâm tịch nhi tri thị Bồ Đề
Tức là:
Tâm ta tâm Phật vốn không hai,
Nhiều kiếp nổi chìm bởi tại mê,
Tiếng Phạn Bồ Đề, Tàu gọi giác,
Tâm tịch mà tri ấy Bồ Đề.Tâm mình tâm Phật không hai, chỉ tại mê lầm mà phải bao nhiêu kiếp nổi chìm trong biển luân hồi sanh tử. Sự thật Bồ đề là tiếng Phạn, Tàu gọi là giác chớ không gì khác, mà giác đó là cái gì? “Tâm tịch mà tri ấy Bồ Đề”à, tức tâm lặng mà biết. Biết mà lặng lẽ đó là giác, là Bồ Đề. Còn biết mà động đi theo duyên là thức là mê. Cho nên tâm Phật, tâm ta cũng chỗ đó, không khác.
4. Hội tam qui nhất
Hội tam qui nhất là gom ba về một, hội ba thừa về nhất thừa. Tức là đưa ba thừa về nơi một thừa, không còn chia hai chia ba sai biệt nữa. Tức đến kinh Pháp Hoa này, hay là đến chỗ tri kiến Phật này là gom về một thừa, không còn chia có hai, có ba sai biệt nữa. Đó là phá cái niệm sai biệt, không còn thấy có tiểu thừa, đại thừa. Không còn kẹt trong giai cấp tu chứng, Trong kinh nói : "Chỉ một việc này thật, có hai chẳng phải chân". Mình vừa thấy có hai tức là có cái bóng rồi, huống là thứ ba.
Nếu còn thấy có cái tâm thể Thanh Văn khác, có tâm thể Duyên Giác khác, có tâm thể Bồ Tát khác, có tâm thể Phật khác, thì sao? Rõ ràng chưa hết mê, tức là mình cách biệt với Phật rồi.
Ở đây mỗi người nghiệm rõ trở lại xem. Thí dụ khi mình mới phát tâm, thì mới phát tâm đó là ai? Rồi tới rốt ráo giác ngộ đó là ai? Có ai khác xen vào trong đó không? Mà đây chia tâm thể Thanh Văn khác, tâm thể Duyên Giác khác, tâm thể Bồ Tát khác, tâm thể Phật khác, thành ra có nhiều người trong đó rồi. Đây rõ ràng, từ lúc mới phát tâm đến lúc giác ngộ, có ai khác xen vào trong đó đâu. Nghĩa là chỉ một tri kiến Phật thôi. Nhưng mà tùy theo người ngộ nhập có sâu có cạn mới thành sai biệt. Người ngộ cạn thì nói là Bồ Tát mới, ngộ sâu thì Bồ Tát lên đăng địa, còn ngộ viên mãn thì thành Phật vậy thôi, nghĩa là thể tri kiến Phật vốn không hai. Cho nên ở chỗ này rõ rồi, nếu tự cho mình là A La Hán, mà không tin có tri kiến Phật, tức thấy có A La Hán riêng ngoài tri kiến Phật, thì có thật A La Hán chưa?
Vậy muốn sống trong tri kiến Phật này phải xóa tan hết ranh giới ba thừa phân biệt, không còn có tâm kia đây, mà muốn thấu được chỗ này thì sao? Phải thu hồi các hóa Phật về một chỗ, thì ngay Ta bà đây chuyển thành Tịnh độ liền. Ngay nơi đây núi, sông, gò nỗng cũng dời chỗ khác.
Như trong phẩm Hiện Bảo Tháp.
Lúc bấy giờ cõi Ta bà biến thành thanh tịnh, đất bằng lưu ly, cây báu trang nghiêm, vàng ròng làm dây, giăng ngang tám đường, không có các tụ lạc, làng xóm, thành ấp, biển cả, sông ngòi, núi sông, cùng rừng bụi, trong đó đốt hương báu lớn, hoa mạn đà la trải khắp cõi đất, dùng lưới màn báu giăng trùm ở trên, rồi treo những linh báu. Có điều đặc biệt là chỉ lưu lại chúng trong hội này, còn dời các trời người ở chỗ khác, nghe tới đây quý vị thấy có buồn không? Đây để nói rằng, người ở trong tri kiến Phật đó thì mới thấy được, còn người ngoài làm sao thấy, dời là vậy chớ không phải dời đi đâu.
Cũng vậy, như mình ở đây, đang ngồi nghe tri kiến Phật đó, nhưng còn dùng vọng tưởng để nghe, thì giống như mình bị dời chỗ khác còn ngay đây cảm nhận tri kiến Phật thì tất cả đều sáng ngời, có thể nói ngay đây là pháp hội Linh Sơn cũng vẫn còn đang diễn bày đó. Nhưng chỉ người ở trong ánh sáng tri kiến Phật thì thấy rõ, còn người chưa vào trong đó thì không thấy. Đóù là để nói lên, tâm mình thanh tịnh rồi thì nhìn ra cái gì cũng thanh tịnh sáng suốt hết. Còn tâm mình tối, mê thì nhìn gì cũng tối, cũng mê, tâm mình có cao có thấp, nhìn ra thấy có cao có thấp, tâm bình đẳng thì nhìn đâu cũng bình đẳng.
Điểm kế nữa, hiểu rõ như vậy rồi, thì bây giờ thọ trì Pháp Hoa sao đây? Làm sao thọ trì, tức là gìn giữ để nó không gián đoạn, không mất? Mỗi tối phải tụng tới tụng lui hoài phải không? Dù cho tụng hay cách mấy cũng có gián đoạn, đâu phải tụng suốt cả ngày. Tức phải dùng trí vô sư ngay trong chính mình mới giữ nổi kinh Pháp Hoa này không mất thôi. Dù cho mình dùng trí thông minh lanh lợi cách mấy, dùng trí bên ngoài đó, thì có lúc cũng phải trả lại, cũng phải vắng mặt. Trí học ở ngoài của thầy lâu lâu cũng phải quên. Thí dụ đây, ngồi nghe thì biết có Pháp Hoa đó, nhưng ra ngoài thì quên mất rồi. Còn mình mở trí vô sư của mình đó thì không mất. Cho nên hình ảnh ở trong kinh Pháp Hoa là phó chúc cho các vị Bồ Tát từ dưới lòng đất vọt lên. Các vị Bồ Tát ở nơi cõi khác xin hộï trì Pháp Hoa, nhưng Phật không nhận mà nhận các vị Bồ Tát từ lòng đất vọt lên. Bồ Tát từ lòng đất vọt lên là trí vô sư từ tâm mình hiện ra. Phải mở trí vô sư này mới từ đó giữ gìn Pháp Hoa không mất được, vì nó ở ngay nơi mình. Mà khi mở trí vô sư này rồi thì nói theo kinh Pháp Hoa, mình mới bật ngửa một điều! Là tuổi thọ của Phật không tính kể! Bởi vì mình thấy, đây Phật không phải ở thân tướng, có hình có dạng này, mà thấy suốt qua pháp thân Phật. Như vậy cái thân này, dù Phật có nhập Niết Bàn nhưng tuổi thọ kia nó không cùng tận, dù cho thế giới có hoại, nó cũng không động đến tuổi thọ kia, sống với tuổi thọ đó mới là chỗ thọ trì Pháp Hoa chân thật, đúng với nghĩa thọ trì.
Thọ là nhận. Trì là gìn giữ. Nhận và gìn giữ không bao giờ mất. Còn quý vị nhận gìn giữ bộ Pháp Hoa để trên bàn đây, thế nào cũng mất thôi. Phải thấy được ý đó. Cho nên kế sau đó thì Như Lai chúc lụy: Ngài hiện tướng lưỡi rộng dài, từ đây trùm lên cả Trời Phạm Thiên: rồi tằng hắng, tiếng đó vang cả mười phương thế giới, Ngài dùng hình ảnh đó mà chúc lụy, tại sao không dùng lời nói mà chúc lụy nghe dễ hiểu không? Bởi đó là chỗ không nói hết bằng lời. Nghĩa là hiện tướng lưỡi rộng dài, ở đây trùm khắp hết cõi trời, rồi tằng hắng một tiếng vọng cả mười phương, ai nghe được tiếng tằng hắng đó, thì được Phật chúc lụy, ai thấy được tướng lưỡi rộng dài đó cũng được Phật chúc lụy. Vậy trên cái hoa, cái bàn nó cũng có cái tướng lưỡi của Phật đó, nếu mình thấy được. Mình thọ trì Pháp Hoa là thọ trì như vậy.
Điều quan trọng cuối cùng là phải thể nhập Pháp Hoa, nói gì nói phải thể nhập mới được, có thể nhập thì mới sống trọn vẹn trong tri kiến Phật, còn nói hay, hiểu gì cũng bên ngoài thôi. Có câu chuyện: có vị học giả Tông Thiên Thai, tên là Đạo Văn, ông đã trên 50 tuổi, từng nghiên cứu giáo nghĩa Thiên thai này trên 30 năm, ông nghe tiếng Thiền sư Chân Quán, là vị Thiền sư trước kia cũng từng nghiên cứu giáo nghĩa của Tông Thiên thai này, tức là giáo nghĩa Pháp Hoa, nhưng sau này tham thiền được sáng đạo thành Thiền sư. Đạo Văn đến tham vấn Ngài Chân Quán, thành khẩn thưa:
- Con đã học qua tư tưởng Pháp Hoa của tông Thiên thai từ nhỏ, nhưng chỉ có một vấn đề trước sau là chưa hiểu rõ.
Quí vị nghe chỗ này phải chú ý! Nghĩa là học qua tư tưởng kinh Pháp Hoa từ nhỏ, nhưng có một vấn đề không hiểu thôi. Chính chỗ đó là chỗ Thiền sư thấy ra.
Ngài Chân Quán bảo:
- Tư tưởng Pháp Hoa của Tông Thiên Thai rất là rộng lớn sâu xa, viên dung vô ngại, nên trong đó bao gồm rất nhiều vấn đề, thế mà ông chỉ có một vấn đề chẳng hiểu, như vậy chẳng biết đó là vấn đề gì ?
Đạo Văn thưa:
- Kinh Pháp Hoa nói tình với vô tình đồng tròn chủng trí (tình dữ vô tình, đồng viên cảnh trí). Ý này nhận cỏ cây hoa lá đều hay thành Phật được. Vậy xin hỏi thầy, cỏ hoa đó thật có khả năng thành Phật chăng ?
Quý vị học Pháp Hoa có nghi không? Trong đó nói tình dữ vô tình đồng thành chủng trí, vậy cỏ hoa đều có khả năng thành Phật hết. Cho nên đây ông mới nghi: cỏ hoa thật có khả năng thành Phật hay không ?
Thiền Sư Chân Quán bảo:
- Ba mươi năm nay ông mang cái niệm cỏ hoa cây lá có thành Phật hay không, đối với ông có ích gì ?
Ông nên quan tâm đến “tự chính mình, thế nào thành Phật” cần xét nghĩ như thế mới đúng hơn.
Đạo Văn ngạc nhiên mới thưa:
- Con quả thật chưa có nghĩ đến như thế, Vậy xin hỏi: Tự chính mình của con thế nào thành Phật ?
Thiền sư Chân Quán bảo:
- Ông đã nói chỉ có một vấn đề hỏi ta thôi, vậy liên quan tới vấn đề thứ hai, tự ông đã giải quyết xong rồi.
Mới đó ông nói chỉ có một vấn đề là không hiểu thôi, mà bây giờ vấn đề đó ông hỏi ta là vấn đề thứ hai rồi, mà vấn đề thứ hai là ông tự giải quyết xong rồi.
Cho thấy rõ ràng ông Pháp sư Đạo Văn này chỉ học trên chữ nghĩa. Nghiên cứu cũng nghiên cứu chữ nghĩa nên bị khái niệm tưởng tượng quá nhiều. Qua ngôn ngữ trình bày thì mình thấy rõ, ông nói tưởng đâu ông thông hết rồi, chỉ còn có một vấn đề thôi. Cho nên Ngài Chân Quán mới nhấn mạnh lại: "ông đã nói chỉ có vấn đề thôi, bây giờ liên quan đến vấn đề thứ hai, kể như ông giải quyết xong".
Như vậy đây là tưởng tượng thôi, chớ không phải thật là ông chỉ có vấn đề. Cho nên gặp Thiền Sư Chân Quán nhìn ra chỗ hở của ông rồi, do đó Thiền sư muốn đánh thức, đưa ông trực tiếp thể nghiệm vào, chớ không còn khái niệm suông.
Cho nên cuối cùng là Nhập Tri Kiến Phật, phá năm ấm, phá sạch hết tình chấp ngã, rỗng suốt qua các ấm đó, chỉ còn Tri Kiến Phật sáng ngời hiện hữu, lúc đó mình mới thật sự hiểu Pháp Hoa, mới có sức sống Pháp Hoa, thì ngay đây chính mình là bộ kinh Pháp Hoa. Nhưng nếu chỉ có sáng ở nơi mình thôi thì cũng chưa đủ. Mình sáng cho mình, nhưng chưa soi sáng cho tất cả mọi loài, cũng như chưa soi sáng cùng tột vị lai. Nên cuối cùng là phẩm Phổ Hiền, Ngài sẵn sàng hiện đến bất cứ chỗ nào có người trì Pháp Hoa. Vậy ngay đây mình trì Pháp Hoa, Ngài cũng sẵn sàng hiện đến, không có chừa. Nếu còn chừa một chúng sanh là còn chừa chỗ chưa giác. Tức là mình thấy còn một chúng sanh thật. Ở đây không có một chúng sanh nào thật hết, mà đều đầy đủ tri kiến Phật, thì cái thấy tri kiến Phật đó mới là triệt để, mới thấu suốt hoàn toàn.
Tóm lại, ai ai cũng đều có bộ kinh Pháp Hoa, cũng như Pháp Hội Linh Sơn cũng vẫn còn ngay trước mắt đây chớ chưa mất đi đâu, khỏi cần phải sợ. Bồ Tát Phổ Hiền, Bồ Tát Văn Thù, Bồ Tát Quán Âm cũng sẵn sàng ngay đây hết. Bởi vì Bồ Tát Phổ Hiền nói rõ: bất cứ chỗ nào có trì kinh Pháp Hoa thì Ngài sẵn sàng hiện tới. Mình cứ nghe Bồ Tát Phổ Hiền cỡi voi trắng sáu ngà, rồi tưởng tượng, trông hoài không thấy, chớ sự thật Bồ Tát Phổ Hiền là đang ở đây.
Ngài Lâm Tế có dạy ở điểm này, Ngài nói rằng: “Có hạng người học cứ nhắm vào trong núi Ngũ Đài để mà tìm Văn Thù, sớm đã lầm rồi. Núi Ngũ Đài không có Văn Thù, các ông muốn biết Văn Thù chăng? Chỉ là chỗ dùng ngay trước mắt của ông đây, trước sau chẳng có đổi khác, nơi nơi chẳng nghi ngờ, chính cái này là Văn Thù sống, các ông tâm niệm sáng soi không sai biệt, thì nơi nơi thảy là chân Phổ Hiền, các ông một tâm niệm tự tại hay cởi trói tùy chỗ giải thoát thì chính đó là chánh định Quán Âm”. Vậy, ba vị Bồ Tát: Văn Thù - Quán Âm hay Phổ Hiền là cũng ngay nơi mình thôi, ngay trong tri kiến Phật là có đủ, nếu mình khéo mở cái tri kiến Phật. Phật tuy đã nói Pháp Hoa này cách đây hai ngàn mấy trăm năm rồi, nhưng mình nghe thấu chỗ này thì thấy như ngay trước mắt.
Nghe kinh Pháp Hoa phóng ánh sáng, rồi Bồ Tát dưới đất lên đầy cả cõi, mình tưởng tượng không biết là bao giờ cho thấy được. Rồi mong thấy nữa, thành ra tưởng tượng quá nhiều, trái xa với Phật đang hiện tiền đây.
Vậy kết thúc bằng bài kệ:
Hay thay! Diệu pháp chẳng nghĩ bàn,
Giữa dòng sanh tử vẫn tròn nguyên.
Dù bao Thu Tử chung lường biết,
Chỉ nhọc Thế Tôn bảo, bảo: dừng!
****
Nhắn gởi người người tụng Pháp Hoa,
Tụng suông muôn thuở vẫn mù lòa,
Phải liền soi lại nơi mình đấy,
“Nghe, thấy” bao giờ chẳng Pháp Hoa!!!
Mục lục
- 1. Giải đề kinh
- 2. Phẩm tựa
- 3. Phẩm phương tiện
- 4. Phẩm Thí dụ
- 5. Phẩm Tín giải
- 6. Phẩm Dược Thảo Dụ
- 7. Phẩm Thọ ký
- 8. Phẩm Hóa thành dụ
- 9. Phẩm Ngũ bá đệ tử thọ ký
- 10. Phẩm thọ học vô học nhân ký
- 11. Phẩm pháp sư
- 12. Phẩm hiện bửu tháp
- 13. Phẩm Đề Bà Đạt Đa
- 14. Phẩm Trì
- 15. Phẩm An lạc hạnh
- 16. Phẩm Tùng địa dũng xuất
- 17. Phẩm Như lai Vô lượng thọ
- 18. Phẩm phân biệt công đức
- 19. Phẩm Tùy hỷ công đức
- 20. Phẩm Pháp sư công đức
- 21. Phẩm Thường bất khinh Bồ tát
- 22. Phẩm Như lai thần lực
- 23. Phẩm Chúc lụy
- 24. Phẩm Dược Vương Bồ tát bổn sự
- 25. Phẩm Diệu âm Bồ tát
- 26. Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát phổ môn phẩm
- 27. Phẩm Đà la ni
- 28. Phẩm Diệu trang nghiêm vương bổn sự
- 29. Phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát
- 30. Tổng kết Kinh Pháp Hoa
Tìm kiếm
Tác giả
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 05713
- Online: 33