Mười hai đại nguyện của Phật Dược Sư qua cái thấy của nhà thiền

16/04/2015 | Lượt xem: 42

Danh mục: Kinh - Luật

DẪN NHẬP

Đối với hệ thống kinh điển của nhà Phật thì có những nơi chỉ chấp nhận bốn bộ A Hàm là Trung A Hàm, Tạp A Hàm, Tăng Nhất A Hàm và Trường A Hàm vì những bộ Kinh này có lịch sử rõ ràng là do Phật nói, còn những bộ kinh Đại thừa như Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Già, Kinh Dược Sư, Kinh Lăng Nghiêm… thì không chấp nhận. Cho nên sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn thì chia thành hai bộ phái lớn, một là Thượng tọa bộ và hai là Đại chúng bộ. Từ hai bộ phái đó chia ra 18 bộ phái nữa, tổng là 20 bộ phái. Nhưng thực ra trong bốn mươi chín ngày đêm Đức Phật ngồi thiền dưới cội cây Bồ đề hoắc nhiên đại ngộ thì trong miền sâu thẳm của tâm thức không có tiểu mà cũng không có đại. Sở dĩ chia ra Tiểu thừa và Đại thừa là vì tâm mình có tiểu có đại, chứ pháp thì không có tiểu cũng không có đại. Cho nên sau khi thành đạo thì Đức Phật do dự không muốn nói pháp vi diệu mầu nhiệm vì sợ chúng sanh căn tánh thấp kém sẽ không tin, mà đã không tin thì phỉ báng thánh pháp, sa đọa trong ba đường ác. Lúc bấy giờ, Phạm thiên Sa-ba-ti ba lần thưa thỉnh, Đức Phật mới dùng phương tiện thiện xảo chia ra làm ba thừa, mười hai phần giáo. Do đó trong kinh Pháp Bảo Đàn, phẩm Cơ Duyên, một hôm Ngài Trí Thường hỏi Lục Tổ:

-         Phật nói Pháp ba thừa, lại nói tối thượng thừa, đệ tử chưa hiểu. Cúi mong Ngài chỉ dạy.

Tổ đáp:

-         Ông xem nơi bản tâm mình, chớ có chấp pháp tướng bên ngoài. Pháp không có bốn thừa, tâm người tự có những sai biệt. Thấy nghe tụng đọc là Tiểu thừa. Ngộ pháp, hiểu nghĩa là Trung thừa, y pháp tu hành là Đại thừa, muôn pháp trọn thông, muôn pháp đầy đủ, tất cả không nhiễm, lìa các pháp tướng, một cũng không được, gọi là Tối thượng thừa.

Ở đây, tối thượng thừa tức là muôn pháp trọn thông. Trong cảnh giới của pháp, của tâm, tất cả công hạnh diệu lực đều đầy đủ hết. Trong lúc đầy đủ diệu lực của pháp thân thì tất cả không nhiễm, lìa hết các pháp tướng, chẳng hạn thấy cái đồng hồ, bình bông…, thấy hết tất cả mà không dính, không mắc, gọi là một cũng không được, gọi là vô sở đắc, không chứng mà cũng không đắc. Đó gọi là tối thượng thừa. Thừa là hành ở nơi tâm, không phải là hành ở nơi miệng, không phải tranh cãi. Tranh cãi thì không phải là pháp của Phật. 

Do đó, chúng tôi muốn chia sẻ với quý vị một bộ kinh mà các chùa thường hay tụng từ rằm tháng Tư đến rằm tháng Bảy, hoặc sau ba tháng an cư kiết hạ. Đó là Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Vương. Trong bộ kinh này, chúng tôi chỉ trích ra và giảng về mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương.

Sở dĩ bộ kinh này Đức Phật không nói cho Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Phú Lâu Na, Ngài A Nan, Ngài A Nậu Lâu Đà, ngài Ly Bà Đa mà đặc biệt chỉ nói cho Pháp vương tử của Ngài là Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi là bởi vì Bồ Tát Đại trí Văn Thù Sư Lợi tiêu biểu cho Căn bản trí. Chỉ có trở về Căn bản trí thì mới hiểu và lột ra được bộ kinh này. Có nhiều người không hiểu, chỉ căn cứ trên một số nghi lễ hình thức rồi nói đạo Phật là mê tín, nhưng thực ra càng đi sâu vào giáo lý của Đức Phật thì mới thấy đạo Phật là một đạo minh triết trong đời sống, là đạo trí huệ, thấy đúng như thật. Muốn chứng nghiệm, thấy được pháp Phật vi diệu thì chúng ta phải tu tập chứ không sẽ thành mê tín đại thừa, chỉ biết cầu xin mà không hiểu rõ được ý của Phật là bộ kinh này dành cho ai và tại sao Đức Phật lại nói Kinh này.

Do đó Đức Thế Tôn dùng mọi phương tiện thiện xảo nói ra tám muôn bốn ngàn pháp môn để đối trị với tám muôn bốn ngàn trần lao phiền não. Nếu mình không còn phiền não, khổ đau thì không cần phải dùng bất cứ phương tiện nào mà vẫn được ung dung, tự tại. Trong Kinh Tương Ưng Bộ, một hôm có một con Quỷ dạ xoa lên hỏi một thầy Tỳ kheo: “Thưa Tôn giả, lúc Tôn giả đặt chân lần đầu tiên đến đây thì hôm nào con cũng nghe thấy Tôn giả tụng kinh, nhưng sao gần đây con không nghe thấy Tôn giả tụng kinh nữa?”, nhưng nó không biết rằng vị Tỳ kheo đó đã chứng đắc quả vị A-la-hán, chứng vào con đường thiền định tịch tĩnh cho nên tụng kinh hay niệm Phật, Ngài không cần dùng đến nữa. Vì vậy Lục Tổ nói: “Phật nói tất cả Pháp để trị tất cả tâm, còn ta vô tâm thì không cần tất cả Pháp”. Nếu cảm thấy mình vô tâm, không bị dính mắc thì không cần phải tụng kinh, thậm chí khỏi cần ngồi thiền. Nhưng nếu còn phiền não, còn khổ đau, còn tham sân si thì chúng ta vẫn cần phải tụng kinh, niệm phật, sám hối, ngồi thiền….

  • 1. Giải thích " Dược Sư Lưu Ly Quang"

    GIẢI THÍCH “DƯỢC SƯ LƯU LY QUANG”

     

    Chữ “Dược” tức là thuốc, “Sư” tức là thầy, “Lưu ly” một thứ ngọc trong suốt từ trong ra ngoài không có tỳ vết, đó gọi là Ngọc vô tướng. Nhận được hòn ngọc này rồi thì khế hợp với bản hoài của chư Phật. Trong Thiền thoại có kể một câu chuyện như thế này. Một hôm, vua Đường Đại Tông đến hỏi Thiền sư Tồn Tương:

    -            Trẫm đi thu phục Trung nguyên, được hạt ngọc quý, chưa có ai trả giá.

    Sư nói:

    -            Xin Bệ hạ cho xem.

    Vua lấy hai tay vuốt từ đầu đến chân. Sư nói:

    -            Ngọc quý của đấng quân vương, ai dám trả giá?

    Chúng ta thấy sở dĩ mình nghèo khổ, thiếu thốn là vì mình không có hạt châu này. Thiền sư Bạch Ẩn nói: “Nếu bạn làm chủ được tâm bạn thì dù bạn có là tớ gái, người chèo thuyền, … nhưng ta nói với bạn rằng khi đó bạn là người giàu sang, quyền lực và tối thượng nhất. Còn ngược lại khi không làm chủ được tâm bạn thì dù bạn có là vua, chúa, quan đại thần… thì ta cũng nói bạn là người nghèo cùng, đau khổ nhất”.

    Như vậy chúng ta thấy rằng làm chủ được tâm mình là rất quan trọng. Trong cuộc sống, những nghịch duyên, hoàn cảnh khốn khổ, những điều bất như ý luôn xảy đến với chúng ta, làm cho chúng ta phải khốn khổ, nhưng người làm chủ được tâm mình thì không bị hoàn cảnh ngoại duyên chi phối, khác hẳn với người không được biết đến Phật pháp, không biết cách làm chủ tâm mình. Đức Phật nói có hai người, một người trí, một người ngu, đều bị mũi tên bắn vào ngực. Nhưng người trí thì rút mũi tên ra rồi đắp thuốc nên không bị khổ, còn người ngu không chịu rút mũi tên ra, trái lại còn tự đâm thêm nhiều mũi tên vào người nên mãi không hết khổ. Vì vậy, trong Chỉ Nguyệt Lục có ghi lại câu chuyện:

    Một hôm Thế Tôn đem hạt châu Ma ni tùy sắc hỏi Ngũ Thiên Vương:

    -            Hạt châu này màu gì?

    Năm vị thiên vương mỗi người một phương nói một màu khác nhau. Thế Tôn liền cất hạt châu đi rồi giơ tay ra hỏi:

    -            Hạt châu này màu gì?

    Ngũ Thiên Vương đồng thanh nói:

    -            Trong tay Thế Tôn không còn hạt châu. Vậy đây là gì?

    Lúc này Đức Thế Tôn mới nói:

    -            Các ông thật là mê muội điên đảo, ta đem hạt châu thế gian cho thì nói có xanh, vàng, đỏ, trắng… Còn ta thị hiện hạt châu chân thật, xuất thế gian thì các ông chẳng biết gì cả.

    Trong cuộc sống này, hầu hết mọi người chỉ biết đến và coi những thứ có hình tướng, những thứ có thể thấy như tiền bạc, nhà lầu, xe hơi là quý, còn những cái không có hình tướng thì không ai biết đến dù rằng nó rất quan trọng. Ví dụ như hơi thở, mình nghiệm lại, nếu hít vào mà không thở ra thì chết thở ra không hít vào cũng chết, thế mà không mấy ai nhớ đến hơi thở của mình.

    Tâm của mình cũng vậy, nó là vô tướng nên chỉ có những ai tu học mới chứng nghiệm được tâm của mình mà thôi. Cho nên khi Đức Phật đưa hạt châu thế gian, có nghĩa là nhà, xe, tài sản thì ai cũng thấy, cũng biết hết nhưng khi đưa cho hạt châu xuất thế gian là tâm chơn thật thì không ai biết, cho nên mình vẫn khổ vì bản thân có hạt châu mà không biết để mang ra sử dụng.

    Thiền sư Tuyết Đậu có bài kệ về lượm châu như sau:

    Kẻ nghèo áo có châu

    Vốn tự tròn sáng đẹp

    Chẳng biết tự tìm cầu

    Lại vì người đếm báu.

    Ai cũng có hạt châu vô giá mà không biết, cứ vì người đếm báu mà chạy lăng xăng suốt cuộc đời, không chịu ngồi yên nhận hạt ngọc của chính mình.

    Lại tiếp:

    Đếm báu người trọn vô ích

    Chỉ là khiến anh luống nhọc sức

    Đâu bằng nhận lấy báu nhà mình

    Giá trị vàng ròng ngàn muôn ức.

    Bảo châu này sáng rất tột

    Soi khắp tam thiên đại thiên giới

    Xưa nay chẳng thiếu một phân hào

    Hằng bị mây che không chướng ngại.

    Chúng ta đã có hạt ngọc, có của báu trong nhà mà bị vọng tưởng, phân biệt, chấp trước che lấp nên không hay. Tuy bị che lấp như vậy nhưng hạt ngọc của mình vẫn luôn sáng, chỉ cần tu tập một thời gian, vọng niệm thưa dần thì hạt ngọc của mình sẽ sáng dần lên, sáng lên chừng nào thì sự khổ đau vơi đi chừng ấy, mình không còn buồn nhiều như ngày xưa nữa. Có một số Phật tử nói rằng, ngày trước tuy giàu có, tài sản nhiều mà vẫn đau khổ, nhưng sau một thời gian tu thiền thì họ sống buông xả, cởi mở và hòa đồng hơn, cuộc đời họ vì vậy mà được an ổn, tự tại, hạnh phúc, đó là họ đã nhận được chút nào đó hạt châu của mình. Mà khi đã nhận được hạt châu rồi thì Đức Phật nói: “Tâm tịnh thì nghiệp tiêu”.

    Lại tiếp tục:

    Từ khi nhận được Ma Ni này

    Thân bọt không hoa ai lại thích

    Châu Phật lại cùng châu ta đồng

    Tánh ta liền về biển tánh Phật.

    Khi nhận được hạt châu của mình thì cái thân ngũ uẩn giả dối này tự nhiên mình nhàm chán, cho nên khi ra đi sẽ được giải thoát. Nếu vẫn còn cho thân này là thật thì khi chết sẽ nhanh chóng tìm một cái thân khác để gá vào dù đó là thân trâu, chó, lợn, gà.. Nhưng muốn nhận lại được hòn ngọc lưu ly này thì nhà Thiền nói là phải “đập vỡ thùng sơn”, thùng sơn ở đây tiêu biểu cho ngũ uẩn, tức là sắc, thọ , tưởng, hành, thức.

    Thường chúng ta bên trong thì chấp ngã mà bên ngoài thì chấp pháp. Trong Kinh Bát Nhã có câu: “Chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”, khổ ách ở đây không ngoài hai thứ bệnh là kiến hoặc và tư hoặc. Ví dụ ai nói nặng mình, ai làm gì không vừa ý mình… thì mình chịu không được, đó là mình chấp ngã, chấp pháp, vì vậy mà tu rất khó. Muốn vượt qua khổ nạn này, chúng ta chỉ có thể dùng danh hiệu Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật để bên trong uống, bên ngoài xoa. Trong uống có nghĩa là mỗi một vọng tưởng khởi lên, chúng ta đều biết rõ, tâm mình tham biết rõ mình đang tham, tâm mình sân biết rõ mình đang sân, mà khi biết tức là giác thì vọng liền tan. Chúng ta tu học một thời gian sẽ thấy được từng niệm tham của mình, và khi thấy được thì hóa giải niệm đó ngay nên tâm không còn tham nữa. Khi đó, quý vị không cần giữ giới trộm cướp nữa, vì niệm vừa sanh lên thì liền diệt, cho nên mình không còn tham thì làm sao phải giữ.

    Vừa rồi báo đăng có một vụ tai nạn ở thành phố Hồ Chí Minh, một chiếc xe tải làm bị thương mười hai người đi xe máy đang đứng chờ đèn đỏ. Có một cô sau khi bị tai nạn vào nằm bệnh viện, lúc tỉnh dậy rồi lại xỉu thêm lần nữa vì toàn bộ tài sản, tiền bạc trong cốp xe của cô mới đi lấy nợ về mất sạch, không còn gì hết do bị lượm của hôi. Người ta bị tai nạn, bị đau khổ mà mình đã không giúp đỡ lại còn tạo thêm sự đau khổ cho họ thì sau này, khi cái quả đến, mình bị đau khổ dồn dập thì khóc than với ai? Trong khi đó, nhìn sang Nhật Bản, một đợt động đất sóng thần xảy ra để lại hậu quả thảm khốc, mọi người phải xếp hàng để nhận đồ cứu trợ. Có một Phật tử làm bên ngành cảnh sát đúng dịp đó đi sang Nhật làm việc, thấy có một đứa bé khoảng 9 tuổi trông tội quá, ông mới đến hỏi:

    -            Người nhà con đâu mà sao con phải đứng một mình thế này?

    Đứa bé trả lời:

    -            Nhà con có bốn người, vì trận động đất này bố mẹ và em trai đều chết cả rồi.

    Thấy đứa bé tội nghiệp quá nên ông đi lấy một bọc đồ ăn và quần áo đưa cho nó, đinh ninh rằng đứa bé này sẽ nhận và cảm ơn ông, nhưng thật không ngờ đứa bé đó mang bọc quà của ông vừa đưa để lên bàn phát đồ. Ông thắc mắc hỏi đứa bé:

    -            Tại sao con không dùng những thứ đồ đó? Đây là những vật dụng cần thiết để con sử dụng tạm thời trong lúc này đó.

    Và câu trả lời của đứa bé làm ông thật sự bị bất ngờ:

    -            Thưa chú, còn có nhiều người trong lúc này đói khổ hơn con.

    Suy nghĩ được vậy thì mai đây cậu bé này sanh ra đời trở lại được sung sướng, an ổn, không phải Thượng đế nào cho cả mà chính trong giờ phút này cậu đã tạo được những nhân tốt. Cái này mình phải học từ đứa bé chín tuổi, liệu mình có làm được không? Chính vì có những con người như vậy nên khi xảy ra bất cứ thiên tai động đất hay sóng thần nào thì người ta luôn nói rằng: “Sau một năm nước Nhật sẽ khôi phục lại kinh tế hoàn toàn”.

    Qua câu chuyện trên để chúng ta ngẫm nghĩ và tự đặt cho mình câu hỏi: Tại sao chúng ta còn nghèo, còn khổ? Tất cả những sự đau khổ không phải do trời đất nào trừng phạt mình mà đều là do mình gây tạo ra hết. Khi mình biết tu học, thấy từng niệm xấu ác và kịp thời chuyển hóa, hàng ngày tưới tẩm tâm thiện cho mình và xã hội thì những hạt giống thiện pháp đó sau này sẽ đưa ta đến những hoàn cành tốt, thù thắng vi diệu hơn. Như thân của mình muốn sống được thì phải ăn, xe muốn chạy thì phải đổ xăng, muốn tưới tẩm các hạt giống thiện pháp thì hàng ngày phải tu tập. Trong Kinh diễn tả rằng người nào xấu, khổ mà đảnh lễ Đức Phật Dược Sư thì sẽ được đầy đủ, nhưng nếu không hiểu rõ thì mình lại dễ chấp tướng mà không hiểu rằng nếu muốn được như vậy thì hàng ngày chúng ta phải có sự tu tập. Đó là nói về trong uống.

    Còn bên ngoài xoa là tin chắc vào đại bi nguyện của chư Phật luôn hộ niệm cho ta. Phật không ở đâu xa mà chính tại đương niệm, có nghĩa là ngay lúc mình biết được vọng tưởng thì đó chính là Phật. Lục Tổ dạy: “An tâm tại vọng tình. Ngay đó lìa ba chướng”. Sở dĩ chúng ta thấy Phật và ta xa cách vạn trùng vì mình luôn phan duyên, thọ kích thích, tưởng biến hóa, sắc làm mù, năm ấm che đậy. Chỉ cần chúng ta tỉnh lại, biết được niệm thì tức khắc gần Phật không xa.

    Chữ “Quang” tức là ánh sáng, mà ánh sáng này chính là trí tuệ Bát nhã, là căn bản trí.

  • 2. Nguyện lớn thứ nhất

    NGUYỆN LỚN THỨ NHẤT

    “Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, thân ta có hào quang sáng suốt, rực rỡ, chiếu khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới khiến cho tất cả chúng hữu tình đều có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu cùng tám mươi tướng tùy hình trang nghiêm như thân ta vậy”.

    Nếu chúng ta không tu tập và chứng nghiệm theo con đường thiền thì chúng ta cứ tưởng rằng thân của Đức Phật Dược Sư có hào quang sáng suốt, chiếu khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới, còn thân mình thì không có. Nhưng Đức Phật nói ở đây là chỉ cho mình, có nghĩa là ngầm chỉ ra ngay nơi thân năm uẩn của mình có hạt ngọc lưu ly, khi nhận được hạt ngọc lưu ly đó rồi thì tức khắc thân mình rực rỡ, chiếu soi, không dính mắc các pháp.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, có một vị tăng đến hỏi Thiền sư Pháp Đăng:

    -            Đầu sào trăm trượng làm sao tiến được?

    Thiền sư Pháp Đăng đáp: “Câm”.

    Ngài Út Sơn Chủ khán câu đó suốt ba năm. Một hôm cưỡi ngựa đi qua cầu ván, bất ngờ ngựa đạp nhằm chỗ mục lọt chân xuống dưới. Ngài té quăng nhào xuống ngựa, bỗng nhiên đại ngộ, bèn làm bài tụng:

    Đã lâu bị bụi vùi sâu.

    Có những vị Thiền sư tu tập một thời gian, khi nhận được hạt ngọc lưu ly thì có người cười ba ngày, có người khóc ba ngày…, rất vui sướng vì từ đây không còn bị ngũ dục chi phối nữa. Cho nên sau khi nhận được rồi thì có hào quang sáng suốt rực rỡ chiếu soi khắp vô lượng, vô số, vô biên thế giới là như vậy.

    “…khiến cho tất cả chúng hữu tình đều có đủ ba mươi hai tướng đại trượng phu cùng tám mươi tướng tùy hình trang nghiêm như thân ta vậy”.

    Ngài phát nguyện sau khi chứng được quả tối thượng thì tất cả chúng hữu tình ai cũng đều có thân như Ngài. Sở dĩ mình thấy thân mình và thân Phật khác nhau vì tâm tưởng khác nhau, còn nếu tâm mình vô niệm thì khi đó thân mình và thân Phật đồng nhất. Một lúc nào đó rơi vào trạng thái thiền định tịch tĩnh thì thân mình là vô tướng, khoảnh khắc đạt được trạng thái đó có khi chỉ là một giây, một tích tắc thôi nhưng cũng đủ để mình nhận ra được thân mình và thân Phật đồng nhất, không sai biệt, sở dĩ có sai biệt là trên cái niệm thấy kia là Phật, đây là mình. Nên tu tập mà tâm đã tịnh thì khi chết, dù mình không mong cầu về cảnh giới của Phật thì tâm tương ưng tự nhiên cũng đưa mình tới đó. Nên nói rằng: “Nước trong thì trăng hiện, tâm tịnh thì Phật hiện tiền”.

    Nhưng muốn được 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp giống như Đức Phật thì không phải chỉ cầu xin mà được, mà chúng ta phải phát một hạnh nguyện. Hạnh có nghĩa là thực hành, nguyện có nghĩa là sức mạnh vượt qua mọi rào cản chướng duyên.Giống như khi đi vào rừng, sa mạc hay ra biển, muốn biết phương hướng thì quý vị cần phải có la bàn, muốn di chuyển trên một quãng đường dài thì phải cần phương tiện như xe hơi, máy bay... Cũng vậy, khi muốn làm một việc gì đó thì nhờ những hạnh nguyện này mà chúng ta vượt qua được những chướng duyên xấu ác khởi nguồn từ nơi tâm. Nếu không có hạnh nguyện, nguyện lực thì một lúc nào đó tu giữa đường sẽ bị thối tâm. Trong Kinh Thập Thiện, Đức Phật dạy: “Này Long Vương! Ngươi xem thân Phật do trăm ngàn ức phước đức mà sanh ra, các tướng trang nghiêm, ánh quang sáng chói che cả đại chúng, dù cho vô lượng ức các vị tự tại Phạm Vương đều không thể hiển hiện được. Những ai chiêm ngưỡng thân của Như Lai không ai là chẳng chói mắt”. Thân của Phật có ba thân là pháp thân, báo thân và hóa thân, còn thân của mình là thân tổng báo, có nghĩa là trong thời quá khứ, chúng ta đã từng có lúc làm thiện, có lúc làm ác. Làm thiện thì khi quả thiện chín muồi, chúng ta được hưởng, làm ăn tốt, gia đình hạnh phúc thuận hòa, còn ngược lại khi quả ác chín muồi thì làm ăn thua lỗ, bệnh tật hoành hành làm mình hoảng hốt, lúc đó lại đi coi bói mà không hiểu về luật nhân quả. Ví như có một người ăn xin đến ngân hàng vay một trăm triệu thì không ai giải quyết cho họ cả, vì họ không có nhà cửa, tài sản để thế chấp. Còn ngược lại, một ông tổng giám đốc đạo mạo đang làm ăn tốt, đến ngân hàng vay mười tỷ thì có thể được giải quyết vì ông này có nhà cửa, có công ty, có tài sản đảm bảo. Chúng ta phải thấy được rằng, tại sao có người xin được mà có người xin không được, nếu cứ ai đi xin cũng được thì đất nước mình đã giàu có rồi, không cần phải đi làm cho cực khổ. Cho nên trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật dạy:

    Người ngu tưởng là ngọt,

    Khi ác chưa chín muồi.

    Ác nghiệp chín muồi rồi,

    Người ngu thấy khổ đau.

    Người thiện tưởng là khổ,

    Khi thiện chưa chín muồi.

    Nghiệp thiện chín muồi rồi,

    Người thiện thấy an vui.

    Rồi trong Kinh Thập Thiện, Phật dạy tiếp: “Ngươi xem các vị Đại Bồ Tát đây, diệu sắc trang nghiêm, tất cả đều do tu tập phúc đức thiện nghiệp mà sanh ra”. Các vị Bồ Tát được thân tướng hảo trang nghiêm đều nhờ phúc đức thiện nghiệp mà sanh ra, đó gọi là tâm sinh ra tướng. Chúng ta biết, thuật tướng số là có chứ không phải không, nhưng trong luật ngũ hành thì nó lại biến dịch, không đứng một chỗ nên con người có thể tu tập để chuyển được nghiệp của mình.

    Vào đời nhà Tống, có một người đến gặp thầy tướng số để xem thì ông thầy tướng số nói: “Số của ông là số khổ, số ăn mày nên dù bây giờ ông có làm gì đi chăng nữa cũng vậy thôi, sau này khi chết còn bị chết đói nữa”. Ông này hỏi tại sao coi thấy gì mà nói như vậy thì ông thầy tướng nói rằng: “Ông có hai đường pháp lệnh chạy thẳng vào trong miệng, gọi là Lưỡng đao nhập khẩu, có nghĩa là hai con đao chui vào miệng nên số ông là như vậy”. Nghe xong ông rất buồn nên về bán hết tài sản rồi cho hết vợ con họ hàng, sau đó bỏ nhà ra đi. Một hôm qua một ngôi làng này, khi vào nhà vệ sinh chung của làng đó thì ông thấy một cái bọc đen, bên trong toàn là vàng thỏi, đếm đi đếm lại được 52 thỏi. Ông nghĩ dù sao đây cũng là tiền của người ta, dù mình có lấy thì mai đây cũng nghèo, cũng khổ rồi chết đói nên thôi bây giờ có ai đến nhận thì mình trả. Quả nhiên một lúc sau có một có gái hớt hơ hớt hải chạy đến nói rằng: “Bố tôi bị bắt oan trên huyện, chạy vạy bao nhiêu mới đủ tiền để đi minh oan cho bố. Thế mà tôi lại đãng trí làm mất. Bây giờ không có tiền thì bố tôi sẽ bị xử chết và tôi cũng sẽ chết theo ông luôn”. Ông hỏi cụ thể thì biết những thỏi vàng đó là của cô nên trả lại. Cô gái mừng quá biếu ông hai thỏi nhưng ông nhất định không lấy và nói: “Nếu tôi tham thì đã lấy hết chứ lấy hai thỏi của cô làm gì, thôi đi lo cho bố cô đi không lại hỏng việc. Còn số tôi là số ăn mày nên dù có nhặt được vàng cũng vậy mà thôi”. Sau đó cô gái cảm ơn ông rồi hai người mỗi người đi một ngả. Đi miết ông thấy mệt và đói nên ngồi nghỉ dưới gốc cây, tình cờ thấy một đàn chuột chạy vô hang. Ông tìm cây đào cái hang lên tính bắt chuột để ăn thì tình cờ đào  thấy 18 hũ vàng của người xưa chôn. Sau đó ông dùng số vàng đó để mua lại ruộng vườn, nhà cửa, đất đai và trở thành một phú gia giàu có nhất trong vùng. Và cũng bắt đầu từ đó, ông rất ghét hai hạng người là Sa môn và những ông thầy tướng số. Một hôm trên đường đi du ngoạn thì ông gặp một vị thiền sư nổi tiếng là Tế Công Hòa thượng. Sau khi kể hết ngọn ngành câu chuyện từ trước đến giờ thì Tế Công Hòa thượng khai thị cho ông: “Đúng ra số ông là số ăn mày rồi chết đói, nhưng nhờ nhặt được túi vàng trả lại cho cô gái và cứu được mạng sống của hai bố con họ nên bây giờ pháp lệnh của ông lại trở thành “lưỡng long tranh châu”, nếu không tin thì về tự kiểm tra, trong lưỡi của ông có một nốt ruồi son tương đối lớn”. Đến lúc này thì ông mới tỉnh ngộ, vì nhặt được vàng mà không tham trả lại để cứu người nên sanh ra phúc đức thiện nghiệp như vậy. Cho nên mặc dù người nào tướng xấu cách mấy mà sau một thời gian tu tập tốt thì tướng sẽ chuyển, và ngược lại người nào dù có tướng tốt nhưng tâm ác, tâm bất thiện thì sau một thời gian  tướng tốt đó sẽ mất luôn. Cho nên muốn có được 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, bắt buộc chúng ta phải tu tập chứ không thể cầu xin mà được.

     Đức Phật dạy tiếp: “Lại nữa, các hàng Thiên Long Bát Bộ có vai thế lớn cũng nhân phúc đức của thiện nghiệp mà sanh ra. Nay đây, các chúng sanh ở trong đại hải, hình sắc thô xấu, hoặc lớn hoặc nhỏ, đều do hết thảy tưởng niệm của tự tâm gây ra bởi thân, khẩu, ý các nghiệp bất thiện, nên tùy theo chỗ gây nghiệp mà thọ lãnh các quả báo”.

    Mình thấy các loài súc sanh như chó, mèo, lợn, gà cũng đều từng là con người nhưng do tạo tác các ác nghiệp về thân như sát sanh, trộm cắp, nói dối, tà dâm…cho nên phải chịu quả báo làm súc sanh. Ngay trong cuộc đời này, có nhiều người mặc dù hình dáng là người nhưng tâm không khác gì thú nên khi chết tùy theo tâm mà hiện ra các cảnh giới tương ưng. Trong Kinh Tương Ưng bộ có ghi: Một hôm, có một vị thí chủ đến hỏi Phật: “Ngày nào là ngày an ổn, hạnh phúc nhất?” Đức Phật trả lời rằng: “Ngày nào mà mình làm việc thiện, ý nghĩ tốt thì đó là ngày an ổn, hạnh phúc nhất”.

    Đức Phật lại dạy tiếp: “Long vương nên biết! Bồ Tát có một pháp có thể dứt tất cả các khổ ác đạo”. Ác đạo là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, nếu chúng ta nghe và tu theo một pháp này thì ba đường ác đóng cửa. Cổ đức dạy:

    Thiên đường hữu lộ vô nhơn đáo

    Địa ngục vô môn hữu khách tầm.

    Tức là thiên đường có cửa thì không ai chịu đến, còn địa ngục tăm tối đau khổ, không có cửa thì mình cứ xuống đó tha thiết xin vào. Ví dụ cửa các chùa, thiền viện luôn mở nhưng mấy ai chịu tìm vào để tu tâm, tạo phước mà ngược lại lại tìm đến cờ bạc, quán nhậu, trường đá gà, bỏ tiền ra xin vào để tìm lấy sự khổ đau.

    Lại nữa: “Thế nào là một? Nghĩa là ngày đêm thường nhớ, suy nghĩ quan sát pháp lành, làm cho các pháp lành mỗi niệm mỗi tăng trưởng”. Quý vị để ý có lúc nào đi trên đường gặp một người khổ như người ăn xin, mình khởi niệm cho họ chút tiền để ăn, nhưng nếu ngay lúc đó mình không làm thì tự nhiên trong đầu lại khởi niệm thứ hai, đó là không biết cho người này thì liệu họ có đi ăn không, hay lại đi nhậu nhẹt, hút chích… Hoặc mình đi vô chùa dự một buổi lễ đúc đại hồng chung, vừa khởi niệm cúng dường, gieo duyên với Tam Bảo chút gì đó mà không làm ngay thì chỉ sau chút thôi sẽ lại khởi một niệm khác như “Thôi, người ta cúng dường quá nhiều, mình không cần phải cúng nữa”. Trong Duy Thức Học, Đức Phật dạy chúng ta có 51 loại tâm, trong đó chỉ có 10 tâm là nghĩ lành, còn 41 tâm kia là nghĩ xấu ác, cho nên tâm mình được gọi là “bất tương ưng hành”. Vì vậy khi làm việc thiện thì phải dứt khoát làm ngay, đừng để cho những tâm niệm xấu có cơ hội chen vào.

    Đức Phật dạy tiếp: “Không được để một mảy may pháp ác, pháp bất thiện xen lẫn vào, tức là hay khiến cho các ác pháp hằng dứt, thiện pháp viên mãn, thường được gần gũi Chư Phật, chư Bồ Tát và các Thánh chúng”.

    Muốn được như vậy thì chúng ta phải tu tập và nhớ lấy một câu: “Một đời làm thiện vẫn còn thấy thiếu, một ngày làm ác lại quá dư” thì ngay lúc đó, chúng ta tự cảnh tỉnh mình và sợ liền. Mà thiện pháp là gì? Thiện pháp ở đây tức là mười thiện nghiệp, có nghĩa là hằng lìa sát sanh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, hai lưỡi, ác khẩu, ỷ ngữ, tham dục, sân hận và tà kiến. Thiện pháp là thân của trời và người. Thanh Văn Bồ đề, Độc giác Bồ đề, Vô thượng Bồ đề đều y pháp này làm căn bản mà được thành tựu, do vậy gọi là thiện pháp. Cho nên tạo phước rất quan trọng vì phước trợ duyên cho quả cứu kính, nếu có ai nói không cần làm phước mà chỉ tập trung vào tu thôi thì coi như người đó chỉ chấp một bên. Thực hiện được như thế là chúng ta đã gieo được hạt giống thiện pháp và được giải thoát ngay trong giờ phút đó. Phật chỉ đề ra con đường và hướng dẫn ta đi thôi mà không thể giúp chúng ta giải thoát được, tất cả chủ yếu là do chúng ta phải tự nỗ lực tu tập.

     

  • 3. Nguyện lớn thứ hai

    NGUYỆN LỚN THỨ HAI

    “Ta nguyện đời sau, khi được đạo Bồ đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn không có một chút nhơ bẩn nào hết.Ánh quang minh chói sáng khắp nơi, công đức cao vòi vọi và an trú giữa từng lưới dệt bằng tia sáng, tỏ hơn vầng nhật nguyệt. Chúng sanh trong cõi u minh đều nhờ ánh sáng ấy mà tâm trí được mở mang và tùy ý muốn đi đến chỗ nào để làm các sự nghiệp gì cũng đều được cả”.

     

    Đức Phật tuyên thuyết các bộ kinh Đại thừa đều nhằm mục đích giúp cho chúng sanh được ngộ nhập Phật tri kiến. Do đó những bộ kinh Đại thừa chúng ta phải lột cho hết thì mới thấy được mật nghĩa của Đức Phật, còn không khéo thì sẽ bị kinh dẫn, nhiều khi mình đọc không hiểu nên bị lầm, bị chấp. Đức Phật từng nói: “Theo ta mà không hiểu ta  tức là phỉ báng ta”, mình tu theo Phật mà không hiểu hết ý nghĩa những lời Đức Phật dạy thì cũng đồng nghĩa là phỉ báng Ngài. Hay các Ngài nói giảng kinh điển Đại thừa như lảy tròng con mắt, nếu lảy không khéo thì đui mắt, tức là những lời dạy của Đức Phật trong kinh điển Đại thừa mà mình giảng không khéo, không diễn đạt hết ý nghĩa khiến cho chúng sanh bị lầm chấp, mê theo thì người hướng dẫn tội còn nặng hơn cả những người Chiên-đà-la chuyên giết mổ, sát sanh. Vì tất cả những lời nói của Đức Phật trong kinh điển đều có mật nghĩa, nếu không tu tập, nghiên cứu kĩ càng mà nói sai sẽ làm cho cả một thế hệ dài bị lầm mê, sai lệch hết. Cho nên ở đây, chúng tôi muốn giảng giải rõ ràng cho quý vị thấy được tinh thần của nhà Thiền nằm rải rác trong các bộ kinh Đại thừa.

     “Ta nguyện đời sau, khi được đạo Bồ đề, thân ta như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt, tinh sạch hoàn toàn không có một chút nhơ bẩn nào hết…”.

    Chúng ta đừng hiểu hạn hẹp rằng đây chỉ là nguyện lớn của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, mà phải hiểu rằng đó cũng chính là nguyện lớn trong mỗi con người chúng ta. Lục Tổ dạy: “Vô niệm vi tông, vô tướng vi thể, vô trụ vi bổn”, nếu đối trên các niệm mà chúng ta không chạy theo niệm, không bị niệm dẫn dắt thì lúc đó cũng giống như ngọc lưu ly trong ngoài sáng suốt. Còn đối trên các tướng mà chúng ta không trụ nơi tướng, không dính mắc nơi tướng thì chúng ta cùng đi trên một con đường với Đức Phật Dược Sư.

    Trong Thiền thoại có ghi lại một câu chuyện: Một hôm có vị Tăng đang tụng kinh Kim Cang, đến đoạn “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” thì Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo lúc đó tình cờ đi ngang qua, nghe thấy thì liền nói rằng:

    -         Ông tụng sai rồi, Kinh Kim Cang Đức Phật đâu có nói như thế.

    Tăng chắp tay:

    -         Thưa Ngài, bộ kinh này con đã đọc hàng trăm lần, mà trong văn kinh Đức Phật dạy rất rõ: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (Nếu thấy các tướng mà chẳng phải tướng, tức thấy Như Lai). Ngài nói sai là sai ở chỗ nào?

    Thiền sư Đại Huệ nói:

    -         Tôi đã đọc rất nhiều lần, Đức Thế Tôn dạy cho các Tỳ kheo là “Nhược kiến chư tướng thị tướng tức kiến Như Lai” (Nếu thấy các tướng là tướng, tức thấy Như Lai).

    Tăng nói:

    -         Thầy đọc sai rồi, “chẳng phải tướng” chứ không phải “là tướng”.

    Lúc này Thiền sư Đại Huệ nói:

    -         Kinh điển Đức Phật nói ra, những người mù không ai tụng đọc được hết.

    Qua câu chuyện của vị tăng và Thiền sư Đại Huệ, quý vị thấy sao? Có khi đọc những bộ kinh hay những đoạn nhân duyên như thế này, phải đến nhiều năm sau, khi đã trải qua một thời gian tu tập có kết quả nhất định thì quay trở lại đọc mới vỡ ra và thấu hiểu được cái điểm hay của nó, huống chi mình coi có một ngày hai ngày thì làm sao thấu được. Có nhiều vị thấy một bộ kinh nào đó cao quá, ví dụ như Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Lăng Già… cho nên không đọc mà bỏ qua. Thì đúng là bây giờ mình chưa hiểu, chưa thấu tột được, nhưng cứ coi đi coi lại thì một năm, hai năm sau, thậm chí nhiều năm sau tùy theo sức công phu của mình mà có thể thấu suốt được. Nói vậy để quý vị đừng nản chí mà hãy cố gắng hơn nữa, bởi vì nhiều khi Đức Phật nói kinh này là dành cho lớp Đại học, trong khi đó chúng ta mới học lớp một, lớp hai nên không hiểu được là chuyện bình thường. Mình phải vừa học, vừa tu, vừa chứng nghiệm thì mới thâm nhập được những bộ kinh của Đức Phật. Thiền sư Đại Huệ Tông Cảo nói nếu thấy các tướng là tướng, ví dụ như nhìn thấy cái đồng hồ là cái đồng hồ, tức là thấy Như Lai, còn nếu thấy các tướng chẳng phải tướng là còn qua quán chiếu, mà qua quán chiếu thì còn năng, còn sở. Năng sở chưa tiêu vong, chủ khách chưa dứt nên chưa đạt được đến chỗ “vô tướng làm thể”. Còn lấy “vô trụ làm gốc”, có nghĩa là nếu đối với các pháp mà chúng ta không trụ, không dính mắc, không chấp trước, đó là gốc của sự tu đạo. Thấy được như thế thì chúng ta đồng với chỗ “thân như ngọc lưu ly, trong ngoài sáng suốt” của Đức Phật Dược Sư. Thân Phật trong ngoài sáng suốt, còn chúng ta trong ngoài có sáng suốt được không? Được. Tuy mình không được hẳn như Phật nhưng mình được trên từng niệm. Chẳng hạn như ngoài miệng mình nói thiện mà trong tâm mình không thiện thì trong ngoài không được sáng suốt, còn miệng mình nói “Mô Phật” và trong tâm mình cũng có Phật thì trong ngoài đồng nhất. Cho nên Lục Tổ nói: “Miệng nói lời thiện mà trong tâm không thiện thì không có định tuệ, miệng nói lời thiện mà trong tâm có thiện tức định tuệ bình đẳng”.

    Ở gần thiền viện của Thiền sư Bankei có một người bị mù bẩm sinh, ông có một khả năng đặc biệt là khi lắng tai nghe người khác nói chuyện thì có thể biết người đó đang khổ đau, vui sướng hay là có tâm ích kỉ, tật đố với nhau. Sau khi Thiền sư Bankei tịch thì ông nói rằng: “Tôi sống ở đây đã hơn bốn mươi năm nhưng chưa bao giờ nghe thấy ai nói chuyện với nhau mà có được lời nói chân thật như Thiền sư Bankei. Mọi người đến chúc phúc cho nhau giàu sang, hạnh phúc nhưng trong lòng luôn có lẫn sự tật đố, ích kỷ. Còn ngược lại, Thiền sư Bankei thì vui với cái vui của người khác, buồn với nỗi buồn của người khác, trong ngoài đồng nhất”. Cho nên mình tu là tu trên từng niệm. Nghiệm lại ngay nơi bản thân mình, nếu khi nào gặp lại một người bạn học ngày xưa nhà khó khăn mà bây giờ nhà cao, cửa rộng thì dù chúng ta có chúc mừng, miệng có mỉm cười thì trong lòng có sự day dứt, bồn chồn. Biết như vậy rồi thì chúng ta phải chuyển liền để cho định tuệ được bình đẳng, trong ngoài đồng nhất.

    Trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói: “Này các Tỳ kheo, trên đời này có bốn hạng người. Hạng thứ nhất là ngoài chín trong sống. Này các Tỳ kheo, hạng người thứ hai là ngoài sống trong chín. Này các Tỳ kheo, hạng người thứ ba là ngoài sống trong sống. Này các Tỳ kheo, hạng người thứ tư là ngoài chín trong chín”.

    Hạng người thứ nhất, ngoài chín trong sống, là chỉ những người bên ngoài tưởng như đã sáng đạo nên sống thanh thản, không lo lắng nhưng thực chất bên trong thì chưa. Hạng người thứ hai, ngoài sống trong chín, là chỉ những người bên ngoài sống không có oai nghi, phép tắc, ăn nói thô tháo không đúng như lời Đức Phật dạy mà bên trong lại là bậc sáng suốt, sáng đạo, ví dụ như Ngài Tế Công vào đời Bắc Tống. Hạng người thứ ba, ngoài sống trong sống, là chỉ những người bên ngoài thì không có phép tắc, bên trong thì chưa sáng đạo. Hạng người thứ tư, ngoài chín trong chín, là chỉ những người trong ngoài sáng suốt. Trong bốn loại người trên thì hạng người nào xứng đáng giữ gìn gia bảo của Như Lai? Đó là hạng người thứ tư, ngoài chín trong chín. Trong câu chuyện “Thoát vòng tục lụy” của Hòa thượng Tinh Vân viết về hai huynh đệ, sư huynh là Ngọc Lam và sư đệ là Ngọc Lâm. Ngọc Laâm tuy hành Bồ Tát đạo nhưng giống như hạng người thứ hai, tức là bên ngoài sống, bên trong chín, cho nên dù sáng đạo rồi nhưng bên ngoài không có oai nghi giống như nhà Phật nên giáo hóa, độ chúng sanh không được rộng lớn. Còn Ngọc Lâm thì giống như hạng người thứ tư nên làm Quốc Sư, độ được rất nhiều người. Vào thời này, dù là người xuất gia hay cư sĩ thì cũng phải ráng tu làm sao cho được như hạng người thứ tư thì dù chưa được như Phật, như Tổ nhưng chúng ta cũng tránh được việc phá kiến người khác. Chẳng hạn như đi đến thiền viện mà chúng ta không chịu khó tu tập, chỉ lo tụm năm, tụm bảy nói chuyện thị phi thì mọi người thấy mình không có sự chuyển hóa sẽ đặt dấu hỏi, do đó chúng ta phải tự kiểm điểm lại.

    Rồi lại đến câu: “tinh sạch hoàn toàn không có một chút nhơ bẩn nào hết”. Ngài Quy Sơn Linh Hựu nói: “Các ông một niệm ác dấy lên thì như đem phẩn bỏ vào trong tâm”. Cho nên khi chúng ta đi vệ sinh thì trước khi lên bồn cầu mình đọc bài kệ:

    Khi đại tiểu tiện

    Nguyện cho chúng sanh

    Bỏ tham, sân, si

    Dứt sạch điều ác.

    Tập quán chiếu như vậy một thời gian thì trí tuệ tự nhiên phát sinh. Chúng sanh ở đây là chúng sanh ở trong tâm mình, dứt bỏ tham, sân, si. Nói thẳng ra thì khi mình ăn cơm, bánh mì, cháo bún…, đem vào thì rất tinh khiết, sạch sẽ nhưng khi cơ thể mình thải ra thì có dơ không? Trong lúc đó, mình quán chiếu sâu sắc những chất uế tạp đó như là tham, là sân, là si rồi mình bỏ nó, dứt sạch các điều ác.

    Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương lại phát nguyện tiếp:

    “…Ánh quang minh chói sáng khắp nơi, công đức cao vòi vọi và an trú giữa từng lưới dệt bằng tia sáng, tỏ hơn vầng nhật nguyệt. Chúng sanh trong cõi u minh đều nhờ ánh sáng ấy mà tâm trí được mở mang và tùy ý muốn đi đến chỗ nào để làm các sự nghiệp gì cũng đều được cả”.

    Đây qua phần công phu. Sau khi Đức Phật chứng được quả vị Bồ đề rồi thì thân Ngài tỏa ra vầng hào quang chiếu cùng khắp. Bây giờ khoa học bằng những thiết bị chuyên dụng đã chứng minh được rằng, những vị tu hành có năng lực lớn thì xung quanh có vầng hào quang lớn. Cho nên khi những vị tu hành có giới đức lớn đến khai thị cho những người sắp mất thì người sắp mất cảm thấy an ổn, hạnh phúc, mát mẻ nên chết được siêu thoát. Những vị nào đi hộ niệm thì tâm phải thuần tịnh, nhu nhuyến, rải lòng từ ra cho người sắp mất thì họ mới cảm nhận được ánh sáng của mình mà an vui lên đường, còn mình đến mà  rải toàn tâm sân hận thì coi chừng họ chết bị đọa liền. Đức Phật sau khi thành đạo trở về thành Ca-tỳ-la-vệ thì La Hầu La đi bên cạnh Phật nói: “Bạch Thầy, con đi bên cạnh Thầy thấy mát mẻ quá”. Đó là vì ánh sáng từ bi của Phật phủ trùm hết xung quanh. Lại có một con chim bị thợ săn rượt bắt, bay đến núp dưới vạt áo cà sa của Tôn giả Xá Lợi Phất mà vẫn run rẩy nhưng khi bay đến chỗ của Đức Phật thì hết run. Tôn giả Xá Lợi Phất thấy thế liền thắc mắc hỏi Đức Phật. Đức Phật nói: “Mặc dầu ông đã chứng quả vị A-la-hán nhưng tập khí sân trong thời quá khứ vẫn còn sót lại chút ít nên con chim này vẫn cảm được. Còn ta đã dứt sạch hết tất cả, con chim này cảm nhận được nguồn ánh sáng của ta nên được an ổn, hạnh phúc”. Quý vị thấy trong thực tế, những người làm nghề đi buôn trâu, bò, chó.. cứ đến đầu làng là những con vật này kêu sủa ầm ĩ, hay một người thường sân hận mặt lúc nào cũng cau có, mệt mỏi, khác hẳn khuôn mặt của những người hay rải lòng từ. Ngay như bản thân mình, khi đi qua một quán bán đồ mặn thì cảm nhận khác và khi qua một quán bán đồ ăn chay cảm nhận khác. Cho nên ánh sáng chiếu cùng khắp, từng lưới từng lưới dệt đều tỏa ánh sáng, ngay cả đến lỗ chân lông của Đức Phật cũng tỏa hào quang. Ánh sáng này chính là ánh sáng Bát Nhã, trí tuệ Bát Nhã, muốn có được ánh sáng này thì hàng ngày chúng ta phải tụng đọc văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã rồi đến thật tướng Bát Nhã.

    Do đó Thiền sư Thiên Cơ dạy:

    Hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn ở chỗ giác ngộ. Cần biết phàm phu một niệm giác tức một niệm là Phật, Phật một niệm chẳng giác tức một niệm là phàm phu. Bởi vì giác tức là Phật, Phật tức là giác. Phật với phàm phu chỉ tại giác cùng chẳng giác mà thôi”. Muốn cho ánh sáng được cùng khắp thì chúng ta phải hạ thủ công phu tu thiền hoàn toàn ở chỗ giác ngộ, có nghĩa là một niệm sân vừa dấy khởi chúng ta phải biết liền, vừa ra cửa là chạm lúa mạ của người, chúng ta phải kéo trở về cái tự tánh biết của mình.

    Tâm người có Giác tức là có Phật. Giác hay mở cửa lục độ, hay vượt qua kiếp hải ba A-tăng-kỳ”. Mình vừa giác thôi thì ngay trong giờ phút thực tại đó mình đã mở cửa bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ. Ví dụ như khi đang ngồi thiền mà có một con muỗi đến chích, ngay lúc đó nếu mình không giác thì sẽ đập chết nó, còn nếu mình có giác thì quán chiếu chúng sanh này khổ quá nên bố thí cho giọt máu. Như vậy ngay trong lúc bố thí mà không đập nó thì có trì giới, nó chích mình biết đau mà vẫn chịu được và ngồi yên thì có nhẫn nhục. Mình ráng cố gắng ngồi cho hết giờ không xả ra thì đó là tinh tấn, mà tinh tấn thì có thiền định và trí huệ kế bên. Cái gì thấy được từng niệm đang diễn tiến mà chúng ta làm chủ được niệm thì đó là lục độ mở cửa ra. Như vậy đâu cần có tiền mới bố thí, đang tu cũng có lục độ.

    “Khắp làm lợi ích như cát bụi, khuếch trương phước huệ, được sáu thứ thần thông, tròn đầy quả Phật trong một đời. Cảnh khổ trong địa ngục, nào vạc dầu sôi, sông băng, nghe đến giác liền biến thành rừng hương, uống nước đồng sôi, nuốt hoàn sắt nóng, nghe đến giác thảy đều sanh Tịnh độ”.

    Trong lúc mình thực hành lục độ là bố thí, trì giới, nhẫn nhục ,tinh tấn, thiền định và trí huệ thì ngay lúc đó mình làm lợi ích rất là nhiều. Đơn cử như trong khi nấu ăn cho đại chúng, nếu thân tâm thanh tịnh thì phước đức rất lớn nhưng nếu không cẩn thận thì tai họa cũng rất lớn, như trong khi nấu mà thân tâm không được thanh tịnh, tay dơ mà bốc đồ ăn, hoặc rau thì chỉ rửa một hoặc hai nước thôi thì mình đều bị tổn phước rất nhiều. Cho nên hàng ngày chúng ta phải luôn luôn tập giác, vì có những lúc do chưa được chánh niệm hoàn toàn nên chúng ta phạm vào những giới luật trong nhà Phật mà mình đã thọ, đáng lẽ ra mình phải vào địa ngục vì tâm u minh, không sáng suốt, sông băng và vạc dầu sôi ví như tham, sân, si, nhưng nhờ có giác nên sanh Tịnh độ.

    Trong Kinh có kể một câu chuyện: Có một bà già cúng một sấp y cho một thầy Tỳ kheo, khi bà đi, đứng, nằm, ngồi đều nhớ đến công đức đó nên rất vui sướng, hạnh phúc, nhưng khi chết, chỉ vì một niệm sân hận với đứa con trai mà bà bị rớt xuống hỏa ngục. Vừa rớt xuống hỏa ngục thấy nóng quá, tự nhiên bà khởi niệm nhớ lại là trong cuộc đời đã có lần cúng một sấp y cho thầy Tỳ kheo, thì ngay đó hỏa ngục liền biến thành một tòa sen lớn đưa thẳng bà lên cung trời Đao Lợi. Nhiều người không hiểu, nói ở nhà tu tâm cũng được, cần gì đến chùa, nhưng hiểu như vậy là lầm. Chúng ta thường đến chùa để nhớ những cảnh trang nghiêm, thanh tịnh, làm cho tâm mình cũng được thanh tịnh theo. Khi vừa chết, do thường nhớ đến Phật Pháp Tăng thì mình sẽ sanh về cõi lành. Còn ở nhà chắc gì đã tu tâm được, có lúc vợ chồng hòa thuận, có lúc cãi lộn, xích mích, rồi vướng vào ái dục thì khi chết mà nhớ mấy việc đó thì đi vào đường xấu. Các vị Thiền sư sau khi đắc đạo còn phải lên núi tu tập một thời gian từ ba mươi đến năm mươi năm huống nữa là chúng ta. Vì thế tốt nhất là cứ khoảng nửa tháng hoặc một tháng, quý vị nên đến chùa một lần, giống như pin hết thì đến sạc rồi về nhà dùng thôi.

    Trong Kinh Pháp Hoa diễn tả lại ánh sáng của Đức Phật: “Bấy giờ, Đức Phật từ nơi tướng lông trắng giữa chặng mày phóng ra luồng hào quang chiếu khắp cả một muôn tám nghìn cõi ở Phương Đông, dưới thời chiếu đến địa ngục A Tỳ, trên suốt thấu trời sắc cứu kính. Chúng sanh ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi kia”. Ở đây chúng ta phải đặt câu hỏi: Tại sao trong kinh Đại thừa thường chỉ nói về phương Đông mà không nói về phương Tây, phương Nam hay phương Bắc? Phương Đông tiêu biểu cho đất tâm, trong tâm không một niệm thì ánh sáng trí huệ chiếu sáng cùng khắp. Đức Phật phóng hào quang ngay ở chặng mày mà không phải ở đầu hay ở ngực là tương ưng với “chữ bát mở ra đà sáng quắc”, chữ bát là không dính mắc hai bên, phân biệt đối đãi. Dù có lên thiên đường hay là xuống địa ngục thì Phật tánh cũng không thêm, không bớt. “Chúng sanh ở cõi này đều thấy cả sáu loài chúng sanh ở các cõi khác”, tức là một khi chúng ta nương vào ánh sáng Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương và thể nhập vào tâm định tĩnh rồi thì có thể nhìn rõ sáu cõi. Có những lúc chúng ta ngồi gần nhau mà không có thấy nhau vì còn niệm năng, sở, chủ, khách, thương, ghét rồi những niệm tật đố, san tham, ích kỉ. Cho nên khi bỏ hết được những niệm xấu, ác đó thì chúng ta mới có thể nhìn rõ sáu cõi được.

    Thiền sư Viên Chiếu dạy: “Hãy xem ánh sáng tốt lành rực rỡ, chiếu sáng cả đại Thiên thế giới, trăm ức vi trần cõi nước, đại hải, núi Tu di, mặt trời, mặt trăng, bốn châu thiên hạ, cho đến cõi Phật vi trần đều ở trong ánh sáng phát hiển ra cùng một lúc. Này các nhân giả! Có thấy chăng? Nếu thấy được thì chính các ông đang tự thân ở trong ánh sáng tốt lành đó, không thấy được đừng nói là ánh sáng tốt lành chẳng có chiếu soi. Hãy tham!”

    Nếu chúng ta thấy được từng niệm để chuyển hóa thì chúng ta đang ở trong ánh sáng của Ngài. Như vậy bộ Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật là nói cho chúng ta, để chúng ta tu và chứng nghiệm ánh sáng đó chứ không phải để chúng ta đọc tụng rồi cầu xin an ổn. Có một điểm hay là, dù cho chúng ta chưa thể nhập được ánh sáng đó nhưng nó vẫn luôn luôn chiếu soi qua sáu căn: mắt thấy, tai nghe, mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, cho nên tuy mình chưa đồng với Phật Tổ nhưng hàng ngày chúng ta luôn được trải nghiệm đồng với Phật tổ. Chính vì lẽ đó, ngài Hám Sơn nói: “Hàng ngày sống trong viên giác mà chưa từng viên giác, chính đó là phàm phu. Hàng ngày sống trong viên giác mà được nửa phần viên giác chính là Bồ Tát. Hàng ngày sống trong viên giác mà trụ trì trong cảnh giới viên giác chính là Phật Đà”. Như vậy mình cũng có viên giác giống như Phật nhưng chưa sống được thì là phàm phu, cũng ăn uống ngủ nghỉ như Phật nhưng mình ăn không biết là mình đang ăn, uống không biết là mình đang uống…, nên mình và Phật ngày một cách xa. Cho nên Ngài Hàm Thị nói: “Cái chỗ tầm thường nhất của chúng sanh chính là chỗ Phật và Bồ Tát để mắt đến”, chúng ta thường tìm những gì lạ, mờ mờ ảo ảo mà không biết rằng chính những chuyện tầm thường nhất cũng là chỗ phi thường nhất.

    Do đó, trong Kinh Vô Lượng Thọ, Phật dạy: “Nếu chúng sanh trên mỗi cõi có ai gặp ánh sáng này thì ba chất dơ tham, sân, si đều tiêu diệt, thân ý nhu nhuyến, vui mừng khấp khởi, lòng lành bởi đó mà sinh ra. Ví như họ ở trong tam đồ rất khổ mà một khi thấy được ánh sáng này rồi thì đều được nghỉ ngơi, không khổ não nữa. Sau khi qua đời, họ đều nhờ đó mà được giải thoát”. Vừa thấy ánh sáng này thì ngay lập tức tham, sân, si mất, khi đó thân tâm vui sướng, an ổn. Vì thế Sơ Tổ Đạt Ma nói: “Tâm tịnh thì thích việc lành. Thể nhiễm thì ưa việc ác”, quý vị để ý khi nào tâm mình thanh tịnh và vui vẻ, an ổn thì mình thích làm việc lành như bố thí, cúng dường, phóng sanh, ấn tống kinh sách, giúp đỡ mọi người….

     

     

     

  • 4. Nguyện lớn thứ ba

    NGUYỆN LỚN THỨ BA

    “Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ đề, ta dùng trí huệ phương tiện vô lượng vô biên độ cho chúng hữu tình, khiến ai nấy đều có đủ vật dụng chớ không cho ai chịu sự thiếu thốn, nghèo cùng nữa”.

    Có người nghe như vậy về tụng đọc Kinh Dược Sư và thắc mắc là Ngài đã chứng đạo Bồ đề rồi, đáng lý mình đọc tụng mãi thì phải được đầy đủ mà tại sao đến giờ vẫn còn nghèo? Ở đây chúng ta phải lưu ý xem kinh Đại thừa ý nói gì. Ngài dùng rất nhiều phương tiện để cho chúng ta khỏi sự thiếu thốn, mà trong cuộc đời này chúng ta thiếu thốn gì nhất? Trên thế giới hiện nay, vấn đề lớn nhất mà những người có trách nhiệm lo lắng là sự xuống cấp, sự thiếu thốn và nghèo nàn về đạo đức, về phẩm chất con người chứ không phải là thiếu tiền bạc, tài sản hay cơm gạo, vì vậy mà Đức Phật phải dùng đủ mọi phương tiện để cứu giúp chúng ta. Ở đây mình có hạt ngọc mà quên, giống như chàng cùng tử trong kinh Pháp Hoa, là con của ông trưởng giả mà lại cho rằng mình nghèo, đi tha phương cầu thực khắp nơi.

    Do vậy, vua Trần Thái Tông nói trong bài kệ Bốn núi:

    Chỉ sai hữu niệm, quên vô niệm

    Liền trái vô sanh nhận có sanh

    Mũi đắm các hương, lưỡi tham vị

    Mắt mờ chúng sắc, tiếng mê tai

    Lang thang làm khách phong trần mãi

    Ngày cách quê hương muôn dặm trình.

    Tức là có niệm mà quên vô niệm dẫn đến nghèo cùng, khốn khổ. Mình nhớ cái hữu niệm, cứ tưởng mình giàu lắm nhưng thực ra mình đang khổ, rồi dẫn đến nhận lấy sanh tử đi mãi trong vòng luân hồi. “Mũi đắm các hương”, chẳng hạn nhiều khi mình đi qua đâu, ngửi thấy cái gì thơm thơm là mình đi chậm lại, hít cho thật sâu rồi mới đi tiếp. Rồi đến tai mình cũng thích nghe những lời ngọt ngào êm ái hơn là những lời nói sân giận, trái ý. Ví như một người chỉ thích ăn đồ chua thì dễ bị đau bao tử, còn một người thích ăn đồ ngọt thì dễ tiểu đường, nếu người nào trung hòa được cả hai đồ này, ăn gì cũng được thì bình thường. Cũng vậy, tai mình nghe cái gì vui mà thích, còn cái gì buồn thì không thích là biết mình đang bị bệnh, phải điều chỉnh lại. Chúng ta không có sự định tĩnh, suốt ngày bị các pháp dẫn đi, luôn luôn bị những người xung quanh lừa mà mình không biết. Ví dụ như một hôm nào có người đến khen mình thì mình vui, sau đó họ chê thì mình lại buồn. Nếu khi họ khen hay chê mà mình vẫn bình thản, vẫn cười thì mới không bị lừa, như thế thì suốt ngày chúng ta làm bạn với muôn pháp. Có lần Bàng cư sĩ đến Thiền sư Mã Tổ hỏi: “Người không cùng muôn pháp làm bạn là người gì?”, Thiền sư trả lời: “Đợi ông một hớp uống cạn sông Giang Tây, ta sẽ vì ông nói”, ngay đó Bàng cư sĩ ngộ. Còn mình thì lúc thức, lúc ngủ đều cùng muôn pháp làm bạn, ngay cả khi ngồi thiền cũng làm bạn với muôn pháp, nào là chạy về nhà, đi dạo cảnh rừng biển núi non… chứ không sống với thực tại, do vậy mình vẫn mãi là người nghèo cùng khốn khổ. Cho nên Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương mới dùng vô số phương tiện thiện xảo để dìu dắt chúng sanh nhận ra hòn ngọc đó để cho mình hết nghèo.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi, một hôm Thiền sư Cảnh Thanh đang ngồi trong thất, có vị tăng đứng bên cạnh. Thiền sư hỏi:

    -         Bên ngoài có tiếng gì?

    Tăng thưa:

    -         Bạch thầy, tiếng con nhái bị con rắn cắn.

    Thiền sư nói:

    -         Chúng sanh khổ, lại có cái khổ của chúng sanh.

    Chúng sanh nào khổ? Con nhái bị con rắn cắn khổ, rồi ông tăng cũng khổ vì vì chạy theo tiếng mà quên mất tánh nghe đang hiện hữu đây, mà chạy theo tiếng là bỏ mất mình, chịu nghèo đói.

    Cũng trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi: Một vị tăng tên là Thanh Nhuệ đến hỏi Thiền sư Tào Sơn:

    -         Kính bạch Thầy, con rất nghèo đói. Xin Thầy cứu giúp con.

    Thiền sư gọi:

    -         Xà Lê Nhuệ, hãy lại gần đây.

    Sau khi vị tăng này lại gần, Thiền Sư bảo:

    -         Kẻ nhà nghèo ở Tuyền Châu đã uống xong ba chén rượu, lại nói chưa dính môi.

    Qua câu chuyện trên chúng ta thấy sao? Gặp mình không hiểu thì có khi rút tiền ra đưa cho ông tăng, nhưng có phải ông tăng này nghèo thật không? Các Thiền sư nghe thì biết ngay, là ông tăng này không phải nghèo về tiền bạc mà nghèo về đạo lý, nghèo vì chưa nhận được kho báu, hạt ngọc của chính mình. Nói nghèo khổ lắm mà Thiền sư lại bảo “Lại gần đây” thì rõ ràng ông nghe thấy từng tiếng nên đi lại. Như vậy cái gì biết nghe, biết đi đó? Vậy ông nghèo là nghèo ở chỗ nào? Ví như một người nằm chết, nếu chúng ta gọi thì người đó có nghe mà đứng dậy đi được không? Vì thế cho nên chúng ta phải khám phá cho được ông chủ của mình.

    Trong Thiền sư Trung Hoa, tập 1 ghi: Một hôm Quốc sư Huệ Trung gọi thị giả: “Thị giả”, gọi ba lần như vậy thì cả ba lần thị giả đều thưa “Dạ” mà không sáng được chỗ này. Cho nên Quốc sư nói: “Tưởng ta cô phụ ngươi, nào ngờ ngươi cô phụ ta”. Đó ông thầy đã giúp hết sức nhưng không nhận ra được là lỗi của mình.

    Thiền sư Lâm Tế nói rất rõ: “Này các nhân giả, muốn biết người không nghe pháp là gì, rõ ràng trước mắt các ông là một người đang nghe pháp rõ ràng, sáng suốt”. Trong cuộc sống giữa đời thường, nếu chúng ta biết tu rồi thì rất là giàu. Chúng ta đi đứng có chánh niệm, tỉnh giác thì sẽ được an ổn thảnh thơi trong cuộc đời đầy phong ba bão tố này.

    Trong Thiền Sư Trung Hoa có ghi: Một hôm Tướng quốc Bùi Hưu đến một tự viện, thấy hình cao tăng được vẽ trang trọng trên tường thì ông hỏi: “Hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?” Mọi người ở chùa không biết cách trả lời như thế nào. Ông Bùi Hưu lại hỏi tiếp: “Ở đây có thiền sư không?”. Trụ trì thưa: “Sáng tôi trông thấy một thiền sư đi vào đây trông có vẻ giống cao tăng lắm”. Trong sử kể lại Thiền sư Hoàng Bá khi đó làm trụ trì một Thiền viện gồm 500 vị tăng, một lần các vị tăng gây ồn ào quá nên Ngài bực, bỏ đi vào trong chùa đó để tu. Lúc thầy Trụ trì thỉnh Thiền sư Hoàng Bá ra, vừa nhìn thấy Thiền sư thì Bùi Hưu thưa: “Kính bạch Hòa thượng, hình cao tăng ở đây mà cao tăng ở đâu?” Lúc này, Thiền sư Hoàng Bá nhìn thẳng gọi: “Bùi Hưu”. Ông này liền thưa: “Dạ”. Thiền sư nói tiếp: “ Ở đâu?”. Lúc này ông Bùi Hưu chợt ngộ.

    Thường mình hay tưởng tượng và tìm vị cao tăng ở đâu bên ngoài mà không biết thực ra ông chủ ở ngay nơi mình thôi. Bây giờ quý vị thử để ý, trong lúc mình đang nghe pháp, mình không nghĩ đến nhưng vẫn nghe thấy tiếng quạt máy kêu, tiếng chim kêu, tiếng chó sủa, nói chung là tất cả các thứ tiếng, mà trong thời điểm đó mình không phân biệt và chấp trước tất cả các thứ tiếng, có nghĩa là nghe hết, nghe suốt các âm thanh mà không trụ thì tức là đồng với Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương. Vì thế nên nói mình rất giàu có, sung túc nhưng lại không bao giờ dám nhận nên không được an ổn.

    Trong Thiền thoại có ghi: Thiền sư Tử Hồ có lần giữa đêm đến trước tăng đường la lớn:

    -         Ăn trộm! Ăn trộm!

    Tăng chúng tưởng có trộm thật, ai nấy tung mền chạy ra. Lúc đó có một vị tăng chạy đụng phải Ngài. Ngài tóm được áo vị tăng này, nói:

    -         Bắt được rồi, bắt được rồi.

    Tăng thưa:

    -         Thưa Hòa Thượng! Không phải con.

    Ngài bảo:

    -         Phải mà, chẳng qua ông không chịu nhận mà thôi.

    Quý vị thấy Thiền sư có kỳ không? Tự dưng không có trộm mà la lên là “Ăn trộm”, rồi khi bắt được một vị, vị đó nói không phải thì lại nói: “Phải mà, chẳng qua ông không chịu nhận mà thôi”. Cho nên các vị Thiền sư tâm lão bà rất tha thiết, thấy chúng sanh chưa ngộ nên phải dùng đủ mọi thủ thuật, đủ mọi phương tiện để khai thị, giúp cho chúng sanh nhận ra hạt ngọc mình đang có.

    Trong Thiền sư Trung Hoa, tập 1 ghi: Một hôm, Sa di Cao đến gặp Thiền Sư Dược Sơn. Thiền sư hỏi:

    -         Ta nghe ở Trường An náo loạn, ngươi có biết chăng?

    Sa di Cao nói:

    -         Nước con an ổn.

    Quý vị đi chùa, đi thiền viện, nhiều khi vẫn có những chuyện thị phi diễn ra chứ không phải là không có. Nhưng nếu có người nào hỏi mình: “Tôi nghe nói nơi đó không được an ổn, thanh tịnh phải không?” thì mình trả lời sao? Có trả lời được là “Nước tôi an ổn” không? Hay là mình kể lể nào thì bà Tám thế này, ông Bảy thế kia, toàn những chuyện không dính dáng gì tới mình thì đâu gọi là tu. Chuyện chùa là chuyện chùa, chuyện người là chuyện của người, còn mình vẫn an ổn thì khi đó tu tiến rất nhanh. Các Ngài nói là mình luôn dùng ánh sáng chiếu ra ngoài chứ không bao giờ chiếu soi lại mình nên cứ khổ, cứ phiền não suốt là như vậy.

    Thiền sư Dược Sơn hỏi:

    -         Ngươi do xem kinh được hay do thưa hỏi được?

    Sa di Cao thưa:

    -         Chẳng do xem kinh được, cũng chẳng do thưa hỏi được.

    Thiền sư lại hỏi:

    -         Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?

    Sa di Cao nói:

    -         Chẳng nói họ không được, chỉ vì họ không chịu thừa nhận mà thôi.

    Mình có hạt ngọc mà không nhận, lại hay khởi niệm phân biệt phải quấy, hơn thua thì có nghĩa là mình đang nghèo, đang khổ, còn mình xoay lại quán xét chính mình có nghĩa là mình đang giàu có. Vậy quý Phật tử muốn nghèo, muốn khổ hay muốn giàu có giống Đức Phật Dược Sư? Trong Kinh Viên Giác lược giải của Ngài Hám Sơn, Ngài nói: “Chỉ có một chữ Biết, đó là pháp tối thượng”, còn Hòa Thượng Trúc Lâm nói: “Biết vọng đừng theo”. Cho nên người nào biết tu thiền sẽ thấy cuộc đời rất là đơn giản, nghèo khổ hay không là do mình. Mỗi niệm khởi lên mà mình phóng theo thì nghèo, mà không theo, soi trở lại thì đang là giàu có. Như vậy, chỉ cần một chữ “BIẾT” là đủ rồi.

    Trong Thiền thoại kể một câu chuyện: Một hôm Thiền Sư Thạch Ốc có việc đi lên kinh thành, trên đường đi thì gặp một người cũng đi hành cước như mình. Sau một hồi chào hỏi làm quen thì như có một nhân duyên gì đó mà thấy thân thiết, càng nói chuyện càng thấy hợp. Đến tối, hai người cùng thuê một căn phòng trọ để nghỉ ngơi, lấy sức sáng mai đi sớm. Vì nhà trọ không có đèn nên hai người đi ngủ luôn, nhưng nửa đêm vì có một vài tiếng động nhỏ phát ra nên Thiền sư tỉnh giấc, thấy người bạn đi cùng đang loay hoay lục đồ của mình. Thiền sư hỏi:

    -         Ông là ai?

    Người đi cùng sợ quá nên thú nhận:

    -         Thưa Thầy, Thầy tha lỗi cho con. Con là ăn trộm, vì thấy Thầy mang cái túi to quá nên con định nửa đêm khi Thầy ngủ sẽ dậy lấy.

    Thiền sư nói:

    -         Thì ra ông là ăn trộm. Vậy ông ăn trộm từ trước đến giờ bao nhiêu lần rồi?

    Ăn trộm thưa:

    -         Thưa Thầy, từ ngày con sinh ra và lớn lên đã dính liền với nghề ăn trộm nên nhiều lần lắm rồi, không nhớ rõ được.

    Thiền sư khai thị tiếp:

    -         Vậy mỗi lần ông đi ăn trộm, ông vui được bao lâu thì hết?

    Ăn trộm thưa:

    -         Phải xem giá trị của món đồ mình lấy được như thế nào thì mới biết niềm vui đó kéo dài được bao lâu. Như tuần trước con lấy được cái vòng bán được ít tiền quá nên vui có nửa ngày. Trước lúc gặp thầy bốn hôm, con lấy trộm được miếng ngọc bán đi ăn uống thoải mái nên vui được đến hôm qua.

    Thiền sư hỏi tiếp:

    -         Vậy lúc vui nhất ông duy trì được bao lâu?

    Ăn trộm đáp:

    -         Thưa Thầy, lúc vui nhất cũng chỉ được mấy ngày thôi, qua rồi thì lại thấy khổ như thường.

    Lúc này Thiền sư nói:

    -         Vì sao ông không cố gắng ăn trộm một lần cho nhiều đi rồi vui cả thể.

    Ăn trộm hỏi lại:

    -         Thưa Thầy, Thầy có kinh nghiệm ăn trộm chưa? Thầy ăn trộm mấy lần rồi?

    Thiền sư đáp:

    -         Ta ăn trộm chỉ có một lần thôi.

    Ăn trộm lại hỏi:

    -         Chỉ một lần sao? Như thế đủ chăng?

    Thiền sư trả lời:

    -         Ta ăn trộm tuy chỉ một lần nhưng dùng cả đời không hết.

    Ăn trộm mừng rỡ hỏi:

    -         Vật đó lấy ở đâu? Thầy chỉ cho con được không?

    Thiền sư Thạch Ốc nghe xong đến nắm chặt ngực tên trộm nói:

    -         Ông hiểu cái này không? Đó là kho báu không cùng tận, ông đem ra dùng cả đời không hết. Ông hiểu chăng, hiểu chăng?

    Quý vị thấy, các Thiền sư khai thị bao giờ cũng dồn cho mình đến chỗ cùng cực. Do đã nhận và sống được nên lực rất mạnh, trong lúc nói ra thì cái lực đó tác động đến tâm người nghe khiến tâm họ được tương ưng, phá đi nghiệp xấu ác của chúng sanh. Cho nên khi nghe pháp, nếu chúng ta nghe trực tiếp thì sẽ có một năng lực xoáy vào trong tâm mình làm cho mình thẩm thấu, dễ hiểu hơn là nghe qua băng giảng. Ở đây, khi Thiền sư Thạch Ốc nắm ngực áo tên trộm nói “Hiểu chẳng, hiểu chăng?” thì lúc đó bao nhiêu hạt giống xấu ác được tiêu trừ. Tên trộm thể nhập vào cảm thọ hạnh phúc nên thưa thật:

    -         Dường như hiểu, dường như không, nhưng loại cảm thọ này cho con cảm giác rất thoải mái, rất hạnh phúc .

    Từ đó tên ăn trộm sám hối, quy y với Thiền Sư Thạch Ốc và sau này cũng trở thành một Thiền giả nổi tiếng thời đó.

    Trong Thiền sư Trung Hoa có ghi: Thiền sư Huệ Hải ban đầu đến tham vấn Ngài Mã Tổ. Mã Tổ hỏi:

    -         Ông đến đây làm gì?

    Huệ Hải thưa:

    -         Con đến cầu Phật Pháp.

    Mã Tổ nói:

    -         Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì? Ta trong ấy không có một vật, cầu Phật pháp cái gì.

    Huệ Hải hỏi lại:

    -         Cái gì là kho báu nhà mình của Huệ Hải?

    Mã Tổ đáp:

    -         Chính ngay cái ông hỏi ta là kho báu của ông, đầy đủ tất cả không thiếu thốn, tự do sử dụng, đâu nhờ tìm cầu bên ngoài.

    Ngay câu này, Ngài Huệ Hải tự nhận bổn tâm không do hiểu biết, vui mừng và lễ tạ.

    Cho nên cổ đức có câu: “Vô nhất vật trung vô tận tạng. Hữu hoa hữu nguyệt hữu lâu đài”. Nhiều khi mình tu đến chỗ nào đó tưởng là hết nhưng thực ra không phải, cần tiếp tục tu vì ở trong kho tàng vô tận đó có trăng, có hoa, có lâu đài, có đầy đủ hết. Đó là cái diệu dụng của hành giả tham thiền.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, Thiền sư Nhân Dũng một hôm đọc đến chỗ này, Ngài cảm nên làm một bài kệ:

    Hôm qua năm cũ đi

    Hôm nay năm mới đến

    Năm cũ đi chẳng đi

    Năm mới đến chẳng đến.

    Khắp đồng đầy thước tuyết

    Đại địa bặt mảy trần

    Người không tên không chữ

    Đưa mắt nhìn bồi hồi.

    Có một con người không tên, không chữ ở trong chúng ta mà chúng ta không nhận được, vì không nhận được nên chạy theo các pháp trần rồi dấy đủ thứ niệm, dẫn đến đau khổ dồn dập, đi mãi trong con đường luân hồi sanh tử. Vì thế cho nên “người không tên không chữ, đưa mắt nhìn bồi hồi”.

    Thiền sư Huyền Giác nói:

    Hàng con Phật, miệng xưng nghèo

    Thật ấy thân nghèo, đạo chẳng nghèo

    Nghèo ắt thân thường manh áo vá

    Đạo ắt tâm đầy vô giá châu

    Vô giá châu dùng không hết

    Lợi người, lợi vật nào lẫn tiếc

    Ba thân, bốn trí thể tròn đầy

    Tám giải, sáu thông tâm ấn hiệp.

    Hàng Thích tử thì nghèo, nhưng dù nghèo về vật chất nhưng vẫn luôn an ổn, tự tại vì đạo không nghèo. Bây giờ cơ sở vật chất đầy đủ nên cuộc sống cũng đỡ hơn, quý thầy ăn mặc cũng không rách bao nhiêu, nhưng vào thời Hòa thượng ở Chân Không về Thường Chiếu thì lúc đó quý thầy, cô nói mặc áo vá có khi gần đến trăm mảnh. Rồi khi giàu có hơn thì dù có bố thí, cứu giúp người nghèo, làm việc thiện đi chăng nữa nhưng vẫn có lúc bị kẹt, nhưng nếu người có đạo thì bố thí pháp cả đời cũng không hết. Cho nên “vô giá châu dùng không hết, lợi người lợi vật nào lẫn tiếc”. Mình chưa đi tu thì chưa có gì, nhưng đi tu rồi nhiều khi giống như cái thùng rác. Chuyện trên trời dưới biển, chuyện đâu đâu người ta cũng gọi mình đến nhờ giải quyết, nhưng nhờ chúng ta tu, có sự chánh niệm định tĩnh nên không bị các pháp dẫn đi, do đó khi ai cần mình đều có thể chia sẻ mà không có lẫn tiếc. “Ba thân, bốn trí thể tròn đầy”, ba thân là pháp thân, báo thân và hóa thân, còn bốn trí là Diệu quan sát trí, Thành sở tác trí, Bình đẳng tánh trí và Đại viên cảnh trí.

    Tám giải, sáu thông tâm ấn hiệp”. Như Thiền sư Câu Chi nói: “Từ khi nhận được yếu chỉ của Hòa thượng Thiên Long dùng mãi không hết”. Sở dĩ như vậy vì có câu chuyện, một hôm Thiền sư Câu Chi đang ở trong thất thì có bà ni tên Vô Tận đến. Ngài mời bà ni vào thất uống trà nhưng bà không chịu, nói: “Nếu thầy trả lời đúng cho tôi câu này thì tôi vào, còn không thì nhất định tôi không vào”. Cuối cùng không nhớ bà nói câu gì mà Ngài trả lời không được nên bà bỏ đi. Ngài tủi thân vì thân là một ông Tăng cứu độ chúng sanh mà một câu trả lời cho bà ni cũng không được nên Ngài buồn, định khăn gói để lên đường. Tối hôm đó nằm ngủ, Ngài mộng thấy một vị hộ pháp nói: “Hòa thượng đừng đi đâu hết. Sáng mai sẽ có một vị Thiền sư đi ngang đây. Hòa thượng nhờ Ngài chỉ dạy thì Ngài sẽ chỉ cho Hòa thượng”. Quả thật sáng sớm hôm sau có Thiền sư Thiên Long đến thất của Ngài. Ngài kể lại câu chuyện với bà Ni Vô Tận ngày hôm qua cho Thiền sư Thiên Long nghe. Thiền sư nghe xong câu chuyện, giơ một ngón tay lên trời. Ngay đó Ngài triệt ngộ. Qua câu chuyện này cho chúng ta thấy, tuy chỉ là một nhưng cái một này nó bao gồm tất cả pháp. Vạn pháp trong cuộc đời này chỉ một chữ TÂM là quy nạp hết tất cả, giống như trăm sông chảy về biển.

    Rồi một hôm, Thiền sư Thủy Lạo đến Thiền sư Mã Tổ hỏi: “Thế nào là đại ý Phật Pháp?”. Vừa hỏi xong thì bị Thiền Sư Mã tổ đạp cho một cái ngã lộn nhào ba vòng, sau đó Ngài cười mãi không thôi. Từ đó Ngài hết khổ, hết nghèo đói, hết ăn xin luôn!

    Ngài Lâm Tế đến hỏi Ngài Hoàng Bá: “Thế nào là đại ý Phật Pháp?”, ba lần hỏi là ba lần bị ăn gậy, sau đến chỗ Ngài Đại Ngu mới triệt ngộ. Trở về Hoàng Bá, Ngài nói: “Từ khi nhận được ba gậy của thầy dùng mãi không hết”.

    Còn trong Tục tạng ghi: Một hôm Tổ Bát Nhã Đa La hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Trong đời này có loại ngọc nào là chơn thật không?”. Tổ Đạt Ma nói: “”. Tổ Bát Nhã Đa La lại hỏi: “Ở đâu?”. Tổ Bồ Đề Đạt Ma liền chỉ “Đây”. Lúc này Tổ Bát Nhã Đa La mới truyền trao y bát.

  • 5. Nguyện lớn thứ tư

    NGUYỆN LỚN THỨ BỐN

    “Ta nguyện đời sau, khi chứng đạo Bồ đề, nếu có chúng hữu tình nào tu theo ngoại đạo thì ta khiến họ quay về an trụ trong đạo Bồ đề, hoặc có những người tu theo hạnh Thanh Văn, Độc Giác, Duyên Giác thì ta cũng lấy giáo pháp Đại thừa mà dạy bảo cho họ”.

    Đây là phần quan trọng mà những người tu Phật cần phải nắm bắt. Thường chúng ta hay hiểu ngoại đạo là những người bên xứ Ấn Độ không tu theo đạo Phật, nhưng theo tinh thần của nhà Thiền thì “Ngoại tâm cầu Phật, danh vi ngoại đạo”, có nghĩa ngoài tâm cầu Phật thì đó là ngoại đạo. Cho nên trong nhà Phật, dù tu theo pháp môn nào cũng không rời tự tâm. Chẳng hạn tu pháp môn thiền thì theo tinh thần của Tổ Bồ Đề Đạt Ma là “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”, pháp môn của Tịnh Độ tông là “Nhất tâm bất loạn” hay là “Tâm tịnh Phật độ tịnh”, pháp môn của Mật tông là “Tam mật tương ưng, tức khắc thành Phật”, có nghĩa là thân, khẩu, ý tương ưng. Các pháp môn tuy phương tiện có sai khác nhưng trọng tâm là đi thẳng vào tâm để nhận ra ông Phật ngay nơi tự tâm mình. Rải rác trong kinh điển có nhắc đến nhiều, ở đây chia tạm ra có tất cả năm loại thiền:

    1. I.         THIỀN KHÔNG PHẢI CỦA ĐẠO PHẬT
    2. Thiền chuyển luân xa

    Hành giả dẫn điện từ rốn ra sau lưng, lên đầu rồi xuống rốn, dẫn điện chạy vòng vòng như vậy là chuyển luân xa”. Thiền này ngồi quán tưởng như có dòng điện chạy qua bảy luân xa. Loại thiền này không phải tinh thần của đạo Phật, không phải chỗ trọng tâm để vượt thoát cảnh giới luân hồi.

    1. Thiền xuất hồn

    Hành giả mở các khiếu huyệt trên thân rồi xuất hồn bay đi học đạo”, tức là ngồi ở một nơi rồi xuất hồn bay đi học đạo ở chỗ này, chỗ khác. Có một Phật tử bên Canada nói với chúng tôi rằng anh cũng tu theo pháp môn này. Chúng tôi chỉ lấy ví dụ rằng: Ví như anh có một căn nhà tiện nghi đầy đủ, nhưng khi anh đi ra ngoài mà không khóa cửa hoặc không có người nào đó giữ nhà thì ăn trộm vô lấy hết đồ. Cũng vậy, thân của mình mà không có ông chủ thì ai vào? Ma, quỷ, tinh mị… sẽ vào. Cho nên tu một thời gian thì lẩn thẩn đi ra ngoài đường, nói lảm nhảm là vậy.

    1. Thiền thai tức

    Hành giả thở vô, giữ hơi tại đan điền một lúc rồi mới thở ra, lâu ngày bụng dưới lớn dần lên như người nữ có thai, nên gọi là thiền thai tức”. Tức là khi hít hơi vào thì ém khí xuống bụng dưới rồi mới thở ra, lâu dần thì bụng dưới to lên như người phụ nữ mang bầu khoảng ba, bốn tháng.

    1. Thiền luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn vô

    Thiền này bên đạo giáo hay đạo tiên hay tu và đôi khi cũng được chút ít thần thông nhưng cũng không nhằm vào mục đích giác ngộ giải thoát. Có câu chuyện: Ông Lữ Đồng Tân quê ở Kinh Châu, vào cuối đời Đường ông đi thi ba lần không đậu, buồn quá nên quay về nhà. Lúc ghé vào quán rượu ở Trường An, tình cờ gặp Chung Hán Ly dạy cho phép thuật trường sinh. Ông bèn theo phép đó tu hành và có chút thần thông, bay trên không một cách tự tại, vân du khắp thiên hạ. Một hôm ông đi qua chùa Hải Hội ở Lô Sơn thì thấy từ dưới tỏa lên một luồng hào quang rực rỡ, biết thế nào ở đây cũng có bậc đạo nhân nên ông bay xuống, quả nhiên gặp Hòa thượng Hoàng Long Huệ Nam đang trong hội giảng pháp. Khi bay xuống thì ông viết trên lầu chuông bốn câu kệ:

    Ngày một thanh nhàn thân tự tại

    Sáu thần hòa hợp báu bình an

    Đan điền có ngọc thôi hỏi đạo

    Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền.

    Vì đến vào ngày giảng pháp nên ông cũng vào dự, nhưng vừa vào pháp hội thì Thiền sư Hoàng Long nói:

    -         Hôm nay có kẻ đến trộm pháp, lão tăng không giảng nữa.

    Ngày xưa, các vị Thiền sư giảng pháp mà có những người tu theo pháp môn khác vào thì các Ngài liền biết và không giảng nữa, bởi vì họ không hiểu được giáo pháp của Đức Phật, dẫn đến phỉ báng và khinh thường pháp tối thượng nên sẽ bị đọa địa ngục. Như Lục Tổ Huệ Năng nói: “Nếu không phải là hàng đồng kiến đồng hành, ở trong pháp môn khác thì không được truyền trao, e tổn tiền nhân kia”.

    Lúc này, Lữ Đồng Tân bước ra thi lễ, hỏi:

    -         Thế nào là trong một hạt thóc chứa cả thế giới, trong cái chảo nửa thăng nấu cả núi sông?

    Thiền sư Hoàng Long mắng:

    -         Đó là đồ quỷ giữ thây chết

    Đồng Tân nói:

    -         Làm sao trong chiếc túi này lại có thuốc trường sinh bất tử?

    Thiền sư Hoàng Long bảo:

    -         Dù ông có sống tám muôn kiếp, chưa khỏi lạc vào ngoan không.

    “Ngoan không” tức là chìm trong nước chết, không có diệu dụng. Như ông Uất Đầu Lam Phất tu đạt đến chỗ sống tám mươi bốn ngàn kiếp ở cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ, nhưng hết kiếp đó thì ông cũng đọa vào loài súc sinh, làm con chồn phi ly, trên ăn chim mà dưới ăn cá, hết làm loài chồn phi ly thì không biết bao nhiêu kiếp đọa dưới địa ngục. Tại sao như vậy? Trong Kinh kể rõ: Vì ông tu được năm thứ thần thông nên bay trên không trung rất tự tại. Vua rất quý kính ông nên thường cúng dường hậu hĩ. Một lần vua đi vắng nên dặn công chúa ở nhà thay vua tiếp đón và cúng dường. Cô công chúa này rất đẹp, khi thành kính quỳ xuống cúng dường thì vô tình bàn tay cô chạm vào chân ông, khi đó ông lỡ khởi một niệm dục nên mất thần thông, sau đó không bay về được. Ông bèn nói dối là muốn đi bằng xe ngựa về để chào dân làng. Sau khi về thì ông đi một mạch lên núi ngồi tu thiền định, nhưng lúc này trên trời thì chim kêu, dưới nước thì cá quậy làm ông không tài nào vào định được. Bực quá ông mới nguyền rằng sau này sẽ làm con chồn, trên thì ăn chim mà dưới thì ăn cá. Vì lời nguyền lúc sân hận đó nên Đức Phật nói ông sau khi hưởng hết tám mươi bốn ngàn kiếp ở cõi trời phi tưởng phi phi tưởng xứ rồi sẽ đọa làm loài súc sanh.

    Lại kể tiếp đến câu chuyện của Lữ Đồng Tân. Sau khi nghe Thiền sư nói xong thì ông nổi sân, phóng kiếm đến chém Thiền sư Hoàng Long. Quý vị thấy, ở trên thì ông nói là “Đan điền có ngọc thôi hỏi đạo. Đối cảnh vô tâm chớ hỏi thiền”, mà đến đây thì ông quên mất, tuy rằng có thần thông bay đi tự tại nhưng tham sân si vẫn còn. Thiền sư  đưa tay chỉ một cái, kiếm rơi xuống đất. Đồng Tân không lượm kiếm lên được bèn lễ lạy sám hối, thưa hỏi Phật pháp.

    Thiền sư Hoàng Long hỏi:

    -         Không hỏi chuyện chiếc chảo nửa thăng nấu cả núi sông, chỉ hỏi trong một hạt thóc chứa cả thế giới là sao?

    Đồng Tân ngay đây liền khế hội huyền chỉ, đọc bài kệ sám hối:

    Bỏ quách bị bao, đập nát đàn

    Từ nay chẳng thiết luyện bạc vàng

    Từ khi gặp được Hoàng Long dạy

    Mới biết lâu nay dụng công lầm.

    Ông quy y với Thiền sư Hoàng Long và từ đó đi theo con đường thiền tập.

    Trong nhà Phật kị nhất là có ngũ thông (thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, thần túc thông, túc mạng thông) mà lậu tận thông thì chưa có. Như mình ngồi đây mà nghe ai nói ở đâu có thần thông là kéo nhau đi xem ngay, nội có chút xíu đó mà chúng ta đã bị họ dẫn dụ, cho nên mới nói Phật tử thời nay rất dễ bị lừa chứ vào thời Đức Phật thì không dễ như vậy. Vừa rồi chúng tôi đi qua Miến Điện để thăm các trường thiền, một số vị nói chuyện với Thầy Trụ trì Trúc Lâm là họ thấy cái này, thấy cái kia. Thầy nói, dù cho thấy được tám mươi bốn vạn kiếp nhưng chưa bao giờ, dù một phút giây, được thấy và chạm trán với cái tâm của mình thì cũng uổng dụng công.

    Cho nên trong Kinh Tạp Thí Dụ, quyển Hạ có ghi: Thuở xưa ở nước Kế Tân có một thầy Tỳ kheo mở rộng giáo hóa, đệ tử của Ngài có vài trăm người theo học, trong đó có người chứng được tứ thiền, có người có được năm thứ thần thông, có người chứng quả Tu-đà-hoàn, có người chứng quả A-la-hán. Lúc bấy giờ có một người từ nước An Tức đến, thấy vị Tỳ kheo giáo hóa như thế thì rất vui mừng, xin làm đệ tử. Do túc duyên nên tu tập không bao lâu thì ông chứng được năm thứ thần thông. Vì trong thời gian ngắn mà chứng được ngũ thông nên ông hay thi thố, biểu diễn trước mọi người. Vị thầy thấy thế mới dặn: “Con tuy chứng được ngũ thông nhưng các hạt giống phiền não, nhiễm ô chưa hết sạch, con đừng sanh tâm kiêu ngạo ỷ vào sức thần thông đó”. Mặc dù được thầy dạy rất rõ ràng nhưng ông không những không nghe mà còn nổi sân, nghĩ thầy mình chắc không bằng nên tật đố, do đó ông bay về nước An Tức. Sau khi về đến nước An Tức, ông dùng thần thông bay ngang qua cung điện của vua. Vua nhìn thấy liền tự hỏi: “Sao lại có người phi hành trên hư không?” và mời ông xuống. Sau một hồi nói chuyện thì vua biết ông này đã chứng được năm thứ thần thông nên mời vào cung sống để hàng ngày gặp mặt, cúng dường và học đạo. Nhưng sau khi vào cung thì ở gần vua có rất nhiều cung tần mỹ nữ đẹp cho nên ông mải mê lao vào những điều đó khiến một thời gian sau nhiều cung nữ mang thai. Các vị đại thần biết chuyện tâu lại với vua, lúc đầu vua không tin một vị thầy đã chứng năm thứ thần thông lại có thể làm những việc ô nhục như thế. Sau cùng, vì nhiều người yêu cầu nên vua sai người đi kiểm tra thì quả là việc này có thật. Nhưng vì tình nghĩa, vua chỉ mời vị thầy này ra khỏi cung chứ không làm lớn chuyện. Sau khi ra khỏi cung, vì không còn tu nữa nên không có ai cúng dường, ông đi lang thang, đói khổ, sau đó trở thành ăn cướp. Băng cướp này gây ra những việc hết sức tày đình nào là giết người, cướp của… nên đích thân vua phải điều quân đi vây bắt. Sau khi bắt được toán cướp và nhận ra trong đó có cả vị thầy đã chứng ngũ thông ngày nào thì vua nói: “Ngày xưa vì gần phụ nữ nên xảy ra những chuyện đó, ta đã bỏ qua rồi. Tại sao bây giờ ra ngoài sao ông không tu lại đi ăn cướp?”. Ông này trả lời: “Vì như vậy nên không tu được nữa, ra đời đói quá nên bước đường cùng phải trở thành kẻ cướp”. Vua cũng vì lòng nhân từ, nghĩ ông đã từng tu, chứng được ngũ thông nên tha chết cho ông nhưng đuổi ra khỏi đất nước. Về phần ông khi bị đuổi ra khỏi đất nước, nghĩ rằng mình đã phạm giới dâm, sát, đạo nên quyết định đi làm mướn. Ông xin vào nhà của một đồ tể chuyên giết mổ trâu bò, heo…, làm được một thời gian thì do phước lực hết nên trong một lần đập xương con bò thì bị hai mảnh xương găm vào mắt làm ông bị đui. Sau khi bị đuổi việc, ông cầm cái bát mẻ đi xin ăn, cuộc sống thật là bi đát và đói khổ.

    Một hôm, vị Tỳ kheo ở nước Kế Tân nhớ đến người đệ tử năm xưa nên dùng đạo nhãn để xem hiện giờ ông này công phu tu hành đến đâu, đang giáo hóa ở đâu, thì thấy người đệ tử của mình đang đi ăn xin. Bấy giờ trong số các đệ tử của Ngài có năm trăm người tu hành chỉ thích chứng năm thứ thần thông mà không muốn phá trừ các phiền não tham, sân, si để dứt hết mầm khổ đau. Lúc này vị thầy muốn cảnh tỉnh họ nên nói:

    -         Này các con, hãy chuẩn bị hành trang. Ngày mai chúng ta đi thăm sư huynh của các con, người mà năm xưa vì chứng ngũ thông xong đã không nghe lời chỉ bảo của ta mà bỏ đi.

    Bấy giờ các đệ tử của Ngài vui mừng nói:

    -         Sau năm năm giáo hóa thì bây giờ chắc sư huynh của chúng con sự nghiệp rực rỡ , đệ tử chắc là đông lắm rồi.

    Hôm sau, vì tất cả đều dùng thần thông nên chẳng bao lâu đã đến trước mặt người ăn xin. Các đệ tử rất ngạc nhiên, chưa nhận ra người trước mặt là vị sư huynh của họ ngày nào nên hỏi Thầy:

    -         Thưa Thầy, sao Thầy không đưa chúng con đến chỗ sư huynh mà lại đi đến chỗ người ăn xin mù mắt này?

    Vị Thầy không nói gì, chỉ gọi tên thì ngay lập tức, người ăn xin mù mắt kia đánh rơi bát và quỳ xuống nói:

    -         Bạch Thầy, Thầy có phải là Thầy của con không?

    -         Đúng vậy, ta đến thăm con. Vì sao con lại đến nông nỗi này?

    Người ăn xin lúc này nghẹn ngào khóc và kể lại câu chuyện xảy ra với mình từ trước tới giờ. Vị thầy quay ra bảo các đệ tử:

    -         Chứng năm thứ thần thông chưa hẳn đã sạch hết mọi ái nhiễm nên các con không được ỷ vào nó.

    Khi nghe vị Thầy nhắc nhở thì năm trăm vị Tỳ kheo ngay tức khắc chứng quả A-la-hán, bước vào con đường vô sanh.

    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy rằng dù đã chứng được năm thứ thần thông mà vẫn phạm phải giới dâm, giới sát rồi cuối cùng phải đi ăn xin kiếm ăn qua ngày. Còn ngày nay mình thì chỉ cần nghe thông tin là có người tìm được xác chết mất tích mấy chục năm thì lập tức tung hô, coi họ như thánh ngay mà không hiểu chút gì về giáo lý đạo Phật. Hòa thượng cũng từng nói: Nếu Phật tử đang ngồi nghe pháp mà nghe nói có ai đang bay ở ngoài thì chắc cũng bỏ ra ngoài xem chứ không ngồi nghe pháp nữa.

    Ngày xưa, Tôn giả A Nậu Lâu Đà vào một buổi sáng đi khất thực về thì Ngài nhìn thấy một ngàn tiểu thiên thế giới. Ngài đến khoe với Tôn giả Xá Lợi Phất thì Tôn giả Xá Lợi Phất liền quở:

    -         Đây là cặn bã của tham, sân, si. Đấy mới chỉ là vỏ cây chứ chưa phải lõi cây.

    A Nậu Lâu Đà quỳ xuống hỏi:

    -         Thưa sư huynh, cái nào mới là lõi cây?

    Xá Lợi Phất nói:

    -         Là đoạn tận tham, sân, si, kiến hoặc và tư hoặc.

    Tôn giả A Nậu Lâu Đà sau khi nghe xong, liền xin Đức Phật vào rừng để chuyên tu tập, sau ba tháng Ngài chứng quả A-la-hán.

    Lấy một ví dụ cụ thể, đây là một cái ly, bây giờ bỏ vào trong đó một chiếc nhẫn và đậy nắp lại, đem đến cho hai ông thầy xem. Một thầy nói trong cái ly có chiếc nhẫn và một thầy nói không thấy gì cả. Vậy trong hai thầy, nói thật lòng quý vị kính ai hơn? Bảo đảm quý vị kính ông thầy thứ nhất hơn vì thầy đó nhìn xuyên qua được chiếc ly và thấy chiếc nhẫn. Quý Phật tử nếu không có phước duyên gặp được Hòa thượng thì rất dễ bị gạt, nhất là ở miền Bắc, nhiều người hay tin những chuyện đâu đâu, thấy cái gì là lạ thì tin nhiều khi muốn sạt nghiệp luôn. Nhưng đối với nhà Phật thì bất kể vị thầy nào, dù có nhìn thấy hay không nhìn thấy chiếc nhẫn trong ly mà đối với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không bị dính mắc thì vị đó có con mắt Bát Nhã, con mắt vô sanh.

    Trong Kinh Tạp Thí Dụ có kể câu chuyện: Có một Sa di chứng được năm thứ thần thông nên rất hay coi thường thầy của mình. Thấy đệ tử như vậy nên một hôm vị thầy cảnh báo: “Con hay thích thể hiện mình có thần thông, con nên cẩn thận vì nếu không, có một lúc nào đó, con sẽ phải nhờ đến một người phụ nữ bị lòa nuôi con đó”. Sa di này không tin nên cãi lại và bỏ ra ngoài. Một hôm ông thầy đang làm lễ trên chánh điện thì chợt khởi niệm: “Phải chi bây giờ có một bông hoa sen ở núi Hy Mã lạp Sơn thì hay biết mấy”. Vừa khởi niệm xong thì ông Sa di vì chứng được ngũ thông, nhìn thấy tâm của thầy mình nên đưa cho ông thầy bông hoa sen liền. Ông thầy nhận bông hoa sen đó và lại tiếp tục cảnh báo đệ tử hãy cẩn thận trong việc sử dụng thần thông. Lần nầy thì Sa di nổi giận và bay lên không bỏ đi luôn. Trong lúc đang du ngoạn trên không thì ông nghe thấy một tiếng nhạc du dương từ dưới sông vọng lên, nhìn xuống thì thấy một cô gái rất xinh đẹp đang gánh nước. Vì tai chạy theo điệu nhạc và con mắt chạy theo bóng hình cô gái nên  Sa di này bị mất thần thông, nhưng nhờ vẫn còn một chút năng lực thiền định nên ông từ từ hạ xuống mặt đất. Vì nghĩ rằng do cô gái mà mình bị mất hết năng lực nên ông một mực bắt cô gái phải cưới. Cô gái từ chối vì thấy ông là đệ tử Phật và đã xuất gia nhưng ông vẫn khăng khăng bắt cô phải lấy mình, nếu không sẽ chết trước mặt cô. Cô gái một phần vì sợ, một phần thấy ông cũng khỏe mạnh, khôi ngô nên cuối cùng cũng đồng ý. Sau khi lấy vợ thì ông xin vào làm ở một xưởng dệt. Một hôm đi làm, đến giờ ăn cơm trưa, mọi người ai cũng được vợ hoặc người nhà mang cơm đến nhưng ông đợi mãi không thấy bóng dáng của vợ mình đâu. Quá trưa mới thấy vợ mình mang cơm đến, lúc này vừa đói khát cộng với cơn giận giữ đang phát hỏa nên tiện tay, ông vớ được cái thoi dệt vải và ném về phía người vợ. Không may cái thoi lại bay vào mắt của người vợ làm mù cả hai con mắt. Lúc này ông chợt tỉnh ngộ và khóc. Mọi  người vào an ủi thì ông nói: “Tôi khóc không phải vì việc làm vợ tôi mù, mà tôi khóc vì hối hận không nghe theo lời dạy của Thầy tôi ngày xưa”. Và từ đó ông cứ đi làm và mang tiền, mang gạo về, còn cô vợ thì bị mù, không đi làm được nên quanh năm suốt tháng ở nhà nấu cơm chờ ông về ăn.

    Cho nên người nào nói nhìn thấy ba, bốn kiếp về trước thì cũng không dính dáng gì đến đạo Phật hết. Dù chứng được năm thứ thần thông mà chưa đạt lậu tận thông nên chấp, vì chấp nên nhân ngã tăng trưởng, mà khi đi sâu rồi mình mới thấy những dòng thác bộc lưu này rất là vi tế. Các vị Tổ Sư nói, đây là bờ mé của sinh tử. Chúng ta tu tập giống như đang đi trên lớp băng mỏng, đứng bên vực thẳm, sơ sẩy một chút là ngã là chết liền, vì vậy lúc nào cũng phải hết sức cẩn thận, không tin vào tâm mình. Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Phật dạy: “Chừng nào các ông chứng quả A-la-hán rồi thì lúc đó mới tin tâm mình”, còn chưa được như thế thì dù có chứng gì đi nữa thì cái tâm vẫn là tâm vọng tưởng, tâm lừa dối. Như mặt biển dù yên ả nhưng bên dưới là những con sóng đang cuộn, chỉ cần đủ duyên là nó cuốn mình vào những đường tội lỗi liền. Với tinh thần của các vị Tổ Sư thì các Ngài không dính mắc về con đường thần thông, mà quan trọng là trên các pháp, chúng ta không dính, không mắc, không bám, không trụ thì đó gọi là mắt Phật, mắt Bát Nhã. Con mắt này rất cần thiết trong suốt quãng đường tu học của chúng ta.

    1. Thiền Yoga hay Du Già: Thiền này luyện cho cơ thể khỏe mạnh, ít bệnh tật chứ không dính dáng gì đến Đạo Phật cả.
      1. II.     THIỀN CỦA ĐẠO PHẬT

    Thiền của đạo Phật trọng tâm phát huy trí tuệ, phá si mê, ngã chấp, pháp chấp để thoát khỏi cảnh luân hồi sanh tử. Tạm chia ra thiền quán hạnh và thiền trực chỉ.

    1. Thiền Quán Hạnh của Hiển giáo thuộc về hành bố (con đường tiệm tu).

    A. Thiền Nguyên thủy: Theo tinh thần Tứ Niệm Xứ:

    -         Quán thân bất tịnh: là quán về ba mươi sáu thứ uế trược trong thân, quán thấy từng lóng xương khô. Nhưng sau khi quán thân bất tịnh thì phải trở về cái tịnh ngay chứ không sẽ dẫn đến tự sát vì lúc đó cảm thấy gớm ghiếc cái thân nhơ bẩn này. Vào thời Đức Phật, có sáu mươi vị Tỳ kheo sau khi quán thân bất tịnh, thấy gớm quá nên đều đi tự sát. Khi Đức Phật ra thất thấy thiếu mấy chục vị, hỏi ra thì mới biết nguyên do nên Ngài dạy rằng: “Các ông khi quán thân bất tịnh đến cùng cực rồi thì phải trở về cái tịnh lại”.

    -         Quán thọ là khổ: dù là thọ vui hay buồn, tất cả các thọ đều là khổ hết.

    -         Quán Tâm vô thường

    -         Quán Pháp Vô ngã

    Đó gọi là tiệm tu (hành bố).

    B. Thiền Phật Giáo Đại thừa: Theo tinh thần Lục Diệu Pháp Môn của Ngài Trí Khải Đại Sư gồm sổ tức, tùy tức, chỉ, quán, hoàn, tịnh, hay nói cách khác là quán Trung, quán Giả, quán Không.

    2. Thiền tông trực chỉ

    Thiền tông trực chỉ còn gọi là Ngộ Tâm Thành Phật Thiền, là loại thiền chẳng lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo điển. Thiền này chủ trương chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật cho nên cũng có thể gọi là Kiến tánh thành Phật thiền, hoặc Tức tâm là Phật thiền. Khởi thủy ban đầu của Thiền tông trực chỉ là “Niêm hoa thị chúng”, tức là trên hội Linh Sơn, Đức Phật đưa cành hoa sen lên, Ngài Ca Diếp mỉm cười được Phật truyền tâm ấn. Ngài Ca Diếp truyền xuống cho Ngài A Nan, cho đến vị Tổ thứ hai mươi tám là Tổ Bồ Đề Đạt Ma qua Trung Quốc làm Sơ Tổ nêu cao tinh thần:

    Bất lập văn tự

    Giáo ngoại biệt truyền

    Trực chỉ nhân tâm

    Kiến tánh thành Phật.

    Chúng ta đừng nghĩ là vào thời Đức Phật không có pháp môn đốn giáo. Trong Chỉ Nguyệt Lục có ghi: Một hôm Đức Thế Tôn thăng tòa, đại chúng tụ tập xong, Bồ Tát Văn Thù dánh dùi bạch chúng: “Xem kĩ pháp của Pháp vương. Pháp của Pháp vương là như thế”. Bồ Tát nói xong thì Đức Thế Tôn liền xuống tòa. Quý vị phải chú ý đoạn Bồ Tát Văn Thù đánh dùi bạch chúng: “Xem kĩ pháp của Pháp Vương. Pháp của Pháp Vương là như thế”. Quý vị nghe chưa? Tiếng dùi là nhĩ căn viên thông, tức là nghe mà không bị chạy theo tiếng, đó là ngộ được pháp của Pháp vương rồi. Nghe tiếng chim, tiếng chó, tiếng mèo kêu, tất cả các tiếng đến cùng một lúc mà chỉ có một tánh nghe, mỗi pháp đều ở trong bản vị của nó, không can hệ gì đến tánh nghe hết.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi: Một hôm quan Đại phu Lục Hoàn Công đến hỏi Thiền sư Nam Tuyền:

    -         Con có nuôi một con ngỗng ở trong bình, bây giờ nó lớn rồi, con muốn lấy nó ra mà không muốn làm vỡ cái bình. Xin hỏi Thầy phải làm như thế nào?

    Thiền sư gọi:

    -         Lục Hoàn Công

    -         Dạ

    -         Ra rồi.

    Ngay đó ông quan liền ngộ.

    Rồi một hôm, trước khi đi khất thực, Tôn giả A Nan đến hỏi Đức Phật:

    -         Kính bạch Thế Tôn, xin Thế Tôn dạy cho con về pháp khất thực của bảy Đức Phật đời trước?

    Đức Phật gọi:

    -         A Nan

    -         Dạ

    -         Đi đi.

    Ngay đó Tôn giả A Nan liền nhận được.

    Như vậy, ai biết “Dạ”? Ai biết đi? Chỉ cần mình phản quang trở lại lại thì ngay tức khắc đầy đủ không thiếu thốn. Cho nên chúng ta thấy pháp đốn giáo đã có từ thời Đức Phật rồi.

    Trong Kinh Tạp A Hàm, một hôm Đức Phật cùng các vị Tỳ kheo đi đến rừng Thân Thứ. Ngài cầm một nắm lá và hỏi:

    -         Này các Tỳ kheo, nắm lá trong tay ta nhiều hay lá trong rừng nhiều?

    Các vị Tỳ kheo thưa:

    -         Bạch Thế Tôn, nắm lá trong tay Thế Tôn ít, còn lá trong rừng nhiều.

    Đức Phật dạy:

    -         Những gì ta nói với các ông giống như nắm lá trong bàn tay của ta, còn cái mà ta chứng nghiệm thì như lá trong rừng.

    Do đó, dù chúng ta có đọc hết tam tạng kinh điển thì đó cũng chỉ là lá trong bàn tay, còn cái mà chúng ta chứng nghiệm được thì như lá trong rừng, nói không được. Trong nhà thiền nói giống như người câm ăn mật vậy, dù có cảm nhận được vị ngọt nhưng khi người khác hỏi thì không nói, không diễn tả được.

    Trong Kinh Niết Bàn kể, có một con rùa và một con cá ở cùng với nhau. Một hôm con rùa đi dạo chơi trên mặt đất, sau khi trở về thì con cá hỏi:

    -         Mấy bữa nay anh đi đâu mà tôi không nhìn thấy anh?

    Rùa trả lời:

    -         Mấy hôm vừa rồi tôi đi lên bờ đi dạo, thấy nào là lâu đài, nhà cửa, con người huyên náo lắm.

    Con cá không tin những chuyện đó và cho là rùa nói dóc. Dù cho rùa có giải thích cách mấy thì con cá vẫn không tin. Vì sao? Vì con cá đã bao giờ lên bờ đâu. Đức Phật nói cảnh giới Niết Bàn người nào tự thân chứng nghiệm thì mới thông cảm, cho nên đến với các Ngài, hợp cơ thì các Ngài mới nói chứ không thì lặng im. Do đó, trong Kinh Viên Giác Lược Giải, Ngài Hám Sơn nói: “Chỉ cần dùng một chữ Biết, đó là pháp tối thượng”, rất là phù hợp với pháp “Biết vọng không theo” của Hòa thượng Trúc Lâm.

    Trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật nói:

    -         Này các Tỳ kheo! Tâm tham biết rõ nội tâm các ông có tham, nội tâm ông có sân biết rõ nội tâm ông có sân, nội tâm ông có si biết rõ nội tâm ông đang có si. Này các Tỳ kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy. Có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do suy tư phương pháp được hiểu biết, hay do lắng nghe, kham nhẫn, thích thú, biện luận mới được?

    Các Tỳ kheo thưa:

    -         Bạch Thế Tôn, không phải.

    Đức Phật hỏi tiếp:

    -         Này các Tỳ kheo! Có phải các pháp này do thấy chúng với trí tuệ?

    Các Tỳ kheo thưa:

    -         Lành thay, thưa Đức Thế Tôn, đúng như thế.

    Như vậy cái gì thấy được tham, sân, si? Đó là cái biết bên trong nhưng chúng ta quên. Vì vậy Thiền sư Lâm Tế khai thị: “Người học thời nay không nhận được là bởi bám vào chữ nghĩa làm hiểu biết, ghi chép những lời nói của mấy lão già vào trong một cuốn sổ to rồi bọc kỹ lại năm ba lớp không cho người khác thấy, nói đó là huyền chỉ, giữ khư khư làm như của quý. Bọn mù! Các ông nhằm trên khúc xương khô tìm đâu ra nước”. Quý vị cầm cuốn kinh có vắt cách mấy cũng không ra nước, cho nên cuốn này là kinh chết, còn cái gọi là chân kinh sống động nhất thì ở ngay nơi tự thể của quý Phật tử. Mình ngồi học giáo lý ở đây là để hiểu biết, gọi nôm na là học bản đồ để tránh bị đi nhầm đường lạc lối mà thôi. Còn chúng ta tu được, chứng nghiệm được thì thấm vào tứ chi, phổ ra hành động, đó mới là một cuốn kinh sống.

    Ở núi Tỷ Duệ  bên Nhật Bản có một Tàng Kinh Các thật lớn, có một số nhà sư vào những ngày rằm tháng tư, tháng bảy, tháng mười hay mùng một Tết thường đem kinh ra phơi ở chỗ đầu gió và nói rằng, người nào mà đón được gió, ngửi được hơi kinh thì bao nhiêu bệnh tật, phiền não đều tiêu trừ, do đó người ta đua nhau lên núi. Một hôm Thiền sư Nhất Hưu nghe đồn như vậy thì Ngài cũng lên. Đến nơi, Ngài kiếm chỗ đầu gió cởi trần phơi bụng nằm trên đám cỏ, nhiều tín đồ lên núi thấy như vậy rất là khó coi. Lúc này mấy vị sư ở tự viện rất bực và chạy ra nói:

    -         Chỗ này là chùa và là nơi chúng tôi phơi kinh, tại sao ông lại cởi áo ra nằm như thế?

    Thiền sư trả lời:

    -         Ta cũng đang phơi kinh.

    Mấy ông sư lại hỏi:

    -         Kinh ông đâu?

    Thiền sư chỉ vào bụng và nói tiếp:

    -         Kinh ta đây. Kinh này biết ăn, biết ngủ, biết thuyết pháp, biết làm việc. Kinh của ta là kinh sống, còn kinh các ông phơi là kinh chết.

    Từ đó về sau, mấy vị sư kia từ đó không còn phơi kinh nữa.

    Cho nên kinh này mới là kinh sống động nhất, làm thiện, bao dung, tha thứ, làm tất cả các pháp lành, bi nguyện, đại nguyện cũng đều từ nơi chân kinh này. Cho nên Thiền sư Lâm Tế quở: Người học thời này không nhận được là bởi bám vào chữ nghĩa làm hiểu biết, rồi tranh cãi kinh này của Phật, kinh kia không phải của Phật mà không nhận được chân kinh ngay chính nơi mình.

    Tiếp tục, trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có chuyện: Thiền sư Thần Tán sau khi ngộ đạo ở chỗ Ngài Bá Trượng thì trở về chỗ vị thầy ngày trước. Khi về đến nơi, vị thầy hỏi:

    -         Mười năm qua ngươi đi được cái gì?

    Ông trả lời:

    -         Con đi tay không, về cũng tay không.

    Đó là gì? Là Kinh Bát Nhã, tinh thần của Bát Nhã phá sạch hết những sự nghiệp đã chất chứa. Tuy nói vậy mà ông thầy chưa ngộ. Một hôm, ông thầy đang ngồi xem kinh thì có một con ong cứ chui qua tờ giấy dán ở cửa sổ, mãi mà không chui ra được. Lúc này Thiền sư Thần Tán mới đọc bài kệ:

    Cửa không chẳng chịu ra

    Quá ngu chui cửa sổ

    Trăm năm vùi giấy cũ

    Ngày nào mới được ra?

    Ông thầy nghe xong buông cuốn kinh xuống, nói:

    -         Từ bữa giờ ta thấy ngươi nói rất lạ, toàn huyền cơ huyền chỉ của nhà Thiền. Mai ngươi thăng tòa nói pháp cho ta và đại chúng nghe.

    Hôm sau, Thiền sư Thần Tán lên ngồi tòa giảng pháp, nêu cao tinh thần của Ngài Bá Trượng

    Linh quang độc chiếu

    Vượt khỏi căn trần

    Chẳng bám chữ nghĩa

    Căn tánh không nhiễm

    Vốn tự viên thành

    Chỉ lìa vọng duyên

    Tức như chư Phật.

    Vừa giảng xong thì ông thầy khóc, nói:

    -         Lão tăng tu hơn bốn mươi năm bây giờ mới nghe được cái huyền chỉ ấy.

    Quý vị thấy, ông thầy này hơn bốn mươi năm mới được nghe huyền chỉ của nhà thiền nên cảm động mà khóc. Còn mình bây giờ nghe nhiều hay ít? Từ đó mới thấy mình có phước nhiều mà không biết nắm bắt.

    Tinh thần trực chỉ của nhà thiền, hỏi bên này nói bên kia.

    Có một cô tiểu thư con nhà quyền quý quen một anh thanh niên nghèo nên bị cha mẹ cấm. Một hôm anh này vì nhớ cô quá nên đánh liều đến nhà, nhưng nhà lớn quá nên không biết cô ở đâu. Cô tiểu thư ở trên lầu nhìn thấy, muốn cho anh biết mình đang ở đâu nhưng lại sợ cha mẹ phát hiện, nên giả bộ gọi to: “Tiểu Ngọc, đem cho cô cái bình hoa”. Gọi Tiểu Ngọc là vậy nhưng thực chất là cốt chỉ cho anh kia chỗ mình đang ở. Vì vậy mới có câu :

    Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự

    Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thinh.

    Tức là:

    Tần hô Tiểu Ngọc không việc khác

    Chỉ cốt anh chàng nhận tiếng thôi.

    Trong nhà Thiền, các Ngài đưa câu chuyện này ra làm ví dụ để dạy, chủ yếu là nhận ra ông chủ của chính mình, còn tất cả kinh điển… đều là phương tiện. Đó là Thiền trực chỉ.

    Một hôm, có ông Tăng đến hỏi Thiền sư Hành Tư:

    -         Thế nào là đại ý Phật pháp?

    Sư đáp:

    -         Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu?

    Nghe thì thấy vô lý, sao hỏi đại ý Phật pháp mà lại hỏi về giá gạo ở Lô Lăng? Nếu ngay đó mà mình nghĩ giá gạo ở Lô Lăng là bao nhiêu, mắc hay rẻ thì mất mình, mà ngay đó tự nhiên bặt hết các niệm thì lập tức nhận được đại ý Phật pháp.

    Một hôm, Tăng hỏi Thiền sư Tào Sơn:

    -         Vật gì quý nhất trên đời?

    Sư đáp:

    -         Đầu con mèo chết.

    Vị Tăng lại hỏi:

    -         Đầu con mèo chết vì sao lại quý?

    Sư đáp:

    -         Vì không có ai trả giá.

    Không ai trả giá thì đâu còn mắc rẻ, nếu có người trả giá thì sẽ có mắc rẻ, mà lìa được cái mắc rẻ, chủ khách, năng sở thì ngay lập tức nhận được thôi. Hàng ngày chúng ta luôn luôn sống trong đối đãi, nên khi chết thì dù thương hay ghét mình đều đi vào cảnh giới xấu, vì thế phải lìa các niệm nhị nguyên chủ khách, thương ghét, có không thì lập tức đi thẳng vào Trung Đạo. Đó là thiền trực chỉ, chỉ thẳng vào tâm. Cái gì thấy được sự đối đãi đó? Mình tu thiền nếu không khéo thì hay bị dính mắc trên các niệm.

    Như câu chuyện về một người bán đậu hũ sáng nào cũng đi qua chỗ Thiền sư Bạch Ẩn. Thấy các sư ai ngồi cũng êm ru thì một hôm anh đánh liều hỏi Thiền sư: “Thưa thầy, các thấy ngồi làm sao mà hay vậy? Ngày mai con có thể ngồi được không?”. Thiền sư đồng ý. Thế là hôm sau anh đến ngồi thiền cùng với mọi người. Ngồi được khoảng một tiếng thì anh la lớn: “Thấy rồi, thấy rồi”. Tăng chúng mừng lắm vì nghĩ anh này căn duyên tốt, vừa tu đã thấy đạo. Sau khi xả thiền xong, mọi người đến hỏi han xem anh đã thấy gì thì anh nói: “Bà Bảy thiếu con tiền mua đậu hũ gần một năm nay mà con không nhớ, giờ ngồi thiền mới nhớ ra”.

    Quý vị nào đủ nhân duyên nhập thất thì mới biết, ở ngoài không nhớ gì nhưng khi vào thất thì mình nhớ hết, từ hồi còn bé, đã từng đi đâu, làm gì…. Nhưng hay một điều là cái gì thấy được từng niệm đó? Chỉ cần mình sống trở về với cái biết của mình thì niệm nó lìa, đến một lúc nào đó niệm nó tự sanh rồi tự diệt. Khi công phu đạt được đến mức độ này rồi thì ngồi rất yên, ai có hỏi mình ngồi thiền để làm gì thì trả lời: “Ngồi chơi” thôi, mà chính lúc đó lại là lúc dụng công đắc lực nhất, gọi là “vô công dụng hạnh”. Đạt đến trạng thái đó rồi thì nấu cơm, rửa bát, quét nhà, đi tàu xe… đều tu được, bất kể làm việc gì cũng tu được hết. Còn có những người ngồi thiền mà miệng cứ nói “Đi! Đi!”, hỏi làm gì thì bảo đuổi vọng tưởng. Vọng tưởng có thật đâu mà đuổi nó, làm như vậy khác nào cầm gậy đập vào hư không.

    Rồi có một ông Tăng hỏi Thiền sư Vân Môn: “Thế nào là Phật?”. Thiền sư đáp: “Que cứt khô”. Cái này trong kinh nào? Mình có tìm trong bốn bộ kinh cũng không thấy điểm này nằm ở đâu cả. Nó nằm ở diệu lực sống động của các Thiền sư, trả lời làm cho người đối diện ngớ ngẩn, ngây người ra. Chính thời điểm đó các niệm vắng lặng hết thì nhận được ông Phật ở chính nơi mình. Đó chính là thủ thuật của các vị Thiền sư.

    Chính vì vậy, Thiền sư Bạch Ẩn làm một bài kệ:

    Trong hang Tất Bát La

    Chưa kết tập kinh này

    Đồng Thọ không lời dịch

    A Nan đâu được nghe.

    Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Tôn giả Ma Ha Ca Diếp triệu tập năm trăm vị Thánh chúng, chọn hang Tất Bát La để kết tập kinh điển của Đức Phật lần đầu tiên. Nhưng kinh điển này A Nan chưa từng được nghe. Vậy Phật có nói kinh này không? Nói như thế nào? Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đến giờ ăn Ngài đắp y, mang bát đi vào thành lớn Xá Vệ khất thực, khi vào thành theo thứ lớp khất thực, trở về chỗ mình, thọ thực xong, thu xếp y bát, rửa chân và trải tòa mà ngồi. Lúc đó, Tôn giả Tu Bồ Đề quỳ chắp tay cung kính bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, thật ít có. Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ Tát, khéo phó chúc các vị Bồ Tát”. Ngay trong chỗ ôm bình bát, đi từng bước vào thành khất thực, về thọ trai…, từng thứ từng thứ Ngài hiện bày ra hết, đó chính là bài kinh không lời sống động từ Đức Thế Tôn, cho nên mới nói bài kinh này Ngài A Nan chưa từng được nghe, mà Ngài Đồng Thọ cũng không dịch được. Đồng Thọ là Ngài Cưu Ma La Thập vào thời Diêu Tần, Ngài là thần đồng về dịch kinh điển, những bài kinh Ngài dịch từ tiếng Phạn ra tiếng Hán vô cùng xuất thần, văn của Ngài rất sáng và thoáng.

    Lại tiếp:

    Gió bắc qua song cửa

    Nhạn nam tuyết rơi đầy

    Trăng núi dáng như gầy

    Mây lạnh dường mưa rây

    Ngàn Phật dù xuất thế

    Không thêm bớt một lời.

    Chỗ này quý vị lưu ý, gió bắc, nhạn nam, trăng núi, mây lạnh, toàn bộ là sự cô liêu. Mà trong sự cô liêu của các pháp thì bặt hết ý niệm nhị nguyên, nào là mắc rẻ, phải quấy, hơn thua, tốt xấu. Mà bặt như vậy rồi thì tinh thần trực chỉ hiển lộ.

    Như vậy qua phần nầy, chúng tôi nêu lên để cho quý vị thấy được năm loại thiền không phải của đạo Phật và nắm bắt được pháp môn mà chúng ta đang tu là Thiền “Trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật”. Còn bao nhiêu những thứ thần thông đều là cặn bã, là rác, bỏ hết, không có dính mắc. Dầu cho ai nói thấy kiếp này, kiếp kia, mình cũng lạnh lùng nói “Dù ông có thấy được hàng triệu kiếp đi chăng nữa, hay phi hành bay trên hư không mà chưa chuyển hóa được cái tâm của ông thì cũng vô ích”. Nắm bắt được điều này rồi thì Đức Phật nói người này có căn tánh thượng thừa, phải trồng sâu căn lành thì mới gặp được pháp môn đốn giáo này và tin tưởng tu tập theo.

    Trong thời quá khứ, Bồ Tát Văn Thù do đã phỉ báng pháp môn này mà bị đọa ba mươi ngàn tiểu kiếp dưới địa ngục, hết kiếp địa ngục lên làm súc sanh, ngạ quỷ. Rồi một ngàn tiểu kiếp sau được làm người xuất gia nhưng nửa chừng lại phải hoàn tục. Quý vị thấy, vì phỉ báng pháp môn đốn giáo của Phật mà phải chịu đau khổ rùng rợn như vậy. Vì thế nếu chúng ta không tin, không hiểu, chúng ta chưa tu, chưa chứng nghiệm mà phỉ báng pháp môn tối thượng thừa thì tội này rất là lớn. Chúng ta có túc duyên tu tập theo pháp này, nhưng nếu cứ nói “Tôi tu theo pháp môn tối thượng thừa” thì đó cũng là bệnh,  phải xem lại vì mình tu thì chỉ mình biết. Ở đây chúng tôi nêu lên để cho quý Phật tử thấy và nắm bắt được pháp môn mình đang tu, còn thần thông này kia thì không dính dáng.

    Do đó, nguyện lớn thứ tư của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương là dùng đủ phương tiện đưa các hành giả tu hạnh Thanh Văn, Duyên Giác, Độc Giác vào con đường Đại thừa, tức là cỗ xe lớn, là con đường chánh pháp của Đức Thế Tôn.

    Sau chín trăm năm Phật diệt độ, ở nước Kế Tân có ba anh em xuất chúng. Người anh cả là Đại Sư Vô Trước, Ngài thông suốt hết kinh điển Đại thừa, nhưng ngược lại người em là Ngài Thế Thân lại thích Tiểu thừa và phỉ báng những bộ Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Pháp Hoa, Kinh Lăng Nghiêm, Kinh Địa Tạng, Kinh Dược Sư, nói đây là ngụy tạo và luôn đề cao pháp Thanh Văn và viết ra thành hơn 500 bộ luận. Ngài Vô Trước biết người em mình phỉ báng pháp môn tối thượng, sợ  em mình sau này bị sa vào chốn khổ đau mà không biết làm thế nào để khuyên. Một hôm, Ngài mới nghĩ ra được một phương tiện thiện xảo. Ngài gửi một lá thư cho Ngài Thế Thân, nói mình bị bệnh sắp mất và bảo phải đến gấp. Mặc dù ý tưởng và phương tiện tu hành khác nhau nhưng hai anh em lại rất thương nhau, nên nghe tin như vậy thì Ngài Thế Thân lập tức lên đường. Sau khi gặp thì Ngài Vô Trước nói:

    -         Ngày xưa anh có phát nguyện là khi cuối đời, anh sẽ tụng mấy bộ kinh lớn là Hoa Nghiêm, Lăng Già, Pháp Hoa, Địa Tạng… nhưng bây giờ bệnh sắp mất không còn cơ hội để làm việc này nữa, sợ anh chết không nhắm được mắt. Nếu được thì em giúp anh hoàn thành di nguyện này.

    Thấy anh sắp mất mà lại nói như vậy nên Ngài Thế Thân thăng tòa tụng liền. Vì Ngài rất giỏi nên tụng ba ngày ba đêm là hết những bộ kinh này, tụng đến đâu Ngài thấm đến đó. Sau khi tụng xong, Ngài bước vào phòng người anh, lấy một con dao và nói:

    -         Từ trước đến nay em luôn phỉ báng giáo pháp Đại Thừa, nhưng nay khi tụng đọc em mới thấy đó là một triết lý sống động nhất và chỉ có tuệ giác Đức Phật mới nói ra được.

    Nói xong, Ngài lấy dao định tự cắt lưỡi mình để tạ lỗi, nhưng khi vừa vung dao lên thì Ngài Vô Trước ngăn lại nói:

    -         Ngày xưa em dùng ba tấc lưỡi để phỉ báng Đại Thừa thì bây giờ em dùng ba tấc lưỡi này để ca ngợi Đại Thừa.

    Vì thế, trong ba tháng liền, ông viết năm trăm bộ luận Đại Thừa và sau trở thành Thiên Thân Bồ Tát, vì Ngài viết tất cả một ngàn bộ luận gồm năm trăm bộ Đại Thừa và năm trăm bộ Tiểu Thừa. Sau này Ngài đi đến đâu cũng ca ngợi và xiển dương pháp Đại Thừa, tối thượng thừa.

    Như vậy, trong tinh thần này quý vị thấy rằng, Ngài Vô Trước Đại Sư cũng giống như Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, thấy người em mình tu về hạnh Thanh Văn, Duyên Giác, Độc Giác nên dùng đủ mọi phương tiện thiện xảo giúp đỡ người em mình từ cỗ xe Thanh Văn, cỗ xe Độc Giác, cỗ xe Duyên Giác đưa vào cỗ xe lớn là cỗ xe Đại Thừa, chỉ cho người em mình thấy rõ được tri kiến Phật là như thế nào. Đó cũng là nguyện lớn thứ tư của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương.

     

  • 6. Nguyện lớn thứ năm

    NGUYỆN LỚN THỨ NĂM

    “Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo quả Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nhiều vô lượng vô biên ở trong giáo pháp của ta mà tu hành theo hạnh thanh tịnh thì ta khiến cho tất cả đều giữ được giới pháp hoàn toàn đầy đủ cả tam tụ tịnh giới. Giả sử có người nào bị tội hủy báng giới pháp, khi nghe danh hiệu của ta thì trở lại được thanh tịnh, khỏi sa vào ba đường ác đạo”.

    Với nguyện lực thứ năm, Ngài nói sau này khi đắc được đạo quả Bồ đề, thì những người tu theo hạnh thanh tịnh giữ đầy đủ tam tụ tịnh giới. Nếu đã thọ giới rồi mà lỡ phạm nhưng một khi nghe danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương rồi thì được thanh tịnh, khỏi rơi trong ba đường ác đạo. Ở đây cái lý rất là sâu, nếu không khéo thì chúng ta sẽ hiểu lầm rằng khi mình lỡ phạm những giới đã thọ thì chỉ cần niệm “Nam mô Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương” sẽ được thanh tịnh trở lại.

    Quý vị biết, giới của Đức Phật đưa ra thì hàng cư sĩ giữ năm giới, Sa di giữ mười giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Bồ Tát giữ 10 giới trọng và 48 giới khinh. Giới Bồ Tát còn gọi là tam tụ tịnh giới, bao gồm Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới.

    Thanh Văn giới và Bồ Tát giới

     Thanh Văn là căn bản giữ gìn Nhiếp luật nghi giới, mà “nhiếp luật” là “phòng phi chỉ ác”, hay là “chỉ trì”, tức là dừng tất cả các điều ác và luôn tạo các việc thiện.

    Trong giới của hàng Thanh Văn còn có định cộng giới và đạo cộng giới.

    -         Định cộng giới: Như khi quý vị ngồi thiền mà đạt được trạng thái định tĩnh thì sẽ nhàm chán về dục, từ đó không có sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu. Lúc bấy giờ, giới sẽ luôn hộ trì, tự giữ lại mình chứ không còn nói rằng mình giữ giới nữa. Ví dụ như những thầy đi thọ giới Tỳ kheo, trong bộ luật có ghi rằng: “Nếu mà không đắc được giới thể thì rất dễ bị phạm, còn khi đắc được rồi thì giới thể này sẽ bảo vệ cho người hành giả”. Bên hàng Thanh Văn có định cộng giới, thường các Ngài thể nhập sâu vào định rồi thì không còn tạo tác về thân, miệng, ý nữa. Hay là duyên theo một cảnh để tâm mình được định tĩnh, gọi là tầm tứ, nhờ đó mà giữ được giới.

    -         Đạo cộng giới: khi chứng được sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả thì không tạo tác về thân, khẩu, ý nữa. Chẳng hạn chứng được tam quả A Na Hàm thì khi đó thấy cõi dục là nhàm chán, khi đó chỉ muốn đi xuất gia, ngoài ra không còn thèm muốn gì hết. Còn những vị chứng quả A-la-hán rồi, nếu còn là cư sĩ thì sau từ 1 đến 7 ngày mà không xuất gia thì sẽ nhập Niết Bàn. Cho nên bà Kham-me, thứ phi của vua Tần-bà-sa-la sau khi nghe Đức Phật giảng về lý vô thường thì bà chứng quả A-la-hán. Đức Phật nói với vua là nếu bà không xuất gia thì chậm nhất bảy ngày sau sẽ nhập Niết Bàn. Lúc này vua vì còn rất thương bà nên đồng ý để bà xuất gia, sẵn có dịp hàng ngày được gặp mặt, nghe pháp, cúng dường. Gần đây có một số người nói cư sĩ chứng quả A-la-hán nhưng vẫn sống ở ngoài đời hàng chục năm nên chúng tôi thấy không đúng với tinh thần nhà Phật. Trong Kinh Na Tiên Tỳ kheo, vua Mi-lan-da hỏi Tỳ kheo Na Tiên:

    -         Tại sao người cư sĩ khi chứng quả vị A-la-hán rồi phải nhập Niết Bàn?

    Tỳ kheo Na Tiên mới trả lời:

    -         Giống như chiếc vương miện Ngài đang đội thì chỉ có Ngài đội được mà thôi, nếu dân thường đội lên sẽ phạm tội khi quân và bị chém đầu. Cũng vậy, quả vị A-la-hán rất lớn nên muốn giữ được quả vị này cần phải có 250 giới.

    Cũng giống như Đức Phật muốn giáng sanh vào một cõi nào đó thì cõi đó phải đủ đức, đủ phước, đủ nhân, đủ duyên thì mới gánh nổi một bậc xuất trần như Đức Phật thị hiện. Một người đã chứng nhập vào sơ quả, nhị quả, tam quả rồi thì lúc này giới giữ lại.

    Nhưng ngược lại, hàng Bồ Tát thì phải đủ tam tụ tịnh giới. Hàng Thanh Văn chỉ giữ Nhiếp luật nghi giới, ví dụ nếu thấy một cô gái bị rơi xuống sông mà không cứu thì không có tội, vì khi cứu mà nắm chân nắm tay thì khởi niệm về ái, khi đó sẽ phạm vào giới. Nhưng hàng Bồ Tát còn thọ cả Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới, luôn luôn làm lợi ích cho chúng sanh, cho nên nếu không cứu thì phạm vào khinh cấu tội. Trong giới Bồ Tát có khai, nếu gặp trường hợp đó thì có thể sử dụng sợi dây hoặc cây sào để cứu, nếu không có sợi dây hoặc cây sào thì phải dùng đủ mọi phương tiện có thể để cứu người bị nạn, bởi vì hàng Bồ Tát là chỉ về tâm, mà tâm dấy niệm phạm thì mình thành tâm ngay trong cái niệm đó để sám hối, còn không sám hối thì phạm vào tội Đột kiết la hay Thâu lan giá.

    Trong quá khứ, bà Mạt Lợi phu nhân uống rượu trong ngày thọ Bát Quan Trai, nhưng Đức Phật lại nói bà tuy uống rượu nhưng lại có công đức. Bởi vì trong ngày bà thọ Bát Quan Trai, vua Ba Tư Nặc sai đầu bếp xuống nấu đồ ăn cho ông. Trong lúc làm đồ ăn, người đầu bếp vì sơ ý làm miếng thịt bị cháy khét nên nhà vua nổi giận, đòi đưa người đầu bếp này ra chém đầu. Trong lúc ở pháp trường đợi nhà vua ra chứng kiến hành hình, bà Mạt Lợi phu nhân hay tin nên đến chỗ vua Ba Tư Nặc, kêu người hầu làm một bữa tiệc thật thịnh soạn và trong lúc đợi thì bà cùng với ông vua uống rượu. Một lát sau, vua Ba Tư Nặc vì say rượu nên quên không ra xử người đầu bếp. Sáng hôm sau khi tỉnh rượu, vua nhớ ra vụ người đầu bếp thì bà Mạt Lợi phu nhân kể lại chuyện hôm qua và nói:

    -         Vì thấy bệ hạ định chém đầu người đầu bếp đó cho nên thiếp tìm cách cứu.

    Vua Ba Tư Nặc nói:

    -         Bà giữ tám giới mà sao còn uống rượu? Như thế là phạm giới rồi

    Vì cả hai vẫn còn do dự về cái giới đó nên đến hỏi Đức Phật. Sau khi nghe ngọn ngành câu chuyện, Đức Phật dạy:

    -         Bà được công đức chứ không có phạm giới, vì dù uống rượu nhưng là để cứu người, đó là giới Bồ Tát.

    Điều đó có nghĩa là, làm một việc gì, dù có bị thiệt cho mình nhưng có lợi ích cho người khác thì sanh ra công đức. Cho nên người đi thọ giới Tỳ kheo bắt buộc phải thọ giới Bồ Tát, bởi vì trên lộ trình hành Bồ Tát đạo mà không thọ giới Bồ Tát, chỉ có Nhiếp luật nghi giới mà không có Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới thì tu rất là khó, làm Phật sự cũng không được.

    Có câu chuyện một vị thầy qua sông trên một chiếc đò mà người lái đò là một cô gái rất đẹp. Khi đến bờ bên kia, lúc thu tiền thì cô gái thu của mọi người một đồng, riêng vị thầy cô thu hai đồng. Vị thầy thắc mắc thì cô trả lời: “Vì từ lúc lên đò đến lúc sang đây, thầy cứ nhìn tôi nên tôi lấy thầy thêm một đồng”. Mấy ngày sau, khi xong việc vị thầy trở về và lại qua đò, người lái đò vẫn là cô gái hôm trước. Lần này rút kinh nghiệm, Thầy không hề nhìn ngó gì đến cô. Nhưng thật bất ngờ, khi sang đến bờ bên kia thì cô gái đòi thu của thầy bốn đồng. Vị thầy lại thắc mắc: “Lần trước cô bảo tôi nhìn cô nên thu thêm của tôi một đồng, nhưng lần này suốt quá trình di chuyển, tôi không nhìn cô lấy một lần mà toàn nhìn xuống nước. Tại sao cô lại thu của tôi tận bốn đồng?”. Cô gái lái đò nói: “Tuy thầy không nhìn mặt tôi nhưng lúc thầy ngó xuống nước thì tâm thầy nhìn trộm tôi”. Như vậy đối với giới Bồ Tát là phạm, tức là tâm trộm. Chẳng hạn như mình ngồi đây mà khởi niệm đi đâu đó có nghĩa là mình phạm, nhưng hay một điểm là khi vừa khởi niệm thì ngay niệm đó mình sám hối. Cho nên Lục Tổ dạy: “Từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm sau, mỗi niệm không bị ngu mê, kiêu cuống làm nhiễm, từ trước có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống… các tội thảy đều sám hối, nguyện một thời tiêu diệt, hằng không khởi lại”.

    Trong Giới luật nói: Ví như hàng Thanh Văn chỉ làm sạch cỏ vườn tâm của mình, đó là Nhiếp luật nghi giới,  còn hàng Bồ Tát thì ngoài nhổ sạch cỏ, sau đó phải xới đất lên trồng hoa màu, đó là Nhiếp thiện pháp giới, sau khi có được hoa màu rồi thì đi đem phân phát cho chúng sanh gọi là Nhiêu ích hữu tình giới. Cho nên hàng Thanh Văn thì không làm từ thiện, đủ duyên thì đi giáo hóa còn không thì rút vào núi tu hết. Như bên Miến Điện thì họ không làm bất cứ một việc gì, từ xây cất, nấu cơm, nhổ cỏ…. toàn bộ đều giao cho cư sĩ làm hết. Họ tu theo phương pháp Nguyên thủy, thời Đức Phật ngày trước sao thì họ y như vậy, đi khất thực ai cúng gì ăn vậy dù là chay hay mặn. Còn bên Bắc tông là hệ Phát triển, hệ Đại thừa, tức là Đại chúng bộ. Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn chia ra làm 2 bộ phái, một là Thượng tọa bộ, hai là Đại chúng bộ: Thượng Tọa bộ là ngày trước có những giới điều Phật dạy như thế nào thì phải y theo đó mà làm. Đại chúng bộ là những lớp Tỳ kheo trẻ có năng lực, đi giáo hóa ở rất nhiều nơi nên tùy theo môi trường và tùy theo quốc độ mà giới có khai ra. Ví dụ như bên Ấn Độ họ rất kính trọng pháp khất thực nhưng qua Trung Hoa, nếu người nào mà đi khất thực thì họ lại rất coi thường. Vì thế cho nên các Ngài không đi khất thực nữa mà chuyển vào trong các tịnh xá, chùa, thiền viện để tu và giáo hóa. Đến thời của Thiền sư Bá Trượng thì các Ngài còn tự làm ruộng, trồng rau, vì thế mới có câu: “Một ngày không làm là một ngày không ăn”. Cho nên hàng Thanh Văn chủ yếu dùng “chỉ trì”, không dùng “tác trì”, đây là Nhiếp luật nghi giới. Còn hàng Bồ Tát thì lấy tam tụ tịnh giới làm cội gốc để tiến thẳng đến con đường Phật quả, tu tập để thành Phật. Cho nên giới là con đường đưa đến quả vị A-la-hán cho hàng Thanh Văn và giới cũng là con đường đưa đến quả vị tối thượng. Do đó Đức Phật dạy: “Hàng xuất gia chuyên tâm giữ 10 giới hoặc 250 giới, còn hàng tại gia thì chuyên tâm giữ 5 giới hay còn gọi là biệt biệt giải thoát giới”. Như quý vị giữ một giới là không sát sanh thì tâm tư mình được yên ổn, ngay lúc đó mình được giải thoát một giới, rồi mình giữ giới không trộm cướp thì không sợ cảnh sát, cũng không sợ ai nghi kị mình thì ngay trong giờ phút đó mình cũng được giải thoát một giới. Giữ giới nào thì được giải thoát giới đó nên gọi là biệt biệt giải thoát giới. Có những người giữ giới rất nhẹ nhàng, an ổn nhưng ngược lại có những người giữ giới rất là khó, đó là do nghiệp tập, tập khí của mỗi người. Ví dụ như một quả banh, nếu bơm căng thì những chỗ mọt nó xì ra, trong lúc hành giả công phu đến độ quyết liệt, miên mật, chẳng hạn như vào thất thì tùy theo cái nghiệp tập của mình, nó trổ ra nghiệp nào là mình biết. Có người vào thất toàn ngủ không, nhưng có người vào thất không ngủ mà lại khởi niệm thèm ăn, có người không thèm ăn mà thèm sắc, có người không thèm sắc lại thích nghe nhạc…, lúc đó phải có một bậc thiện tri thức sáng mắt đã trải qua những kinh nghiệm này rồi để chỉ cho mình. Cho nên trong quá trình tu tập, mình đừng cười tại sao ông này tu kiểu gì, bà kia tu kiểu gì…tất cả là do tập khí, tập là nhóm hợp và khí là hơi hám. Sở dĩ sau này, Tổ Bá Trượng nhóm họp tăng chúng tu tập một chỗ là để kèm kẹp với nhau, sách tấn với nhau chứ để tu một mình thì dễ rớt. Tu một mình mà khi nhập thất thì 10 người dễ phạm hết 10 người, nên khi nhập thất xung quanh phải có Tăng chúng bao bọc. Có nhiều vị không hiểu, ở trong chúng mới có hai, ba năm ra cất thất ở riêng, cuối cùng rớt. Bởi vì cái thân mình đang mang đây là thân tổng báo, có cả thiện cả ác. Mình đang tu tốt thì có nghĩa là thiện pháp đang trổ ra, đang chín muồi, nhưng đến khi ác pháp tăng trưởng, nếu không có những vị thiện tri thức, có đại chúng bao bọc chung quanh thì đảm bảo mình rớt liền.

    Chẳng hạn về giới dâm. Trong giới luật thì ban đầu là nhân dâm. Nhân dâm là tập khí chủng tử tham nhiễm sẵn có từ vô thỉ kiếp, mình vừa ra đời là nó theo, gọi là câu sanh ngã chấp, mà câu sanh ngã chấp thì câu sanh pháp chấp đi theo. Cho nên đường tu không phải dễ, mình nghe lý thiền thì rất hay nhưng những hạt giống xấu đã theo mình từ vô lượng kiếp, nó nằm rất sâu, chừng nào tu đến giai đoạn quyết liệt, phải kiến tánh mới đâm thủng được. Từ nhân dâm dẫn đến duyên dâm, tức là mình có mặt ở cõi đời này, nó khởi lên tới hiện đời bây giờ, chẳng hạn như khởi lên thích cái dâm mà không diệt ngay lúc đó, để nuôi dưỡng thì nó tương tục. Chẳng hạn như có người là trí thức, ăn học đàng hoàng, gia đình hạnh phúc mà lại phạm tội hiếp dâm, tức là người đó đến nhà bạn chơi, nhìn thấy con người bạn mới có 14, 15 tuổi, khởi niệm thích nhưng khi vừa dấy lên niệm đó mà không chuyển hóa ngay, lại tiếp tục nuôi dưỡng thì một lúc nào đó đủ nhân duyên, nó phát tác ra thì sẽ xảy ra việc. Nhưng điều này chỉ những người có tu tập mới biết được chứ người không tu thì khó biết. Nếu duyên dâm mà quý vị không chịu chuyển hóa, luôn luôn tưới tẩm thì nó dẫn đến cách thức dâm. Cách thức dâm là rủ rê, hẹn hò. Đến lúc này chúng ta vẫn không biết cách chuyển hóa thì nó dẫn chúng ta tới cái tiếp theo đáng sợ hơn là nghiệp dâm. Nghiệp dâm là hành động tạo tác về thân, về miệng, về ý. Giới trộm cướp cũng như vậy. Có người không phạm giới dâm thì lại phạm vào giới trộm cướp, bởi vì từ vô thủy kiếp họ đã có những hạt giống trộm cướp. Các giới khác cũng tương tự như thế. Chẳng hạn trong một gia đình có mười người thì năm người thường ưa thích làm việc thiện, bố thí cúng dường, năm người còn lại thì không. Năm người thường ưa thích bố thí cúng dường là do những hạt giống bố thí cúng dường trong đời quá khứ nhiều, sung mãn cho nên thích làm việc thiện. Vì thế Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Tâm tịnh thì thích làm việc lành, còn thể nhiễm thì thích tạo những điều ác”.

    Bây giờ chuyển qua phần Khai giới. Hàng Bồ Tát khai giới như thế nào?

    “Bồ Tát trong thời gian tu nhân thì không có khai, nếu có khai thì khai giới Bồ Tát quả”, tức là lúc đó thành Bồ Tát rồi mới khai. Trong Kinh Bảo Tích nói về Bồ Tát Chúng Trung Tôn. Ngài tu trên núi mười hai năm, thân tướng rất là đẹp. Một hôm Ngài đi xuống núi khất thực thì gặp một cô gái. Nhìn thấy Ngài, cô gái này khởi niệm: “Nếu thầy Tỳ kheo này chỉ cần đến nắm tay mình một chút thôi thì mình sẽ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác liền”. Ngài thấy được tâm niệm đó của cô gái nên đến nắm tay cô một cách thân mật, lúc đó tình cờ Ngài A Nan đi ngang qua trông thấy bắt gặp nên về thưa với Đức Phật. Đức Phật triệu tập đại chúng để hỏi thì Bồ Tát Chúng Trung Tôn thưa: “Bạch Thế Tôn, Ngài đã từng dạy các vị Tỳ kheo đã chứng lục thông mà phạm giới thì thần túc thông sẽ không còn nữa”. Nói xong Ngài bay lên hư không và trụ trên đó. Lúc này Đức Phật mới dạy: “Các hàng tiểu Thanh Văn không bao giờ thấy được tâm lượng của Bồ Tát”. Đó là vì Ngài tu hành Nhiếp thiện pháp giới và Nhiêu ích hữu tình giới nên dù có nắm tay mà không có khởi niệm nên giới vẫn đầy đủ.

    “Vì Bồ Tát quả đối với dâm dục không còn tác ý”. Trong thời Đức Phật có vị Tỳ kheo ni đi vào rừng lấy củi, bị bọn cướp hãm hiếp, có một số người thưa với Đức Phật là cô này phạm giới. Khi Đức Phật hỏi thì cô thưa rằng khi đó cô tưởng như có một cái dùi lửa lớn đâm vào mình nên không có một chút nào cảm thọ hết. Cho nên Đức Phật nói cô không có phạm. Nếu thời điểm đó mà tác ý rung động, có cảm thọ thì tức là phạm.

    Vì chứng quả A-la-hán thì ái dục không còn. Vì tư hoặc trong ba cõi đã hết nên ái dục không còn. Vì khi chứng sơ quả thì tà dâm không còn, chứng tam quả thì chánh dâm không còn. Chánh dâm không còn thì bước lên quả A-la-hán, ái trước dâm dục cũng không còn”.

    Bây giờ qua đến phần kế tiếp trong đại nguyện thứ năm, đây là phần quan trọng nhất: “Giả sử khi chúng hữu tình nào hủy phạm giới pháp, khi nghe danh hiệu của ta thì trở lại được thanh tịnh, không còn sa đọa trong ba đường ác”.

    Trong cuộc sống tu hành, để giữ được giới trọn vẹn, đầy đủ từ giới khinh cho đến giới trọng, hoàn toàn trong trắng giống như Ngài Ưu Ba Ly thì rất là hiếm. Ở đây Đức Phật nói như vậy không có nghĩa là khi mình phạm giới thì nghe hoặc tụng danh hiệu Ngài là hết, mà phải hiểu là khi nghe danh hiệu Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương tức là  trở về tri kiến Phật của mình, thì khi đó thì toàn bộ nghiệp lực không còn. Nhưng trở về bằng cách nào?

    Như trường hợp của Ngài Ương Quật Ma La, trước khi gặp Đức Phật và xuất gia thì phạm tội sát sanh rất là nhiều. Nhưng từ khi xuất gia theo Phật thì Ngài thành tâm sám hối. Sau một thời gian, trên đường đi khất thực, Ngài bị một số người là thân nhân của những người đã bị Ngài giết ngày trước đánh đập. Trở về, Ngài thưa với Đức Phật thì Đức Phật nói: “Nếu ông không gặp ta và xuất gia thì khi chết, ông sẽ đọa xuống địa ngục, nhưng nhờ gặp ta nên ông chỉ bị đánh đập thôi”. Ngay cả Tôn giả A Nan cũng thắc mắc một người đã giết người rất nhiều mà sau khi xuất gia ba tháng chứng quả A-la-hán thì Đức Phật nói bài kệ:

    Ai sống trước buông lung

    Sau sống không phóng dật

    Chói sáng rực đời này

    Như trăng thoát mây che.

    Nghĩa là ai trước đây mà sống buông lung phóng dật, nhưng sau này tỉnh ra, chuyên tâm tu tập chuyển hóa thì “chói sáng rực đời này, như trăng thoát mây che”, cuộc đời sẽ an ổn và sáng sủa hơn. Cho nên trong Kinh, Đức Phật nói: “Trên đời có hai hạng người có sức mạnh bậc nhất. Đó là người chưa bao giờ phạm giới và người đã phạm giới mà biết sám hối, sửa đổi”.

    Lại tiếp:

    Ai dùng các hạnh lành

    Xóa mờ các nghiệp ác

    Chói sáng rực đời này

    Như trăng thoát mây che.

    Do đó, trong Kinh Diệu Thắng Định, Phật dạy: “Nếu có người đã phạm trọng tội, phải sanh tâm lo sợ, muốn cầu được trừ diệt. Nếu ngoài thiền định ra, không có pháp nào trừ được. Người này nên ở chỗ vắng vẻ, thường ngồi nhiếp tâm và tụng đọc kinh điển Đại thừa thì trọng tội thảy đều tiêu diệt, các thiền tam muội được hiện tiền”.

    Phạm trọng tội là phạm vào các giới sát, đạo, dâm, vọng. Ngay lúc đó phải liền sanh tâm lo sợ chứ đừng ỷ lại là phạm giới này không sao cả. Phạm vào các giới này ví như cây dừa bị chặt đứt, không còn mọc được nữa. Khi lỡ phạm phải trọng tội thì ngoài thiền định ra, không có một pháp nào có thể trừ được. Vì sao? Vì trong lúc thiền định thì những giới mà quý vị đã phạm hiện ra. Nó hiện ra tới đâu thì mình nhìn lại thật tướng của nó, thấy được tánh, tội không ở trong, không ở ngoài, không ở giữa, tức là dùng tuệ để quán chiếu thật tướng của các pháp là vô tướng. Sau khi quán chiếu rồi thì phải siêng năng tụng đọc kinh điển Đại thừa như kinh Pháp Hoa, kinh Dược Sư.... Người phạm giới rồi ngồi thiền không được tam muội, tam muội là chánh định. Mình phạm giới rồi thì niệm lăng xăng suốt, thân, miệng, ý đều bị trạo cử cho nên không được chánh định, cho nên phải nhờ vào lực sám hối. 

    Đại Sư Trí Khải dạy:Nếu người không từng làm các điều ác thì không có tội để sám hối. Nếu người tu hành không quyết tâm trì giới hoặc gặp duyên ác liền phá hủy giới, hoặc nhẹ hoặc nặng cũng đều là phá giới. Do giới luật không thanh tịnh nên tam muội không phát sinh. Ví như y phục nhơ bẩn không thể nhuộm màu được cho nên cần phải sám hối. Do sám hối, giới phẩm được thanh tịnh, tam muội mới có thể phát sinh. Ví như y phục dơ bẩn nếu được giặt tẩy sạch, nhuộm vải mới thấm màu được”.

    Những giới Đức Phật đưa ra, mình muốn giữ được phải phát nguyện lực, nếu không có nguyện lực giữ giới thì khi gặp duyên ác mình giữ không được. Duyên ác chẳng hạn như bị người ta rủ rê, khi người ta rủ mình đi uống rượu mình cũng đi, rủ đi ăn mặn mình cũng đi… Giới căn bản của nhà Phật mà mình giữ không được thì chạy lung tung hết. Phạm giới thì hoặc nặng hoặc nhẹ cũng đều là phạm, chẳng hạn như giới không uống rượu mà chỉ cần một giọt vô miệng thôi cũng là phạm. Do phạm giới, giới luật không thanh tịnh nên không vào chánh định được, giống như cái áo dơ không nhuộm được màu, mà phải nhờ thành tâm sám hối giống như tẩy sạch cái áo bị dơ thì mới có thể nhuộm lại màu được.

    Trong Kinh Bách Dụ có kể câu chuyện, một anh chăn bò lùa đàn bò một trăm con đi ngang qua cái vực thẳm, vô tình một con bò bị rớt xuống vực nên chỉ còn chín mươi chín con. Anh nghĩ: Cả đàn bò một trăm con mà bây giờ mất một con thì chín mươi chín con cũng chẳng để làm gì, nghĩ xong anh lùa hết chín mươi chín con bò còn lại xuống vực. Đức Phật nói giống mình giống như người chăn bò, lỡ phạm một giới rồi, nghĩ rằng đằng nào cũng phạm giới nên phạm luôn những giới còn lại. Vì vậy, khi đã lỡ phạm một giới thì phải thành tâm sám hối. Trong giới luật nói, người giữ giới mà phạm thì nhẹ hơn người không giữ giới. Vì sao? Vì người không giữ giới có thể sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối uống rượu, còn người giữ giới khi phạm giới thì giật mình, thức tỉnh và không tiếp tục phạm nữa, dừng lại các ác nghiệp, cho nên nói nhẹ hơn là ở chỗ đó. Cũng giống như y phục nếu bẩn thì phải giặt sạch chứ không phải là vứt luôn. Cho nên khi giữ giới rồi mà mình phạm thì phải dùng phương pháp sám hối để dừng nghiệp lại.

    “Sám” là ngoài không che đậy, “hối” là trách và khắc chế nội tâm. Nếu mình phạm lỗi thì phải đi đến một vị thầy có năng lực lớn, trình bày hết tất cả không được giấu diếm điều gì để các Ngài chứng minh cho mình. Hối là tự trách và khắc chế nội tâm, tự hỏi bản thân sao mình lại mắc phải những tội như vậy, đó cũng là cách để mình tự hổ thẹn, đến ngày cuối cùng lúc ra đi thì các pháp này hiện khởi. Nhờ phương pháp sám hối khắc chế lại cái tâm đó, không trạo cử và hối hận thì tức khắc mình được giải thoát. Nhưng đặc biệt một điều, sau khi sám hối rồi thì không được nhớ lại cái điều đã phạm trong qua khứ ngày xưa của mình nữa, vì nhớ lại thì chướng đạo. Từ xưa đến nay trên cõi đời này không có ai là trong sạch hết, nên bây giờ biết tu mà vẫn suốt ngày than vãn ngày xưa mình làm thế này, ngày trước mình làm thế kia thì đó là không phải.

    Sám là biết những lỗi đã phạm là xấu ác, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuống, tật đố… thảy đều sám hết, hằng không bao giờ khởi lại. Hối là lo sợ quả báo, từ nay về sau có những nghiệp ác như ngu mê, kiêu cuống, tật đố, tất cả các tội ác đó nay đã giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo nữa.

    Có ba cách sám hối là tác pháp sám hối, quán tướng sám hối và vô sanh sám hối.

    + Tác pháp sám hối: tức là mình đến thầy Trụ trì hoặc ra trước đại chúng thành tâm sám hối tội lỗi của mình đã phạm phải, hứa từ nay sẽ trừ bỏ. Nhưng có những giới điều chúng ta lỡ phạm mà mình sợ quá, không thể nào nói trước đại chúng hoặc không thể nào nói trước Thầy được, mà giấu thì cũng không xong, thì lúc đó phải Quán tướng sám hối.

    + Quán tướng sám hối: có nghĩa là mình đến trước Phật, ngoài mình ra không có ai, chỉ có mình với Phật thôi, mình thành tâm trút hết, tha thiết sám hối những tội lỗi mà mình đã gây ra. Đặc biệt nếu mình sám hối mà không thấy tướng hảo thì tội không dứt, phải thành tâm sám hối tiếp. Tướng hảo tức là khi nằm mộng, mình thấy Đức Phật đến xoa đầu mình, hoặc thấy Phật phóng hào quang đến mình, hoặc thấy hoa sen nở hoặc là thấy đến pháp hội toàn chư tăng thì biết là nghiệp của mình dứt. Trong bộ luật này có nêu, có những vị phải sám hối liên tục trong hai mươi năm thì tướng hảo mới hiện ra, tướng hảo hiện ra thì tội dứt, còn nếu chưa thấy tướng hảo hiện ra thì tuy có sám hối nhưng cũng vô ích. Trong Kinh Đại Thông Phương Quảng Sám Hối Diệt Tội Trang Nghiêm Thành Phật, người nào thành tâm sám hối thì sẽ cảm được ít nhất là một hoặc hai và nhiều nhất là năm giấc mộng: thấy mình đi ngang qua sông, qua cầu, hoặc thấy có quả ăn... thì biết là tội dứt. Cho nên những người vào thất mà bị bệnh nặng thì dùng những phương tiện sám hối như vậy, nếu đến đêm mà cảm được các điềm mộng thì mồ hôi xuất ra, bệnh khỏi và nghiệp cũng tự tiêu luôn. Nhưng nhớ kỹ, sám hối rồi thì không được tái phạm lại.

    + Quán vô sanh sám hối: phương pháp này rất là khó, đòi hỏi khi ngồi thiền phải nhiếp định. Mình tụng lên một bài kệ trong Kinh Quán Phổ Hiền:

    Tất cả biển nghiệp chướng

    Đều từ vọng tưởng sanh

    Nếu người muốn sám hối

    Ngồi thẳng niệm thật tướng.

    Tội lỗi như sương móc

    Trí tuệ chiếu tiêu tan

    Thế nên phải thành tâm

    Sám hối tội sáu căn.

    Tất cả những nghiệp chướng của mình từ xưa đến giờ đều do vọng tưởng sanh. Nghiệp từ đâu mà có? Từ nơi tâm mê lầm. Do mê lầm chúng ta tạo nghiệp, từ đó mình bị chiêu cảm các quả khổ. Thế nên Đức Phật dạy phải thành tâm sám hối tội sáu căn.

    Bây giờ qua phần lý, chúng tôi nêu lên để quý vị biết tại sao khi nghe danh hiệu Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương thì dứt nghiệp đi trong ba đường ác. Trong Kinh Duy Ma Cật, Phẩm Đệ tử, Đức Phật bảo Ngài Ưu Ba Ly đi đến thăm bệnh ông Duy Ma Cật. Lúc bấy giờ Tôn giả Ưu Ba Ly thưa:

    -         Bạch Đức Thế Tôn, con không kham lãnh đến thăm bệnh ông ấy. Vì cớ sao? Vì nhớ lúc xưa, có hai vị Tỳ kheo phạm luật hạnh, một vị phạm giới dâm, một vị phạm giới sát, lấy làm hổ thẹn, không dám đến gặp Phật. Những vị này đến hỏi con: “Thưa Ngài Ưu Ba Ly, chúng con phạm luật, thật lấy làm hổ thẹn không dám đến gặp Phật. Mong nhờ Ngài giải rõ chỗ ăn năn, nghi ngại cho chúng con được khỏi tội ấy”. Con liền vì đó mà nói và y theo pháp mà giải thích cho hai vị. Lúc ấy, ông Duy Ma Cật lại nói với con: “Thưa Ngài Ưu Ba Ly, chớ làm nặng thêm tội cho hai vị Tỳ kheo này, phải trừ dứt ngay chỗ làm nhiễu loạn tâm họ. Vì sao? Vì tội tánh kia chẳng ở trong, chẳng ở ngoài, cũng chẳng ở giữa, như Phật nói:“Tâm nhỏ nên chúng sanh nhỏ, tâm sạch nên chúng sanh sạch”. Ngay đó hai vị Tỳ kheo đắc nhãn căn thanh tịnh, thấu suốt được thật tướng vốn không. Khi ấy, hai vị Tỳ kheo tán thán Ngài Duy Ma Cật. 

    Vậy nên:

    Tánh tội vốn không do tâm tạo

    Tâm nếu diệt rồi tội tự tiêu

    Tội không tâm diệt thảy đều không

    Thế ấy mới là chân sám hối.

    Tức là nếu niệm ngay thật tướng thì tội dứt. Như Lục Tổ dạy về phương pháp sám hối: “Đệ tử chúng con từ niệm trước, niệm hiện nay và niệm mai sau, mỗi niệm không bị ngu mê làm nhiễm; từ trước có những nghiệp ác, nghiệp ngu mê, các tội thảy đều sám hối, nguyện một lúc tiêu diệt, hằng không khởi lại. Thế nào gọi là sám? Thế nào gọi là hối? Sám là sám những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố…, các tội thảy đều sám hết, hằng không khởi lại. Đó gọi là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ nay về sau, có những nghiệp ác, ngu mê, kiêu cuống, tật đố …, các tội nay đã giác ngộ, thảy đều hằng đoạn, lại không tạo lại. Ấy gọi là hối. Nên gọi là sám hối. Người ngu si không biết, chỉ biết sám lỗi trước, chẳng biết hối lỗi về sau, do vì không hối nên tội trước chẳng diệt, lỗi sau tiếp tục lại sanh”. Ví dụ như mình vừa sám hối tội trộm cắp mà nhìn thấy tiền lại nhặt bỏ vào túi thì có nghĩa là lỗi trước chưa dứt mà tội sau lại tiếp tục sanh.

    Lúc này, Ngài Duy Ma Cật nói với Tôn giả Ưu Ba Ly:

    -         Thưa Ngài Ưu Ba Ly, vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch, điên đảo là nhơ, không điên đảo là sạch, chấp ngã là nhơ, không chấp ngã là sạch. Ngài Ưu Ba Ly! Tất cả các pháp sanh diệt không ngừng, như huyễn, như chớp. Các pháp không đợi nhau, cho đến một niệm cũng chẳng ngừng. Các pháp đều là vọng thấy, như chiêm bao, như ánh lửa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, đều do vọng tưởng sanh. Ai biết như vậy gọi là giữ luật đệ nhất. Ai biết như vậy gọi là khéo hiểu về thánh pháp.

    “Vọng tưởng là nhơ, không vọng tưởng là sạch”: Phương pháp tu về tâm này, mình phải thực hành hàng ngày để đến ngày cuối cùng ra đi được giải thoát. Nếu quý vị nghiệm kĩ thì sẽ thấy, ngày trước nếu mình có gây ra bao nhiêu nghiệp ác đều là do vọng tưởng, đến thời điểm cận tử nghiệp, mình chiếu kiến vọng tưởng, quán tội tánh vốn không thì tức khắc dứt vọng tưởng, cho nên được giải thoát.

    Vào thời nhà Tống có một dũng sĩ bắn cung rất giỏi, trăm phát trăm trúng và được rất nhiều người ca ngợi. Một lần ông dũng sĩ này đang biểu diễn và được mọi người tung hô thì tình cờ có một ông bán dầu đi qua nói:

    -         Quen tay chứ hay gì mà hay.

    Dũng sĩ kia tức giận nói:

    -         Ông nói như vậy mà không làm được thì ta sẽ giết ông đó.

    Ông bán dầu nói sẽ biểu diễn cho tất cả mọi người xem. Ngày trước bên Trung Quốc, đồng tiền xu thường có một cái lỗ bé ở giữa. Ông cầm một can dầu đổ từ trên qua cái lỗ đồng tiền vào can dầu bên dưới. Đến khi can dưới đầy thì không có một giọt dầu nào rơi ra ngoài và đồng tiền cũng không dính một chút dầu nào cả. Lúc này ai cũng vỗ tay khen ngợi ông. Ông nói:

    -         Ngày nào tôi chẳng đổ như vậy nên thành quen chứ hay ho gì. Cũng như ông ngày nào cũng tập bắn nên bắn trăm phát trăm trúng là chuyện bình thường thôi.

    Qua câu chuyện trên để quý vị thấy, nếu mình muốn đến lúc mình ra đi mà được giải thoát an ổn thì hàng ngày phải ngồi thiền, tụng kinh, sám hối. Chín mươi chín phát thì cần nhất là phát cuối cùng, tuy rằng chín mươi chín phát trật nhưng nhờ đó mà phát cuối cùng lại thành.

    Cho nên tinh thần Duy Ma Cật bên Nam Tông không chấp nhận vì cho rằng đây là kinh của Bà la môn. Nhưng quý vị nghiệm lại, nếu không có tuệ giác vô thượng của Đức Phật, tuệ giác của Ngài Duy Ma Cật thì không thể nói ra được chỗ này. Ngài Duy Ma Cật là một vị cổ Phật ở phương Đông, hiệu là Kim Túc Như Lai, trợ giáo Đức Phật Thích Ca Mâu Ni để xiển dương pháp môn đốn giáo bất nhị. Có câu: “Nhất Phật xuất thế, ngàn Phật hộ trì”, có nghĩa là nếu một vị Phật xuất hiện thì có hàng ngàn vị cổ Phật cũng theo cùng để hộ trì chánh pháp. Cho nên những người xiển dương pháp môn đốn giáo Đại thừa thì mình phải biết đó là những bậc long tượng, bậc thượng căn hóa thân vào cuộc đời này chứ không phải thường.

    Tất cả các pháp sanh diệt không ngừng như huyễn, như chớp”, nhờ các pháp vô thường như huyễn, như hóa nên mình mới sám hối được, chứ nếu nó đứng im một chỗ thì mình tu cả đời cũng không được, rớt xuống địa ngục rồi thì ở suốt dưới đó không có ngày lên. Cho nên chúng sanh chấp thường thì các Ngài nói vô thường, như có một vị Tăng đến hỏi Lục tổ: “Phật tánh là gì?”. Ngài nói: “Phật tánh là vô thường”. Nói vậy để phá cái chấp về pháp.

    Các pháp chẳng đợi nhau, cho đến một niệm cũng chẳng ngừng. Các pháp đều là vọng thấy, như chiêm bao, như ánh lửa, như trăng dưới nước, như bóng trong gương, đều do vọng tưởng sanh”. Tất cả các pháp đều do vọng tưởng sanh ra nên mình phải tu tập cho hết vọng tưởng thì ngay lập tức được an ổn.

    Ai biết như vậy gọi là giữ luật đệ nhất. Ai biết như vậy gọi là khéo hiểu về thánh pháp”.

    Do đó, Thiền sư Huyền Giác làm bài kệ trong Chứng Đạo Ca:

    Có hai Tỳ kheo phạm dâm sát

    Đóm huỳnh Ba Ly thêm buộc siết

    Bồ Tát Duy Ma chốc giải ngờ

    Như vầng dương hực tiêu sương tuyết.

    Thiền trong biển dục rõ kiến lực

    Sen trong lửa đỏ muôn đời rực

    Dõng Thi phạm giới chứng vô sanh

    Sớm vẫn viên thành trong cõi tục.

    Trong thời quá khứ có thầy Tỳ kheo tên là Dõng Thi phạm vào hai giới là trộm và sát. Vì thầy có thân tướng rất đẹp nên có một bà vợ của một ông quan khởi niệm thương, và vì thấy bà này cũng đẹp nên ông cũng thương lại luôn, phạm vào giới dâm. Một hôm, ông quan này nghe thấy nhiều người đồn đại về quan hệ của vợ mình và ông thầy Tỳ kheo nên quyết định đi đến bắt quả tang. Nhìn thấy ông quan thì ông thầy sợ quá nên giết luôn ông quan để thủ tiêu, phạm vào giới sát. Sau khi phạm hai giới dâm và sát thì ông rất hối hận. Vì muốn làm thanh tịnh cho mình nên ông lấy ba y treo lên cây tích trượng  rồi xướng to lên: “Tôi đã phạm vào trọng giới, ai vì tôi mà sám hối giùm”. Ông đi khắp các chùa xin sám hối giùm nhưng không ở đâu đồng ý mà còn nói những điều làm cho ông càng nhiễu loạn. Một hôm ông đi đến một tự viện nọ, tình cờ gặp Tôn giả Tỳ Cúc Đa La. Sau khi trình bày hết sự việc thì Tôn giả bảo sẽ sám hối giùm cho ông. Khi ông quỳ xuống thì Tôn giả nói: “Suy tìm tánh tội trọn không thể được”. Tỳ kheo Dõng Thi nghe xong liền ngộ được lý vô sanh, liền qua thế giới phương Đông thành bậc Chánh đẳng chánh giác, hiệu là Bảo Nguyệt Như Lai.

    Rõ ràng ngay đó suy tìm tánh tội thì không tìm được, mới biết chỗ này tánh tội vốn không. Cái này chúng ta phải thể nhập và chứng nghiệm thì mới thấy sự kì diệu của nó, sống trong vô sanh thì nghiệp không có đến được, như một vị A-la-hán ngồi thiền thì không có một cung tên nào có thể xuyên qua được vì bên ngoài bao quanh là sức thiền định. Trong cái vô sanh pháp nhẫn, dù trăm ngàn nghiệp chướng cũng không làm gì được mình, mình trả nghiệp là trả bằng cái tâm vọng tưởng của mình thôi.

    Ngày trước lúc tôi tu ở Thiền viện Trúc Lâm được vào thất bốn tháng. Có một lần khi ngồi thiền bỗng nhiên thân tâm rớt vào trong tĩnh lặng. Sau khi xả thiền xong, cảm đến đoạn nhân duyên này, tôi tạm làm bài kệ đọc cho quý Phật tử nghe:

    Một thoáng quên mình ngộ sắc không

    Bao đời nghiệp chướng thảy hoàn không

    Ngộ nhập Như Lai minh kiến tánh

    Mới hay không pháp cũng không nhân.

    Từ đó chúng ta mới thấy, các vị Thiền sư luôn nhẫn được là vì các Ngài luôn ở trong trạng thái vô sanh pháp nhẫn, như Ngài Xá Lợi Phất khi ngồi thiền bị con quỷ đánh vào đầu. Khi Tôn giả Mục Kiền Liên hỏi thì Ngài nói giống như chiếc lá rớt xuống đầu, mà sức con quỷ này đập nát cả núi Tu Di. Sau khi về trình Phật thì Đức Phật nói kệ:

    Như tảng đá kiên cố

    Gió thổi không lay động

    Trước việc khen và chê

    Tâm bậc trí bất động.

    Vô sanh là bản tánh sẵn có nơi chúng ta, không có can hệ đến bất kỳ ai, thể nhập vào tánh vô sanh thì tức khắc giải thoát. Nhưng chúng ta chưa nhận được vì còn bị cái nghiệp quá sâu dày của mình che đậy, cho nên cần phải tu một thời gian thì mới chứng nghiệm vào trạng thái vô sanh pháp nhẫn. Nhưng chúng tôi tin chắc rằng nếu công phu tốt thì một ngày nào đấy chúng ta sẽ đi đến con đường này.

    Dõng Thi phạm giới chứng vô sanh, sớm vẫn viên thành trong cõi tục”, tức là chứng quả ngay trong cuộc đời này; “liền qua thế giới phương Đông” tức là phải có một phen chuyển hóa, giống như chuyển một đường gươm thì thành tựu. Chỉ có phương pháp thiền thì mới sám hối được thật tướng các pháp, vì mình chỉ cần nhìn thẳng vào nó thôi thì các pháp sanh diệt tự lên tự xuống, nếu ngay khoảng giữa của các niệm sanh diệt mình nhảy lọt vào thì lập tức thế giới vô sanh hiện ra. Việc này không khó, chỉ là mình có chịu làm hay không thôi. Nếu nói phải dời non lấp bể thì mình không làm được, nhưng đây là ngay nơi tự tâm của mình thì chỉ có mình làm được mà thôi. Mình đã cột thì giờ tự mình phải mở chứ không ai làm thay cho mình cả.

    Trong Thiền thoại ghi, một hôm Thiền sư Pháp Nhãn hỏi :

    -         Có một con cọp rất dữ tợn chuyên ăn thịt người, trên cổ đeo một cái lục lạc. Làm thế nào để tháo cái lục lạc đó ra?

    Trong hội chúng không ai trả lời được. Có một ông Tăng đứng dậy thưa:

    -         Ai cột vào thì người đó mở.

    Ngày xưa trước mình tạo các nghiệp ác thì nay từ nơi tự tâm mình sám hối các nghiệp ác đó thì mới dứt. Đó là lý do khi phạm giới mà nghe danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai thì được thanh tịnh. Thì thanh tịnh là ở chỗ đó chứ không phải chỉ nghe rồi thanh tịnh. Mình phải công phu, phải sám hối, phải chứng nghiệm, mà chứng nghiệm vào chỗ tánh tội vốn không thì ngộ được lý vô sanh, lúc đó mới sám hối được. Hàng ngày mình lên đọc sám hối, đọc suốt mà không biết gì hết, như vậy thì sám hối không có kết quả, mà trong lúc tụng đọc, mình phải theo dõi từng niệm để phá từng niệm ác, như vậy mới thành tựu. Cho nên nếu biết phương pháp tu rồi thì dù tu một ngày có thành tựu của một ngày, hai ngày có thành tựu của hai ngày, còn không biết cách thì tu đến ba mươi năm cũng uổng thôi.

     

  • 7. Nguyện lớn thứ sáu

    NGUYỆN LỚN THỨ SÁU

    “Ta nguyện đời sau, khi chứng đắc đạo Bồ đề, nếu có chúng hữu tình nào thân hình hèn hạ, các căn không đủ, xấu xa, khờ khạo, tai điếc, mắt đui, nói năng ngọng ngịu, tay chân tật nguyền, điên cuồng, chịu tất cả các bệnh khổ, khi nghe danh hiệu của ta thì liền được thân hình đoan chánh, tâm tánh có trí tuệ, các căn đầy đủ, không còn những bệnh khổ ấy nữa”.

    Đọc đoạn này, nếu chúng ta không hiểu qua về lý trong nhà thiền thì dễ bị mê tín về kinh điển Đại thừa. Có nhiều người khi tụng đọc Kinh Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương mà cụ thể là đọc đến đoạn này thì họ đến các trường của những người khuyết tật để chia sẻ, nói chỉ cần đọc danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương thì sẽ hết bệnh, hết khổ, như vậy thì oan ức cho ba đời chư Phật. Cho nên cổ đức nói: “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan. Ly kinh nhất tự, tức đồng ma thuyết”. Chúng ta thấy đui, điếc, câm, ngọng nằm trong bát nạn gồm: Địa ngục; Ngạ quỷ; Súc sanh; Châu uất đan việt; Cảnh trời trường thọ; Đui, điếc, câm, ngọng; Thế trí biện thông; Trước Phật và sau Phật.

    Trong Chư Kinh Tập Yếu, Đức Phật dạy: “Này các Tỳ kheo, ở thế gian này có ba hạng người. Một người không có mắt, này các Tỳ kheo, dụ cho hàng phàm phu, sống trong cuộc đời này thường không nghe chánh pháp. Này các Tỳ kheo, ở thế gian này có một người một mắt, này các Tỳ kheo, dụ cho hàng Thanh Văn. Người có một mắt là người tuy tạm thời nghe pháp mà tâm không trụ nơi pháp. Này các Tỳ kheo, ở thế gian này có người đầy đủ hai mắt, dụ cho hàng Bồ Tát. Người có hai mắt là người chuyên tâm nghe pháp và thực hành đúng theo thánh pháp được nghe”.

    Hạng người thứ nhất là những người có mắt như mù, sống một trăm năm mà không bao giờ được nghe chánh pháp, không bao giờ được nghe một câu kinh, bài kệ nào hết. Trong Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:

    Ai sống một trăm năm

    Không thấy pháp tối thượng

    Tốt hơn sống một ngày

    Thấy được pháp tối thượng.

    Ai sống một trăm năm

    Không nghe câu bất tử

    Tốt hơn sống một ngày

    Nghe được pháp bất tử.

    Hạng người thứ hai là hạng người một mắt, dụ cho hàng Thanh Văn mặc dù có nghe pháp nhưng tâm không trụ nơi pháp, nghe những pháp tối thượng thì không lọt, chẳng hạn những bộ kinh lớn như Kinh Hoa Nghiêm mà Đức Phật diễn thuyết trong hai mươi mốt ngày thì chỉ có hàng đại căn là những vị Bồ Tát lớn nghe mới thấu hiểu. Hạng người thứ ba là người có đầy đủ hai mắt, dụ cho hàng Bồ Tát là những người chuyên tâm nghe pháp và sau đó thực hành theo đúng chánh pháp mà mình đã được nghe.

    Một lúc nào đó chúng ta suy nghiệm lại, Đức Phật nói kinh điển Đại thừa, ví dụ Kinh Hoa Nghiêm là nói cho hàng Bồ Tát nghe. Chúng ta có mặt trong cuộc đời này, có một lúc nào đó đủ duyên, đủ phước nghe được Kinh Hoa Nghiêm thì mình phải đặt câu hỏi rằng: Kinh này Đức Phật nói cho hàng phàm phu, hàng Thanh Văn hay hàng Bồ Tát nghe?  Kinh Hoa Nghiêm nói tính chất của các pháp là trùng trùng duyên khởi, tức là cái này có thì cái kia có, nhưng cái gì thấy được bản chất, tính chất trùng trùng duyên khởi đó? Chỉ cần chúng ta trở về với “Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương” thì không đui, điếc, câm, ngọng. Ở đây chúng ta chỉ cần thấu tột kinh điển của Đức Phật nói thì trong giờ phút thực tại này, chúng ta đã mở sáng con mắt Bát Nhã, có nghĩa là chúng ta không bị đui. Nghe những lời thánh pháp của Đức Phật mà chúng ta tin chắc pháp này là do tuệ giác vô thượng của Đức Phật nói thì chúng ta không bị điếc. Rồi chúng ta đem những lời học được phổ ra hành động, nói những lời nhu nhuyến, đem hạnh phúc đến cho mình và cho người thì chúng ta không bị câm.

    Do đó Vua Trần Thái Tông nói:

    “Trong lục đạo chỉ có con người là quý, đến khi nhắm mắt đi rồi, mờ mờ mịt mịt chẳng biết chỗ đến, hoặc vào đường địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la, chẳng được làm thân người. Đây là cái khó thứ nhất”.

    Có nghĩa là khi đã rơi vào loài địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A tu la thì không có diễm phúc được nghe thánh pháp của Đức Phật, lúc này giống như người bị đui, điếc, câm, ngọng.

    Đã được làm thân người, lại sinh nơi mọi rợ, tắm thì đồng sông, ngủ thì chung giường, trật tự tôn ti không có, nam nữ lẫn lộn, chẳng được phong tục nhân thuần, chẳng nghe chư Thánh giáo hóa. Đây là cái khó thứ hai”.

    Chúng tôi từng đi lên những vùng như Gia Lai, Đắk Lắk, Buôn Mê Thuột để hướng dẫn Phật tử thì thấy có những người dân tộc tắm thì ở sông, ngủ thì nam nữ ngủ chung lẫn lộn, rồi họ còn có những phong tục rất lạ và họ không có cơ hội nghe được thánh pháp của Đức Phật. Nghiệm lại như tế để thấy mình vẫn còn rất may mắn, có những phút giây ngồi lại để chiêm nghiệm và tu tập để chuyển hóa. Không đơn giản mà tự dưng chúng ta được như vậy, bởi vì theo như Đức Phật từng nói thì trong thời quá khứ chúng ta đã từng làm việc thiện pháp, bố thí cúng dường, đã từng phát những đại nguyện lớn. Vì lẽ đó cho nên ngày hôm nay chúng ta mới có phước duyên được nghe chánh pháp Tối thượng thừa.

    “Đã được sanh nơi phồn thịnh mà sáu căn không đủ, thân thể tật nguyền, mù, điếc, câm, ngọng, què, thọt, còng, gù; miệng mũi hôi tanh, thân hình nhơ nhớp. Thầy chẳng được gần, chúng chẳng được thân. Tuy ở nơi phồn thịnh dường thể ở ngoài quê vắng. Đây là cái khó thứ ba”.

    Chúng ta nghiệm lại, sinh ra trên cuộc đời này mà chúng ta đầy đủ sáu căn, không bị đui, điếc, câm, ngọng thì không phải là chuyện đơn thuần. Đó là nói về sự. Còn nói về lý, tuy rằng sinh ra đầy đủ sáu căn nhưng nếu chưa từng được nghe thánh pháp thì cũng không khác gì người mù. Không có cơ hội thâm nhập, chiêm nghiệm những lời Đức Phật, chư Tổ giảng dạy giống như chúng ta bị điếc. Nói những lời ác độc, lời chia rẽ, lời thị phi thì giống như chúng ta bị câm. Nhưng có những người mặc dù sáu căn không đầy đủ, hoặc bị mù, hoặc bị điếc, hoặc bị câm nhưng nhờ có phước duyên được gặp thánh pháp nên tánh biết của họ vẫn minh mẫn, tánh biết đó không bị mù, bị điếc, bị câm.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có ghi, một hôm Hòa thượng Huyền Sa dạy chúng:

    -         Những bậc lão túc các nơi trọn nói tiếp vật độ sanh, nhưng bỗng gặp người có ba thứ bệnh cùng một lúc đến thì làm sao tiếp? Người bệnh mù thì cầm chùy dựng phất tử họ chẳng thấy. Người bệnh điếc thì ngôn ngữ về chánh định, chánh thọ, về giải thoát, về tam muội họ chẳng nghe được. Người bệnh câm thì dạy họ nói lại nói chẳng được. Vậy phải làm sao tiếp vật độ sanh? Nếu tiếp chẳng được người này thì Phật pháp chẳng còn linh nghiệm nữa.

    Có một ông Tăng đem việc này hỏi Thiền sư Vân Môn. Thiền sư Vân Môn bảo:

    -         Ông lễ bái đi.

    Tăng lễ bái xong đứng dậy. Thiền sư Vân Môn lấy cây gậy đưa tới, Tăng lùi lại sau một bước. Thiền sư nói:

    -         Ông chẳng phải bệnh mù.

    Thiền sư Vân Môn lại gọi:

    -         Ông lại gần đây.

    Tăng tiến lại gần. Ngài bảo:

    -         Ông chẳng phải bệnh điếc.

    Thiền sư Vân Môn dựng cây gậy lên hỏi:

    -         Lãnh hội chăng?

    Tăng thưa:

    -         Chẳng lãnh hội.

    Thiền sư Vân Môn bảo:

    -         Ông chẳng phải bệnh câm

    Ngay tức khắc Tăng đốn ngộ.

    Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy ông Tăng thấy, nghe, đáp rất rõ ràng, như vậy đâu có đui, điếc, câm. Như vậy qua phần này chúng ta thấy rằng sáu căn tuy rằng không đầy đủ nhưng tánh biết luôn rõ ràng. Những người bị điếc, câm, ngọng, mù, điên đảo, chịu rất nhiều khổ nạn nhưng một khi trở về với “Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương” thì sáu căn đầy đủ hết, sáu căn ở đây chỉ cho tánh biết tròn đủ.

    Trong Kinh Lăng Nghiêm, có một thầy Tỳ kheo hỏi một người mù: “Ông nhìn thấy gì?”. Người mù trả lời: “Thấy một bầu trời tối đen”. Dù chỉ nhìn thấy bầu trời tối đen nhưng cũng là thấy. Chẳng hạn như cái bóng điện bị đứt dây, dù không sáng nữa nhưng dòng điện không mất. Cũng vậy, tánh biết thì chỉ có một nhưng nó phát ra qua sáu cửa là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Như Ngài A Na Luật khi nghe kinh pháp hay ngủ thì bị Đức Phật quở. Từ đó Ngài không ngủ một phút nào dẫn đến đôi mắt bị mù. Nhưng Ngài được Đức Phật chỉ dạy tu rất tinh tấn, về sau chứng được A-la-hán có thiên nhãn thông và được gọi là Đệ nhất thiên nhãn. Qua chỗ này để cho quý Phật tử thấy, dù cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý không đầy đủ nhưng tánh biết luôn tròn đủ không bao giờ bị mất. Có người chưa biết về đạo, chưa tu tập thì hay hỏi: “Mắt bị mù rồi thì làm sao thấy đường, làm sao tụng kinh được?”, nhưng họ không hiểu rằng đó chỉ là cặp mắt thế gian bị mù, còn khi tu tập, chứng nghiệm thì sáng được con mắt Bát Nhã, con mắt xuất thế gian. Cho nên khi trở về với Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương thì sẽ được thành tựu pháp viên mãn.

     

     

     

     

  • 8. Nguyện lớn thứ bảy

    NGUYỆN LỚN THỨ BẢY

    Ta nguyện đời sau, khi chứng đắc đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào bị những chứng bệnh hiểm nghèo không ai cứu chữa, không có ai để nương nhờ, không gặp thầy, không gặp thuốc, không bà con, không nhà cửa, chịu nhiều nỗi nghèo hèn khốn khổ. Khi nghe danh hiệu của ta, đã lọt vào tai dù chỉ một lần thì tất cả các thứ bệnh hoạn khổ não đều tiêu trừ, thân tâm an lạc, gia quyến sum vầy, của cải sung túc, cho đến chứng được đạo quả Vô Thượng Bồ Đề”.

    Kinh này nếu chúng ta không thấu suốt được thì rất dễ dẫn đến mê tín Đại thừa. Ở đây có ai dám khẳng định là từ trước đến giờ chưa bị bệnh không? Có những người sống 50, 70 năm thân chưa từng bị bệnh, nhưng chỉ trong có một sát na thôi, tất cả chúng hữu tình trong cuộc đời này ai cũng bị bệnh hết, đó là bệnh về tâm.

    Trong Kinh Tăng Chi Bộ Phật dạy: Một thời Đức Thế Tôn trú ở Sa-va-thi tại Sa-ta-va-na, gọi các Tỳ kheo: “Này các Tỳ kheo! Có hai loại bệnh này, thế nào là hai? Bệnh về thân và bệnh về tâm. Này các Tỳ kheo! Chúng ta thấy có những chúng sanh tự nhận là mình không có bệnh về thân được một năm, mười năm, năm mươi năm cho đến một trăm năm. Nhưng này các Tỳ kheo! Rất khó tìm được ở đời là những chúng sanh tự nhận mình không có bệnh về tâm dù chỉ trong một khoảng khắc nhỏ, trừ những bậc Thánh”.

    Nhiều lúc chúng ta tự hào mình mạnh lắm, khỏe lắm, nhưng thật ra mình luôn có bệnh về tâm. Bệnh về tâm là bệnh gì? Bệnh tham, bệnh sân, bệnh si, bệnh tật đố, bệnh ngã mạn, bệnh ích kỉ… mà những bệnh này toàn là những chứng bệnh hiểm nghèo, khó trị, cho dù ông thầy thuốc có tài giỏi thế nào cũng không có thuốc trị.

    Trong Cổ học tinh hoa có kể một câu chuyện: Một anh chàng đi ra chợ, cứ nhìn thấy đồ gì có giá trị là lấy hết cho vào bao từ vàng, bạc, tiền... Anh ta bị mọi người bắt lôi vào chợ đánh cho một trận nhừ tử. Có những người thấy lạ hỏi:

    -         Sao anh ngu quá vậy, ban ngày giữa thanh thiên bạch nhật đông như thế mà tại sao anh lại dám đi ngang nhiên ăn trộm những thứ có giá trị như vậy?

    Anh ta trả lời:

    -         Lúc ra đến chợ, tôi không nhìn thấy ai hết mà lúc đó chỉ toàn nhìn thấy có vàng, bạc và những đồ có giá trị thôi.

    Chúng ta thấy, khi lòng tham nổi lên thì mình không còn biết gì hết, bệnh tham này dù uống thuốc tây hay thuốc nam đều không hết được mà phải dùng đến thuốc của nhà Phật, Thuốc đó cụ thể là các phương tiện thực hành như bố thí, cúng dường, tu tập, làm các việc thiện pháp. Ai bị bệnh sân thì uống thuốc quán từ bi…  Cho nên đối với các loại bệnh tâm như tham, sân, si, tật đố, ngã mạn, ích kỉ… thì chỉ có uống thuốc của nhà Phật mới khỏi, ngoài ra không còn loại thuốc nào chữa khỏi hết.

    Rồi ở một mức độ khác cao hơn, chẳng hạn như mình đang ngồi đây nghe pháp mà tâm của mình nghĩ vẩn vơ đâu đó thì tâm của mình cũng đang bị bệnh, bệnh đó là tâm trộm.

    Trong Kinh Tương Ưng Bộ kể lại: Một thời có một thầy Tỳ kheo trú giữa dân chúng tại Kosala trong một khu rừng. Lúc bấy giờ, Tỳ kheo ấy ăn xong, trên con đường đi khất thực trở về, đi xuống hồ nước và ngửi mùi bông sen hồng. Một vị thiên trú ở khu rừng ấy, thương xót Tỳ kheo, muốn hạnh phúc, muốn cảnh giác liền đi đến thầy Tỳ kheo. Sau khi đi đến, vị thiên ấy nói lên một bài kệ:

    Hoa này từ nước sanh

    Không cho ông ngửi trộm

    Như vậy một loại trộm

    Ta gọi ông trộm hương.

    Tỳ kheo đáp:

    Không lấy đi không bẻ

    Đứng xa ta ngửi hoa

    Vậy do hình tướng gì

    Được gọi là trộm hương?

    Ai đào rễ củ sen

    Ăn dùng các loại sen

    Do các hành động ấy

    Sao không gọi trộm hương?

    Vị thiên nói: Những người xuống phá, đào củ rồi bứt hoa, ta không gọi là trộm vì họ giống như người mặc chiếc áo màu đen, dù có đổ thêm dầu đen lên áo đó thì cũng không đổi màu. Còn ông đã là người xuất gia, giống như một tấm vải trắng, chỉ cần một giọt mực rơi vào cũng thấy rõ hết.

    Điều này mình có thể thấy rõ. Ví như ngoài đường có những thanh niên đi xe máy chạy nhanh, rú còi ầm ầm thì mọi người thấy cũng bình thường, nhưng nếu một ông Thầy đi xe mà như vậy thì sẽ bị nói ngay. Hay người đời vào quán nhậu ăn uống nói năng ồn ào thì không ai để ý, nhưng một ông thầy mà bước vào quán nhâm nhi cốc bia thì sẽ bị đánh giá ngay, thậm chí làm phá kiến người khác nữa. Vừa rồi trên báo Giác Ngộ có đăng một bài về một người Phật tử trước rất kính tin Tam Bảo, nhưng sau này ông dặn con là chỉ thờ Phật thôi và khi ông chết thì không được thỉnh chư Tăng về. Người con gặng hỏi tại sao thì ông nói tại vì vào thời nay, nhiều vị tăng hút thuốc, uống bia, đi xe xịn, xài tiền phung phí cho nên làm cho ông mất niềm tin rất nhiều. Người con có hỏi về vấn đề này thì tổ tư vấn nói người nhà nên đưa ông đến các chùa, các thiền viện mà chư tăng, chư ni tu hành thanh tịnh để ông có cái nhìn tổng quan hơn và lấy lại niềm tin. Khi chúng tôi đi giảng ở miền Tây thì nhiều Phật tử cũng hỏi về vấn đề này, chúng tôi có trả lời rất cụ thể là hiện nay, có những người tuy mặc áo cà sa, cạo tóc nhưng thật ra cũng không phải người tu, nhiều khi họ giả dạng hình thức của người tu để làm những mục đích gì đó. Do đó, trong nhà Phật mới có ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh là như vậy. Thời xưa, một vị Tỳ kheo vì đi tiểu sai một chút mà bị Bà la môn rồi cư sĩ tại gia nói là không đúng oai nghi, những người ngoại đạo liền suy nghĩ rằng, đệ tử của Đức Phật dù chỉ làm sai một việc nhỏ mà bị người đời để ý, đánh giá, còn mình đi khắp nơi, làm đủ mọi chuyện mà cũng không ai đoái hoài gì thì chắc chắn giáo pháp của Đức Phật phải có gì đặc biệt hơn, vì thế nên những người ngoại đạo đó đến xin Đức Phật cho xuất gia.

    Cho nên người xuất gia tu hành rồi thì phải luôn luôn giữ gìn oai nghi phép tắc, nếu không chỉ cần sơ hở một chút cũng làm người ta đánh giá, mà để giữ trọn oai nghi phép tắc rất là khó chứ không phải thường. Cho nên khi xuất gia phải cố gắng ở trong đại chúng càng lâu càng tốt, lỡ mình có làm gì sai còn được đại chúng nhắc nhở để biết mà sửa. Còn mình không giữ được mà làm sai, khiến cho mọi người coi thường Tăng bảo thì bản thân họ bị tổn phước, cũng tội cho họ. 

    Tiếp theo, vị thiên trả lời:

    Người ti tiện độc ác

    Lời ta không liên hệ

    Như chính thật cho ông

    Chính lời ta tương ưng.

    Với người không cấu uế

    Thường hướng cầu thanh tịnh

    Với kẻ ác nhìn thấy

    Nhỏ như đầu sợi lông

    Vị ấy xem thật lớn

    Như đám mây trên trời.

    Như cái áo trắng chỉ dính một chút mực đen thì người ta nhìn giống như đám mây, còn người không tu học thì dù trên áo có dính mực to như đám mây cũng chẳng ai quở cả, vì đen hết rồi còn đâu. Hay ngoài đời trộm cướp giết người nhan nhản, mọi người coi hoài cũng nhàm nhưng chỉ cần ở đâu đăng tin có một ông thầy tu phạm tội móc túi thì gây chấn động liền. Vì sao? Người xuất gia là đại diện cho “đạo đức vô hành”, tức là không có hành động mà biểu hiện ra qua cung cách oai nghi để cho người ta thấy và thức tỉnh, đây là biểu tướng của thầy Tỳ kheo. Điều đó giải thích tại sao một người xuất gia mà cung điện của ma vương bị chấn động, chấn động về tâm thức, khi chúng ta phát nguyện dấn thân vào con đường giác ngộ giải thoát thì những nghiệp xấu ác của chúng ta từ ngày xưa rơi rụng hết.

    Vị Tỳ kheo lại nói:

    Thật sự này Dạ Xoa!

    Ông biết ta, thương ta

    Hãy nói lại với ta

    Khi thấy ta như vậy.

    Cuối cùng, sau khi nghe và hiểu ra thì vị Tỳ kheo này cám ơn vị thiên đó và dặn là nếu lần sau thấy thì cứ nhắc cho ông biết để không phạm phải nữa.

    Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy tiếp về tâm bệnh là dục, tức là lòng ham muốn không bao giờ thỏa mãn. Một thời Thế Tôn trú ở Savathi tại Jetavana, tại vườn ông Anathabika. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn gọi các thầy Tỳ kheo:

    -         Này các Tỳ kheo! Hưởng thọ ba sự ở đời không bao giờ thỏa mãn. Thế nào là ba? Hưởng thọ ngủ nghỉ, này các Tỳ kheo, không bao giờ thỏa mãn. Hưởng thọ rượu men, rượu nấu, này các Tỳ kheo, không bao giờ thỏa mãn. Hưởng thọ khoái lạc ân ái giữa nam và nữ, này các Tỳ kheo, không bao giờ thỏa mãn.

    Hưởng thọ ngủ nghỉ không bao giờ thỏa mãn, đó cũng là tâm bệnh. Như những người mới xuất gia mà ba giờ sáng dậy thì chịu không nổi, đó là cái đau khổ nhất. Hưởng thọ ngủ nghỉ thì không bao giờ thỏa mãn được, cứ có điều kiện là mình ngủ luôn. Với tâm bệnh ham ngủ nghỉ này, chỉ có thể nhập vào “Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương” hoặc rớt vào trong tàng thức của chúng ta chỉ một  lần ngộ thôi thì chúng ta mới chữa dứt được cái bệnh này, còn không thì cứ dây dưa, dính líu đến nó suốt. Hưởng thọ về rượu bia cũng không bao giờ được thỏa mãn cả, bao nhiêu cũng không đủ. Rồi đến hưởng thọ về khoái lạc ân ái nam nữ, đây toàn là những tâm bệnh nặng hiểm nghèo của chúng sanh ở thế gian, rất là khó chữa trị. Như ngày trước khi chúng tôi còn ở Thường Chiếu không hiểu hết được tâm từ bi của những vị thầy lớn nên hay thắc mắc: Tại sao người này lại cho xuất gia, tại sao người này gây ra việc này việc kia lại không bị đuổi…., nhưng sau một thời gian tu tập rồi ra ngoài làm Phật sự thì mới hiểu được tấm lòng từ bi của các Thầy. Dù họ như thế nào, có gây ra việc gì nhưng ở thà ở trong thiền viện vẫn tốt chứ để họ ra ngoài thì nào là bị ngủ nghỉ chi phối, bị rượu chè chi phối, chích hút chi phối, khoái lạc chi phối thì bệnh còn nặng hơn nữa.

    Trong thời quá khứ, một hôm vua Milanda hỏi Ngài Na Tiên Tỳ kheo:

    -         Tại sao Đức Phật biết Đề Bà Đạt Đa sau này sẽ phá hoại Tăng đoàn mà vẫn cho ông ta xuất gia?

    Ngài Na Tiên Tỳ kheo nói:

    -         Lúc đó Đức Phật biết là nếu để Đề Bà Đạt Đa ở ngoài mà không cho xuất gia thì sau này Đề Bà Đạt Đa sẽ lên làm vua. Mà lên làm vua thì với bản tính làm ác, ông ta sẽ giết chết hơn tám trăm mấy chục vạn người, sau khi chết liền bị đọa xuống địa ngục, hàng vạn kiếp không được đầu thai và không biết đến Phật pháp. Nhưng nhờ Phật cho đi xuất gia, dù gây ra nhiều tội nhưng sau khi trả hết nghiệp lại được biết đến Phật Pháp, sau này tu tập chứng quả Bích Chi Phật.

    Cho nên các bậc lớn có cái nhìn xuyên suốt thì khác hơn người phàm, các Ngài hay kết duyên lành với chúng sanh để chúng sanh không bị rơi vào ba đường ác.

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

     

  • 9. Nguyện lớn thứ tám

    NGUYỆN LỚN THỨ TÁM

    Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo quả Bồ Đề, nếu có những phụ nữ nào bị trăm điều hèn hạ khổ sở của thân gái làm cho buồn rầu, bực tức, sanh tâm nhàm chán muốn bỏ thân nữ ấy, hễ nghe danh hiệu của ta rồi thì tất cả đều được chuyển thân gái thành thân nam tử, có đủ hình tướng trượng phu, cho đến chứng được đạo quả Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

    Bây giờ quý vị thử đọc: “Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật” xem có chuyển thân nữ thành nam được không? Không được. Có một số Phật tử nữ nói với chúng tôi rằng:

    -         Đời này chúng con phát nguyện bố thí, cúng dường, làm tất cả các việc thiện pháp để đời sau thành thân nam như các thầy tu cho dễ, chứ thân nữ tụi con tu khó.

    Chúng tôi nói:

    -         Sao các vị không phát nguyện tu thành Phật đi chứ thành thân nam làm gì.

    Chúng ta nghiệm lại xem trong cuộc đời này, có nhiều người thân tướng là nam nhưng tâm thì hèn hạ, độc ác..., còn nhiều người mang thân nữ thì rất khoan dung, độ lượng, rồi còn làm đến những chức vụ cao như tổng thống, thủ tướng, giám đốc...

    Những người nói thân nữ bị nhiều ràng buộc là họ đọc trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy người nữ có năm thứ chướng sau:

    • Không được làm Phạm Thiên Vương
    • Không được làm Đế Thích
    • Không được làm Ma Vương
    • Không được làm Chuyển luân Thánh Vương
    • Không được làm Phật.

    Vì vậy nên họ rất chán ghét thân nữ mà không biết rằng Kinh Pháp Hoa là chỉ về Tri kiến Phật, mà Tri kiến Phật thì đâu có những chướng nạn này, thể nhập Tri kiến Phật rồi thì những tướng giả tạm này liền biến mất.

    Trong Thiền thoại ghi, có một bà già khi đọc đến chỗ này liền đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:

    -         Khi đọc đến Kinh Pháp Hoa thì con cảm thấy rất chán ghét thân người nữ, cúi xin Hòa thượng chỉ cho con phương pháp tu tập để con có thể được chuyển thành thân nam.

    Thiền sư bảo bà đi đến chánh điện, Thiền sư đọc như thế nào thì bà đọc lại như vậy. Sau khi vào chánh điện thì Thiền sư Triệu Châu nói:

    -         Con phát nguyện từ nay cho đến trọn đời, sau khi con tu học thì thân già của con nguyện đọa xuống ba đường ác, còn tất cả chúng sanh đều sinh về cõi trời, chư thiên và cõi Phật.

    Khi Thiền sư nói đến đó thì bà liền hỏi:

    -         Bạch Hòa thượng, Hòa thượng có đọc lộn không?

    Khi này Thiền sư mới nói:

    -         Đó mới chính là phương pháp chuyển thân nữ thành nam.

    Theo quý vị thì Thiền sư có nói lộn pháp không? Tu mà lại nguyện xuống ba đường ác chịu khổ, còn tất cả mọi người đều được sung sướng? Nghe thì vô lý nhưng ở đây có nghĩa là chúng ta nguyện chịu những nỗi thống khổ của chúng sanh và luôn luôn tùy hỷ, phát nguyện đem niềm hạnh phúc đến cho người khác. Ngay trong giờ phút đó, không còn nam và nữ nữa vì đại trượng phu thì không có nam nữ. Cho nên có những người mang thân nam mà sống bỏn sẻn, ích kỉ thì người ta thường nói giống đàn bà, còn dù mang thân nữ nhưng mình cứ sống thoáng lên, sảng khoái, cởi mở, tâm hồn quảng đại, bao dung, sẵn sàng tha thứ thì ngay tức khắc mình đã chuyển từ thân nữ thành thân nam, thành bậc trượng phu rồi, mà nói cho cùng nếu đã là bậc trượng phu thì cũng không còn nam nữ gì nữa.

    Người nữ bị trăm thứ bức bách khổ sở của thân gái mà nghe danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương tức là kiến tánh, mà đã kiến tánh rồi thì xuyên suốt, không còn tính chất của người nữ nữa.

    Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm Đề Bà Đạt Đa, khi Bồ Tát Văn Thù xuống Long cung giáo hóa, có con gái của vua rồng Ta Kiệt La mới có tám tuổi mà kiến tánh lập tức thành Phật. Lúc này Long nữ dùng kệ khen Phật:

    Thấu rõ tướng tội phước

    Khắp soi cả mười phương

    Pháp thân tịnh vi diệu

    Đủ ba hai tướng tốt

    Dùng tám mươi món đẹp

    Để trang nghiêm pháp thân

    Trời, người đều kính ngưỡng

    Long thần thảy cung kính

    Tất cả loài chúng sanh

    Không ai chẳng tôn phụng

    Lại nghe thành Bồ Đề

    Chỉ Phật nên chứng biết

    Tôi nói pháp Đại thừa

    Độ thoát khổ chúng sanh.

    Có nghĩa là ngay chỗ Long nữ chứng nghiệm thì chỉ có Phật với Phật mới biết mà thôi, còn phàm phu chen chân không được.

    Lúc bấy giờ, Ngài Xá Lợi Phất nói với Long nữ rằng:

    -         Ngươi nói không bao lâu chứng được đạo quả Vô thượng Bồ Đề, việc đó thật khó tin. Vì sao? Vì thân gái là nhơ nhớp, chẳng phải là bậc pháp khí thì làm gì mà thành được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Đạo Phật xa rộng phải trải qua vô lượng kiếp cần khổ chứa nhóm công hạnh, tu đủ các độ, vậy sau mới thành được. Lại thân gái có năm thứ chướng nạn thì làm sao thành Phật được.

    Tức là việc thành Phật phải trải qua ba A tăng kì kiếp tu tập, bố thí đủ chân, tay, đầu,  mắt, thân…. mà Long nữ chỉ cần nghe một cái là chứng được nên rất khó tin. Kể cả Ngài Xá Lợi Phất đã chứng quả A-la-hán, là bậc đệ nhất trí huệ rồi mà còn thấy thân tướng của người nữ là nhơ nhớp, có các chướng nạn không thành Phật được.

    Lúc bấy giờ Long nữ có một hạt châu báu, giá trị bằng cõi tam thiên đại thiên thế giới đem dâng lên Đức Phật, Phật liền nhận lấy.

    Ở chỗ này, một hôm có một ông Tăng hỏi Thiền sư Triệu Châu: “Long nữ dâng cho Phật mà đem cái gì dâng?”. Thiền sư Triệu Châu dùng hai tay làm thế dâng. Ông Tăng này cũng giống như mình, không biết Long nữ dâng gì cúng dường Đức Phật. Nếu mà dâng ngọc thì phải là ngọc có hình tướng, mà ngọc có hình tướng là ngọc của thế gian, còn ngọc không hình tướng chính là ngọc xuất thế gian, từ tâm lưu xuất.

    Sau khi dâng xong, Long nữ nói với Trí Tích Bồ Tát và Tôn giả Xá Lợi Phất rằng:

    -         Tôi hiến châu báu, Đức Thế Tôn nạp thọ. Việc đó có mau chăng?

    Hai vị trả lời:

    -         Rất mau.

    Long nữ nói:

    -         Lấy sức thần của các ông xem tôi thành Phật lại mau hơn việc đó.

    Đương lúc đó, cả chúng hội đều thấy Long nữ thoạt nhiên biến thành nam tử đủ hạnh Bồ Tát, liền qua cõi Vô Cấu ở phương Nam ngồi tòa sen báu, thành bậc Chánh đẳng Chánh giác, đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, khắp vì tất cả chúng sanh trong mười phương mà diễn nói pháp Đại thừa.

    Đây là tinh thần đốn ngộ, kiến tánh thành Phật. Tức là ngay khi nhận được tâm mình thì tức khắc thành Phật, tuy rằng còn mang thân hữu lậu mà đã thành Phật trong cuộc đời này. Ngay lúc chuyển mình từ thân nữ biến thành nam tử thì trong nhà Thiền gọi là cá hóa rồng mà không đổi vẩy, tức là phải một phen chuyển hóa tâm thức thì mới kiến tánh thành Phật. Trong nhà Thiền, các bậc Tổ sư nói: “Nếu các ông chưa có một lúc “À” lên một tiếng thì lão tăng nói mấy ông tu cũng uổng một kiếp người”.

    Ngay lúc đó liền qua cõi Vô Cấu ở phương Nam”, vô cấu tức là không còn cấu nhiễm nữa, ngộ được tâm bất sanh bất diệt thì tức khắc thành Phật. Cho nên chúng ta đừng mặc cảm về thân nữ mà chỉ cần chuyển đổi cái tâm của mình, nếu muốn mai này được thành thân nam tử thì hàng ngày phải rèn luyện cái tâm giống như nam tử, lúc nào cũng tha thứ, bao dung. 

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên ghi: Có một cô ni đến hỏi Thiền sư Sùng Tín:

    -         Con làm sao mới được làm Tăng?

    Thiền Sư Sùng Tín hỏi:

    -         Vậy cô làm Ni được bao lâu?

    Cô lại hỏi:

    -         Có khi nào được làm Tăng chăng?

    Thiền Sư hỏi lại:

    -         Hiện nay cô là cái gì?

    Cô đáp:

    -         Hiện nay là thân ni, ai mà không biết.

    Thiền sư khai thị:

    -         Ai biết  được cô?

    Có nghĩa là cái gì biết được thân ni, cái gì biết được những tâm niệm đó? Vì lẽ đó Thiền sư khai thị “Ai biết được cô?”, tức là ai thấy được chỗ này? Cái thấy được chỗ này, tức là cái tánh biết chiếu ra, thấy được các pháp mà bất động thì cái đó không phải nam, không phải nữ, không phải thần, không phải quỷ, không phải Phật, không phải ma. Nó không có hình tướng, chỗ đó là chỗ “Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi nhơ?

    Trong Kinh Duy Ma Cật, phẩm Quán Chúng Sanh ghi lại: Trong thất của ông Duy Ma Cật có một vị thiên nữ. Lúc bấy giờ, Tôn giả xá Lợi Phất hỏi thiên nữ:

    -         Tại sao cô có thần thông mà không chuyển đổi thân nữ này đi?

    Thiên nữ đáp:

    -         Mười hai năm nay, tôi tìm kiếm tướng người nữ mà không thể tìm thấy được. Vậy tôi phải chuyển cái gì, đổi cái gì? Cũng như nhà ảo thuật làm trò tạo nên một thân nữ huyễn. Nếu có người hỏi sao không chuyển đổi thân nữ, người này hỏi có chính xác không?

    Mười hai năm đi tìm tướng người nữ mà không có thì làm sao mà đổi, làm sao mà chuyển. Trong tâm niệm của vị thiên nữ này là dùng pháp môn đốn giáo chỉ dạy cho chúng sanh, mà trong pháp môn đốn giáo đó thì không có nữ, không có nam.

    Ngài Xá Lợi Phất đáp:

    -         Không chính xác. Sự huyễn không có tướng cố định thì làm sao chuyển?

    Có nghĩa là tùy duyên, có duyên làm người nam thì làm người nam, có duyên làm người nữ thì làm người nữ. Mà đã tùy duyên rồi thì chuyển cái gì được? Có một vị Ni Sư làm Trụ trì một Thiền viện đã phát nguyện: “Đời đời kiếp kiếp sẽ mang thân nữ để hóa độ những người nữ”, vậy thì trong lời phát nguyện đó, người này là nam hay nữ? Nam hay nữ đều không phải, đó là tâm Bồ Tát đi trong cuộc đời này, là bậc đại trượng phu xuyên suốt giữa nam và nữ.

    Thiên nữ nói:

    -         Hết thảy các pháp cũng đều như thế, không có tướng cố định, sao Ngài hỏi tôi không chuyển đổi thân nữ?

    Do các pháp không có tướng cố định, không đứng một chỗ nên Bồ Tát Quán Thế Âm Ngài thị hiện ba mươi hai tướng đại trượng phu, có lúc làm thân nữ, có lúc làm thân nam, có lúc làm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Bà la môn, Đế thích, Thiên vương…, muốn làm gì thì làm vì không có tướng cố định.

    Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên, Ngài Tiệm Nguyên cùng với thầy là Ngài Đạo Ngộ đi một đám tang. Khi đến đám tang thì Ngài Tiệm Nguyên hỏi Thầy:

    -         Sanh ư? Tử ư?

    Ngài Đạo Ngộ không trả lời. Trên đường về Ngài Tiệm Nguyên lại hỏi:

    -         Thưa thầy, sanh ở chỗ nào, tử ở chỗ nào?

    Ngài Đạo Ngộ nói:

    -         Dù có đánh chết ta, ta cũng không trả lời.

    Thế là ông đệ tử đưa ông thầy đến đám ruộng đánh cho một trận. Ngày xưa cơ phong của các Ngài cao vút, không như mình bây giờ. Mà quả thật, nếu ông Thầy khai thị lúc đó thì đệ tử không có ngộ, cái ngộ này phải là tự thân đệ tử đứng lên, vươn lên, còn chỉ ra hết thì gọi là thiền cửa miệng.

    Sau khi bị đánh, Thiền sư Đạo Ngộ nói với đệ tử:

    -         Thôi ông tranh thủ trốn đi chỗ khác, chẳng may Tri sự nhìn thấy thì cũng kẹt ông

    Ngài Tiệm Nguyên đành gạt nước mắt ra đi. Một thời gian sau, Ngài đang ở trong một cái cốc thì nghe thấy một thầy Tỳ kheo ở thất kế bên tụng kinh Phổ Môn: “muốn làm thân nam thì hiện tướng thân nam, muốn làm thân nữ thì hiện tướng thân nữ”. Ngay lúc đó Ngài triệt ngộ. Tùy duyên biến ra các pháp chứ nó không cố định nên không phải nói là sanh, không phải nói là tử. Sau khi ngộ rồi, Ngài ra ngoài sân, lập bàn hương án, hướng về phía thầy mình xin sám hối vì lúc này Ngài Đạo Ngộ đã tịch rồi.

    Qua phần này nói rất rõ, hết thảy các pháp cũng đều như thế, không có tướng cố định thì chuyển làm sao? Tùy duyên thành nam, tùy duyên thành nữ, biết tùy duyên rồi thì cái gì biết được tùy duyên đó? Đó chính là tánh bất động.

    Lại tiếp tục câu chuyện trong Kinh Duy Ma Cật, phẩm Quán Chúng Sanh:

    Nói đoạn, Thiên nữ dùng thần lực biến Ngài Xá Lợi Phất thành thiên nữ và ngược lại, Thiên nữ tự hóa thân thành Xá Lợi Phất, rồi hỏi:

    -         Sao Ngài không chuyển đổi thân nữ đó đi?

    Xá Lợi Phất trong hình tướng Thiên nữ đáp:

    -         Tôi ở đây không biết do chuyển cái gì mà thành thân nữ?

    Thiên nữ đáp:

    -         Thưa Ngài Xá Lợi Phất, nếu Ngài có thể chuyển đổi thân nữ đó thì hết thảy người nữ cũng có thể chuyển. Cũng như Xá Lợi Phất chẳng phải nữ mà hiện thân người nữ, tất cả người nữ cũng vậy, dù họ hiện thân nữ nhưng không phải là nữ.

    Tánh biết không phải là nam cũng không phải là nữ mà tánh biết là vô phân biệt, dù cho có hiện ra thân nữ mà không phải là người nữ. Cho nên Phật dạy: “Các pháp chẳng phải nam, cũng chẳng phải nữ” Như vậy thì chuyển ở chỗ nào? Cho nên mình chỉ có một con đường là tu học thôi, tu học để chuyển cái tâm chứ không phải chuyển cái tướng. Nhưng chuyển cái tâm thì đòi hỏi phải dụng công phu sâu mới được.

    Nói xong Thiên nữ rút lại, dùng phép thần thông khiến Xá Lợi Phất trở lại tướng ban đầu rồi hỏi:

    -         Sắc tướng thân nữ nay đâu rồi?

    Xá Lợi Phất đáp:

    -         Sắc tướng thân nữ không tại đó, cũng không không tại đó.

    Thiên nữ mới nói:

    -         Cũng vậy, hết thảy pháp không ở tại đó, nhưng không hề không ở tại đó.Và này, không tại đó cũng không không tại đó, đó là Phật thuyết như vậy.

    Qua phần này, quý vị thấy tính chất của các pháp là do duyên khởi chứ không có tự tánh, vì các pháp do duyên khởi không có tự tánh, không cố định nên chúng ta có thể chuyển được.

    Như vậy chúng ta thấy, nếu có những phụ nữ nào bị trăm điều hèn hạ khổ sở của thân gái làm cho buồn rầu, bực tức, sanh tâm nhàm chán muốn bỏ thân nữ ấy mà hễ nghe danh hiệu của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương rồi thì tất cả đều được chuyển từ thân nữi thành thân nam, có đủ hình tướng trượng phu, tức là khi đó ngộ được tánh biết, mà khi ngộ được rồi thì xuyên suốt các pháp nên không có nam, cũng không có nữ.

     

  • 10. Nguyện lớn thứ chín

    NGUYỆN LỚN THỨ 9

     “Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo quả Bồ Đề thì khiến cho những chúng hữu tình ra khỏi vòng lưới ma nghiệp chướng, được giải thoát tất cả sự ràng buộc của ngoại đạo. Nếu có những kẻ sa vào rừng ác kiến, ta nhiếp dẫn họ trở về với chánh kiến và dần dần họ tu tập theo các hạnh Bồ Tát, đặng mau chứng đạo Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác”.

    Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương nguyện rằng khi Ngài thành Phật rồi sẽ khiến cho các chúng sanh ra khỏi vòng lưới ma nghiệp chướng. Quý Phật tử để ý, khi chúng ta còn ở ngoài đời, chưa phải là Phật tử hay người xuất gia, chưa phát nguyện tu tập thì giống như đang đi thuận theo dòng nước, nhưng khi chúng ta phát tâm quy y Tam Bảo, hiến trọn vẹn đời mình cho Tam Bảo, gia công tu học thì giống như đi ngược dòng nước. Mà đi ngược dòng nước thì những nghiệp chướng lâu xa chúng ta đã tạo trong thời quá khứ hay ngay trong đời này sẽ tìm đến, tạo thành những chướng duyên cản trở mình trên bước đường tu hành. Giống như mình đi vay ngân hàng, đến thời điểm trả nợ, ngân hàng đòi tiền thì mình không thể nào trốn tránh được vì ngân hàng có bằng chứng, giấy tờ hẳn hoi, lúc đó mình phải trả cả vốn lẫn lãi. Cũng vậy, nhân ngày xưa mình đã gieo khi quả chín mùi nó sẽ rụng, nhưng vì cặp mắt phàm phu của mình không thấy nên oán trời, trách đất mà không hiểu rằng thật ra, chúng ta đã từng vay nợ rất nhiều nên hôm nay tu học thì sẽ gặp ma chướng.

    Do đó, nói về nghiệp ma, Thiền sư Tổ Nguyên nói: “Người tu hành nếu không biện biệt được mười loại ma thì tu không những không đạt được kết quả mà còn bị lui sụt tâm đạo”. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy những người tu tập theo pháp của Phật nếu không khéo sẽ dễ bị vướng vào lưới của ma. Khi vướng vào rồi, cho dù chúng ta tu nhiều đời nhiều kiếp thì vẫn bị những chướng duyên cản trở. Nếu không khéo biện biệt cho rõ thì rất dễ bị dính mắc. Sau đây là mười nghiệp ma:

              1/ MA TÚC OAN:

              Ma túc oan còn gọi là nghiệp chướng từ những kiếp lâu xa cho đến đời này. Bởi từ nhiều kiếp đến nay, sanh ra trong kiếp phàm phu, lầm tạo những nghiệp bất trung, bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa. Sát, đạo, dâm, vọng, tham, sân, si, ái kết chặt nhiều oan gia. Đời nay, chúng ta muốn học đại đạo lại gặp gỡ nó, bị nó xâm nhiễu chẳng an, hay làm chướng việc thánh đạo, chẳng được thành tựu. Chúng ta phải sanh hổ thẹn, chí thành sám hối, tha thiết cầu Tam Bảo buông sức thần gia hộ khiến cho tất cả những nghiệp từ trước tự tiêu diệt, tất cả oan gia tự lui hay tan mất. Lại phát bốn nguyện lớn làm lợi tất cả chúng sanh, mau được quả vô lậu, chứng Vô thượng Bồ đề.

    Ở đây, Thiền sư Tổ Nguyên nói, trong thời quá khứ hoặc hiện tại, chúng ta sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, tạo rất nhiều ác nghiệp nên hôm nay học đạo thì những nghiệp và túc duyên trong thời quá khứ hoặc hiện tại đến đòi.

    Trong Quan Âm Linh Cảm Lục có câu chuyện do một vị Hòa thượng chứng kiến và kể lại. Vào đời nhà Thanh, có vị thương nhân tên Trình Bá Lân ở huyện An Huy tỉnh Giang Tô. Ông rất tin tưởng Bồ Tát Quán Thế Âm nên tuy công việc kinh doanh bận rộn nhưng hàng đêm ông vẫn thành kính hướng về tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đảnh lễ tha thiết. Mùa xuân năm Ất Dậu, binh lính hoảng loạn tiến về thành Dương Châu, lúc bấy giờ có những cuộc khởi nghĩa rất lớn, trong sự nhiễu loạn đó có rất nhiều người chết. Cho nên hàng đêm, ông đều hướng về tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm đảnh lễ và xin Bồ Tát gia hộ cho gia đình ông qua những tại nạn này. Một hôm, ông nằm mộng thấy Bồ Tát Quán Thế Âm hiện lên và nói: “Toàn gia đình con hết thảy mười bảy người, trong mười bảy người này không có người nào nợ nần với tên tướng cướp này cả, chỉ có con trong thời quá khứ dùng một thanh đao chém hai mươi sáu nhát. Người này tên là Vương Ma Tử. Sáng hôm nay, người này chắc chắn sẽ đến đòi mạng con. Con hãy gọi mười bảy người trong gia đình tạm lánh qua bên nhà Đông, còn con chắc chắn sẽ bị đền mạng”. Sau khi tỉnh mộng, ông vẫn tha thiết, thành tâm cung kính nhờ sức gia bị của Bồ Tát. Khoảng ba giờ sáng, ông mệt quá nên ngủ thiếp đi thì lại nằm mộng thấy Bồ Tát hiện lên và nói: “Tuy nhiên, sáng hôm nay, con cứ thành tâm làm một bữa tiệc thật lớn dọn ra giữa nhà. Người đó đến, con hãy mời ăn và những chuyện oan gia nhiều kiếp có thể hóa giải”. Sáng hôm sau, Trình Bá Lân kêu mười bảy người trong gia đình tạm lánh qua nhà phía Đông và mở cửa ngồi giữa nhà sẵn sàng đợi. Quả nhiên sáng hôm ấy, có một người tướng cướp ở phương Bắc (tức là giặc Phiên), tay xách cây đại long đao đi ngang nhà, tự nhiên có một điều gì đó rất lạ thường và xông vào nhà. Vừa gặp nhau thì Trình Bá Lân hỏi: “Anh có phải Vương Ma Tử không?”. Người này rất ngạc nhiên, nói rằng mình từ phương bắc xa xôi xuống, đến tỉnh Giang Tô này chưa có ai biết tên và cũng không ai biết hình dáng mình mà sao người này lại biết. Lúc đó Trình Bá Lân mới kể là hàng ngày ông thường đảnh lễ tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm nên tối hôm trước được Bồ Tát báo mộng, nói rằng sáng nay có người tên Vương Ma Tử từ phương bắc xuống và ông không thể tránh được món nợ máu này vì trong thời quá khứ đã từng chém người đó hai mươi sáu nhát. Ông nói thấy cuộc đời này ân oán trả hoài không dứt nên hôm nay sẵn sàng chịu chết. Vương Ma Tử nghe xong, nghĩ rằng nếu chém người này hai mươi sáu nhát đao thì mai kia người này cũng sẽ trở lại tìm mình để trả lại, ân oán như vậy biết bao giờ cho dứt. Vì vậy, Vương Ma Tử xoay sống đao lại rồi cứa nhẹ vào cổ Trình Bá Lân hai mươi sáu nhát. Sau khi cứa xong, hai người kết nghĩa anh em. Về sau, Vương Ma Tử bỏ nghề trộm cướp, trở thành người lương thiện, luôn khuyên người khác làm các việc thiện pháp vì nhân quả hoàn toàn có thật trong cuộc đời này.

    Qua câu chuyện trên, quý Phật tử thấy rõ là trong quá khứ, chúng ta đã từng gieo rắc rất nhiều những mầm mống đau khổ cho người khác thì bây giờ, nhờ tu tập nên chuyển hóa quả báo từ nặng thành nhẹ, từ nhẹ thành không. Nếu ông Trình Bá Lân này không biết kính tin Tam Bảo, không cung kính đảnh lễ, thành tâm sám hối Bồ Tát Quán Thế Âm thì chắc chắn đã nhận hai mươi sáu nhát đao của Vương Ma Tử rồi.

    Một câu chuyện khác trong Thiền thoại: Thiền sư Thông Tuệ lúc còn làm Sa di được Thầy sai đi xách nước. Trong lúc đang xách nước thì gặp một người bán cá đi ngang qua, có một con cá lớn nhảy vào thùng nước. Lúc đó, vì là một Sa di còn nhỏ không biết gì nên Ngài tiện tay đập chết con cá. Sau khi lớn lên và tu học chứng đạo, một hôm Ngài dặn Tăng chúng tránh đi chỗ khác, còn Ngài ở lại trả một món nợ cách đây nhiều năm. Tăng chúng hỏi thì Ngài nói: “Đến trưa thì mọi chuyện sẽ rõ”. Đến trưa, bất ngờ có vị tướng tên Trương Lăng đi ngang qua chùa, không biết tại sao tự nhiên bất ngờ mặt ông đỏ bừng, muốn xách đao xông thẳng vào chùa tìm vị trụ trì để chém. Vừa bước vào cửa thì Thiền sư Thông Tuệ nói:

    -         Ta đợi ông đã ba mươi năm rồi, giờ này ông mới đến.

    Trương Lăng rất đỗi ngạc nhiên, nói rằng:

    -         Con với thầy chưa từng quen biết và cũng chưa từng gặp mặt, mà không hiểu sao tâm thức của con lúc nào cũng ám ảnh phải đến ngôi chùa này và tìm thầy để giết.

    Ông Trương Lăng này là ai quý Phật tử biết không? Ba mươi năm về trước, Trương Lăng chính là con cá mà Thiền sư Thông Tuệ lúc còn là Sa di tiện tay đập chết. Trương Lăng cũng là một Phật tử chân chính của tông Tịnh độ, sau khi nghe Thiền sư Thông Tuệ kể lại câu chuyện ngày trước thì thấy rằng oan oan tương báo không có ngày dứt nên ông liền đứng mà vãng sanh Cực Lạc. Thiền sư Thông Tuệ thấy vậy thì họp đại chúng lại, lấy giấy và viết một bài kệ:

              Ba mươi năm trôi dạt

              Bao phen đổi tướng hình

              Nào ngờ hôm nay gặp

              Liền trả nợ oán xưa.

    Viết xong bài kệ thì Ngài buông bút và tịch luôn.

    Quý Phật tử thấy ở đây, nếu hai người không tu thì sao? Trương Lăng là một Phật tử thuần thành, Thiền sư Thông Tuệ cũng là một vị tu hành đắc đạo nên Ngài thấy đã đến lúc thì phải trả nợ. Vì những nghiệp oan trái nhiều đời chắc chắn sẽ đến đòi mình, nếu chúng ta biết tu và hóa giải thì tức khắc nghiệp dứt. Cho nên Đức Phật dạy:

    Hận thù diệt hận thù

    Đời này không có được.

    Từ bi diệt hận thù

    Là định luật ngàn thu”. 

    Quý Phật tử thấy trong cuộc sống giữa đời thường, có những người phụ nữ rất đẹp, hiền thiện nhưng lại lấy phải một người chồng suốt ngày say sưa rượu chè, rồi đánh đập vơ con, nhưng bảo người vợ bỏ thì cô vẫn cam chịu chứ không dứt bỏ được. Trước đây khi chưa biết Phật pháp thì mình tưởng là do cô vợ còn tình cảm nên không bỏ, nhưng sau này mới biết, đó là do nghiệp chướng nhiều đời vay mượn mà chưa trả xong. Cho nên khi gặp cảnh khổ, cảnh khốn cùng, nghịch duyên, chúng ta đừng trách trời, trách đất, trách xã hội, trách hoàn cảnh, trách cha mẹ mà nên tự trách chính mình trước không khéo tu. Bởi vậy mới nói trong thời quá khứ chúng ta từng tạo những nghiệp bất trung, bất nghĩa, bất nhân, sát sanh, trộm cướp, tà dâm, nói dối, uống rượu, làm đủ thứ chuyện…., bây giờ nhân ác chín muồi thì quả nó đến chứ không có gì là lạ hết.

    Trong Kinh Nhân Quả, Phật dạy:

    Giả sử bá thiên kiếp

    Sở tác nghiệp bất vong

    Nhân duyên hội ngộ thời

    Quả báo hoàn tự thọ.

    Tức là: Giả sử trăm ngàn kiếp, chỗ tạo nghiệp không mất. Giả sử chúng ta làm tất cả những chuyện mà không ai biết, nhưng một lúc nào đó người ta cũng biết. Cho nên nếu không muốn người khác biết thì mình đừng làm điều đó, còn khi chúng ta đã làm, đã gieo hạt giống đó rồi thì sẽ không bao giờ mất, khi nhân duyên chín muồi thì quả báo đến, chúng ta phải chịu đau khổ. Lúc đó đừng có đổ thừa cho ai, cho hoàn cảnh hay xã hội làm mình bị thế này thế kia, mà đó là do mình tạo cho nên mình phải tự gánh thôi, không có ai gánh thay cho mình cả. Cho nên mới có câu: “Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Có một Phật tử kể rằng, ông hay bị mất đồ đạc, tiền bạc trong nhà dù nhà cửa đều an toàn. Ông muốn thỉnh quý Thầy về cúng bái để bớt việc này nhưng tôi nói rằng vấn đề không nằm ở chỗ cúng bái mà là do đời trước mình đã tạo những nghiệp trộm cắp, bây giờ phải sám hối và tạo làm các việc thiện pháp. Ông nghe xong về in kinh sách, băng đĩa của các Hòa thượng, làm cầu, xây nhà tình nghĩa, làm các việc thiện pháp. Quả thực sau một thời gian thì không còn xảy ra việc trộm cắp nữa. Cho nên một người biết Phật pháp có giá trị gấp trăm, gấp ngàn lần người không biết Phật pháp.

    Một lần, Mạt Lợi phu nhân nói rằng, trong vô lượng kiếp, bà chưa từng lấy trộm đồ của ai nên đồ của bà để ở đâu cũng không mất. Vua Ba Tư Nặc không tin điều này nên một hôm, khi Mạt Lợi Phu nhân ngủ, vua lẻn vào phòng, rút chiếc nhẫn vua tặng bà rồi đem ra biển vứt. Sau khi bà thức dậy, vua bảo bà mất chiếc nhẫn, nội trong một ngày mà tìm không ra là phạm tội khi quân, phải chém đầu. Bà nói rằng từ xưa tới giờ bà chưa từng ăn trộm của ai nên thế nào chiếc nhẫn cũng trở về với bà. Quả tình sau khi chiếc nhẫn rớt xuống biển, có một con cá lớn thấy có cái gì đó đẹp óng ánh liền đớp và nuốt vào bụng, sau đó bị một người đánh cá bắt được. Ông nghĩ con cá này rất lớn và đẹp, chỉ để cho vua ăn nên đem dâng cho đầu bếp của vua. Sau khi đầu bếp mổ bụng con cá ra, ông nhìn thấy chiếc nhẫn, biết là của hoàng hậu liền đem trả lại. Từ chuyện này chúng ta nhìn lại mình, nếu bây giờ mình bị mất của cải, mất thứ này thứ kia thì biết rằng ngày xưa mình cũng đã từng trộm của người nhiều lắm. Cho nên nếu đã tạo nghiệp thì khi nhân duyên chín mùi, quả báo đến thì chúng ta phải chịu.

    Quý Phật tử nhớ lại câu chuyện của Pháp sư Giới Hiền, Ngài sống đã một trăm tuổi rồi nhưng bị bệnh phong thấp rất nặng ngày đêm hành hạ khiến Ngài không chịu nổi, cho nên Ngài quyết định nhịn đói cho đến chết. Khi có ý định như vậy thì buổi đêm, Ngài nằm mộng thấy ba vị Bồ Tát là Bồ Tát Quán Thế Âm, Bồ Tát Di Lặc và Bồ Tát Đại Trí Văn Thù Sư Lợi hiện lên nói: “Vào thời quá khứ, ông từng là một vị quốc vương tàn sát không biết bao nhiêu người, đáng lý phải đọa vào địa ngục, nhưng ngày nay nhờ vào công đức tu hành nên giờ chỉ còn bị một chút bệnh này thôi. Ông đòi tự tử thì nợ này ai trả cho ông? Ông hãy đợi thêm hai năm nữa, sẽ có một vị tăng từ Trung Hoa đến đây để học về Duy Thức học. Ông hãy dạy cho vị ấy thì sẽ chuyển được nghiệp, sau khi chết sẽ sanh về cung trời Đâu Suất”. Ba vị nói xong thì biến mất. Quả nhiên sau này Ngài Huyền Trang từ Trung Hoa sang Ấn Độ thì được Pháp sư Giới Hiền bảo đệ tử bảy mươi tuổi của mình là đại sư Giác Hiền kể lại câu chuyện, lúc này Tăng chúng mới thấy rõ rằng nhân quả không bao giờ mất.

    Cho nên Ngài Phó Đại Sĩ nói:

    Thân trước có báo chướng

    Ngày nay thọ trì kinh

    Tạm bị người khinh tiện

    Chuyển nặng nhẹ cho mình.

    Tức là thân trước mình đã từng sát sanh, trộm cướp, tà dâm, làm những việc ác… nhưng ngày nay, nhờ thọ trì bốn câu kinh Kim Cang nên bớt được nghiệp. Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật nói: “Người này đáng lẽ bị đọa vào địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh nhưng nhờ trì kinh tạm bị người khinh tiện”. Chúng ta sống trong cuộc đời này, nếu gặp phải hoàn cảnh khó khăn, bị người ta mắng chửi thì đừng có buồn, đó là mình đang bớt được nghiệp. Những người tu tập có công phu thì khi nghịch cảnh nghịch duyên đến, người ta trở lại cảm ơn những người làm mình đau khổ vì nhờ đó mà họ bớt được nghiệp và thăng hoa trên con đường đạo.

    Nếu rõ y tha khởi

    Biến kế chẳng còn sanh

    Thường y Bát Nhã quán

    Lo gì chẳng viên thành.

    Biến kế là chúng ta chấp pháp, chấp ngã. Nhờ Bồ Tát khai thị mà chúng ta biết rằng tất cả các pháp là giả danh, là vô thường, là tạm bợ, không có thực tính, đó gọi là y tha khởi. Nhờ quán chiếu tính chất của Bát Nhã nên viên thành Phật tánh.

    Trong nhà Phật, xét về nhân quả thì chia quả báo ra ba phần. Một là hiện báo, tức là mình gây tạo nghiệp ác hoặc nghiệp thiện gì thì quả trổ ra liền trong đời này. Vào thời Đức Phật, có hai vợ chồng chỉ có một cái quần là tài sản chung, hôm nào người chồng đi ra đường thì người vợ phải ở nhà, hôm nào người vợ ra đường thì người chồng phải ở nhà. Một hôm, nhân có đại hội cúng dường Phật, hai vợ chồng này nghĩ trong thời quá khứ chắc mình không bố thí cúng dường, lại có tâm bỏn xẻn nên ngày nay mới nghèo khổ, thiếu thốn. Vì vậy họ quyết định cúng dường luôn chiếc quần duy nhất của mình. Trong lúc cúng dường, niệm thiện và niệm ác cùng tranh đấu nhưng cuối cùng họ vẫn quyết định cúng chiếc quần dù chết đói cũng được. Hôm đó, Đức Phật dùng Phật nhãn quan sát thấy căn duyên của hai vợ chồng này sắp chín muồi nên đứng ra nhận phẩm vật đó và nói phẩm vật này lớn gấp ngàn lần những xe gạo của vua cúng, bởi họ đã bằng tâm thành cúng hết tài sản của mình. Chuyện này đến tai vua Ba Tư Nặc, sau khi nghe xong, cảm động vì hoàn cảnh và tấm lòng của hai vợ chồng, vua sai người mang đến một trăm xe vải và thưởng một trăm mẫu ruộng. Ở đây, quả thiện trổ ra ngay vì hai người này đã gieo hạt lúa vào một mảnh ruộng có đất tốt, có nước, có người chăm sóc nên hạt lúa nảy mầm nhanh. Cổ đức nói:

    Xuân một hạt giống gieo

    Thu gặt ngàn thóc mễ

    Người đời tạo lành dữ

    Quả báo cũng như thế.

    Xuân chỉ gieo một hạt thóc mà thu gặt không biết bao nhiêu, nhưng với điều kiện mảnh ruộng phải có đất, có nước, có người săn sóc, tức là phải là người có giới đức mới thành tựu. Còn mình cũng cúng, cũng gieo nhưng gieo vào mảnh không có đất hoặc không có nước, hoăc không có người săn sóc thì hạt giống không thể nảy mầm được. Mình ra đời, gặp được Phật, được cúng dường một vị Phật không phải chuyện đơn thuần.

    Ông Cấp Cô Độc là một ví dụ, do làm rất nhiều việc thiện pháp nên có một lần ông lâm vào cảnh khó khăn, nghèo túng. Một hôm, nhà ông chỉ còn nửa lon gạo để nấu cháo, nấu được một tô cháo xong thì tình cờ Đức Phật và Thánh chúng đi ngang qua. Ông vẫn hoan hỷ cầm tô cháo cúng dường hết cho Đức Phật và quyết định nhịn đói ngày hôm đó. Khi ấy, Đức Phật thọ ký rằng, bát cháo ông cúng dường cho Như Lai ngày hôm nay bằng lúc Như Lai khi còn hành Bồ Tát đạo bố thí cúng dường hết cả một đất nước. Ngay khi ông phát nguyện nhịn đói để cúng dường Như Lai thì ngai vàng của Đế Thích nóng lên. Đế Thích bèn sai Tứ Thiên Vương dùng năng lực thần thông tập trung tất cả những của cải dưới biển không có chủ đem về làm đầy kho vàng của ông Cấp Cô Độc. Đó cũng là ví dụ về hiện báo, do phước lực hiện tại mà trổ ra.

    Hoặc một ví dụ khác, trong thời Đức Phật có một ông thợ săn rất ghét các vị Sa môn. Một hôm trên đường đi săn, ông gặp một vị Sa môn bèn xúi bầy chó cắn vị này. Vị Sa môn sợ quá leo lên cây, thòng cái chân xuống, người thợ săn lấy ngọn giáo đâm vào chân thì cái y cà sa của vị Sa môn rớt xuống trùm vào đầu ông. Mấy con chó nhìn thấy, tưởng vị Sa môn rớt xuống nên đến cắn xé xác luôn. Đó là hiện báo của nghiệp ác.

    Hai là sanh báo, có nghĩa là đời này chúng ta tạo nhân gì đó nhưng không trổ ra liền ở đời này mà đời sau, đời sau nữa mới trổ ra. Cho nên có những người sống rất hiền thiện, biết quy y Tam Bảo, biết bố thí cúng dường nhưng toàn gặp nghịch duyên, rồi không biết rõ về nhân quả lại trách Tam Bảo, trách Phật, trách Bồ Tát không linh… Do đó, trong Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:

    Người ngu tưởng là ngọt

    Khi ác chưa chín mùi

    Ác nghiệp chín mùi rồi

    Người ngu thấy khổ đau.

    Tức là đời này mình làm ác, nhưng nhờ thiện nghiệp trong thời quá khứ còn sót lại nên mình chưa thấy hậu quả. Sau khi phước xưa hết rồi thì tức khắc quả khổ sẽ đến. Còn người thiện thì sao?

    Người thiện tưởng là khổ,

    Nghiệp thiện chưa chín mùi

    Thiện nghiệp chín mùi rồi

    Người thiện thấy an vui.

    Khi thiện nghiệp chín muồi rồi thì mình thấy an ổn, hạnh phúc.

    Ba là hậu báo, nghĩa là tạo một nhân nhưng không trổ quả liền mà có khi phải trải qua vô số đời về sau, chừng nào đủ duyên thì quả báo chín muồi, cho nên còn gọi là nghiệp vô hạn định. Trong “Tam Bảo cảm ứng lục”, có một em bé cha mẹ chết hết, không có ai nuôi nên phải đi ăn xin. Trong lúc đi ăn xin, em gặp một vị Hòa thượng và được Hòa thượng đưa về chùa, sáng chiều chuyên thỉnh đại hồng chung. Khi cậu được mười sáu tuổi, một hôm đang đi trên đường liền bị rớt xuống hầm cầu, bị hai thanh sắt ở dưới đâm lên làm mù cặp mắt. Sau khi bị mù mắt, cậu lại bị sét đánh chết. Khi chôn xuống đất rồi thì nửa đêm bị cọp quật mồ, đào lên ăn thịt. Mọi người đến thắc mắc với vị Hòa thượng rằng, người này đã công quả, đã tu tập, đã thỉnh chuông rồi mà sao còn bị những nghiệp này. Hòa thượng nói, nếu cậu bé này không có công phu tu tập, không có sức chuyển hóa thì sẽ phải trả nghiệp trong bốn đời liên tục, đời thứ nhất bị rớt xuống hầm cầu, đời thứ hai bị mù mắt, đời thứ ba bị sét đánh, đời thứ tư bị cọp ăn thịt, nhưng nhờ biết tu tập nên chuyển nghiệp, tất cả các nghiệp chỉ trả trong một đời là xong.

    Tôi đưa ra một ví dụ đơn giản, chẳng hạn hồi xưa, quý Phật tử thiếu người đó một triệu đồng, khi người ta đến đòi mình, mình không có tiền trả. Sau này mình làm ăn khấm khá, trở nên giàu có, người đó tìm đến và đòi thì lúc này mình không chỉ trả gốc mà còn trả cả lãi luôn vì đã giàu rồi. Cũng vậy, đối với các vị có tu tập thì khi có những nỗi khổ, những nghịch duyên đến, các Ngài coi như không. Như Tổ Sư Tử, khi vua Kế Tân xin Ngài cái đầu thì Ngài nói rằng bốn đại vốn không, năm ấm chẳng có thì xá gì cái đầu, nói rồi đưa cổ cho vua chém.  

    Cho nên qua những ví dụ này để quý Phật tử thấy rằng, nhân quả không bao giờ mất, kể cả đối với người đã chứng đạo. Đức Phật còn bị mười nghiệp duyên xấu ác đến đòi, thương kim (bị Đề Bà Đạt Đa xô đá làm chảy máu chân), mã mạch (ăn lúa mạch của ngựa trong ba tháng),... bởi vì trong thời quá khứ, Đức Phật đã từng gieo những nghiệp xấu ác cho Đề Bà Đạt Đa nên bây giờ quả chín muồi thì phát khởi. Tuy trả quả như vậy nhưng Đức Phật và chư Tổ không đau khổ. Giống như ngày xưa mình có quyền thế nên chửi mắng, đánh đập người. Sau mình không còn quyền thế nữa, lúc này những người ngày xưa bị mình chửi mắng, đánh đập lại thăng quan tiến chức, họ nhớ mình nên tìm để đòi nợ, nhưng may mắn bây giờ mình đã biết đến Phật pháp và tu học nên khi họ tới, thấy mình đã tu, đã thay đổi nên thay vì đánh đập họ chỉ chửi mắng, nhưng khi bị chửi mắng thì nhờ biết đạo nên mình không sân hận hay đau khổ.

    Trong thời quá khứ, chúng ta đã từng kết rất nhiều oan gia cho nên ngày nay muốn học đạo thì hay bị chúng quấy nhiễu, làm chướng việc Thánh, chẳng được thành tựu, chẳng được an ổn. Chúng ta phải sanh tâm hổ thẹn, chí thành sám hối liên tục. Phương pháp sám hối là một phương pháp rất đặc biệt, chỉ có dùng nước sám hối để rửa sạch những nghiệp xấu ác trong thời quá khứ chúng ta gây tạo thì mới dứt được. Chúng ta bố thí, cúng dường thì cũng có phước, nhưng những cái đó chỉ trợ duyên cho việc tu, còn muốn dứt được nghiệp chỉ có phương pháp thành tâm sám hối và phương pháp tọa thiền để nhìn lại những niệm này. Ví dụ đáng lẽ ngày này, tháng này, năm này, các hạt giống ác pháp sẽ trổ ra, nếu chúng ta không thiền tập thì sẽ phạm vào các giới sát, đạo, dâm, vọng... Nhưng vào giờ phút đó, nếu quý Phật tử ngồi thiền, các hạt giống ác pháp cũng trổ ra nhưng vì không có cảnh nên lấy gì phạm? Ví dụ, khi đang ngồi thiền tôi khởi niệm tham, mà trước mặt không có lấy một đồng hay đồ vật gì thì có phạm giới trộm không? Nếu lúc đó không ngồi thiền mà trước mặt lại có một xấp đô la thì chắc là phạm liền. Rồi trong lúc ngồi thiền, người ta ngồi thì rất yên ổn, còn mình ngược lại, giống như đang ngồi trên đống lửa, bứt rứt, khó chịu. Đó là mình đang trả nghiệp nhưng trả bằng tâm thức, cho nên nói tu là chuyển nghiệp.

    Hoặc như câu chuyện của Thiền sư Bankei bên Nhật Bản. Ở trong chùa của Ngài có một chú tiểu chuyên ăn cắp vặt tiền của các huynh đệ. Một hôm, chú bị bắt và đem nộp cho Thiền sư Bankei, mọi người trong chùa gây áp lực phải đuổi chú đi, nếu không sẽ bỏ đi hết. Lúc này Thiền sư Bankei chỉ nói một câu: “Các ông ai cũng có trí, có đạo đức cả nên các ông đi ra ngoài vẫn phát triển được. Còn chú này nếu bị đưa ra ngoài đời thì một là làm ăn cướp, hai là đến chùa nào người ta cũng không nhận, làm sao sống sót được”. Sau khi nghe Thiền sư Bankei nói, chú tiểu quỳ xuống khóc và xin sám hối. Sau này, chú trở thành một vị Thiền sư nổi tiếng của Nhật Bản. Cho nên tu là chuyển nghiệp chứ không phải nghiệp cố định. Nếu chúng ta thành tâm sám hối, siêng năng tu tập thì nghiệp nặng sẽ chuyển thành nghiệp nhẹ.

    2/ MA NGOẠI HOẶC

    Ma ngoại hoặc (hoặc làm loạn bên ngoài) gọi là nhân chướng. Kẻ tiểu nhân không có căn lành, sang hèn chẳng đồng, làm não loạn định tâm, chẳng được an ổn. Việc này không riêng một cớ nào, tất cả đều do thiếu quyền biến, hoặc kém lễ nghi, hoặc do tự cao, hoặc tự ngã mạn, hoặc nói thẳng, hoặc hạnh thô, hoặc nương thế lực, hoặc khoe tài, hoặc nói ác, hoặc khen mình chê người, hoặc thiếu vẻ ôn hòa, hoặc không cung kính, hoặc độ lượng không rộng, hoặc thiếu nhẫn nại. Cho nên chuốc cái chẳng tin mà hoặc loạn sự tu hành, sanh tâm động niệm, che lấp bản minh. Kẻ sĩ mộ đạo cần yếu phải thấp xuống mà lui về nuôi đức mới khỏi được nhân chướng. Kẻ hậu học đời sau phải khoan dung nhẫn nại, cố gắng hành đạo cẩn mật.

    Ma thứ hai gọi là nhân chướng, tức là có những người không thích mình, ghét mình nên làm não loạn, khiến mình không được an ổn. Nhiều khi chúng ta tưởng đó là do nghiệp quá khứ nhưng nhìn lại, trong đời hiện tại chúng ta có gieo nghiệp không? Hoặc là do thiếu huyền biến, hoặc kém lễ nghi, hoặc do tự cao, ngã mạn…, cái gì cũng muốn hơn người thì tiểu nhân ghét; hoặc như giữa đám đông mình nói thẳng lỗi của người thì chắc chắn người đó sẽ tìm cách hại mình; hoặc hạnh thô; hoặc chúng ta nương thế lực, chẳng hạn như ở chùa mình nương vào thế lực thầy Trụ trì để tìm cách hãm hại người khác, sau này khi không còn thế lực để nương, phước hết thì quả khổ đến; hoặc khoe tài; hoặc nói lời ác độc; hoặc chúng ta khen mình mà chê người khác thì những người tiểu nhân cũng tìm cách ám hại mình; hoặc không cung kính; hoặc độ lượng không rộng tức là tâm mình hẹp hòi, không dung nhiếp được; hoặc là thiếu nhẫn nại nên chuốc cái chẳng tin mà hoặc loạn sự tu hành, kẻ sĩ mộ đạo cần yếu phải tự hạ mình thấp xuống mà lui về để nuôi đức, mà thường lui một bước thì lại có sức mạnh.

    Như câu chuyện bức họa trên vách của Thiền viện Long Hổ. Một hôm, có một số chư Tăng lấy bút mực vẽ con rồng và con cọp đang giao tranh với nhau, nhưng vẽ mãi mà không ra được cái thế cho xứng. Lúc này, Thiền sư Vô Đức nói: “Muốn vẽ được thì phải hiểu đặc tính của từng loài mới thể hiện được sức mạnh của nó, rồng trước khi tấn công đầu phải lui về sau, cọp muốn chồm lên trước thì đầu phải hạ sát đất, cổ rồng càng hướng về sau thì sức quật càng mạnh, đầu cọp càng hạ sát mặt đất thì khả năng tấn công càng nhanh và nhảy lên lại càng cao”. Sau khi nghe lời dạy của Thiền sư Vô Đức, chư Tăng vẽ lại thì quả thực toát lên được hồn của bức tranh, Nhân đó, Thiền sư Vô Đức nói: “Đạo xử thế và việc tu hành các ông cũng cần phải như thế, càng phản tỉnh khiêm nhường thì năng lực vươn lên càng cao”.

    Nhìn lại mình thì sao? Người ta nói một tiếng, mình nói hai tiếng, người ta nói ba tiếng, mình nói bốn tiếng, vợ chồng sống với nhau không hạnh phúc cũng vì thế. Mình cứ nhận mình sai đi thì mọi chuyện ổn hết, chịu lùi một bước mà thắng hoàn toàn luôn, đó là chiến công mà chỉ có người tu tập mới thấy được.

    Lúc bấy giờ Thiền sư Vô Đức làm một bài thơ:

              Tay cầm mạ non cấy xuống ruộng

              Cúi đầu liền thấy trời trong nước

              Thân tâm thanh tịnh ấy là đạo

              Lùi bước chính là đang tiến lên.

    Người cấy mạ là cấy lùi, lùi lại một chốc là đám mạ cấy xanh um hết, cúi đầu xuống thì thấy trời in trong nước, thân tâm thanh tịnh đó là đạo, lùi bước chính là đang tiến lên. Cho nên ở đây nói “kẻ sĩ mộ đạo cần yếu phải hạ mình thấp xuống, lui về để nuôi đức”. Ở những ngôi chùa cổ tại miền Bắc, cửa vào chánh điện rất thấp, khi bước vào mà không cẩn thận, không thấp người xuống là đụng đầu liền. Cái lý ở đây là khi tìm đến đạo, muốn thấy đạo, muốn gặp ông Phật của tự tâm thì chúng ta phải tự hạ mình thấp xuống.

    Các vị tu hành ngày xưa thường “ngậm miếng như câm mà hạ lòng nuôi đức”, tức là miệng nói bớt lại để nuôi dưỡng cái đức. Những người hay nói bậy mà không biết như vậy là tổn phước rất nhiều. Trong ba nghiệp thân, khẩu, ý thì khẩu nghiệp rất quan trọng. Thường thường, kiểm soát ý nghiệp là quan trọng nhất, nhưng phương tiện ban đầu thì chúng ta phải ráng tu khẩu nghiệp. Bởi vậy, người xưa hay nói rằng: “Thủ khẩu như bình, phòng ý như thành”, có nghĩa là phải giữ miệng mình như bình, bình nước mà nghiêng thì nước công đức sẽ bị đổ sạch hết.

    Trong Nghệ thuật sống có kể một câu chuyện, ngụ ý nói mình mà nuôi đức thì sẽ có thành tựu lớn. Ngày xưa, có một chàng đánh cá nghèo, sáng chiều anh đi ra vùng biển xa, đánh cá được bao nhiêu anh đem bán lấy tiền sinh sống. Do quá nghèo nên mặc dù đã lớn tuổi mà vẫn chưa lấy được vợ vì những cô gái ở làng chài không ai ngó ngàng đến anh. Rồi anh nghe tin có một cô gái làng bên rất đẹp, tuổi khoảng hai mươi tám nhưng không ai dám lấy vì cô nói nhiều quá, nói nhiều đến nỗi người xung quanh nhức đầu luôn. Anh đến xin cưới thì cha mẹ cô đồng ý ngay. Một hôm, anh ra biển bắt được một con cá vàng rất đẹp, thấy tội quá liền thả xuống. Không ngờ con cá này chính là thái tử con của Long vương. Để trả ơn, thái tử bảo anh cần gì thì sẽ giúp. Anh nói vợ mình nói nhiều quá, hãy làm cho cô ta hễ nói một lời thì một đồng tiền văng ra. Về đến nhà, anh giật mình thấy trong nhà đầy tiền, lúc ngủ cô nói mơ cũng ra tiền, nhiều đến nỗi muốn sập cả giường. Buồn phiền, anh lại ra biển cầu thái tử của Long vương cho giảm bớt tiền lại. Thái tử nói “Thôi được, vợ anh nói câu gì hay nhất, ý nghĩa nhất thì sẽ văng ra một đồng tiền”. Từ đó về sau tiền không còn văng ra nữa. Sau này, khi về già, lúc bà vợ sắp mất, bà gọi con cháu đến nói một câu thế này: “Nói là bạc, nín là vàng, nói ít không phải ít nói mà là không nói những điều vô ích”, bà nói xong văng ra ba chục đồng tiền vàng. Trong đời chúng ta nói gì ý nghĩa nhất, lời nói khiến người khác được an vui, hạnh phúc đó mới là lời nói có giá trị.

    3/ MA PHIỀN NÃO

    Ma phiền não là sự chướng. Sự chướng nếu chẳng trừ thì hay làm lộn xộn việc chánh tu. Thế nào là phiền? Thế nào là não? Phiền thì đuổi theo ngoại cảnh, não thì sanh ở nội tâm. Người tu Thiền nhất định phải đoạn phiền não. Phiền não chẳng trừ sạch thì tánh định khó hiện. Thấy người nữ mà sanh tâm là dâm tâm phiền não. Thấy sự giết hại mà sanh tâm là ác tâm phiền não. Thấy vật mà sanh tâm là tham tâm phiền não. Thấy người khổ mà sanh tâm khinh thường là ngã tướng phiền não. Thấy kẻ thấp hơn mình sanh tâm kiêu ngạo là tự đại phiền não. Thấy nghịch cảnh sanh sân hận là khuể tâm phiền não. Thấy thuận cảnh sanh vui là tùy hỷ phiền não. Thấy kẻ oán sanh tâm ghét là hận tâm phiền não. Thấy người thân sanh tâm thương là tư tâm phiền não. Tất cả những cái thấy bên ngoài mà bên trong sanh thủ xả đều là tính chất của phiền não, không thể nào mà nói ra cho hết được. Kẻ tham thiền nhất định phải trừ sự chướng. Sự chướng nếu chẳng không, làm não loạn cái định. Người học đời sau tại sao chẳng đoạn nó?

    Phiền thì đuổi theo ngoại cảnh, não thì sanh ở nội tâm”, chẳng hạn như mình thấy con người ta học hành đỗ đạt mà con mình học dở, không theo đúng ý mình nên nội tâm sanh phiền não. Đó là phiền não do chạy theo ngoại cảnh. Chúng ta đã học Phật thì phải biết rằng tất cả mọi việc đều có nhân duyên, nhân quả của nó. Trong thời quá khứ mình đã tạo nhân nào thì giờ sẽ đi theo đường đó, mỗi người đều có nhân duyên khác nhau. Nếu chúng ta cứ nhìn ra bên ngoài rồi chạy theo ngoại cảnh mà không khéo chuyển hóa thì suốt ngày sẽ phiền não.

    Tôi xin kể một câu chuyện làm ví dụ. Ngày xưa, có một bà sanh được cả thảy hai mươi người con, mười đứa đầu rất đẹp đẽ, thông minh, ai nhìn cũng thương, còn mười đứa sau thì xấu, ai nhìn cũng không ưa. Một hôm, Thượng đế xuống thăm nhà bà, bà hay tin liền đem giấu mười đứa con xấu trong đống rơm vì sợ nếu đem ra thì bị Thượng đế quở. Khi Thượng đế đến chúc phúc cho từng đứa, nói đứa thứ nhất lớn lên làm vua, rồi những đứa khác thì làm đại thần, làm kỹ sư, làm bác sĩ... Bà mẹ liền nghĩ: “Mười đứa này là con, mười đứa sau cũng là con, thôi đem ra cho Thượng đế chúc phúc luôn”. Vừa nhìn thấy, Thượng đế đã bảo đứa này làm ruộng, đứa kia chăn bò, đứa làm thợ hồ, đứa làm người dọn rác... Bà mẹ sửng sốt: “Mười đứa trước là con của con, mười đứa sau cũng là con của con, sao Thượng đế lại có tâm kì thị?”. Thượng đế nói: “Nếu hai chục đứa con của bà đều làm vua hết thì ai làm ruộng cho nó ăn, ai xây nhà cho nó ở….” Qua câu chuyện này quý Phật tử thấy, ai mà không mong muốn con mình sau này giỏi giang, làm kỹ sư, bác sĩ nhưng do cái nghiệp, cái túc duyên của quá khứ mà mỗi người sẽ đi một con đường khác nhau, không ai giống ai hết. Mình biết như thế thì “tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên mặc áo xiêm”. Tùy duyên để tiêu nghiệp cũ, nhưng nhớ đừng gây thêm nghiệp mới thì hồn nhiên mặc áo xiêm, tự tại trong cuộc đời.

    “Người tu Thiền nhất định phải đoạn phiền não. Phiền não chẳng trừ sạch thì tánh định khó hiện”, tức là nếu suốt ngày chúng ta phiền não thì đảm bảo tu tập không bao giờ tiến. Nhưng hỏi thật, cái phiền não, cái khổ đau có phải của mình không? Giả sử bây giờ mình đang phiền não thì cái phiền não này là của ai? Nếu là của mình thì nó phải ở suốt với mình, sáng phiền não, trưa phiền não, tối phiền não, ngày này qua ngày khác phiền não. Còn đằng này, sáng phiền não nhưng trưa lại hết, chẳng hạn đang bực bội, cãi nhau với chồng mà nghe con điện thoại nói gửi về một số tiền lớn thì sao? Còn bực bội không hay vui vẻ liền? Như vậy để thấy cái phiền não này không phải của mình.

    Trong Thiền thoại có kể, một cư sĩ đến thưa với Thiền sư Bankei rằng ông rất hay nổi nóng và xin Thiền sư dạy cho phương pháp để hết sân. Thiền sư bảo: “Ông hãy mang cái sân hận, nổi nóng ấy ra đây, ta sẽ có thuốc trị”. Cư sĩ trả lời: “Ngay bây giờ thì con không sân”. Thiền sư hỏi: “Vậy lúc nào ông mới sân?”. Ông nói: “Chỉ khi nào con về nhà, gặp mụ vợ thì mới sân”. Thiền sư bảo ông hãy về nhà, khi nào nổi sân thì mang ngay cái sân đến đây, Ngài sẽ trị cho. Khi về nhà, gặp bà vợ cằn nhằn, ông liền nổi sân, nhớ đến lời của Thiền sư Bankei, ông liền chạy ngay đến chỗ Ngài. Nhưng thật lạ là vừa đến nơi thì ông hết sân. Lúc này Thiền sư Bankei nói: “Cha mẹ ông sinh ông ra chỉ có tâm Phật mà thôi”. Cư sĩ nghe xong liền ngộ.

    Ở đây chúng ta thấy rõ, nếu cái sân này là của mình thì ở nhà cũng sân, đến chùa cũng sân, gặp người này cũng sân mà gặp người kia cũng sân, còn ở đây về nhà gặp vợ mới sân, còn đến chùa gặp thiền sư thì hết sân. Rõ ràng cái sân này không phải của mình. Vậy cái gì biết được sân và cái gì biết không sân? Cái biết là cái năng biết và cái sân là cái bị biết nhưng chúng ta đồng hóa. Ngay trong giờ phút thực tại này, cái biết và cái bị biết đồng thời có mặt thì cái sân hết. Chẳng hạn tôi nhéo vào tay tôi, tôi biết đau, khi thả ra thì hết đau. Vậy cái gì biết có đau và không đau? Là cái tánh biết này, là tâm Phật chớ gì, vậy mà chúng ta luôn luôn đồng hóa cái tham là mình, cái sân là mình, cái si là mình. Cho nên trong Kinh Tương Ưng Bộ, Phật dạy: “Tâm tham biết tâm tham, tâm sân biết tâm sân, tâm tật đố biết tâm tật đố...”. Biết thì chúng ta không bị dẫn đi cho nên phiền não dứt, lúc đó tánh định hiện tiền, pháp tu nhà Phật chỉ đơn giản vậy thôi. Tu lâu hay mau là do mình.

    Quý Phật tử nghiệm lại, thân mình nếu không nhờ ăn uống thì không sống được, xe mà không đổ xăng thì chạy không được. Cũng như thế, nếu chúng ta không tưới tẩm tham sân si, không tưới tẩm phiền não thì đến một lúc nào đó nó hết. Nhưng mình không chịu như vậy mà lúc nào cũng tưới tẩm hết. Ví dụ quên cái chìa khóa mà tìm không được rồi sinh ra bực bội, đi đường bị kẹt xe cũng bực…, mỗi ngày khi gặp những điều bất như ý, chúng ta không tìm cách chuyển hóa mà cứ tưới tẩm hạt giống sân, hạt giống phiền não. Đến một lúc nào đó, những hạt giống này tăng trưởng, lớn mạnh thì khi rời khỏi cuộc đời này, nó sẽ dẫn mình đi vào cảnh giới xấu ác. Còn cái gì mình cũng bỏ qua, cái gì cũng tha thứ hết thì mình không tưới tẩm nữa. Như câu chuyện của một bà già bên Thái Lan, bà đến gặp một vị Thiền sư than phiền là bà tu rất khó, không tiến được. Thiền sư dạy bà chỉ cần nhớ và thực tập ba chữ “Mặc kệ nó”. Sau khi ra về, bà thực hành đúng như vậy. Dù có chuyện gì xảy đến, vui hay buồn bà cũng “Mặc kệ nó”, gác tất cả mọi chuyện qua một bên. Một hôm, khi đang chiên cá, vì cứ mải tham công án “Mặc kệ nó” nên bà không để ý con cá trên chảo đã cháy đen, ông chồng la lên, bà nói: “Mặc kệ nó” thì ngay đó bà ngộ đạo.

    Chúng ta nhiều chuyện quá nên phiền não luôn tăng trưởng, nếu chẳng trừ sạch phiền não thì tánh định khó hiện. Chúng tôi thấy ở trong chúng, người nào càng nhiều chuyện chừng nào thì càng khó tu chừng đó. Chuyện gì của ai mình cũng xía vô, còn chuyện của mình thì mình lại không biết. Cho nên phiền não khó trừ là do mình. Người Trung Quốc có câu: “Tuyết rơi trước cửa chưa từng quét, lại lo sương phủ mái nhà người”, ý là nhà mình tuyết đổ dày xuống mà không chịu quét, không chịu dọn, lại cứ lo nhìn vài ba giọt sương đọng ở mái nhà người khác. Cho nên người biết tu rồi thấy rất nhẹ. Ở trong chúng, ai nói gì thì nói,  mình cứ mặc kệ, việc mình làm thì mình cứ làm.

    Thấy người nữ mà sanh tâm là dâm tâm phiền não”, tức là thấy người khác phái mà khởi niệm dâm thì đó là dâm tâm phiền não. “Thấy sự giết hại mà sanh tâm là ác tâm phiền não”, chẳng hạn như thấy con vật hay người nào bị giết, bị hại mà mình khởi tâm vui thích thì đó là ác tâm phiền não. “Thấy tài lợi mà sanh tâm là tâm trộm phiền não”, chẳng hạn mình đến nhà người ta hay đến ngân hàng thấy người ta đếm tiền nhiều, lúc đó chỉ cần khởi niệm thôi thì đó là tâm trộm phiền não. “Thấy vật mà sanh tâm là tham tâm phiền não”, chẳng hạn thấy người ta có ngôi nhà đẹp, có chiếc xe xịn, mình cũng khởi tâm thèm muốn, về nhà ngủ không được, đó là dính mắc, là tâm trộm phiền não.  “Thấy người khổ mà sanh tâm khinh thường là ngã tướng phiền não”, tức là thấy người ta nghèo, khổ mình xem thường, khinh khi  mà không biết rằng khinh người thì tức là mình đang dấy niệm ác, âm đức mình bị tổn. Đó là ngã tướng phiền não. “Thấy kẻ thấp hơn mình sanh tâm kiêu ngạo là tự đại phiền não. Thấy nghịch cảnh sanh sân hận là khuể tâm phiền não. Thấy thuận cảnh sanh vui là tùy hỷ phiền não”, vui cũng là một dạng phiền não, bởi vì trong cái vui nó có mầm mống của sự đau khổ. “Thấy kẻ oán sanh tâm ghét là hận tâm phiền não”. Thấy kẻ oán là gì? Chẳng hạn mình có người chị, người em được mình giúp đỡ hết lòng mà họ trở ngược lại phản mình, nói xấu mình, nếu mình oán, mình thù thì đó là nuôi hận tâm phiền não. Mình phải thấy người đó cũng là một chúng sanh. Anh em, vợ chồng, con cái mình đều là chúng sanh. Mình cứ phát nguyện: “Phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật” thì tức khắc hết phiền não. Có nhiều Phật tử nói: “Con đã giúp cho anh con, chị con hết lòng, không có gì là không giúp mà họ trở lại nói xấu con”. Tôi nói đó là cái phước của mình, như vậy thì nghiệp mình càng bớt, bởi vì trong vô lượng kiếp mình thiếu nợ mình đâu có biết, nếu sanh tâm oán ghét thì khi chết sẽ không được giải thoát.

              4/ MA SỞ TRI

    Ma sở tri gọi là lý chướng. Lý chướng nếu chẳng trừ thì hay làm loạn chánh định. Sở tri là thế nào mà lỗi lớn như thế?

    Chính vì biết ta được ngộ, biết ta thông thiền, biết ta rõ giáo, biết ta hội lý, biết ta học nhiều, biết ta hiểu nhiều, biết ta trì giới nghiêm túc, biết ta được định, biết ta phát huệ, biết ta chứng không, biết ta tự tại.

    Chúng ta bị dính vào chỗ lý chướng thì trong lúc ngồi thiền sẽ bị loạn chánh định. Chúng ta tu mà nói bản thân mình được ngộ đạo, hay là đã thông suốt về thiền, về giáo thì đây là bị lý chướng. Vì sao? Vì trong lúc mình chấp vào chỗ mình thông suốt về thiền hoặc về giáo, hoặc hội về lý thì trong đó đã ẩn chứa những hạt giống phiền não còn ẩn nấp trong tàng thức. Chính đó là lúc chúng ta chấp ngã, thấy mình hơn thiên hạ, cái gì mình cũng biết, thấy mình trì giới được nghiêm túc, còn những người khác thì không trì giới. Chẳng hạn như mình sống trong đại chúng, mình thấy cái gì mình cũng nghiêm túc hết, mình học được, tu được, ngồi thiền được, hoặc là mình có mặt đầy đủ trong các giờ học, hoặc là mình trì giới, khi đó mình thấy cái gì mình cũng hơn mọi người, lúc đó là chấp ngã đang tăng trưởng. Khi chấp ngã tăng trưởng thì lý chướng có mặt, mà lý chướng có mặt thì loạn chánh định.

    Vào thời kỳ Đức Phật, hoặc vào thời chư Tổ, các Ngài cũng thường thị hiện ra những người học nhiều, biết nhiều thường tu chậm hơn những người học ít, vì học nhiều, hiểu nhiều thì hay bị chấp ngã, thấy mình hơn người khác. Chẳng hạn như Lục Tổ Huệ Nănng vào thời nhà Đường thị hiện là một người không biết chữ. Ở đây ý không phải là phế bỏ sự học, mà khi hiểu qua tinh thần này rồi, chúng ta vẫn học, vẫn tu, vẫn trì giới, vẫn ngồi thiền, nhưng mọi cái chúng ta buông xả hết. Chúng ta học cũng phải buông xả, tu cũng phải buông xả, giữ giới nghiêm túc cũng phải buông xả luôn, chứ đừng thấy mình giữ giới được thanh tịnh, còn người khác thì phạm giới, phá giới, nếu thấy như thế thì có sự chấp ngã, mà chấp ngã thì ma sở tri thâm nhập vào tâm thức của mình.

    Có một câu chuyện: Một người tuy là cư sĩ nhưng thông hiểu về giáo và tất cả các pháp môn. Từ cái hiểu đó nên ông rất coi thường các vị tăng sĩ tu hành không nghiêm túc hay không hiểu nhiều bằng ông. Một hôm, ông đang ngồi trên gác và lần xâu chuỗi, khi mở mắt ra thì thấy hai hàng chư vị Bồ Tát thỉnh ông lên pháp tòa giảng pháp. Sau khi thấy như vậy, ông rất hoan hỷ và nghĩ rằng mình tu đã thành công nên mới bước xuống giường thiền để đi đến pháp tòa. Trong khi đang đi, chuẩn bị lên pháp tòa thì ông bị rớt xuống cầu thang và từ đó nằm liệt giường. Qua sự kiện này, chúng ta thấy dù học nhiều, biết nhiều nhưng nếu không biết tu, không biết cách chuyển hóa, buông bỏ chấp ngã thì cũng là một cái bệnh lớn. Bệnh này vào thời đại ngày nay rất nhiều người bị vấp phải. Chính chỗ vấp này Lục Tổ gọi là “còn ngô ngã”, “ngô ngã” là thấy mình thấy người, đây chính là sự chướng mà chúng ta chưa phá dẹp được. Đó còn gọi là “biết ta chứng không, biết ta tự tại, biết ta vô ngại, biết ta học nhiều, biết ta hiểu nhiều”. Cần phải nhớ rằng chúng ta học hiểu để lấy đó làm hành trang tiến tu trên con đường giác ngộ giải thoát chứ không phải học hiểu rồi chấp vào chỗ học hiểu đó. Đó là bệnh chứ không phải là cái mà mình đạt được.

    Một câu chuyện khác trong Thiền thoại. Có một vị bác học đang trên đường về quê bằng đường biển. Sau khi ổn định trên thuyền, ông đến làm quen vị thuyền trưởng và hỏi thăm:

    -         Anh là thủy thủ lái thuyền, vậy anh đã học thiên văn học chưa?

    -         Tôi chưa học.

    -         Anh lái thuyền mà chưa học thiên văn học thì coi như mất một phần ba đời người.

    Đi tiếp một đoạn đường, ông lại hỏi vị thuyền trưởng:

    -         Anh lái thuyền vậy đã học chiêm tinh học (nhìn sao đoán hướng) chưa?

    -         Tôi chưa học.

    -         Vậy là anh lại mất thêm một phần ba đời người nữa.

    Thêm một đoạn đường, ông lại hỏi:

    -         Thế anh đã từng học hải dương học chưa?

    -          Tôi chưa học.

    -         Vậy là anh chết nửa đời người rồi.

    Bỗng nhiên lúc đó sóng to gió lớn nổi lên, vị thuyền trưởng hỏi ông bác học:

    -         Xưa nay ông đã học môn bơi lội học chưa?

    -         Bơi lội học là gì? Tôi chưa học.

    Lúc này vị thuyền trưởng nói:

    -         Như vậy là ông chết cả một đời người rồi.

    Tại sao lại chết cả đời người? Bão lớn thì thuyền dễ chìm, lúc này mạnh ai nấy bơi, nếu không biết bơi thì chết chìm dưới biển. Dù có học nhiều môn như chiêm tinh học, thiên văn học, hải dương học… cũng không dùng được lúc này. Qua chuyện này, chúng ta thấy dù học nhiều, hiểu nhiều mà không hóa giải sự chấp vào cái học hiểu này thì chắc chắn sẽ bị ma sở tri hay gọi là lý chướng. Nếu thấy cái gì mình cũng giỏi hết thì phải coi chừng, nếu không cẩn thận đến một ngày nào đó chúng ta sẽ rớt.

    Biết ta được thần thông, biết ta được lẽ mầu, biết ta được chứng đạo, biết ta được thành Phật, muôn ngàn điều biết thì gọi đó là lý chướng. Lý chướng nếu chẳng trừ thì pháp chấp chẳng quên, pháp chấp chẳng quên thì chơn tâm chẳng hiện. Người tu thiền định nhất định phải dứt trừ lý chướng”.

    Trên tinh thần tu tập, chúng ta phải biết cách chuyển hóa. Tất cả những gì học hiểu trong lúc thiền tập, giữ giới…, chúng ta đều buông xả hết, không dính không mắc thì chơn tâm hiện tiền. Điều này cũng đơn giản chứ không phải quá khó, nghĩa là chúng ta làm tất cả các việc thiện pháp, tu tất cả việc thiện pháp nhưng chỉ có một chữ biết. Đó là gì? Buông hết tất cả các pháp. Dù cho tu bất cứ pháp môn nào, chúng ta cũng phải buông hết tất cả các pháp thì chơn tâm mới hiện tiền.

    5/ MA TÀ KIẾN

    Ma tà kiến là chấp chướng. Chấp chướng chẳng trừ, ắt rơi vào định tà. Tà kiến như thế nào mà loạn chánh định như vậy?

    Chấp tánh chẳng hoại, gọi sự chấp ấy là hữu kiến (tức là thấy có), chấp tánh vốn không (rỗng), gọi sự chấp ấy là vô kiến (chấp không). Chấp vốn không chết, gọi sự chấp ấy là thường kiến. Chấp theo khí mà diệt, gọi sự chấp ấy là đoạn kiến. Chấp từ không sanh ra có là tự nhiên kiến. Chấp từ khí (hơi) hóa ra hình là tà nhân kiến. Tất cả những tà chấp, tà kiến, nhân duyên, tự nhiên… đều chẳng lìa không, hữu, đoạn, thường, hai đầu, tự chướng bổn lý đến rơi vào đường tẻ. Người tham thiền phải biết mà ngộ ra chỗ này.

    Chấp tánh chẳng hoại, gọi sự chấp ấy là hữu kiến (chấp có)”. Chỉ cần mình có sự chấp trong bản tánh mình là bất sanh bất diệt là rớt vào chấp có. Cho nên vào thời Đức Phật có chín mươi sáu ngoại đạo, sáu mươi hai kiến chấp đều không ra ngoài chấp có và chấp không. Ngược lại, tinh thần của nhà Phật là liễu chỗ có và không. Người tu Thiền cần phải nghiên cứu kỹ tinh thần Kinh Pháp Bảo Đàn của Lục Tổ Huệ Năng. Có một vị Tăng đến hỏi hỏi Lục Tổ: “Phật tánh là thường hay vô thường?” thì Lục Tổ khẳng định là “Vô thường”, vì ông chấp tánh thường nên Lục Tổ phá. Cái gì mà chúng sanh chấp thì chư Phật, chư Tổ đều phá hết, không cho mình dính mắc. Hễ chúng ta chấp thì nó có một thứ bệnh trong đó, cho nên phải liễu chỗ có và không. Vì thế, đây gọi là Trung Đạo đế, đệ nhất nghĩa đế mà Bồ Tát Long Thọ xiển dương.

    “Chấp vốn không chết, gọi sự chấp ấy là thường kiến (chấp không)”. Theo tinh thần Bà la môn giáo trong kinh Vệ Đà, nếu có ai nghiên cứu qua thì có thể thấy rất giống với tinh thần Thiền đốn giáo, cũng nói về thường tại tự tại hoặc chơn tâm tự tại giống như bên Thiền, nhưng họ lại chấp vào chỗ thường tại, chỗ bất sanh bất diệt, trong cái chấp này có cái tự ngã, từ cái tiểu ngã của họ, sau khi chết sẽ cộng trú vào cái đại ngã của thượng đế, mà vị thượng đế này là thường tại, bất sanh bất diệt. Ngược lại, Đức Phật dạy rằng chỗ bất sanh bất diệt là thể nhận được chơn tâm, tức là vẫn có một cái liễu tri thường biết, điều này khác hoàn toàn tư tưởng của Bà la môn ngoại đạo.

    “Tất cả những tà chấp, tà kiến, nhơn duyên, tự nhiên… đều chẳng lìa không, hữu, đoạn, thường, hai đầu, tự chướng bổn lý đến rơi vào đường tẻ. Người tham thiền phải biết mà ngộ ra lẽ này”. Tức là có chấp gì đều là dính mắc. Chúng ta lúc chấp có, lúc chấp không, tất cả đều rơi vào trong pháp nhị nguyên phân biệt, đây chưa phải là chỗ tự tại, bất sanh bất diệt mà Đức Phật muốn chỉ. Nếu chấp vào chỗ bất sanh bất diệt là thường tại thì ngay đó vẫn là bệnh, chưa rốt ráo. Chỗ bất sanh bất diệt của nhà Phật là rõ biết tất cả các pháp mà chơn tâm bất động. Vì vậy trong tinh thần nhà Thiền, đến giai đoạn này là buông hết tất cả nhưng vẫn rõ ràng thường biết. Cho nên khi Tổ Huệ Khả trình Tổ Bồ Đề Đạt Ma: “Hôm nay con bặt hết các duyên”. Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói: “Coi chừng rơi vào Không”, tức là đoạn hết các duyên là chấp Không. Nhưng Tổ Huệ Khả khẳng định lại: “Rõ ràng thường biết, nói không thể đến”. Chỗ này này đòi phải có công phu, có chứng nghiệm thì mới rõ được.

              6/ MA VỌNG TƯỞNG:

    Ma vọng tưởng gọi là tự chướng. Tự chướng chẳng không thì sanh diệt chẳng dừng, điên đảo tán loạn, che chướng bản tâm. Người tham thiền cần phải làm cho rỗng không cái chướng này. Nay nêu ra một hai điều để làm sáng tỏ cái vọng chướng như: vọng tưởng ngộ đạo, vọng tưởng tu chứng, vọng tưởng đắc định, vọng tưởng phát huệ, vọng tưởng nhiều hiểu biết, vọng tưởng hay làm văn, vọng tưởng về danh đạt, vọng tưởng thần thông, vọng tưởng thành Phật….. Các vọng chẳng không, động niệm làm trái với lẽ chơn. Người mới học đạo phải dứt vọng làm gốc.

    Tất cả những vọng tưởng này đều là bệnh hết, đó gọi là ma vọng tưởng. Thường có nhiều người ngồi thiền nhưng không ở trong chỗ lặng mà thường biết, mà lại hay vọng tưởng về quá khứ, về tương lai sau này mình đi đâu, làm gì, mong cầu chứng đạo, phát huệ, đắc định… đây đều là vọng tưởng. Nếu như chúng ta không phá, không dẹp thì có một lúc nào đó ma vọng tưởng thâm nhập, vì vậy có những người suốt ngày chỉ biết nói lảm nhảm mà không rõ nơi chính mình. Đây còn gọi là vọng chướng. Nếu chúng ta không học qua thì chúng ta sẽ rất dễ bị dính mắc.

    7/ MA KHẨU NGHIỆP:

    Ma khẩu nghiệp gọi là cuồng chướng. Nếu chẳng dè dặt lời nói mà buông ý lắm mồm thì tán tâm loạn niệm, chẳng được định tâm. Khẩu nghiệp do đâu mà lỗi quá nhiều? Bởi ưa bàn huyền nói diệu, giảng kinh nói tông, tự khoe rằng đã được ngộ, chê bai kẻ khác ngu mê. Luận về sở trường sở đoản của người, nói sự phải, sự quấy của người, ngâm thi vịnh phú, mở miệng xướng càn, bình luận chuyện xưa và nay, bàn chuyện đất nước hưng phế, xưa là người hiền, kẻ ngu, nay là kẻ ác người thiện, chẳng quan hệ đến việc ta mà gân cổ lên tranh luận chuyện được mất của thiên hạ. Vô cớ khen chê, nói những cảnh dục khiến người sanh yêu, nói những chuyện bất bình khiến người sanh giận. Chê sau lưng, khen trước mặt, tất cả những lời nói lợi hại khiến người quên mất chánh niệm. Người tham thiền cần yếu phải gắng giữ gìn, chẳng những ít lời nuôi đức mà lại khiến tâm chẳng loạn. Kẻ sơ cơ tu hành cần phải cẩn thận và kiêng giữ việc này.

    “Ma khẩu nghiệp gọi là cuồng chướng. Nếu chẳng dè dặt lời nói mà buông ý lắm mồm thì tán tâm loạn niệm, chẳng được định tâm”. Tất cả những bệnh này đều là bệnh của chúng sanh, kể cả những người xuất gia và những người tại gia. Chẳng hạn như trong lúc cùng đại chúng tụng kinh hay thọ trai, thân, miệng, ý  chúng ta đều trang nghiêm, nhưng chỉ cần kết thúc khóa lễ hay kết thúc thọ trai là tiếng râm ran ở đâu nổi lên. Đây là ma khẩu nghiệp, rất hay làm chướng bản tâm mình, đặc biệt là đối với người tu hành. Chúng ta ngồi một mình thì không có gì hết, thường ít tạo nghiệp, nhưng chỉ cần một, hai người thôi thì ban đầu còn nói về Phật pháp, sau đó thì câu chuyện sẽ không biết đi đến đâu. Tất cả những câu chuyện không hiểu từ đâu mình nhớ ra, gặp người này, gặp người kia, miệng mình bắt đầu nói, không nói chịu không được, đây chính là ma khẩu nghiệp là cuồng chướng làm chướng bổn tâm. Vì vậy mới nói: “Nếu chẳng dè dặt lời nói mà buông ý lắm mồm thì tán tâm loạn niệm, chẳng được định tâm”.

    Quý Phật tử trong cuộc sống giữa đời thường còn chồng, còn con, còn gia đình nên bắt buộc phải nói, bắt buộc phải làm. Còn khi đã vào thiền viện rồi, muốn tu tập tiến bộ thì nói ít chừng nào tốt chừng ấy, mình chỉ lo hoàn thành bổn phận của mình thôi, những chuyện còn lại không liên quan đến mình thì không có dính vào, vì đã có Thầy Trụ trì hay các vị có trách nhiệm nói rồi. Chư Tăng, chư Ni ở trong chúng nếu chỉ biết lo tu thì sẽ tu rất tiến. Ngày xưa khi ở trong chúng, tôi có dùng phương pháp “Mặc kệ nó”, tức là được giao việc gì thì làm việc đó, ngoài ra ai làm gì, nói gì mặc kệ. Không phải mình phế mặc mọi thứ mà là mình chưa có trách nhiệm phải quản nên tốt nhất là không nên nói nhiều, giữ gìn khẩu nghiệp, chỉ có một đường duy nhất là tu. Như thế bảo đảm từ ba đến mười năm là có sự tiến bộ. Sự tu hành khi đã có căn bản rồi thì sau này, đủ nhân đủ duyên quý vị đi đâu, ở bất kỳ chỗ nào cũng dễ dàng thích nghi mà vẫn tu được. Còn nếu như đụng việc gì cũng chịu không được, việc gì mình cũng nói thì lúc đó gọi là loạn tâm, mà loạn tâm thì chẳng được định tâm, khi chết sẽ mù mịt, rất dễ đi bậy.

    Khẩu nghiệp do đâu mà lỗi quá nhiều? Bởi ưa bàn huyền nói diệu, giảng kinh nói tông, tự khoe rằng đã được ngộ, chê bai kẻ khác ngu mê”. Chỗ này, người xuất gia mắc bệnh nhiều hơn cư sĩ. Vì sao? Vì không thấy được chính mình cho nên bàn huyền nói diệu, tự khoe mình đã được ngộ rồi, còn những người khác thì ngu, mê, dốt… Khi miệng bắt đầu hoạt động thì chính lúc đó chúng ta đang gieo khẩu nghiệp, mà khẩu nghiệp không trừ thì cuồng chướng tăng trưởng, lúc này sẽ thấy “hạ mục vô nhơn”, có nghĩa là dưới con mắt mình không có người nào hết, coi trời bằng hạt tiêu, lúc đó là bệnh đã nặng rồi.

    Luận về sở trường sở đoản của người, nói sự phải, sự quấy của người”, chẳng hạn như nói ông này có những cái dở thế này thế kia, gặp mình thì sẽ khác…, nhưng đó không phải là chuyện của mình. Mình không biết người đó có những công hạnh gì mà tự nhiên nói vậy thì tổn phước và mang họa và thân.

    Ngâm thi vịnh phú, mở miệng xướng càn, bình luận chuyện xưa nay, bàn chuyện đất nước hưng phế, xưa là người hiền kẻ ngu, nay là kẻ ác người thiện, chẳng quan hệ đến việc của ta mà gân cổ lên tranh luận chuyện được mất của thiên hạ”. Vào thời Đức Phật, nhóm Lục quần Tỳ kheo là những người chuyên bàn luận về các vấn đề của đất nước, chính trị, tất cả mọi thứ. Đức Phật mới quở và chỉ dạy họ những điều đó không hề liên hệ tới đường tu, các ông chỉ có con đường tu tập để chuyển hóa. Người tu ngày nay cũng thường hay mắc phải những lỗi này, cho nên nếu người thực tâm tu thiền phải suy xét cho kỹ để khỏi uổng việc tu hành của mình.

    Vô cớ khen chê, nói những cảnh dục khiến người sanh yêu, nói những chuyện bất bình khiến người sanh giận. Chê sau lưng, khen trước mặt, tất cả những lời nói lợi hại khiến người quên mất chánh niệm. Người tham thiền cần yếu phải gắng giữ gìn, chẳng những ít lời nuôi đức mà lại khiến tâm chẳng loạn. Kẻ sơ cơ tu hành cần phải cẩn thận và kiêng giữ việc này”.  

    Có nhiều người khi người khác làm những thiện pháp thì trước mặt họ luôn khen ngợi, nhưng sau lưng thì dèm pha người đó loạn tâm, làm vì danh vì lợi... Việc khen trước mặt mà chê sau lưng là bệnh thường thấy của chúng sanh.

    Quý vị để ý vì sao chúng ta nhập thất tu lại tiến hơn ở ngoài? Vì ở trong đó mình chỉ có một cửa là ý căn thôi, còn năm căn kia mình đóng bít hết, mà nội chỉ cần đóng căn lưỡi, tức là giữ được khẩu nghiệp thôi thì coi như mình đã chiến thắng được một nửa rồi, cho nên tu nhanh tiến. Mình để ý nếu hôm nào cả ngày mình nói chuyện suốt thì buổi tối ngồi thiền không thể yên được vì tâm mình nó loạn động. Thân trạo cử, miệng trạo cử thì ý cũng sẽ trạo cử. Hơn nữa, khi mình kiệm lời cũng là lúc mình nuôi lớn cái đức của mình, người nào càng ít nói chừng nào thì càng tu tiến chừng đó. Cho nên các Tổ nói: “Các ông nên để miệng của mình lên meo, lên mốc như cây quạt mùa đông”  hay “Các ông hãy bịt kín cái lỗ ấy lại đi, đừng để nó xì ra”. Người xưa tu hành luôn bít kín miệng, giữ gìn khẩu nghiệp cho nên tiến rất nhanh, còn mình bây giờ không những không bít mà còn muốn làm cho cái miệng rộng ra để nói cho lớn, cho nhiều. Qúy Phật tử thấy, chỉ cần hai người với nhau, một người nói nhiều và một người nói ít thì người ít nói luôn có sức mạnh hơn. Người hay nói huyên thuyên thì thường không sâu sắc, chỉ cần nói hai ba lời là người ta biết hết công phu tu tập như thế nào, đang ở đâu, còn những người thường giữ miệng, “im lặng như sấm sét” thì tâm ý rất sâu kín, khó đoán. Cho nên ở đây “nói ít lời để nuôi đức, khiến tâm chẳng đoạn”.

    8/ MA BỆNH KHỔ

    Ma bệnh khổ gọi là khổ chướng. Thân nhiều bệnh tật đều do nghiệp đời trước, hoặc do mất sự điều hòa mà biến sanh trăm thứ bệnh, làm cho người học đạo có sự chướng ngại, chẳng được thọ dụng pháp lạc. Nay xin nêu lên mấy điều thiết yếu để tự đề phòng: Điều hòa tỳ vị, tiết chế và chọn thức ăn uống, ít đắm mùi vị nồng cay, lại phải cữ vật sống và lạnh. Khi đói chớ đọc tụng, lúc no chớ gánh vác nặng. Sau khi ăn chớ ngủ, tối cữ ăn no.

    Người thích ăn đồ thối nát, ưa ăn đồ chiên xào, thích ăn ngũ vị, dùng nhiều vật quấy. Lại tọa thiền nơi đất ẩm, ngủ nơi chỗ gió, đang ra mồ hôi mà vào nước tắm, đang chỗ nắng mà ưa dùng đồ lạnh mát, đang lúc gió mà tắm rửa, nằm nghỉ ngoài trời dưới chỗ nhiều sương. Cùng các trường hợp no quá, đói quá, vui quá, giận quá, nóng quá, lạnh quá, chỗ mưa lớn sương nhiều, bệnh nội thương ngoại cảm, tất cả đều do lỗi không biết điều hòa nên sanh những thứ bệnh hoạn, làm cho thân chẳng được yên. Kẻ hậu học phải biết mà phòng bị.

    Ở đây Ngài nói chúng ta tu tập mà bệnh thì sẽ tu không được. Thường khi thân bị bệnh thì chúng ta hay đổ lỗi cho nghiệp đời trước là do sát sanh, hại vật nhiều nên đời này bệnh. Điều đó đúng nhưng chưa đầy đủ, chưa hoàn toàn chính xác, vì nếu trong đời hiện tại này, nếu chúng ta không khéo, không biết cách điều hòa tỳ vị thì cũng dễ sanh ra những chướng nạn. Ngài có nêu lên một số ví dụ như ăn mùi vị quá nồng, đồ sống, đồ lạnh, hay khi đói đọc tụng, lúc no làm việc nặng… Ngoài ra, thích ăn những đồ thối nát (như chao), thích ăn những đồ có mùi thum thủm sẽ gây ra bệnh về gan..., rồi ăn đồ chiên xào nhiều thì khi ngồi thiền sẽ cảm thấy bứt rứt, khó chịu. Những thứ ngũ vị như hành, hẹ, tỏi, nén, trong Kinh Lăng Nghiêm Đức Phật nói, nếu ăn sống thì sanh sân mà ăn chín thì sanh dâm, đều khiến cho mình bị kích động, không có được chánh định. Tọa thiền nơi đất ẩm, ngủ nơi chỗ gió, đang ra mồ hôi mà tắm, đang lúc gió mà tắm rửa, đói quá no quá, vui quá giận quá, lạnh quá nóng quá, mưa lớn sương nhiều, bệnh nội thương ngoại cảm…, tất cả đều do mất sự điều hòa nên sanh những thứ bệnh hoạn, làm cho thân chẳng được yên. Cho nên kẻ hậu học chúng ta cần phải biết mà dự phòng và tránh bệnh tật để việc tu tập không bị chướng ngại. 

    9/ MA HÔN TRẦM:

    Ma hôn trầm gọi là thùy chướng (chướng về ngủ nghỉ). Thùy chướng chẳng luyện trừ, hôn trầm quá nặng, chơn tâm chẳng sáng, huệ tánh chẳng phát khởi, rơi vào chỗ mờ tối của núi đen và hang quỷ. Nguyên nhân của bệnh hôn trầm kia như thế nào?

    Ở đây chư Tổ muốn dạy chúng ta, tu thiền mà không vượt qua được sự hôn trầm, để mặc kệ sao cũng được thì đó là một cái bệnh lớn, có nhiều người vừa mới nghe hô thiền là đã ngồi tại chỗ “lễ Phật” rồi. Bệnh hôn trầm chúng ta phải biết cách đối trị. Lúc trước chúng tôi cũng bị hôn trầm như quý Phật tử vậy, sau này phát hiện ra do làm việc nhiều quá rồi lại ăn buổi chiều, mà ăn chiều thì thiền bị lủng, chìm. Quý vị cứ thử buổi chiều ăn thật no thì buổi tối ngồi thiền chỉ được một lúc là chìm nghỉm, ngủ gục luôn. Bởi vậy nếu không ăn chiều thì buổi tối có thể ngồi thiền thoải mái, tỉnh táo. Thời gian đầu thì hơi khó chịu vì bị cơn đói quấy rầy nhưng lâu ngày sẽ quen dần. Chúng tôi nhiều khi đi làm Phật sự bận rộn, nếu quá giờ thọ trai thì cũng không ăn, nhưng mà không thấy đuối, thấy mệt, chỉ cần buổi tối và buổi sáng chịu khó ngồi thiền khoảng từ một đến hai tiếng mà không ngủ là lấy lại được đầy đủ sức khỏe. Thực ra, thức ăn chúng ta ăn uống chỉ là bậc hạ thôi, còn bậc thượng thì có thể dùng khí để nuôi dưỡng cái thân này. Khoan bàn đến việc ngồi thiền giúp giác ngộ giải thoát mà trước tiên, chỉ cần ngồi thiền đúng cách, hít vào sâu thở ra nhẹ nhàng, đều đặn thì cũng như Yoga dùng khí tốt để nuôi dưỡng cơ thể, nên ăn ít mà vẫn khỏe, ít bệnh tật. Còn nếu chúng ta ăn nhiều vào buổi chiều, nhất là đồ chiên xào nướng thì không khéo đó là nguyên nhân dẫn đến hôn trầm, buổi tối ngồi thiền sẽ rất buồn ngủ.

    “Sự hôn chướng này phần lớn là do ăn nhiều, tham nhiều vị ngon, nói nhiều làm tán khí, hình lao tỳ yếu, tinh thần chẳng trong lặng, độc khí hỗn loạn, ngu si nhiều giận tức, lười biếng buông lung, chẳng nghĩ nhớ việc sanh tử, chỉ tham an ổn. Kẻ hậu học khi dụng công nên phát tinh tấn: Mang dùi chích thịt, cho đầu chạm vào cây cột, lễ Phật đốt đèn, đứng nơi nguy hiểm, đi kinh hành, khổ thân mài luyện thì ma ngủ mới nhẹ”.

    Chúng ta để ý, giận quá cũng là nguyên nhân của hôn trầm. “Mang dùi chích thịt” là chỉ Ngài Từ Minh, Ngài bị hôn trầm rất nặng nên mỗi khi ngủ gục, Ngài dùng cái dùi sắt chích vào thịt để tỉnh ngủ. Cho đầu chạm vào cây cột, tức là có vị để cái cột gỗ ở trước mặt, mỗi khi ngủ gục thì đầu đập vào cây gỗ mà tỉnh táo trở lại. Ngồi thiền một hai tiếng mà ngủ chừng bốn, năm chục phút thì coi như mình thua cuộc, rớt vào ma ngủ, định tuệ không phát sinh được.

    “Nếu chẳng như vậy mà mặc tình ngủ nghỉ thì chơn tâm chẳng sáng. Người tham thiền nên dũng mãnh để hàng phục ma ngủ”.

    10/ ĐẠI THIÊN MA:

    Đại Thiên ma chẳng đồng với các chướng trên. Bởi do tu hành đúng đắn, sắp chứng đạo quả, tâm tinh đã thông suốt, lặng yên chẳng động nên làm kinh động đến thiên ma và quỷ thần đều kinh sợ, cung điện của chúng sụp đổ, cõi đất rung động. Ma chúa kinh hãi, các loài yêu quái ở cây, ở đá cũng hoảng sợ.

    Khi một người mới phát tâm xuất gia thì cung điện ma vương chấn động. Ở đây chúng ta phải hiểu một lý sâu hơn. Đó là khi chưa xuất gia, chúng ta sống trong gia đình có cha mẹ, vợ con, nhà cửa, vật chất đầy đủ, dù gì đi nữa chúng ta vẫn có sự hưởng thụ và tự do trong hạnh phúc đời thường. Bây giờ chúng ta muốn gạt hết qua một bên để dấn thân vào con đường tu tập thì đó không phải là một con đường tưởng tượng mà có ranh giới rõ ràng. Bình thường người ta hay nói rằng: “Đời và đạo không khác nhau”, đó là nói về lý trung đạo, tức là trung đạo đế, đệ nhất nghĩa đế dung nhiếp, nhưng với hành giả sơ cơ bước chân vào con đường đạo thì giữa đạo và đời khác xa hoàn toàn. Chẳng hạn như ở ngoài đời chúng ta có thể 8 giờ thức dậy nhưng ở trong đạo thì bắt buộc 3 giờ phải dậy. Trước chúng ta buồn khổ có thể đi vào quán karaoke, vũ trường, quán nhậu để giải khuây nhưng xuất gia rồi thì phải rạch ròi chứ không thể giống như cuộc sống bên ngoài được. Lúc này trong nội tâm, cái thiện và cái ác đấu tranh rất dữ dội. Như ngày xưa khi mới phát tâm xuất gia, tôi cũng phải nuôi dưỡng tâm quyết chí xuất gia của mình trong ba năm trường, trong giai đoạn đó tư tưởng có rất nhiều sự đan xen, tranh đấu. Cuối cùng thì cái thiện thắng và tôi vào chùa xuất gia, tức là bên nào thắng thì mình sẽ đi theo con đường đó.

    Cõi đất rung động, ma chúa kinh hoàng, các loài yêu quái ở cây, ở đá cũng hoảng sợ. Tất cả loài ma mị đều có ngũ thông đồng đến não loạn, chẳng cho người vào Thánh vị. Chúng biến ra những điều quái lạ, hóa ra những cảnh dục để làm loạn thiền định của người tu”.

    Vấn đề này những người tu ở rừng núi hay trong thất rất hay gặp phải. Trong suốt bốn mươi ngày đêm thiền định, ma vương hiện ra liên tục nhưng không làm gì được Đức Phật. Cuối cùng, ba ma nữ là con gái của ma vương hiện ra ba mỹ nữ tuyệt sắc ở cõi trời Tha Hóa Tự Tại, sắc đẹp không ai sánh bằng. Theo kinh điển Đại thừa phân tích thì ma vương hiện ra những cảnh này là muốn phá người tu hành, khiến họ bị vướng vào cảnh dục. Những người xuất gia đã từng có gia đình, vợ con thì khi tu trong thất sẽ thấy hiện ra cảnh gia đình. Như trong kinh có một vị Tỳ kheo phạm giới với một con ngựa cái chết vì trong mắt ông, đó là một thiên nữ chứ không phải là con ngựa chết. Trong giai đoạn hành giả chuẩn bị bước vào con đường Thánh vị thì cái dục đầu tiên hiện ra là vợ mình hoặc là người ngày xưa mình đã từng thương. Với những người xuất gia từ nhỏ thì thấy hiện ra những người con gái đẹp. Đây là những hạt giống phiền não xấu ác tiềm ẩn trong tàng thức mà bây giờ tuệ mình sáng lên thì những hạt giống này càng hiện lên rõ ràng. Có những vị tu trên núi rất miên mật, nhưng đến giai đoạn tâm yên ổn, tuệ giác phát huy thì những cảnh dục lại hiện ra và họ phạm giới, có trường hợp phạm giới rất kỳ cục mà mình không thể hiểu được. Bởi vậy, muốn nhập thất thì xung quanh phải có đại chúng bao bọc, hoặc là phải kiến tánh rồi thì mới có lực để chống đỡ, nếu không, khi những cảnh dục hiện ra mình chống đỡ không được. Con đường tu này giống như con dao hai lưỡi, nếu mình thắng thì phát sinh đại trí huệ, còn nếu mình không làm chủ được mà phạm vào thì tức khắc rớt trong lưới ma. Bởi vậy người tu cần phải rất cẩn thận và phải biết những điều này để có phương pháp tu tập và sám hối cho phù hợp.

    “....hiện ra rất nhiều quái lạ, hóa ra những cảnh dục để làm loạn tâm thiền định của người tu. Người tu nếu tâm sanh ra thủ hay xả, ma liền được tiện lợi, mà người tu thì thọ hại.” Tức là khi hiện những cảnh này, mình thích hay giận dữ thì đều bị dính mắc. Nhưng lúc này, chỉ cần dùng tuệ Bát Nhã để nhìn thì một lúc, ma này sẽ lặng mất. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy mình giống như lửa, còn ma này như những con thiêu thân, lao đầu vào thì chết.

    Tự phát điên cuồng, cho là đã thành Phật. Còn sống thì bị hãm hại vào nạn vua, lúc chết đọa vào vô gián ngục.” Có những người tự xưng mình thành Phật, thành Tổ, việc đầu tiên là sẽ phạm vào giới dâm, rồi sau đó là đến nạn vua chúa, khi chết sẽ bị đọa vào địa ngục vô gián.

    Kẻ sĩ tham thiền chánh niệm  rõ ràng, trí tuệ chiếu sáng, một lòng chẳng động, mặc tình chúng tác quái, ta chẳng thèm thấy nghe, dùng chánh định hàng phục ma, ma tự nhiên tiêu diệt. Kẻ tu học đời sau phải cẩn thận và tự phân biệt cho rành rõ ma sự này”. Trong Thiền thoại có ghi, Thiền sư Đạo Thọ ngồi thiền trong núi, những cảnh ma quái hiện lên. Tất cả Tăng chúng chạy trốn, còn Ngài thì bình tĩnh ngồi yên, sau đó ma tự lui. Mọi người hỏi tại sao Ngài thắng được thì Ngài nói rằng  Ngài chỉ dùng một chữ “Vô”, tức là chỉ cần không trụ các pháp thì ma tự tiêu. Cho nên tu hành phải khéo, nếu không thì chúng ta sẽ bị ma nhiễu loạn. Có những người đang yên ổn trong chúng tự nhiên lại muốn ra ngoài cất thất tự tu, vừa ra ngoài là có người đến hộ thất ngay, tăng thì hộ thất đa phần là người nữ mà ni thì hộ thất là người nam. Đây là những nghiệp tập túc oan nhiều kiếp nên ma nó lẩn vào người đó. Lúc đó mình nên biết đây là ma nó vào, cần phải cẩn thận.

     

  • 11. Nguyện lớn thứ mười

    NGUYỆN LỚN THỨ 10

    Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo quả Bồ đề, nếu có chúng hữu tình nào mà pháp luật nhà vua gia tội phải bị xiềng xích, đánh đập, hoặc bị giam giữ trong chốn lao tù, hoặc bị chém giết, hoặc bị nhiều tai nạn nhục nhã, thân tâm chịu nhiều nỗi khổ, buồn rầu, bứt rứt. Hễ nghe đến danh hiệu ta thì nhờ sức oai thần phước đức của ta đều được giải thoát tất cả những nổi sầu ưu bi khổ não ấy”.

    Quý Phật tử hãy nghiệm lại trong cuộc sống giữa đời thường, mình luôn cho rằng mình tự tại, an ổn nhưng với cặp mắt giác ngộ của Đức Phật thì thấy chúng ta đang bị gông cùm, xiềng xích trói buộc. Đó là gông cùm gì? Chẳng hạn khi chúng ta khởi lòng tham danh lợi, tiền tài hay khởi sân, si… tức là mình đang bị trói buộc ở trong ngục tù của vô minh. Trong kinh Đức Phật diễn tả, bị vua chúa bắt bớ thì sau một thời gian, cùng lắm là vài chục năm thì được thả, còn bị tiền tài, danh lợi, sắc đẹp, vợ con trói buộc thì không biết ngày nào có thể thoát ra được.

    Trong Kinh Tương Ưng bộ có ghi: Một thời Thế Tôn trú ở Kosala, một số đông các Tỳ kheo vào thành khất thực. Sau khi thọ thực, các Tỳ kheo trở về, đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và thưa rằng:

    -         Bạch Đức Thế Tôn, trên đường đi khất thực, chúng con thấy vua Ba Tư Nặc nước Kosola bắt trói một số người, một số bị trói bằng dây, một số bị trói bằng kềm kẹp.

    Thế Tôn sau khi biết sự việc liền nói lên bài kệ:

              Bậc có trí nói rằng

              Trói vậy không vững chắc

              Trói bằng sắt dây gai

              Kềm kẹp bằng gỗ mộc.

              Đam mê các dục lạc

              Với châu báu trang sức

              Và tâm tư vọng tưởng

              Hướng về con và vợ

              Bậc có trí nói rằng

              Trói vậy thật vững chắc.

    Dẫu bị trói bằng xiềng xích thì đến một lúc nào đó cũng thoát ra được. Còn nếu bị trói bằng nhà lầu, xe hơi, vợ đẹp, con xinh, vàng bạc châu báu thì muôn đời muôn kiếp không xuất ly được. Cho nên trong tinh thần nhà Phật, dù khổ hay vui, dù giàu hay nghèo thì tất cả mọi người chúng ta đều bị trói buộc trong ngục tù thế gian, trong khổ đau, vọng tưởng. Trong vô lượng kiếp, Đức Phật giống như các chúng sanh cũng bị trói buộc bởi những vật chất thế gian… Vì vậy khi thành tựu đạo quả, Ngài mới nói rằng bây giờ Ngài đã thực sự ra khỏi ngục tù. Vậy thì trong giờ phút thực tại này, chúng ta nghiệm lại xem có phải mình bị trói buộc không? Bị vô minh, tham, sân, si trói buộc, người nghèo bị trói bằng dây sắt, người giàu bị trói bằng dây vàng, mà thường bị trói bằng dây vàng thì con người lại chịu và không muốn thoát ra. .

    Trong Kinh Tương Ưng Bộ, tập 2 có ghi một câu chuyện. Một thời Thế Tôn ở Savathi, dạy các Tỳ kheo:

    -         Khổ lụy, trói buộc, này các Tỳ kheo, là lợi đắc, là danh vọng và sự cung kính. Các ông nghe chăng lúc trời gần sáng có một con dã can tru lớn tiếng?

    -         Thưa có, bạch Thế Tôn.

    -         Này các Tỳ kheo, đó là tiếng con dã can già, mắc bệnh ghẻ lở, không thoải mái khi ở chỗ hoang vắng, khi ở dưới gốc cây, lúc nó đi đứng ngồi nằm. Tại các chỗ ấy, nó cảm thấy tai họa bất hạnh. Cũng vậy, này các Tỳ kheo, ở đây, Tỳ kheo nào bị lợi đắc, bị cung kính và danh vọng chi phối, tâm bị xâm chiếm thì vị ấy không thoải mái khi ở chỗ hoang vắng, khi ở dưới gốc cây, lúc đi đứng ngồi nằm. Tại các chỗ ấy, vị Tỳ kheo cảm thấy tai họa, bất hạnh. Như vậy, này các Tỳ kheo, khổ lụy, trói buộc là vì lợi đắc, vì danh vọng và sự cung kính.

    Đức Phật dạy rằng, những lợi đắc, danh vọng và cung kính mà người khác mang lại cho mình thì đó là khổ chứ không phải vui, vì lúc đó chúng ta bị trói buộc, không thảnh thơi tự tại. Chẳng hạn quý Phật tử thấy người xuất gia được an ổn tự tại là bởi ít người biết đến. Nhưng sau một thời gian tu tập, trưởng thành rồi thì danh vọng tự nhiên kéo đến, bị cái khổ lụy này trói buộc, nhiều khi mình muốn đi đâu xa cũng không được. Vì vậy nếu thầy Tỳ kheo nào mà dính mắc vào danh vọng, cung kính, lợi đắc thì cũng như con dã can bị bệnh, không được thoải mái, tự tại khi ở chỗ hoang vắng, lúc nào cũng lo sợ tai họa bất hạnh ập đến.

    Trong Kinh Tương Ưng Bộ: Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha tại Veluvana. Lúc bấy giờ, Hoàng tử A Xà Thế, sáng chiều đi đến hầu hạ Đề Bà Đạt Đa với năm trăm cỗ xe và cúng dường các món ăn trong năm trăm bàn. Một số đông các Tỳ kheo đi đến bạch Thế Tôn về chuyện ấy. Thế Tôn dạy:

    -         Này các Tỳ kheo, chớ có thèm lợi đắc, cung kính và danh vọng của Đề Bà Đạt Đa. Ví như, này các Tỳ kheo, nếu đem bóp lá gan trước mũi con chó dữ thì con chó càng dữ dội bội phần. Cũng vậy, chừng nào Hoàng tử A Xà Thế sáng chiều còn đi đến hầu hạ Đề Bà Đạt Đa với năm trăm cỗ xe và cúng dường các món ăn trong năm trăm bàn thì này các Tỳ kheo, đối với Đề Bà Đạt Đa, chỉ có sự tổn giảm trong thiện pháp, không có sự tăng trưởng. Như vậy, khổ lụy là lợi đắc, là cung kính và danh vọng, các ông cần phải học tập.

    Khi người ta cúng dường nhiều, hậu hĩ thì đó cũng là sự trói buộc, các bậc Thánh rất sợ. Người xuất gia khi được cư sĩ cung kính cúng dường nhiều chừng nào thì càng phải dè dặt chừng ấy, giống như đi trên lớp băng mỏng, không cẩn thận là rớt xuống nước. Nếu mà ngồi vui thích nhận sự đảnh lễ cung kính cúng dường của cư sĩ thì giống như hòn đá mài dao, dao ngày càng bén mà đá thì ngày càng mòn, tức là thiện pháp bị tổn giảm, đến khi phước hết thì họa đến chứ không có gì là vui sướng hết. Ở đây nhằm mục đích là dạy cho các vị Tỳ kheo mới học, còn những vị đại Bồ Tát có giới đức lớn thì ngược lại, các Ngài phải làm ruộng phước cho chúng sanh. Chẳng hạn như Lục Tổ khi được Ngài Pháp Đạt đảnh lễ, Tổ bảo: “Ông đảnh lễ mà không sát đất thì chi bằng đừng lễ”, tức là khi đó, Ngài nhận lễ là để gieo ruộng phước cho chúng sanh, đây là tiêu biểu cho các bậc đại Bồ Tát đi vào cuộc đời, còn chúng ta là bậc sơ cơ, mới học thì cần phải dè dặt.

    Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy: “Người bị ràng buộc bởi vợ con, nhà cửa còn quá hơn lao ngục. Lao ngục còn có thời kỳ phóng thích, vợ con không một ý niệm xa lìa. Một khi tâm thích về sắc đẹp thì đâu còn sợ gì đến gian nguy. Dẫu cho có sự hoạn họa nơi miệng hùm, lòng cũng đành chịu vậy”.

    Trong lời nguyện thứ mười này của Đức Phật Dược Sư, khi chúng ta bị lao ngục, khổ lụy… thì chỉ cần  nhớ lại ánh sáng tự tâm, tức là Đức Phật Dược Sư Lưu Ly thì chúng ta thoát khỏi cảnh này, còn không là bị dính mắc. Lao ngục còn có ngày phóng thích, còn dính mắc vào sắc đẹp rồi thì khó vượt qua được, nhưng một khi đã kiến tánh, ngộ nhập tri kiến Phật rồi thì bứt phá ra rất dễ. Cho nên nhà Phật hướng cư sĩ quy y Tam Bảo thì không được phạm giới tà dâm, nghĩa là chỉ một vợ một chồng là đủ, còn thêm nữa thì khó thoát khỏi lao ngục này. Vào thời nhà Tống, ông Tô Đông Pha đã có sáu người vợ rồi mà vẫn muốn lấy thêm một người vợ thứ bảy nữa. Sau khi cưới về thì Thiền sư Phật Ấn vì muốn khai thị cho ông nên đến bảo Tô Đông Pha cho Ngài mượn người vợ thứ bảy một đêm. Dù rất bực mình và khó chịu nhưng vì là chỗ bạn bè thân thiết nên Tô Đông Pha vẫn cho vợ tới. Tối hôm đó, Thiền sư Phật Ấn đưa người phụ nữ đó vào buồng, Ngài bày ra bảy cái lò lửa rồi bước qua bước lại, cả đêm như vậy, đến gần sáng thì Ngài để người phụ nữ đó về. Sau khi về, cô vợ kể lại câu chuyện cho Tô Đông Pha thì ông hiểu rằng, Ngài Phật Ấn làm vậy là muốn cảnh tỉnh mình, bảy người vợ như bảy cái hỏa ngục, cứ ở trong đó hoài thì đến ngày nào mới thoát ra được.

    Cũng trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Đức Phật dạy: “Xét ra, người hành đạo ví như một người chiến đấu cùng muôn người, mang giáp ra cửa, ý hoặc khiếp nhược, hoặc nửa đường thối lui, hoặc chống cự đến chết, hoặc đắc thắng mà về. Sa Môn học đạo phải giữ chắc tâm mình, tinh tấn lướt tới, chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma, chứng được đạo quả”.

    Đức Phật dạy người hành đạo, tu tập theo con đường giác ngộ giải thoát không phải chuyện đơn thuần, có nghĩa là dù mình thắng hàng ngàn quân địch mà không thắng được chính bản thân mình thì cũng là không. Người hành giả nếu thật tâm tu tập thì phải chiến đấu với rất nhiều loại ma, mà chúng ta có thể thấy rõ qua cuộc chiến đấu của Đức Phật trong bốn mươi chín ngày đêm trước khi thành đạo. Khi chúng ta dấn thân vào con đường này thì sẽ gặp rất nhiều chướng nạn. Quý vị thấy các thầy đi kinh hành tuy an ổn như vậy nhưng trong lúc đó họ phải đối diện với không biết bao nhiêu tập khí phiền não xấu ác ập đến, vừa phải phá dẹp, vừa phải tu tập chuyển hóa thì các nghiệp chướng này mới dần dần tiêu trừ.

    Một người hành đạo giống như một người mang giáp ra cửa chiến đấu với muôn người. Trước kia chúng ta lao theo những nhục dục của thế gian thì không thấy gì, còn bây giờ khi phát tâm xuất gia thì tất cả những chướng duyên sẽ đến. Lúc đó, hoặc chúng ta khiếp nhược, hoặc nửa đường rút lui không tu nữa, hoặc chống cự cho đến chết… Ở đây, người xuất gia hay người tại gia đều như nhau cả, khi tu tập đến một thời gian mà không có niềm vui với đạo, không có niềm tin với pháp tu của mình thì đa phần đều thối lui cả. Có nhiều trường hợp Phật tử ban đầu thì tin tưởng pháp môn mình theo học, nhưng sau một thời gian không có kết quả liền thối chí. Lúc đó nghe nói có pháp môn kỳ đặc như được ông Thầy nào đó rờ đầu thì an ổn, hạnh phúc, hay uống nước được kiến tánh… thì lại tin và chạy theo liền. Đức Phật dạy muốn an ổn và hạnh phúc chúng ta phải tu tập để chuyển hóa ngay từ nơi nội tâm của mình chứ đâu phải do rờ đầu hay uống nước mà được. Nếu ngày xưa chỉ cần rờ đầu hay uống nước mà được an ổn thì Đức Phật đã có thể cứu được dòng tộc của Ngài trước nạn vua Lưu Ly rồi, đến Ngài Mục Kiền Liên là thần thông đệ nhất đã dùng thần thông để cứu dòng họ Thích mà cũng không cứu được trước sức mạnh của nghiệp. Cho nên an ổn hạnh phúc hay không là do nơi mình. Muốn được hòa bình thì bản thân mỗi người trên thế giới đều không còn tham sân si. Lập đàn tràng hay làm các việc phước thiện … chỉ là phương tiện tạm thời thôi, còn việc rốt ráo là ở bản thân mỗi con người. Đức Phật dạy rất rõ rằng Ngài chỉ là bậc đạo sư dẫn đường, nếu chúng ta nghe và đi theo thì chúng ta được hạnh phúc, hết khổ hay không là do mình. Đức Phật cũng nói: “Ta không có quyền ban phước hay giáng họa cho ai”, mà trong tâm mình chỉ sợ là mình lầm nhân quả, mình gieo nhân ác thì khổ lụy sẽ đến, mình gieo nhân thiện thì an vui sẽ đến với mình. Có nhiều người đi đâu làm gì hay lựa ngày tốt xấu nhưng thực ra ngày đó xấu hay tốt là do mình, nếu mình gieo thiện pháp thì tất cả các pháp đều thiện, còn nếu mình gieo nhân xấu ác cho người khác thì dù có lựa ngày tốt như thế nào thì những cảnh khổ vẫn sẽ đến với mình. Bởi vậy hãy cứ gieo thiện pháp, cứ tu tập đi, và phải tin tưởng vào pháp tu của mình. Pháp môn này bắt buộc mình phải tin chắc, tin sâu, chỉ một con đường này mình đi thôi, còn nhanh hay chậm thì phụ thuộc vào túc duyên của từng người. Những người đi nhanh hơn mình, chẳng hạn có những người bạn đồng hành với mình chỉ một hai năm thôi mà họ tiến là do túc duyên họ không gieo nghiệp nhiều, còn ngày xưa mình gieo quá nhiều nghiệp nên bây giờ gặp những chướng duyên. Nhưng mình cứ gan dạ đi tiếp thì chắc chắn sẽ đến, còn nếu mình thối lui hoặc khiếp nhược thì đạo không đến với mình được. Tôi nói lại, tu tập theo pháp nào mình phải có niềm tin với pháp đó. Đã có niềm tin rồi mà thực hành đúng thì một lúc nào đó pháp sẽ đến với mình, mình sẽ được an ổn, hạnh phúc.

     “Sa Môn học đạo phải giữ chắc tâm mình, tinh tấn lướt tới, chẳng sợ cảnh trước, phá diệt bọn ma, chứng được đạo quả”. Tu tập pháp môn nào cũng đều phải gặp chướng duyên, đó là điều không thể tránh, nhưng mình phải tinh tấn lướt qua…

     

     

  • 12. Nguyện lớn thứ mười một

    NGUYỆN LỚN THỨ 11

    Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ đề, nếu có chúng hữu tình nào bị sự đói khát hoành hành, đến nỗi vì tìm miếng ăn phải tạo các nghiệp dữ, hễ nghe danh hiệu của ta rồi chuyên niệm thọ trì thì trước hết, ta dùng các món ăn trân bảo ban bố cho thân họ được no đủ, sau ta mới đem chánh pháp nhiệm mầu kiến lập cho họ được cảnh giới an lạc hoàn toàn”.

    Chúng ta có thể thấy hiện nay có rất nhiều những người đói khổ, nghèo cùng vì mưu cầu miếng ăn mà tạo những nghiệp như sát sanh, trộm cướp và các việc ác pháp. Vì vậy ở đây, Đức Phật Dược Sư Lưu Ly phát một đại nguyện lớn là nếu những người này sau khi nghe đến danh hiệu của Ngài, chuyên tâm thọ trì thì tức khắc được ban cho thức ăn trân bảo mà no đủ. Sau đó Ngài sẽ dùng chánh pháp để kiến lập cho họ được cảnh giới an lạc. Trong Kinh Bát Đại Nhân Giác, Đức Phật có dạy:

    Đệ lục giác tri

    Bần khổ đa oán

    Hoành kết ác duyên

    Bồ tát bố thí

    Đẳng niệm oán thân

    Bất niệm cựu ác

    Bất tắng ác nhân.

    Có nghĩa là, những người nghèo cùng khốn khổ đa phần hay oán trời trách đất, oán trách hoàn cảnh xã hội, oán trách cha mẹ, tất cả những người thân… từ đó dẫn tới việc hay kết các duyên ác. Nhưng theo tinh thần nhà Phật, sở dĩ ngày nay chúng ta ở trong hoàn cảnh nghèo khổ thiếu thốn là vì trong thời quá khứ mình không biết tu tập, không bố thí cúng dường, không tạo các việc thiện pháp. Do đó, Bồ Tát vì thương xót chúng sanh nên bố thí bình đẳng, không kể đó là người thân hay kẻ oán, trước là bố thí cơm ăn áo mặc, sau mới đem chánh pháp để giáo hóa chúng sanh.

    Trong Kinh A Hàm, một hôm khi Đức Phật chuẩn bị thuyết pháp, có một vị cư sĩ bị mất bò nên ông vào rừng tìm con bò của mình. Sáng hôm đó, Đức Phật vào đại định thấy rằng trong pháp hội ngày hôm nay, vị cư sĩ này có một nhân duyên lớn với Phật, chỉ cần nghe một thời pháp thì ông sẽ chứng quả vị Tu Đà Hoàn, cho nên Đức Phật chờ ông. Sau khi ông tìm được bò rồi, Đức Phật biết khi ông đói bụng mà nghe pháp thì sẽ không thể thâm nhập được nên sai Tôn giả A Nan lấy cho ông một bát cơm. Tất cả hội chúng lúc đó đều không hề hoan hỷ, tuy nhiên sau khi ông ăn hết bát cơm rồi, ông ngồi chăm chú nghe pháp đoạn đầu, đoạn giữa, đoạn cuối. Trong lúc nghe pháp với tâm tịnh tín, ông chứng được quả vị Tu Đà Hoàn. Hiện nay, có nhiều quý Thầy, quý Sư cô làm những việc từ thiện cũng lại như thế. Ở những vùng đói khổ, nếu đem chánh pháp nói thì họ đang đói làm sao nghe được, cho nên trước phải dùng phương tiện giúp đỡ cho họ miếng ăn áo mặc,thuốc men, sau đó nói pháp thì họ mới nghe. Cho nên Bồ tát phải dùng đủ phương tiện thiện xảo để làm các việc thiện pháp và giáo hóa chúng sanh.

    Đó là nói về sự. Còn bây giờ đi vào lý. Ở đây, chúng ta từ bao đời bị vô minh, tham chấp che lấp nên luôn đói khát về chánh pháp, vì thế Đức Phật mới dùng phương tiện thiện xảo ban bố cho chúng ta phương thuốc chánh pháp để chúng ta nhờ đó tu tập và chuyển hóa.

    Trong Kinh A Hàm Đức Phật dạy có bốn loại thức ăn:

              1/ Đoàn thực:

    Đoàn thực nghĩa là thức ăn được vo tròn lại. Vào thời Đức Phật, các vị Tỳ kheo sau khi đi khất thực trở về, các Ngài dùng tay bốc thức ăn, vò viên lại rồi lấy từng viên cho vào miệng ăn rất từ tốn nên gọi là đoàn thực. 

    Trong Kinh Tử Nhục thuộc bộ Kinh A Hàm, Đức Phật có lấy một ví dụ về đoàn thực như thế này: Ví như có hai vợ chồng và một đứa con đang đi trên sa mạc, vì bị đi lạc nên đều rất đói khát và khốn khổ. Hai vợ chồng suy nghĩ, nếu không ăn thịt đứa con thì cả ba người đều chết, mà ăn thịt đứa con thì hai vợ chồng vẫn còn có thể sanh đứa con khác, nghĩ thế cho nên cuối cùng đành làm thịt đứa con của mình. Đức Phật hỏi các vị Tỳ kheo:

    -         Này các thầy Tỳ kheo, trong lúc hai vợ chồng ăn thịt đứa con của mình thì có cảm thấy vui sướng không?

    Các thầy Tỳ kheo đáp:

    -         Bạch Thế Tôn, hai vợ chồng vì sự sống mới buộc phải ăn thịt đứa con nên không thể nào vui được.

    Đức Phật nói:

    -         Cũng như thế, này các thầy Tỳ kheo, các ông là người xuất gia, từ bỏ hết tất cả cho nên trong lúc ăn uống cũng không được khen đây là món ngon, không được chê đây là món dở.

    Chúng ta sống trong cuộc đời này, mình ăn để nuôi thân, dùng thân này để tu tập. Trong tam đề ngũ quán có năm pháp quán: 1. Quán thức ăn này từ đâu đem đến, công của người khó nhọc biết bao; 2. Quán ta có công đức nhiều hay ít mà thọ thức ăn này; 3. Quán dùng thức ăn này để trị tham sân si; 4. Quán ta thọ thức ăn này để trị bệnh đói gầy; 5. Quán vì thành tựu đạo nghiệp nên thọ nhận thức ăn này.

    Như vậy qua bài kinh này, Đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rằng chúng ta đi xuất gia không phải vì ăn uống mà vì một con đường sáng sủa, cao siêu, vi diệu, vì vậy trong lúc ăn cơm phải xem như đang dùng thịt đứa con của mình, quán như vậy thì không còn khen chê món này ngon, món kia dở nữa… Người xuất gia dùng thức ăn để tu chứ không phải đi tu để kiếm thức ăn, ai khởi niệm xuất gia vì miếng ăn là thua ngay từ đầu rồi. Đức Phật cũng dạy các vị Tỳ kheo là phải thừa tự pháp chứ không phải thừa tự thức ăn. Kể cả các vị cư sĩ, mỗi khi  đến những nơi tu tập mà được dịp dùng bữa thì cũng không nên khen chê thức ăn.

    Trong Kinh Trung A Hàm có kể một câu chuyện. Một hôm Đức Phật đi khất thực về. Sau khi thọ thực xong còn nửa bình bát cơm, Đức Phật gọi một vị Tỳ kheo lên và để cho vị đó dùng. Thầy Tỳ kheo khi đó từ chối dùng thức ăn còn lại của Phật. Sau đó Phật lại gọi một vị Tỳ kheo khác đến dùng nửa bát cơm còn lại trong bình bát của mình, lúc này vị Tỳ kheo thứ hai nghĩ rằng nếu vị ấy dùng được thức ăn của Thế Tôn thì sẽ rất có phước nên ăn hết chỗ cơm còn lại trong bình bát của Phật. Lúc bấy giờ, Đức Thế Tôn họp đại chúng lại và khen ngợi vị Tỳ kheo thứ nhất không dùng đồ ăn của Phật mới là người giữ được kho báu của Như Lai, thừa tự chánh pháp của Như Lai, sau này vị ấy có thể dùng chánh pháp để hoằng pháp làm lợi lạc cho chúng sanh. Còn vị thứ hai thì không được. Vì nhân duyên đó mà đức Phật thuyết bài kinh Thừa Tự Pháp chứ không thừa tự thức ăn.

    Qua tinh thần nói trên, thức ăn mà Đức Phật Dược Sư Lưu Ly muốn đem đến cho chúng ta tiêu biểu cho con đường chánh pháp mà chúng ta tu học. Chúng ta đang nghe pháp là chúng ta đang dùng thức ăn, mà khi Đức Phật nói pháp hay sau này khi các vị Tỳ kheo tụng đọc Bát Nhã thì đồ ăn trân bảo ở cõi chư thiên cũng không bằng, vì ở cõi trời không được nghe những bài kinh bài thường hay được tụng ở cõi Ta bà này. Cho nên chúng ta phải thấy rằng mình rất may mắn vì tuy là phàm phu nhưng vẫn còn được nghe thánh pháp của Phật, nhất là những bộ Bát Nhã.

    2/ Xúc Thực:

    Xúc thực tức là sáu căn tiếp xúc với sáu trần. Có thể lấy ví dụ như những người ghiền đồ cổ, họ chỉ cần nhìn một món đồ yêu thích thì không cần ăn uống, hay nghe một bài nhạc hay thì quên luôn đói hoặc như có những người thích xem phim, chơi game đến nỗi không ăn không uống. Đây chính là xúc thực. Khi các căn của chúng ta tiếp xúc với trần cảnh rồi duyên theo đó đắm đuối thì đó là chúng ta bị độc hại. Đức Phật ví dụ như hình ảnh một con bò bị lột da rồi đem xuống sông thì hàng vạn con trùng sẽ bám vào để hút máu, sau đó mang con bò lên cột vào gốc cây cổ thụ thì hàng vạn con trùng trên cây bám vào hút máu tiếp. Phật nói chúng sanh ở cõi này không khác gì con bò bị lột da và bị những con vi trùng hút máu, nhưng vẫn còn may mắn hơn con bò bị lột da vì chúng ta còn có bộ da giới luật mà Đức Phật đã thương xót trao cho chúng ta để bao bọc lại. Giới là phương tiện chúng ta phải giữ để không cho những con vi trùng sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp kia hút máu mình. Đối với người cư sĩ tại gia là 5 giới, còn đối với người xuất gia là 10 giới, 250 giới hay 10 giới trọng và 48 giới khinh của Bồ Tát giới. Nhờ bộ da giới luật này mà chúng ta sống còn trong cuộc đời này để tu học, nếu không sẽ bị những con trùng hút máu đến khô kiệt và cuối cùng khi chết đi sẽ sanh vào các cõi dữ.

    3/ Tư Niệm Thực:

    Là những loại thức ăn bằng vọng tưởng. Chẳng hạn như khi chúng ta ngồi thiền mà bị chi phối bởi các tư tưởng mong muốn làm chức này, chức kia thì trong lúc khởi niệm như vậy là chúng ta đang bị những niệm này xâm lấn. Khi khởi những niệm tật đố, san tham, ích kỷ thì đó là những thức ăn ác pháp, còn khi khởi những niệm thiện như xây bệnh viện, làm cầu, làm từ thiện hay ráng tu thành Phật thành Tổ để cứu giúp chúng sanh… thì đó là những thức ăn thiện pháp.

    Đức Phật ví dụ: “Khi chúng ta bị những tư niệm thực bất thiện xâm chiếm, bị danh lợi tài sắc lôi cuốn thì giống như bị hai người lực sĩ ném xuống hầm lửa lớn đang bốc cháy”, có nghĩa là mắt mình duyên theo và dính mắc với sắc là đang bị lửa thiêu đốt, tai duyên theo tiếng khen chê là dính mắc với thanh, cũng đang bị lửa thiêu đốt. Hàng ngày chúng ta đều bị những ngọn lửa tham, sân, si, lửa vô thường thiêu đốt.

    Cũng trong Kinh A Hàm, Đức Phật nói cho ba ngàn vị Tỳ kheo về lửa: “Này các Tỳ kheo, vạn pháp đang bốc cháy; bốc cháy ở mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; bốc cháy bằng lửa tham dục, lửa hận thù, lửa si mê ảo vọng. Những thứ lửa này thiêu đốt các ông hàng ngày”. Sau thời pháp đó thì ba ngàn vị Tỳ kheo đều chứng quả A-la-hán.

    Trong Kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói: “Tam giới vô an, du như hỏa trạch”, có nghĩa là chúng sanh ở trong tam giới giống như đang ở trong nhà lửa. Giống như câu chuyện Tô Đông Pha được Thiền sư Phật Ấn khai thị bằng bảy cái lò lửa. Ở đây Đức Phật biết chúng sanh lỡ tạo nghiệp rồi nên tạm chấp nhận cho chúng ta có một lò lửa thôi, vì vậy mới chế ra giới không tà dâm. Nhiều người chấp nhận quy y Tam Bảo rồi mà vẫn lén tìm thêm 2, 3 cái lò lửa nữa hơ cho vui, thậm chí có người có tận 9, 10 cái lò lửa … Vì vậy Đức Phật mới dạy rằng mình đang bị bốc cháy, cho nên chúng ta cần phải dừng nghiệp lại, nếu không sẽ bị thiêu đốt mãi mãi trong hầm lửa mà không thoát ra được.

    4/ Thức Thực:

    Chúng ta mỗi ngày đều ăn ba bữa sáng, trưa, chiều để nuôi thân, còn tâm chúng ta thì ăn những thức ăn gì? Nếu mình khéo thì tụng kinh, đọc sách, sám hối, ngồi thiền… Đó là những loại thức ăn giúp tâm hóa giải hận thù và tăng trưởng thiện pháp.

    Đức Phật ví dụ như, buổi sáng có ông vua ra lệnh cho người lính cầm 300 lưỡi dao nhọn cắm sâu vào thân người tử tù. Buổi chiều, vua hỏi: “Người tử tù đó bây giờ ra sao?”. Người lính nói “Tâu bệ hạ, còn sống”. Vua ra lệnh: “Lấy 300 lưỡi dao đâm tiếp vào người nó”. Và buổi tối vua lại hỏi: “Người tử tội còn sống hay không?”, Người lính nói: “Vẫn còn sống”. Ông vua nói: “Hãy lấy 300 lưỡi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa”. Qua câu chuyện này ngụ ý, mỗi ngày chúng sanh đều dùng vô số lưỡi dao độc tố như tham dục, sân hận, si mê và ảo vọng, tật đố, ganh tỵ, thù oán và vô minh… đâm vào tâm thức của mình. Ví dụ buổi sáng mình xuống bếp làm, bị tri khố sai gì đó mà mình không thích, cự lại rồi nổi sân, thế là bị 300 mũi dao đâm vào, sau đó về liêu kể với người bạn đồng liêu rồi lại nổi sân lên, vậy là tiếp tục đâm 300 mũi dao vào tâm mình, tối đến ngồi thiền, hình ảnh buổi sáng hiện lên khiến mình lại thấy bực bội, khó chịu, thế là lại bị 300 mũi dao nữa, như thế cả ngày bị đâm liên tiếp. Cho nên Đức Phật nói có hai người, một người ngu và một người trí, cùng bị mũi dao cắm vào người, cả hai đều cảm thấy đau khổ. Nhưng người có trí thì biết rút dao ra và băng bó vết thương lại, có nghĩa là buông xả, không nhớ đến sự việc đó nữa, còn người ngu thì sau khi bị đâm rồi, về nhà không những không rút dao ra mà còn tự đâm tiếp vào mình, tức là không buông xả được, giữ sự bực tức trong lòng rồi đi kể cho những người khác, cho nên tâm thức bị đâm tan nát.

    Đức Phật nói thức thực này rất nguy hiểm, nhưng nếu chúng ta khéo chuyển hóa thì có thể tưới tẩm những hạt giống thiện pháp. Có một Thiền sư ngày trước thấy tăng chúng tu sao mà kỳ nên Ngài bực mình, bèn vào trong thất tu, sau hai mươi năm thì Ngài ngộ đạo. Khi ra thất, Ngài nói ngày xưa chính mình kỳ chứ không ai kỳ cả. Khi đã thấu hiểu được pháp giới, các Ngài thấy rất rõ mỗi chúng sanh đều có nghiệp duyên nên các Ngài thông cảm, bao dung, vì vậy mà không còn bị trói buộc trong cuộc đời này.

    Qua những điểm này, chúng ta thấy rằng thức ăn mà Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương muốn nhắc đến tiêu biểu cho sự đói khát của chúng sanh bị tật đố, ích kỷ, xan tham dày vò nên Ngài mới dùng phương tiện thiện xảo chỉ ra chánh pháp để chúng ta tu học và chuyển hóa.

    Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật dạy: “Thiện nam tử, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết”.

    Chúng ta bố thí, cúng dường thức ăn thức uống thì chỉ nuôi cái thân tạm bợ này thôi. Còn cúng dường chánh pháp thì chính là nuôi pháp thân huệ mạng của chúng ta. Chẳng hạn khi chúng ta đến các Thiền viện, cúng dường cho quý Thầy một số tiền có thể giá trị rất lớn, nhưng chỉ cần quý Hòa thượng nói cho mình một bài pháp ngắn, khiến mình vơi bớt đi những nỗi đau khổ trong cuộc đời thì cái nào giá trị hơn? Có nhiều người có danh vọng lớn, tài sản nhiều, rất giàu có nhưng vẫn gặp những đau khổ trong cuộc đời mà không giải quyết nổi, dẫn đến bế tắc và muốn tự sát, nhưng khi gặp và được Hòa thượng hay các quý Thầy chỉ dạy khiến họ tỉnh ra nên họ bỏ ý định tự tử, quay trở về luôn làm những việc thiện pháp giúp ích mọi người, cuộc đời từ đó trở nên tốt đẹp hơn. Cho nên trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. 

    Pháp cúng dường là:

    -         Không bỏ hạnh Bồ Tát để cúng dường: có nghĩa là chúng ta luôn phát nguyện lớn đi vào cuộc đời này để làm hạnh Bồ Tát, làm tất cả các việc thiện pháp và hồi hướng đến quả vị Phật. Làm được như vậy thì chúng ta không chấp chước, không trụ vào tướng bố thí. Như thế mới được cái hạnh Bồ Tát.

    -         Tu hành đúng theo lời Phật dạy để cúng dường: có nghĩa là chúng ta phải tu theo đúng lời Phật dạy: “Này các thầy Tỳ kheo! Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi, thắp đuốc với chánh pháp. Này các thầy Tỳ kheo! Hãy tự làm hòn đảo cho chính mình, không nương tựa một ai khác”. Đó chính là y theo lời Phật dạy để tu.

    -         Làm lợi ích cho chúng sanh để cúng dường: ví dụ như làm công quả, nấu cơm, nhặt rau, đun nước…, làm tất cả những việc phục vụ chúng sanh, mang lại lợi ích cho chúng sanh, đó cũng chính là vun đắp công đức cho chính mình. Mình phải thấy rằng, có những người muốn làm nhưng bị bệnh, bị tật nguyền nên không thể làm được, mình còn may mắn hơn bao nhiêu người đó cho nên những gì có thể làm được trong khả năng của mình để làm lợi ích cho người thì cứ cố gắng hết sức mà làm.

    -         Chịu khổ thế cho chúng sanh để cúng dường.

    Trong tinh thần của nhà Phật, cho dù là người xuất gia hay cư sĩ, Đức Phật luôn nêu cao tinh thần “Thừa tự pháp chứ không thừa tự thức ăn”.

    Kinh Duy Ma Cật có kể: “Lúc bấy giờ, khi đang ở trong thất của ông Duy Ma Cật, sắp đến giờ ăn, Xá lợi Phất khởi niệm rằng: “Sắp đến giờ ăn rồi, các Bồ Tát sẽ ăn gì đây?”. Duy Ma Cật biết được ý đó mới nói: “Này Xá Lợi Phất, ông đến đây vì pháp hay vì thức ăn?”. Lúc này, Tôn giả Xá lợi Phất đỏ mặt trả lời: “Tôi đến đây vì pháp, không phải vì thức ăn”.

    Vì sao Xá Lợi Phất chỉ cần khởi niệm thôi mà Duy Ma Cật đã biết? Bởi vì Ngài không phải cư sĩ bình thường mà chính là Kim Túc Như Lai đến từ phương Đông đến trợ giáo cho Đức Phật Thích Ca Mâu Ni hiển bày pháp môn đốn giáo, vì thời đó các hàng Thanh Văn không tin vào pháp môn này. Trong Kinh thường nói: “Nhất Phật xuất thế, vạn Phật hộ trì”, khi một Đức Phật xuất hiện ở đời thì có rất nhiều vị cổ Phật xuống để hỗ trợ.

    “Sau khi Tôn giả Xá lợi Phật trả lời, Ngài Duy Ma Cật nói: “Nếu ngài muốn ăn, xin chờ giây lát, sẽ có một bữa ăn hiếm có”. Tức thì, Duy Ma Cật nhập vào chánh định tam muội và dùng thần thông lực chỉ cho hội chúng thấy ở phương trên, cách thế giới này bốn mươi hai hà sa cõi Phật, có một nước tên là Chúng Hương, có Phật hiệu là Hương Tích hiện nay đang ở tại thế”.

    Tích là chứa nhóm, Hương Tích là chứa nhóm những mùi hương công đức. Phật Hương Tích tượng trưng cho ngũ phần pháp thân hương là hương giới, hương định, hương huệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến.

    “Khi ấy, Ngài Duy Ma Cật vẫn không rời chỗ ngồi, ở ngay trước đại chúng dùng thần lực tạo ra một vị hóa Bồ Tát, rồi Ngài bảo vị hóa Bồ Tát lên cõi trời Chúng Hương, gặp Phật Hương Tích để xin một chút thức ăn dư mang về thế giới Ta Bà để làm Phật sự”.

    Đây là tiêu biểu cho pháp môn đốn giáo, tức là từ thể mà khởi ra diệu dụng. Ngài Duy Ma Cật không rời chỗ ngồi, tiêu biểu cho tâm bất động, hóa ra một vị Bồ Tát nữa, tiêu biểu cho từ nơi tâm thể bất động mà khởi ra diệu dụng. Cho nên đọc kinh điển Đại thừa, nếu mình không có công phu tu tập về pháp môn đốn giáo sẽ thấy khó hiểu ở điểm này mà tưởng rằng ngài Duy Ma Cật có thần thông. Theo tinh thần của pháp môn đốn giáo thượng thừa, làm tất cả các việc thiện pháp mà tâm bất động, không trụ tất cả các việc thiện pháp thì đó gọi “Vô tác diệu lực”, như thế mới là công đức. Còn chúng ta làm các việc thiện pháp mà chấp trước thì đó là phước đức. Như vua Lương Võ Đế xây chùa, độ tăng mà chấp trước nên Tổ Bồ Đề Đạt Ma nói không có công đức, còn nếu ông làm mà không chấp trước, không thấy tướng nhân, tướng ngã, tướng chúng sanh, tướng thọ giả thì đó mới là công đức. Có người cho rằng Lục Tổ Huệ Năng sau khi triệt ngộ nơi Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn, Ngài vào trong rừng ở với nhóm thợ săn, nếu Ngài không khởi niệm thiện thì làm sao thả những con vật như nai, hổ, thỏ… Nhưng người đó không hiểu rằng các Ngài khi đó ở trong “Vô Tác Diệu Lực” nên dù có làm bất cứ việc gì cũng đều là thiện pháp, đều trong tinh thần giới định tuệ, vẫn ở trong bất động mà ứng xử ra các pháp.

    “Bấy giờ, hóa Bồ Tát trao cho Duy Ma Cật bát cơm thơm, mùi hương thức ăn này lan tỏa khắp thành Tỳ-da-ly rồi lan khắp thế giới Ta Bà, lan khắp ba ngàn đại thiên thế giới”.

    Đây là cơm gì mà mùi hương tỏa ngát như vậy? Ở đây, thức ăn thơm là ngầm chỉ cho người có giới đức, có hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, hương giải thoát tri kiến. Chúng ta đọc kinh điển Đại thừa phải hiểu nghĩa như vậy, nếu y kinh mà giải nghĩa thì oan cho chư Phật ba đời, mà nói pháp lìa kinh một chữ thì đồng với ma nói. Trong Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:

                        Hương các loài hoa thơm

                       Không bay ngược chiều gió

                       Nhưng hương người đức hạnh

                       Ngược gió khắp tung bay

                       Chỉ có bậc chân nhân

                       Tỏa khắp mọi phương trời.

    Chẳng hạn chúng ta nghe ở miền Nam có một vị Hòa thượng nào đó tu hành giới hạnh thanh tịnh, có năng lực vi diệu độ chúng. Tuy mình ở miền Bắc không thấy mặt Ngài nhưng vẫn nghe qua băng đĩa, đó là hương thơm của người đức hạnh bay đi khắp nơi, không chỉ ở miền Bắc mà khắp nơi trên thế giới đều nghe được hương thơm đức hạnh này. Đây chính là hình ảnh tiêu biểu cho người giữ giới hạnh thanh tịnh chứ không đơn thuần là mùi hương bình thường. Hương thơm đức hạnh này không cần nói, không cần khoe ra hay quảng cáo mà tự bay tỏa khắp nơi. Thường những ai mà hay tung hô bản thân mình thì đều là Bồ Tát rởm. Trong Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói Bồ Tát không bao giờ tự xưng là Bồ Tát. Chỉ khi nào gần tịch, các Ngài muốn dạy cho chúng sanh biết thì để lại những bài kệ rồi đi, ví dụ như Ngài Hàn Sơn và Ngài Thập Đắc là hóa thân của Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền, sau khi bị phát hiện ra thân thế thì các Ngài nói “Giặc, giặc” rồi chạy vào núi mất tích, sau này khi gom lại được 3000 bài kệ thì mọi người mới biết đó là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền. Hoặc như ngài Phong Cang là hóa thân của Đức Phật A Di Đà xuống, hay cỡi cọp… Các Ngài xuống thế giới này một cách thầm lặng chứ không như một số người bây giờ, đi đâu cũng tự xưng mình là A-la-hán, Bồ Tát, cho nên chúng ta phải biết điều này để phân biệt cho khỏi bị lầm.

     “Các Bà la môn, cư sĩ trong thành Tỳ-da-ly ngửi được mùi hương ấy đều thấy thân tâm nhẹ nhàng, thanh thản, đồng ca ngợi sự hiếm có này”.

    Quý Phật tử để ý, tại sao khi đến gần các vị Hòa thượng thì chúng ta cảm thấy rất vui thích, rất hạnh phúc, nhiều khi muốn ngồi gần cả ngày mà không chán. Đó chính là do năng lực giới đức của các Ngài nên mình ngồi gần mà cảm thấy được vui vẻ, thảnh thơi, an ổn. Trong Kinh diễn tả, có một con chim bị thợ săn đuổi bắt nên sợ hãi bay đi, khi đến gần Ngài Xá Lợi Phất, nó núp trong lòng Ngài nhưng vẫn còn run rẩy, nhưng khi bay đến chỗ Đức Phật thì được an ổn hoàn toàn, không còn sợ hãi. Đức Phật dạy rằng do Ngài Xá Lợi Phất tập khí sân vẫn còn sót lại, còn Đức Phật thì đã hết. Hoặc như ở trong một Tăng đường mà có một vị tu hành thanh tịnh thì chúng ta ở chung cũng cảm thấy thanh tịnh, an ổn. Còn nếu ở trong một Tăng đường mà mười người đều cãi nhau hết thì chúng ta ở chung cũng thấy như địa ngục, địa ngục ở đây chính là “bất như ý xứ”, là những điều làm mình không vui, không như ý… Tăng được gọi là hòa hợp và Ni cũng vậy, khi có bốn vị Tăng trở lên ở cùng một chỗ, hòa hợp với nhau thì mới gọi là Tăng đoàn. Khi đến một môi trường hòa hợp thì chỉ cần vừa ghé vào là chúng ta cũng có thể cảm nhận được hương vị hòa hợp ở nơi đó.

    “Lúc bấy giờ, có một vị Trưởng giả tên là Nguyệt Cái, dẫn tám mươi bốn ngàn người đến nhà ông Duy Ma Cật. Chúng quỷ thần, chư Thiên khắp các cõi trời Dục giới và Sắc giới ngửi được mùi hương này cũng tìm đến”.

    Thường những nơi nào mà có người tu hành thanh tịnh, có giới đức thì những chúng sanh từ cõi hữu hình cho đến cõi vô hình đều tìm đến để ngửi mùi hương giới hạnh chứ không phải là ngửi mùi hương nhang. Khi họ đến, nghe mình tụng đọc kinh sách hay khai thị thì họ có thể thức tỉnh được.

     “Bồ Tát Duy Ma Cật nói: ‘Cơm này được xông ướp bằng hương đại bi của Như Lai. Đừng ăn cơm bằng ý hạ liệt vì như vậy khó có thể mà tiêu hóa được’”.

    Có nghĩa là cơm này không phải nấu bằng gạo mà cơm này được huân ướp bằng sức đại bi của Thế Tôn. Vì thế nếu ăn cơm bằng ý hạ liệt, có nghĩa là tâm nhỏ hẹp, chỉ làm lợi ích cho mình thôi, không muốn ở cõi này để tu tập và chuyển hóa chúng sanh mà tự tu tự độ thì ăn cơm này không tiêu, mà phải khởi lòng đại bi thương xót chúng sanh thì mới ăn cơm này được.

    “Có một vị Thanh Văn nghĩ rằng: ‘Cơm này rất ít mà đại chúng lại đông, mọi người đều ăn thì làm sao mà đủ?’. Lúc bấy giờ, vị hóa Bồ Tát liền nói: ‘Đừng lấy đức nhỏ và trí nhỏ của hàng Thanh Văn mà đo lường phước huệ vô lượng của Như Lai. Nước của bốn đại dương còn có thể cạn chứ cơm này thì vô tận. Nếu mọi người đều vo cơm thành viên lớn như núi Tu Di, ăn cho đến một kiếp vẫn chưa hết cơm. Vì sao? Vì đó là thức ăn còn dư của người đã thành tựu công đức vô tận giới hương, định hương, tuệ hương, giải thoát hương, giải thoát tri kiến hương. Do vậy không bao giờ cùng tận’”.

    Một hôm có vị Tăng đến hỏi Thiền sư Duy Chánh: “Thầy là Thiền sư mà sao không chịu nói pháp?” thì Ngài trả lời rằng: “Ngày đêm nhờ vạn tượng đều diễn bày. Ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này thì vô tận nên gọi là tạo hóa vô tận tạng”. Quý vị có thấy vạn pháp hiện tại đang diễn bày chánh pháp của Đức Phật không? Chẳng hạn hiện tượng sóng thần, lũ lụt, thiên tai… là nói pháp gì? Vô thường. Hoặc chúng ta thấy cuộc đời luôn có những sự kiện bức bách mình thì đó là nói về pháp Khổ. Hoặc chúng ta xây nhà rồi bị thiên tai đánh sập thì đó là nói về pháp Không, Hoặc sau khi tu tập một thời gian chúng ta thấy bản thân là vô ngã. Tất cả vạn pháp ngày đêm đều phô bày hiện tượng vô thường, khổ, không, vô ngã. Đây chính là Pháp vô tận tạng. Cũng như vậy, ở đây, cơm này chỉ cho thức ăn dư thừa của người đã thành tựu công đức ngũ phần pháp thân hương. Một khi đã thành tựu công đức này rồi thì cơm vô tận, dùng cả đời cũng không hết. Chúng ta phải tu như thế nào để ăn được thức ăn này và thức ăn này khắp ba ngàn đại thiên thế giới ăn cũng không bao giờ thiếu. Hương giới định tuệ này là hương vô tướng, mà đã vô tướng thì dầu cho thời gian, không gian biến đổi cũng không bao giờ mất.

    “Những ai ăn cơm này đều cảm thấy an ổn như chư Bồ Tát ở quốc độ Nhất Thiết Lạc Trang Nghiêm. Từ chân lông họ tỏa ra mùi thơm vi diệu như mùi thơm các loài cây trên cõi Chúng Hương”.

    Ở đây muốn nói rằng một khi một người trở về con đường chánh niệm, thúc thủ sáu căn thì tự nhiên họ đi, đứng, ngồi, nằm đều trang nghiêm thanh tịnh.

  • 13. Nguyện lớn thứ mười hai

    NGUYỆN LỚN THỨ 12

    Ta nguyện đời sau, khi chứng được đạo Bồ Đề, nếu có chúng hữu tình nào nghèo đến nỗi không có áo che thân, bị muỗi mòng cắn đốt, nóng lạnh, ngày đêm khổ bức. Một khi nghe đến danh hiệu của ta chuyên niệm thọ trì thì ta khiến cho được như ý muốn, nào các thứ y phục tốt đẹp, nào tất cả bảo vật trang nghiêm, nào tràng hoa phấn sáp bát ngát mùi thơm và trống nhạc cùng những điệu ca múa, tùy tâm muốn thưởng thức món nào thì được như ý”.

    Chúng ta thử nghiệm lại trong cuộc đời mình, mình có bị muỗi mòng đốt không? Muỗi đó là muỗi gì? Muỗi tham, muỗi sân, muỗi si, muỗi tật đố, muỗi ích kỷ… đủ các loại muỗi đốt và hút máu mình. Ví dụ mình khởi niệm tham là mình đang bị muỗi đốt, nếu không khéo có “áo” mặc vào sẽ bị sốt rét. Khởi niệm sân lên cũng vậy, hoặc khi chúng ta khởi những niệm bất như ý thì ngay trong giờ phút đó mình đang bị “muỗi đốt”. Vì vậy mà Đức Phật vì thương xót chúng sanh nên từ cung trời Đâu Suất thị hiện trong cuộc đời này để cho chúng ta những chiếc áo thanh tịnh, áo vô sanh, áo Bồ Đề, áo Niết Bàn, áo Pháp thân, áo Phật, áo Tổ, áo giải thoát..., cho mình rất nhiều chiếc áo, nhưng đến một lúc Thế Tôn khuyên chúng ta nên cởi những chiếc áo đó ra thì chúng ta không chịu. Bởi vậy khi Thế Tôn chuyển ba thừa, mười hai phần giáo thì hàng Thanh Văn chấp vào ba thừa, mười hai phần giáo. Cho nên bài pháp cuối cùng trên hội Linh Sơn, Đức Phật đưa cành hoa sen là muốn chúng ta cởi những chiếc áo đó ra, nhưng chúng ta lại không dám cởi. Tổ Lâm Tế nói: “Có một lúc nào đó, các ông cởi hết tất cả những chiếc áo ra thì các ông ngơ ngác”, chúng ta nghe không hiểu gì hết nhưng ở đây ý Tổ muốn khai thị chúng ta là vào thời điểm này, ai biết đang cởi những chiếc áo này ra? Do đó, trên lộ trình tu học chúng ta cần phải có phương tiện, nhưng đến chỗ rốt ráo rồi thì phải buông hết những phương tiện thì mới đến chỗ bảo sở được. Quý vị nhớ, bà Võ Tắc Thiên khi vào nhà tắm, khi cởi hết tất cả các lớp áo thì ngay lúc đó bà ngộ đạo, bà nghĩ rằng xưa nay mình mặc áo cũng giống như mình chấp trước những phiền não khổ đau, kể cả những tri thức học hỏi được cũng chấp trước. Cho nên khi lột hết những lớp áo chấp trước thì hiện thân ra một con người bình dị nhất, tức là trở về bản thể thanh tịnh. Cho nên dù là trên hội Linh Sơn hay hội Pháp Hoa, Đức Phật đều chỉ thẳng về Tri kiến Phật.

    Rồi tiếp theo, Đức Phật thương xót các chúng sanh nên ban bố nào bảo vật trang nghiêm, nào tràng hoa phấn sáp bát ngát mùi thơm và trống nhạc cùng những điệu ca múa, tùy tâm muốn thưởng thức món nào thì được như ý. Ở đây ngầm ý rất là sâu. Nhiều khi quý Phật tử không biết mình tu thiền thì khi chết sẽ đi về đâu? Hiểu như vậy là không đúng. Khi chúng ta trở về với Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương, có nghĩa là trở về tâm thể ban đầu rồi thì tùy nguyện mình đến các cõi Phật hay xuống cõi này để hóa độ chúng sanh. Cho nên pháp môn nào thì cũng đều quy về chỗ nhất tâm, một khi trở về nhất tâm rồi thì đầy đủ các diệu lực.

    KẾT LUẬN

    Qua bài giảng về Mười hai đại nguyện của Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương này, chúng tôi muốn quý Phật tử thấu rõ rằng, Đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang Vương ở đây chính là tâm thể thanh tịnh của mỗi con người chúng ta. Một khi trở về tâm thể này rồi thì giữa mình và Đức Phật là một thực tại duy nhất, ngay tại đây và bây giờ. 

                    Tụng rằng:

    Đức Phật Dược Sư thật nhiệm mầu

    Mười hai đại nguyện cứu hàm linh

    Con nguyện từ đây đem chánh pháp

    Cứu giúp muôn loài bớt khổ đau.

     

Mục lục

Mười hai đại nguyện của Phật Dược Sư qua cái thấy của nhà thiền
  • 1. Giải thích " Dược Sư Lưu Ly Quang"
  • 2. Nguyện lớn thứ nhất
  • 3. Nguyện lớn thứ hai
  • 4. Nguyện lớn thứ ba
  • 5. Nguyện lớn thứ tư
  • 6. Nguyện lớn thứ năm
  • 7. Nguyện lớn thứ sáu
  • 8. Nguyện lớn thứ bảy
  • 9. Nguyện lớn thứ tám
  • 10. Nguyện lớn thứ chín
  • 11. Nguyện lớn thứ mười
  • 12. Nguyện lớn thứ mười một
  • 13. Nguyện lớn thứ mười hai

Tìm kiếm

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 37015
  • Online: 22