Cái biết sáng ngời muôn thưở
14/03/2016 | Lượt xem: 6386
TT.Thích Thông Phương
Hôm nay, ngày cuối của khóa tu, quí thầy sẽ nói một đề tài đặc biệt là “Cái Biết Sáng Ngời Muôn Thuở”. Đây như là phơi bày trọn vẹn lẽ thật không còn gì phải dấu diếm. Cho nên, tất cả quí Phật tử trong đạo tràng lắng nghe kỹ, nhận rõ và nắm vững được điểm tinh yếu này thì trên đường tu không còn gì nghi ngờ nữa.Chính đây là một chân lý hiện thực nơi tất cả nhưng mọi người lại thường bỏ quên. Quí thầy sẽ trình bày bốn điểm: Thứ nhất: Ai Cũng Có Cái Biết. Thứ hai: Đem Biết Đi Tìm Biết. Thứ ba: Thiền Sư Đánh Thức Người Trở Lại. Thứ tư: Thiền Trong Cuộc Sống.
Thứ Nhất: Là Ai Cũng Có Biết.
Hiện  tại mỗi người đang ngồi đây có ai không có biết không? Vậy thì ai cũng  chấp nhận mình có biết hết phải không? Bởi vì ai cũng có tâm thì đều có  biết. Nhưng tại sao ai cũng lo đi tìm cái biết, học cũng là một cách đi  tìm để biết. Chấp nhận mình có cái biết nhưng lại luôn đi tìm cái biết,  tức là luôn thấy mình thiếu cái biết, đúng không? Vì thiếu mới đi tìm.  Lẽ thực này ít ai để ý.
Bởi  vì tất cả con người sanh ra ở đời dù là người trí, người ngu hay là lớn  bé gì không ai thiếu cái biết hết. Nếu thiếu thì chắc là gỗ đá rồi. Cái  biết nó luôn theo sát người ta từ lúc mới ra đời cho đến khi nhắm mắt  nhưng ít ai sáng tỏ để nhận rõ được lẽ thật này.
Ngay  khi mới ra đời thì cái biết đã có mặt ngay là biết khóc. Nếu là cây, đá  thì đâu biết khóc? Rồi khi lớn lên một chút, chưa đi, chưa nói gì được  nhưng mà cũng biết bò, biết bú, rồi cũng như biết cười… Lớn lên biết suy  nghĩ, biết yêu, biết ghét, biết buồn, vui, giận…, thì nó lại sanh nhiều  phức tạp hơn. Cho đến cuối cuộc đời, khi sắp tắt thở, cũng còn biết sợ  chết. Nghĩa là nó theo sát mình từ lúc mới chào đời cho đến khi tắt thở,  không lúc nào thiếu vắng hết. Đến những lúc mình tưởng như thiếu vắng  nhưng nó cũng không thiếu vắng. Chẳng hạn như khi ngủ, có thiếu vắng  không? Khi ngủ cũng có chiêm bao, nên cũng không thiếu, mà dù cho không  chiêm bao nằm im lìm đó cũng không thiếu nữa, nó vẫn hiện hữu và tiềm ẩn  trong đó. Cho nên, khi ngủ mà có ai đó chợt đánh thức thì biết tỉnh  liền. Rõ ràng nó vẫn luôn hiện hữu.
Thử  hỏi có ai dù chỉ một lần nhớ lại cái biết hiện hữu ngay nơi chính mình  không? Chỉ cần nhớ lại thôi, có không? Để thấy rằng lẽ thật luôn hiện  hữu với mình nhưng ít ai nhớ, chỉ lo nhớ những chuyện khác. Tức là nhớ  những chuyện buồn, vui, giận, ghét, hơn thua, còn những lẽ thật luôn  hiện hữu thì không nhớ. Chỉ lo biết đâu đâu, biết đủ thứ chuyện trên  đời, biết cả chuyện trên sao Mộc, sao Hỏa, biết cả những việc dưới lòng  đất, nhưng còn cái mà mình đang biết đây thì sao?
Vậy  là sống có thực tế không? Nếu không có Phật ra đời nhắc nhở thì chúng  ta thấy cuộc sống của ta thiếu thực tế, lo biết những chuyện gì xa xôi,  còn chuyện ngay chính mình không biết. Người sống ở thế gian, lo biết  nhà người này có bàn ghế …, nhà người kia có tủ sắt …, biết hết, còn  chuyện nhà mình thì không biết, vậy thì thiếu thực tế, đó là điều mà tự  mình phụ phàng chính mình.
Hiện  tại ngay thực tế những người đang ngồi đây thì biết rõ ràng là đang  ngồi đây nghe pháp không? Thật sự có mấy người biết là mình đang biết,  được mấy người như vậy?
Đây  là một vấn đề lớn trong cuộc sống nào phải tầm thường nhưng ít ai nghĩ  tới. Cho nên, thiền là soi sáng lại chỗ này, giúp con người thức tỉnh  được lẽ thật muôn đời không đổi thay, đó là điểm thứ nhất.
Thứ Hai: Là Đem Cái Biết Đi Tìm Biết.
Tất  cả mọi người đều có cái biết, nói rộng ra là tất cả chúng sanh đều có  cái biết. Như con trùng, nó có biết không? Nó cũng biết bò, biết đi,  không biết thì làm sao biết bò? Như những con kiến nó cũng biết có đàn,  nhưng vì nó bị cái mê quá sâu che nên không biểu lộ rõ ràng như con  người. Ngay như những con muỗi, con lăng quăng, nó cũng có biết. Con  lăng quăng cũng có biết cử động.
Cái  biết ở con người biểu lộ rõ rệt, rộng rãi hơn. Nhưng tiếc là không mấy  người sáng được, vì thường bị vô minh che nên luôn thấy mình thiếu biết.  Vì thiếu hiểu nên người ta luôn đi tìm cái biết, vì người sợ mình không  biết.
Có  nhiều người tu thiền lâu, những cái biết lăng xăng, lộn xộn tạm yên một  chút, khi không vọng tưởng thì lại sợ mất cái biết rồi sẽ không còn  biết nên liền lăng xăng đi tìm cái biết. Như vậy lỗi tại chỗ nào? Lỗi  tại chỗ theo duyên chứ không gì khác. Tức là luôn đuổi theo duyên, ỷ lại  vào đối tượng mà quên mất chủ thể, nương tựa vào cái khác nên quên mất  cái gốc của chính nó. Điểm này Phật đã nhắc rất rõ trong kinh Lăng  Nghiêm: “Căn bản Bồ-đề Niết-bàn của các ông từ vô thỉ đến nay, tức là  cái thức tinh nguyên minh, nó hay sanh ra các duyên mà bị các duyên bỏ  sót. Do các chúng sanh bỏ sót cái bổn minh sáng suốt sẵn có này, nên  suốt ngày tu hành mà không thành được chánh đạo”. Tức là cái thức sáng  suốt nguyên vẹn. Nguyên là sẵn, tinh là sáng suốt. Vốn nguyên vẹn sáng  suốt từ xưa đến nay, không bị lẫn lộn. Cái lỗi của người ta là ở chỗ đó.
Nói  đơn giản hơn tức là từ nguyên thủy mọi người đều có cái biết nguyên  vẹn, sáng ngời. Cái biết nguyên vẹn đó hay sanh ra các duyên, rồi bị các  duyên bỏ sót nó. Vì chúng sanh bỏ sót cái biết nguyên vẹn này, nên dù  có suốt ngày tu hành cũng không thành đạo được.
Vì  sao cái biết đã nguyên vẹn sáng ngời lại còn sanh ra các duyên chi vậy?  Nó luôn biết cái này, biết cái kia cái nọ, biết đủ thứ nên gọi đó là  sanh các duyên. Ví dụ: Nó thấy bình hoa này, biết là bình hoa, rồi nó  sanh ra các duyên về bình hoa đó. Và khi ấy nó chỉ nhớ có cái bình hoa  mà nó quên mất chính nó. Mỗi người khi thấy bình hoa chỉ nhớ bình hoa mà  quên mất chính nó. Chính chỗ đó gọi là lầm, là mê, vì nó đồng hóa nó  với bình hoa. Rồi khi không có bình hoa, thì sao? Thì nó lo tìm cái khác  như cái đèn, cái bàn… để nó biết. Nó luôn tìm cái duyên bên ngoài để nó  biết. Tức là khi không có cái này thì nó tìm cái khác để đồng hóa nó,  nên mất nó, và khi mất các duyên thì cho là đã mất nó vậy.
Chính  chỗ đó Phật dạy: “Chúng sanh quên mình theo vật”. Cho nên, trong kinh  Lăng Nghiêm, Phật quở ngài A Nan cũng là chỗ đó. Đức Phật giơ cánh tay  của Ngài lên hỏi ngài A Nan thấy không? Ngài A Nan nói thấy. Phật để tay  xuống hỏi tiếp thấy không? Ngài A Nan nói không thấy. Tại sao nói không  thấy?
Bởi  vì khi có cái tay, thì biết có cái tay giơ lên nên nhớ cái tay, rồi  đồng hóa nó với cái tay này, giống như là cái tay thấy chứ không phải  con mắt thấy. Nên khi cái tay để xuống liền nói không thấy. Mà không  thấy tức là không biết, đó là đã bỏ mất chính nó.
Cũng  như khi nghe tiếng, Phật bảo ngài A Nan đánh tiếng chuông, hỏi ông có  nghe không? Ngài A Nan đáp nghe. Rồi khi tiếng chuông dứt lặng, Phật hỏi  nghe không? Ngài bảo không nghe. Đúng là khi có tiếng chuông chúng ta  nghe tiếng chuông, còn không có tiếng chuông thì nói là không nghe gì  hết. Nên Phật quở thêm lần nữa. Rõ ràng chúng ta đã đồng hóa cái biết  nghe đó với tiếng chuông, cũng như cái nghe đó là tiếng chuông. Tiếng  chuông nghe chứ không phải mình nghe nên khi tiếng chuông dứt thì nói  không nghe. Đúng ra nếu khi tiếng chuông dứt Phật hỏi ngài A Nan có nghe  không, nếu biết trả lời không nghe thì đâu phải là Ngài không có nghe,  phải không? Không nghe là không nghe tiếng chuông, chứ không phải không  nghe gì hết. Cho nên đó chính là chỗ mê lầm của chúng sanh.
Vì  ai cũng tưởng là nhờ có cành hoa hay có tiếng chuông mới có biết, còn  mất cành hoa hay mất tiếng chuông thì mình không biết. Thành ra cành hoa  biết, tiếng chuông biết chứ mình không biết. Lầm là ở chỗ đó. Rồi biết  lạnh, biết nóng cũng vậy. Bình thường người ta cũng biết lạnh, biết  nóng, rồi chỉ nhớ đến lạnh nóng, cho rằng khi có nóng, có lạnh mới có  biết, còn hết lạnh, hết nóng thì mình dường như không biết, hoặc là  thiếu cái biết.
Cho  đến học kinh cũng vậy. Khi đọc câu kinh là chỉ nhớ câu kinh, biết có  câu kinh đó thôi, còn chính nó đang biết đó thì lại quên mất. Thành ra  đây gọi là cái biết không nguyên vẹn, nó không là nó nữa mà nó lẫn với  duyên trần.
Trần  là cành hoa, tiếng chuông, câu kinh, câu kệ… Căn ở trong này, còn trần  là ở ngoài. Đó là nó lẫn với trần, bị duyên trần che mờ. Cho nên, đức  Phật dùng từ rất hay, rất chính xác. Phật gọi bên trong thân là: căn  mắt, tai, mũi, lưỡi …, ngoài là các duyên trần. Khi ấy, nó chỉ nhớ cái  trần của nó mà quên mất chính nó nên bị trần che khuất. Mà trần là gì?  Là bụi. Bị bụi che như gương soi bị bụi che. Chính vì vậy nên người ta  thấy mình thiếu cái biết, rồi luôn đi tìm cái biết để hiểu biết.
Thiền  sư Huyền Sa dạy chúng rằng: “Những bậc lão túc ở các nơi nói là “tiếp  vật lợi sanh”, nếu như vậy khi gặp người có 3 thứ bệnh: Người mù, người  điếc, người câm thì làm sao mà tiếp? Mà nếu tiếp không được người này  thì Phật pháp không có linh nghiệm”. Ý nói, khi hoằng pháp độ người mà  gặp người có các bệnh như: Bệnh mù, bệnh điếc và người bệnh câm đến,  phải làm sao mà tiếp họ đây?
Như  vậy, khi giáo hóa mà gặp người bệnh mù, giơ tay lên họ không thấy thì  làm sao tiếp họ đây? Người không nghe được thì làm sao tiếp? Dạy họ biểu  họ nói, họ nói không được thì làm sao mà tiếp độ?Có  vị tăng nghe vậy không hiểu mới đem việc này đến hỏi thiền sư Vân Môn.  Ngài Vân môn khéo léo bảo: “Thôi ông hãy lễ bái đi!” Lễ bái xong, tăng  đứng dậy, Ngài mới lấy cây gậy đưa ra trước. Ông tăng thấy vậy liền thụt  lui lại. Ngài Vân Môn bảo: “Vậy thì ông không phải bệnh mù”. Đưa gậy  chận ở trước mà ông thấy rồi lui thì không phải bệnh mù.
Rồi  Ngài bảo: “Thôi ông lại gần đây!” Tăng đi lại gần. Ngài nói: “Vậy ông  cũng không phải bị bệnh điếc”. Kêu lại gần thì ông nghe và làm theo,  cũng không phải bệnh điếc.
Ngài  dựng cây gậy lên hỏi ông hội chăng? Ông tăng nói không hiểu. Ngài nói:  “Vậy thì ông cũng không phải bệnh câm luôn”. Ngay đó, ông tăng liền tỉnh  ngộ. Vậy quí vị tỉnh ngộ được điều gì chưa?
Tức  là người mê có mắt cũng như mù, có tai như điếc, có miệng như câm. Tại  mê nên không tỏ sáng được. Sự thật thì mỗi người có cái biết luôn hiện  hữu sáng ngời, lại tưởng là mù, câm…, nhưng thật ra đâu có thiếu vì nó  vốn luôn đầy đủ. Nên khi giơ gậy phía trước ông thấy liền tránh; bảo ông  đến thì ông nghe và đi đến gần; hỏi ông hiểu chăng ông thưa không hiểu,  vậy ông biết nói rồi. Vậy là nó luôn hiện hữu không thiếu, như vậy ông  còn đi tìm cái gì nữa.
Cho  nên, Thiền sư đánh thức ông tăng nhớ trở lại là mình có cái biết luôn  hiện hữu mà lại đi tìm. Và chúng ta ở đây cũng giống như vậy. Trong đây,  mọi người đi học đạo là đi tìm để biết được nó chứ gì? Rõ ràng cũng  giống như ông tăng đó. Thiền sư lại không giải thích theo kiểu giảng sư,  cũng không giải thích theo kiểu học giả mà đi thẳng vào vấn đề, trực  tiếp thẳng vào chân lý, không giải thích dài dòng. Nếu giải thích dài  dòng thì không hướng người học thấy rõ chân lý.
Có  vị tăng hỏi ngài Qui Sơn Linh Hựu: “Thế nào là đạo?” Ngài đáp: “Không  tâm là đạo”. Vị tăng thưa: “Con chẳng lãnh hội”. Ngài Qui Sơn nói: “Ông  hội lấy cái chẳng hội đó là tốt”. Hỏi thế nào là đạo, đáp không tâm là  đạo. Rồi lại nói ông hiểu được cái không hiểu đó là tốt.
Ông  tăng thưa thêm: “Thế nào là cái chẳng hiểu ?” Ngài bảo: “Chính là ông  chứ không riêng người nào khác”. Tăng hỏi cái gì mà biết chẳng hiểu,  Ngài mới bảo chính là ông chứ không riêng người nào khác. Vì cái đó đâu  có ai có thể hiểu thế cho mình?
Sau  đó Thiền sư mới nói thêm: “Người thời nay chỉ rõ ngay đó mà chẳng nhận  cái chẳng hiểu đó, chính đó là tâm ông. Chính đó là Phật của ông. Nếu  lại nhầm ra ngoài, được chút ít hiểu biết cho là thiền, là đạo, thì  không dính dáng gì hết, gọi là đem Phật vào, chẳng phải đem Phật ra, chỉ  làm nhơ bẩn thiện tâm của ông thôi, do đó cho nên nói chẳng phải là  đạo”.
Ngài  mới nói là ngay cái mà ông chẳng hiểu đó, nếu nhận ra là xong. Đạo là  ngay chỗ đó. Còn mãi lo tìm đạo này, đạo khác để hiểu đó thì không phải  là đạo chân thật.
Chúng  ta luôn tìm cái đạo được giải thích như: Đạo là chân lý, mà chân lý là  lẽ thật. Giải thích thế này, thế kia cuối cùng cũng không thấy cái đạo  nào hết, chỉ hiểu nghĩa thôi. Còn ở đây, Ngài chỉ thẳng chính ngay cái  tâm ông không hiểu đó, nếu nhận được cái lẽ thật đó, thì chính đó là đạo  chân thật, là đạo sống. Còn cái đạo chữ nghĩa, đạo văn tự mà giải thích  thế này thế kia đó là đạo chết, không phải là đạo sống. Cái đạo sống đó  ngay chính ông. Khi ông nói là ông chẳng hiểu, chẳng hiểu là cái gì  biết chẳng hiểu? Thì ngay đó, đâu có thiếu gì nhưng mà tại ông còn mê.  Cho nên, chỉ cần ngay đó nhận ra cái tâm chẳng hiểu đó là xong, đâu cần  tìm đâu khác.
Ông  nói chẳng hiểu, vậy đâu phải ông không biết, không hiểu. Nếu ngay đó  nhận ra lẽ thật của chính ông, thì đó là đạo. Đạo là như thế đó chứ  không phải là giải thích thế này, thế kia. Nhưng người ta thích đi tìm  cái đạo giải thích nhiều hơn. Nên gọi đó là đuổi theo chữ nghĩa, văn tự.  Chúng ta thấy rõ ràng là nếu đuổi theo mấy cái đó thì dù có hiểu nhiều  đến đâu đi nữa thì cũng chỉ là hiểu về đạo thôi, chứ chưa trực tiếp giáp  mặt với đạo. Chỉ là khái niệm về đạo, là gián tiếp chứ chưa phải trực  tiếp.
Còn  ở đây, Thiền sư chỉ thẳng trực tiếp, chỉ cho thấy đạo là chính ngay  đây, chứ không giải thích dài dòng về đạo. Ví dụ như là mình nói về  người nào đó, người đó không có mặt ở đây mình diễn tả thế này, thế nọ,  thế kia…, là chúng ta nói về người đó chứ không có mặt người đó. Đây  cũng vậy, mình nói về đạo thế này thế kia là hiểu về đạo, khái niệm về  đạo thôi, chứ chưa trực tiếp giáp mặt với đạo chân thật.
Ở  đây, Thiền sư giúp chúng ta giáp mặt với đạo chân thật ngay đó mà không  giải thích chữ nghĩa dài dòng. Các Ngài không nói nhiều nhưng người ta  thấy rất là chính xác, song lại khó hiểu. Đó là vì chúng ta muốn hiểu,  hiểu theo chữ nghĩa cho nên thấy khó hiểu, đâu biết chính ngay cái khó  hiểu đó mới chính là cái thực, đặc biệt vậy đó.
Thứ ba: Thiền Sư Đánh Thức Người Trở Lại.
Cho  nên, điều thứ ba các Thiền sư muốn đánh thức mọi người sống trở lại với  nó. Mỗi người có sẵn lẽ thật nhưng vì mê nên cứ luôn lầm qua trước mắt.  Nó ở trước mắt đó mà luôn bỏ qua, nên các Thiền sư thấy vậy mới thương  xót. Thương cho tất cả mọi người ai cũng có đủ lẽ thật, có cái biết sáng  ngời luôn hiện hữu có mặt ngay nơi mỗi người, nơi chính mình chứ không  nằm ở đâu khác. Không có cái gì trên đời có thể làm tiêu mất được nó,  nhưng mọi người lại thường bỏ quên, thật là đáng thương.
Vì  thế, các Ngài mới đánh thức giúp chúng ta nhớ trở lại và chỉ nhớ trở  lại cái đã quên mà không cho thêm cái gì khác. Tuy chúng ta thấy hơi khó  hiểu nhưng nếu nhớ trở lại thì đó rất là thực tế, rất là sáng tỏ.
Ví  dụ như thiền sư Trường Viễn ở Hương Lâm, lúc còn làm thị giả cho Thiền  sư Vân Môn, mỗi khi có người hỏi đạo ngài Vân Môn Ngài thường gọi “Thị  giả Viễn”. Thị giả liền ông liền dạ. Ngài hỏi: “Thấy là cái gì?” Và  thường như vậy.
Ngài  hỏi thị giả thấy là cái gì? Vậy mà đến 18 năm như vậy Thầy Thị giả mới  ngộ. Cứ mỗi khi gọi Thị giả Viễn! Liền dạ. Ngài Vân Môn hỏi đó là cái  gì? Cứ mỗi ngày đều đều vậy mà không sáng tỏ gì hết, phải đến mà 18 năm  như vậy Ngài mới ngộ ra.
Gọi  Thị giả thì Thị giả dạ, ngay đó là trực tiếp có mặt hiện hữu rồi. Vậy  mà 18 năm mới ngộ. Thử hỏi mỗi ngày mỗi ngày đều như vậy trong 18 năm,  lúc đó Ngài ở đâu mà không ngộ? Trong khi nó luôn hiện hữu nơi mình.
Rốt  cuộc qua 18 năm mới ngộ, mới nhận ra đó là mình, mới biết bấy lâu nay  làm nhọc Thầy nhiều quá. Nếu như ngay cái gọi ban đầu mà ngộ ra thì đâu  phải nhọc 18 năm như vậy. Nên mới nói cái lẽ thực luôn gần gũi.
Cũng  như Mã Tổ và ngài Hoài Hải. Hai vị đi dạo thấy bầy vịt trời bay qua. Mã  Tổ hỏi: “Đó là cái gì?” Ngài Hoài Hải đáp: “Là bầy vịt trời”. Khi chúng  bay qua Mã Tổ hỏi: “Nó bay đi đâu?” Ngài thưa: “Nó bay qua mất”. Mã Tổ  mới nắm mũi Ngài nhéo một cái thật mạnh. Đau quá, Ngài la. Mã Tổ hỏi:  “Sao không nói nó bay qua mất đi!” Ngay đó ngài Hoài Hải liền tỉnh ngộ.
Hôm  sau Mã Tổ lên tòa thuyết pháp, vừa mới lên tòa, đại chúng vừa nhóm họp  xong, ngài Hoài Hải bước ra cuốn chiếu. Ngày xưa, người ta thường trải  chiếu ngồi nghe pháp trong hội, mà lúc ấy Mã Tổ mới ra chưa nói gì mà  Ngài cuốn chiếu, còn Mã Tổ thấy vậy mới xuống tòa về phương trượng. Ngài  Hoài Hải đi theo, Mã Tổ: “Tôi chưa nói câu nào sao ông cuốn chiếu vậy?”  Ngài Hoài Hải thưa: “Hôm qua con bị Hòa thượng nhéo chóp mũi đau”. Mã  Tổ hỏi: “Hôm qua ông để tâm ông ở chỗ nào?” Ngài thưa: “Chóp mũi hôm nay  chẳng đau”. Mã Tổ nói: “Ông hiểu sâu chuyện hôm qua”.
Đó  là Mã Tổ đã đánh thức lẽ thật ngay chính Thị giả. Khi Ngài thấy bầy vịt  trời bay qua, chỉ nhớ bầy vịt trời bay qua còn quên mất cái đang biết  của chính mình. Cái biết đang hiện hữu thì lại quên, chỉ nhớ có bầy vịt  trời, nên khi nó bay qua liền nhớ nó bay qua mất rồi, nên Mã Tổ mới nhéo  lỗ mũi một cái thật đau, khi đau la rồi, Tổ hỏi sao ông không nói bay  qua đi? Còn cái biết đau này đâu có bay đi đâu? Ngay đó ông tỉnh ngộ.
Hôm  sau, Mã Tổ muốn gạn xem chỗ tỉnh ngộ của ông có sát thực không, nên mới  hỏi hôm qua ông để tâm ông ở chỗ nào? Nếu nói để tâm ở lỗ mũi chắc là  bị quở tiếp rồi, nên ngài Hoài Hải mới đáp là hôm nay mũi không có đau.  Tức là sao? Là cái đau này không ở cái lỗ mũi, mũi này chỉ có cảm giác  một chút vậy thôi, còn cái đau luôn hiện hữu nơi mình chứ không phải ở  lỗ mũi. Nếu chỉ nhớ cái lỗ mũi này là quên mất chính mình rồi, cho nên  đáp hôm qua đau hôm nay đâu có đau. Không đau nhưng mà nó có không?
Như  vậy, cái biết này luôn hiện hữu nơi mỗi người không hề thiếu vắng lúc  nào hết, rõ ràng cái thấy của ngài Hoài Hải không phải ở ngay cái lỗ  mũi, mà cái biết này nó luôn hiện hữu nơi mình. Hôm qua nó ở lỗ mũi  nhưng hôm nay không ở lỗ mũi. Hôm nay có thể ở cái tay. Ở cái tay thì nó  biết cái tay, không cố định ở đâu hết, nó luôn luôn có mặt, không bị  sắc trần che mờ. Nhéo ngay lỗ mũi là bị sắc trần lỗ mũi che thôi! Nhưng  chúng ta nhớ là bị trần che, còn cái biết luôn hiện hữu đó, nếu nhéo lỗ  mũi thì đau ở mũi, nhéo ở cái tay thì nó đau ở tay. Như vậy thì cái biết  này luôn sáng ngời, ngay khi đối đáp qua lại hiện tại đây, tức ngay khi  đối đáp với ông thầy nó cũng hiện hữu ngay đó, không hề xa lạ.
Nhưng  mọi người nghe nói lại thấy nó xa lạ. Bởi vì mọi người luôn nhớ cái bên  ngoài quên mất cái hiện hữu. Cho nên đó là điểm mà các Thiền sư đánh  thức học nhân nhớ trở lại thôi, chứ không gì khác. Nhớ trở lại cái đang  hiện hữu nơi mình mà mình đã quên.
Cũng  như câu chuyện Thiền sư Thần Tán kỳ lưng cho thầy Bổn sư. Đang kỳ lưng  thì Sư lại vỗ vỗ cái lưng thầy nói: “Điện Phật này đẹp mà Phật không  Thánh”. Điện Phật đó là cái gì? Tức là trong thân này có ông Phật sáng  ngời mà không thánh tức là còn mê. Thầy Bổn sư nghe vậy mới xoay đầu ngó  lại. Sư nói tiếp: “Phật tuy chẳng Thánh nhưng cũng thường hay phóng  quang.” Tức là nghe nói biết xoay đầu ngó lại tức Phật phóng quang, do  cái biết luôn hiện hữu nơi chính mình, ngay trong nhà tắm cũng có chứ  đâu xa, đâu thiếu chỗ nào.
Tánh  biết luôn hiện hữu nơi mỗi cử động như xoay đầu hay ngó lại … của con  người. Khi đó, là cái gì biết xoay đầu ngó lại? Cái đầu có biết gì đâu,  khi tắt thở cái đầu vẫn y nguyên. Nhưng người ta chỉ biết có cái đầu  thôi, xoay đầu ngó lại chỉ biết có cái đầu, còn cái gì ngầm ẩn bên trong  lại quên, cái đó mới là ánh sáng hiện hữu đó. Nên ngài Thần Tán mới nói  Phật phóng hào quang. Tức là cái tướng động của cái đầu có soi mới có  động nhưng nó đâu có mất ánh sáng của tánh biết, nó vẫn luôn hiện hữu  song mọi người thường bỏ quên.
Do  đó, các thiền sư chỉ dạy rất đơn giản, rất thực tế ngay cuộc sống hiện  tại, không nói cao xa, nhưng người ta vẫn thấy nó khó hiểu, là vì con  người nhiều tưởng tượng, nhiều ảo tưởng.
Nghe  nói thiền ai cũng nghĩ thiền là cái gì đó cao siêu, xa vời lắm, khó mà  với tới và liền tưởng tượng quá nhiều. Đến khi nghe nói quá thực tế thì  lại khó hiểu, khó tin. Có những điều chúng ta tưởng như là phi thường  nhưng nó rất bình thường, rất gần gũi. Còn có cái ta tưởng nó rất bình  thường nhưng lại rất phi thường, vì người ta bị các ảo tưởng che. Đó là  lẽ thật mà các Thiền sư đã căn dặn, các Ngài muốn đánh thức, nhắc mọi  người nhớ trở lại.
Chuyện  vua Đường Trang Tông, có lần vua đi Hà Bắc trên đường về hành cung ở  Ngụy Phủ. Gần đó có Thiền sư Tồn Tương đệ tử của ngài Lâm Tế. Vua Đường  này có học hiểu thiền, nên cho mời Thiền sư Tồn Tương đến và nói: “Trẫm  thâu Trung Nguyên nhận được một hòn ngọc quí mà chưa có ai trả giá”. Sư  nói: “Xin bệ hạ cho xem.” Vua mới lấy hai tay vuốt từ đầu tới chân, đó  là vua trình hòn ngọc. Thiền sư nói: “Ngọc của đấng quân vương ai mà dám  trả giá”.
Ông  vua này thực là hiểu đạo. Ngọc ở đây là tượng trưng trên danh từ nhưng  thực tế vua muốn chỉ cái gì? Muốn chỉ lẽ thật ngay nơi mỗi người, ngay  nơi vua. Lẽ thật đó cao quí nên mới ví như hòn ngọc. Trong Kinh thường  nói mọi người có hòn ngọc quí mà bỏ quên, ngọc này không có ai có thể  trả đúng mức giá được. Bởi vì ngọc thế gian có giá cả, có mắc rẻ, còn  ngọc này không có giá cho nên không ai trả giá được hết. Mà ngọc này là  của ông vua hiểu thiền, nên khi ông trình ngọc ông vuốt từ đầu tới chân,  vuốt tới đâu biết tới đó, rõ ràng đâu có thiếu cái gì. Vuốt tới chỗ nào  biết chỗ đó, thì đối với ngọc báu này vàng ngọc trên thế gian làm sao  sánh kịp.
Như  vậy, để thấy rằng một ông vua nhiều việc, khéo biết tu học lý thiền  cũng vẫn sáng được, cũng hiểu được lẽ thật đó. Còn chúng ta thì sao?  Nhiều vị nói là tôi nhiều việc lắm, bận việc này việc kia, thử hỏi quí  vị có nhều việc bằng ông vua không? Nhiều lắm là việc của một hoặc hai  ba gia đình là cao lắm, còn ông vua là việc của trăm nhà, việc cả nước  mà vua còn tu và hiểu được những lẽ thật như thế, còn chúng ta tại sao  lại không làm được. Để tất cả thấy và hiểu rõ lẽ thật đó luôn hiện hữu  nơi mọi người, ai cũng có, nếu khéo nhớ trở lại thì nơi mình đầy đủ.
Có  một câu chuyện gần gũi hơn: Có một cô kỹ nữ Nhật Bản, là con của một võ  sĩ theo phụ tá vị tướng quân. Do vị tướng quân này thất thế bị sa thải,  nên rồi sự nghiệp gia sản của võ sĩ cha cô cũng bị tiêu hao suy sụp. Cô  bị bán làm kỹ nữ. Nhưng cô kỹ nữ này lại thông minh, có tài nên rất nổi  tiếng. Mỗi lần nghĩ đến hoàn cảnh bất hạnh của mình, cô luôn có sự buồn  tủi nên tinh thần cũng bị ảnh hưởng. Khi ấy có một vị khách cũng có học  thiền, thấy vậy mới hỏi nguyên do, cô thú thật. Khách nói có một cách  chữa được bệnh của cô nhưng không biết cô có tin hay không? Cô này nghe  liền năn nỉ, nếu thật như vậy thì làm sao tôi không tin.
Ông  khách hướng dẫn cô tập thiền quán, dạy cô tập quán xét kỹ toàn thân của  cô, không có gì là không có tri giác, tức là toàn thân cô do có tri  giác nên mới hoạt động, không có chỗ nào thiếu hết.
Do  có biết, có tri giác nó mới hoạt động, vậy tri giác đó nó có một ông  chủ. Khi làm bất cứ việc gì, ngay cả khi cô vội vã, bận rộn hết sức thì  cô vẫn phải nhìn ông chủ bên trong đó. Tức là dù lúc vội vã hấp tấp đến  đâu đi nữa cũng phải quán trở lại, nhớ ông chủ bên trong: Cái gì thấy,  cái gì nghe? Cái gì đang thấy đây, cái gì đang nghe đây? Nếu cô quán  chiếu một cách siêng năng không lơi lỏng, không gián đoạn thì Phật tánh  sẵn có của cô sẽ xuất hiện. Và khi đạt đến trạng thái này, cô sẽ thấy đó  là một con đường tắt để giải thoát mọi cảnh giới đau khổ. Bởi vì khi  sáng tỏ được điều đó sẽ là con đường giải thoát mọi đau khổ cho cô. Ngay  trong cô có tri giác, có cái biết, chỗ nào cũng có cái biết hết nên cô  phải quán ông chủ bên trong, đừng theo bên ngoài. Nếu luôn thực tập liên  tục như vậy thì lúc nào đó Phật tánh của cô sẽ xuất hiện.
Cô  ghi nhớ và về thực hiện chuyên cần, đến một lúc khi sự chú tâm miên  mật, khít khao của cô lúc nào cũng hiện hữu. Một ngày, trời giông bão,  sấm sét quá to, cô lại hay sợ sấm sét nên mới trùm mền núp. Lúc ấy, bất  chợt cô nhớ lại bài tập này liền trấn tỉnh không sợ nữa, rồi ngồi bật  dậy. Khi đó, ngoài trời vừa có một cơn sét đánh mạnh vào sân nhà cô, sức  mạnh đó hất cô bật ngửa và làm cô ngộp thở bất tỉnh giây lát. Ngay lúc,  cô lấy lại bình tỉnh thở lại được và bỗng nhiên cô nhận được cái tri  giác đang sáng ngời đó. Niềm vui đến với cô không thể diễn tả được, từ  đó cuộc đời cô chuyển hóa, cuộc sống thật sự có ánh sáng chân thật.
Đó  cũng là đánh thức cái biết đang hiện hữu nơi chính mình, mỗi người xem  toàn thân của mình có chỗ nào thiếu không? Nhưng vì chúng ta không nhớ.  Nếu ngay đây thường xuyên khéo quán trở lại thì ánh sáng tự tánh luôn  hiện hữu đó có lúc sẽ xuất hiện, chạm đến đâu nó cũng liền cảm nhận  ngay, đâu thiếu! Vậy mà còn tìm chỗ nào nữa, rõ ràng là mê.
Đó  là cái lẽ thật bình đẳng với tất cả không phân biệt già trẻ, sang hèn.  Một cô kỹ nữ mà còn làm được việc đó, thì ở đây có ai không làm được  không? Cho nên, đó là một lẽ thực rất sáng ngời, nếu người thấu được lẽ  thật đó rồi, thấy rõ mọi người ai ai cũng đang sống, đang ở trong nước  mà lại giơ tay tìm nước, đòi nước, hay như các thiền sư nói là đang cởi  trâu mà lại đi tìm trâu.
Điều  thực tế bởi vì chúng ta luôn sống quên mình, có những chuyện bình  thường thôi chưa nói đến chuyện đạo lý, như: Có khi tay cầm chìa khóa mà  lại đi tìm chìa khóa. Chuyện thường thôi đó, sau mới nhớ lại là đang  cầm trên tay. Đó là tại mê. Bởi vì tâm chúng ta luôn hướng ra bên ngoài  nên cứ nhớ bên ngoài, khi tỉnh mới nhớ lại thì ra là như vậy.
Sơ  Tổ Trúc Lâm tức vua Trần Nhân Tông, lúc lên Yên Tử tu rồi ngộ đạo. Ngài  mới sáng lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử, Ngài cũng làm một bài khai thị  trong chúng, trong đó có một đoạn nói rằng: “Hằng ngày các ông ăn cháo,  ăn cơm mà sao không rõ việc bát, việc muỗng”. Tức là nói thời giờ luống  qua không đợi người, sự đời vô thường, thân này mỏng manh. Hằng ngày mọi  người ăn cháo, ăn cơm, cầm bát, cầm muỗng mà sao không rõ việc bát,  việc muỗng. Đó là chỗ mê của người hiện tại. Quí vị kiểm lại coi, mọi  ngày chúng ta ăn cơm, cầm đũa, cầm muỗng thì cái gì cầm bát, cầm muỗng  ăn cơm mà lại không sáng tỏ, mà chỉ lo nhớ cơm, nhớ cháo, phải không?
Cầm  cái bát thì nhớ cái bát, cầm đôi đũa nhớ đôi đũa còn cái gì biết cầm  đũa muỗng đây lại không nhớ. Nhưng chính đây mới là hồn của cuộc sống.  Nếu thiếu cái này thì coi như vô hồn, là sự chết chứ không phải cuộc  sống nữa. Nó là cái hồn của cuộc sống nhưng đa số người lại không nhớ  đến nó, mà nhớ bát, đũa, muỗng, nhớ cơm, nhớ cháo, rõ ràng chúng ta sống  vô hồn. Rồi hằng ngày đi tới, đi lui cũng vậy, nhớ mình tới lui qua lại  thôi, còn cái gì biết hiện hữu đó lại quên không nhớ. Cho nên đúng theo  con mắt người hiểu đạo thấy con người sống cũng như chết, tức là thiếu  cái hồn. Mà đúng như vậy.
Cũng  như câu chuyện một người Tây Tạng qua bên Tây phương thấy người ta xây  những ngôi mộ trong nghĩa địa cho những người chết rất sang trọng. Lúc  đó, có một vị ngồi cạnh mới nói là: “Thầy thấy bên đây người ta xây ngôi  mộ cho những cái xác chết rất đẹp, và sang trọng”. Thầy Tây Tạng mới  nói: “Đúng vậy, ở đây người ta xây những cái nhà mồ cho những cái xác  chết rất đẹp và rồi người ta cũng xây những ngôi nhà rất sang trọng cho  những cái xác sống”. Tức là xây những ngôi mồ rất đẹp cho những cái xác  chết và những ngôi nhà rất đẹp cho những cái xác sống.
Vậy  ý thầy muốn nói cái gì? Kia là những cái xác chết, còn ở đây là những  cái xác sống đang đi qua lại, tới lui mà thiếu cái hồn, thì cũng giống  như cái xác biết cử động mà thiếu cái hồn.
Cho  nên đó là cái để đánh thức, để nhắc nhở cho những người nào nhớ được  cốt tủy của sự sống để mà sống có hồn, sống thực sống chứ không phải như  những cái xác, như vậy mới đúng nghĩa sống. Mới thấy rằng ngay trong  cuộc sống hàng ngày, trong các sinh hoạt, mỗi người luôn có cái biết  hiện hữu sáng ngời nhưng lại bỏ quên. Cho nên Ngài mới gọi là sống thiếu  hồn và nhắc nhở, đánh thức cho mọi người nhớ trở lại, thì chính mê giác  là chỗ đó.
Giải  thích theo chữ nghĩa là mê thế này thế kia, rồi giác thế này, giác thế  kia…., tưởng đâu giác là một cái gì đó cao siêu, xa lạ khó với tới.  Nhưng rồi không ngờ cái mê cái giác nó ở ngay cuộc sống mình, chút xíu  đó thôi. Mê là mê chỗ đó, giác cũng giác chỗ đó. Giống như bàn tay lật  qua lật lại, không có xa vời gì hết, nên khéo thì ngay đó nhận ra lẽ  thật luôn hiện hữu.
Pháp sư Từ Lô có làm những bài tụng rất thiết tha để khuyên người tỉnh nhận lại lẽ thật luôn hiện hữu đó. Ngài nói:
                    Đốt hương, lễ bái, nương sức nào
                    Niệm Phật, xem kinh cũng là y.
                    Nếu thiết tha về, về thì được
                    Đừng cho trôi dạt chốn quê người.
Nói  ngay khi dụng công đốt hương lễ bái là nương sức nào làm ra việc đó?  Nếu mà người khéo niệm Phật, xem kinh thì cũng là y thôi chứ có ai xen  vào trong đó. Nếu người biết thiết tha trở về nơi đó thì được ngay thôi  đâu có xa, đừng sống trôi nổi chốn quê người.
Quí  vị ngồi đây là đang ở quê nhà hay quê người? Nghĩa là thân ngồi đây mà  đang sống ở quê người, gọi là sống tha hương. Chữ “quê người” có hai  nghĩa: Vừa ở quê người khác, vừa mất cái gốc chân thật của mình. Ngài  cũng nói thêm như : Cầm muỗng, cầm đũa, nương sức nào? Quét đất, nấu trà  cũng là y. Nếu thiết tha về, về liền được. Đừng cho trôi dạt chốn quê  người.
Nghĩa  là cầm muỗng, cầm đũa, quét đất, nấu trà cũng là nó, ngay đó nếu nhớ  sống trở về cũng như mình trở lại quê nhà, còn quên đó là sống quê  người.
Lẽ  thật đó rất là gần gũi, rất là xác thực. Cho nên nếu người khéo nhớ trở  lại, ngay đây trở về với cái biết tất cả, biết đủ thứ hết, tuy nó biết  tất cả nhưng mà nó không là tất cả. Phải khéo thấy như vậy, nó không là  cái gì hết, trả nó về nguyên vẹn như nó là nó, thì đó là ta sống trở lại  quê nhà. Nếu nó biết tất cả mà nó theo tất cả là nó sống lưu lạc nơi  quê người, chỉ chút xiú vậy thôi!
Quí  vị thấy mê giác có khó khăn gì không? Có cách biệt xa xôi gì không?  Nhiều người nghe nói giác ngộ nhưng tự thân không nghĩ rằng mình sẽ giác  ngộ, vì điều đó để cho Phật chứ mình không dám.
Còn  ở đây thấy đúng lẽ thật rất gần gũi, thay vì cái biết này nó biết tất  cả các thứ hết, biết đủ hết nhưng nó vẫn giữ nguyên vẹn nó là nó chứ nó  không là tất cả, không là cái gì hết, thì ngay đó là xong, là giác. Còn  nếu nó biết cái gì đó rồi nó chỉ theo cái đó thôi là mê, vậy thôi! Chỉ  nhích qua nhích lại chút xíu đó thì mê giác ngay chỗ đó. Cho nên khéo là  ngay đây thấy rõ được cái chân lý hiện hữu nơi mình.
Thứ tư: Thiền Trong Cuộc Sống.
Điểm  thứ tư chỉ cho tất cả thấy rõ thiền ngay trong cuộc sống chứ không phải  học thiền là ở đâu xa lạ. Không phải vào ngồi trong thiền đường mới là  thiền mà thiền ngay trong cuộc sống, tức là luôn thực tập trong cuộc  sống. Làm cái gì cũng nhận biết rõ việc đang làm. Đi mình nhận biết là  đang đi, ngồi mình nhận biết đang ngồi, cũng như lái xe mình nhận biết  là đang lái xe, cầm vô-lăng mình nhận biết rõ, cho đến bán hàng mình  cũng nhận biết đang bán hàng, nhận rõ ràng; rồi trong cái buồn vui mình  cũng nhận biết rõ hết. Thực tập luôn trong cuộc sống hàng ngày, đều nhận  biết tất cả rõ ràng. Tức là luôn có ánh sáng tâm trong mọi chỗ, mọi  hành động, lúc nào ánh sáng tâm cũng phóng trong đó, gọi là mặt trời tâm  luôn mọc.
Như  thân ở đâu thì tâm ở ngay chỗ đó. Phải thực tập như vậy thì cơ thiền sẽ  đến với mình và có thể khi nó đến ta không ngờ được. Nhưng đa số chúng  ta đang sống ở nơi đất khách quê người, thân ở đây mà tâm ở đâu? Phân  chia thân một nơi, tâm một nơi. Chính chỗ đó là mất mình, thiếu mình, là  sống thiếu chủ.
Còn  luôn tập sống xoay trở lại, thân ở chỗ nào thì tâm ở chỗ đó, hiện đang  nghe pháp đây thì nó cũng đang nghe pháp đây. Cũng vậy, mình đang lái xe  thì nó cũng phải lái xe, chứ còn đang lái xe mà nó về nhà là chết rồi,  nhiều khi lái bậy nữa. Do đó phải tập thiền ngay trong cuộc sống chứ  không thể thiếu. Được vậy thì lúc nào nó cũng sáng, mà khi sáng rồi thì  nhìn gì cũng sáng hết.
Như  câu chuyện bà già cùng ngài Bạch Ẩn. Một hôm, Ngài lên tòa khai thị đại  chúng. Ngài giảng hễ tâm tịnh thì cõi nước thanh tịnh. Đức Phật ở trong  mọi chúng sanh chứ không đâu xa hết. Một khi Đức Phật xuất hiện thì mọi  vật trong thế gian đều chiếu ánh quang minh. Đức Phật xuất hiện ở đâu  thì thì sáng ngời tất cả, ai muốn nhận được diều này thì phải phản quan  tự kỷ.
Bà  già nghe xong thầm nói chuyện đó cũng không khó gì lắm và về thực hành.  Bà quán chiếu luôn soi lại chính mình ngay trong cuộc sống hàng ngày.  Một hôm, khi tâm đãù miên mật chuyên nhất, khi đang rửa nồi chợt bà ngộ.  Bà dẹp cái nồi và đến trình ngài Bạch Ẩn liền. Bà nói: “Con đã gặp Đức  Phật ngay trong thân con rồi, mọi vật dụng nó đều sáng ngời hết thật là  kỳ diệu vô cùng”.
Ngài  nghe như vậy mới gạn lại xem bà thực có thấy được vậy không, hay do học  rồi nói lại, nên Ngài nói: “Bà nói vậy, còn cái hầm phân thì sao? Nó có  chiếu sáng hay không?” Bà mới tiến lên đánh Ngài một cái và nói: “Ông  già này chưa ngộ”.
Hàng  ngày cũng là cái biết này nhưng nó không sáng ngời, vì bị những tư  tưởng lăng xăng phủ che, do nó luôn thường xuyên quán chiếu để nó luôn  hiện hữu. Khi nó sáng lên mới thấy rõ là cũng từ cái biết hàng ngày đây  nhưng giờ nó lại sáng ngời nên nhìn cái gì cũng sáng hết. Nếu có nhìn  hầm phân thì cũng sáng, vì nó không mê. Còn khi nghe nói hầm phân liền  cho là thối vậy là mê.
Như  vậy, lúc nào nó cũng sáng ngời hết. Nghĩa là tâm sáng tỏ thực sự rồi  thì nhìn ra cái gì cũng sáng, mọi hành động cũng sáng, tức là luôn sống  trong cái ánh sáng thật, nên Phật luôn ra đời với chính mình chứ gì nữa?  Nghĩa là Phật đâu có nhập Niết-bàn, phải không? Chúng ta thấy Phật nhập  Niết-bàn là vì tâm mình mê nên thấy Phật nhập Niết-bàn, còn tâm sáng  ngời thì Phật ra đời với mình. Vậy khi nhìn đâu cũng sáng ngời sẽ thấy  Phật ra đời, sung sướng không? Rõ ràng thiền là ngay trong cuộc sống, lẽ  thật luôn hiện hữu không ở đâu xa.
Lại  có câu chuyện cũng gần gũi luôn được nhắc nhở là thiền sư Đạo Ngộ chỉ  tâm yếu cho ngài Sùng Tín. Ngài Sùng Tín theo hầu Thiền sư Đạo Ngộ lâu  mà không nghe thầy chỉ dạy thiền gì hết. Một hôm, quá khao khát mới đến  bạch với thầy: “Thưa Thầy, từ ngày con vào đây đến nay, con chưa được  Thầy dạy tâm yếu thiền.” Thiền sư Đạo Ngộ mới nói: “Từ ngày ngươi vào  đây, ta chưa từng không lúc nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi”.  Ngài Sùng Tín ngạc nhiên nói: “Bạch Thầy, vậy Thầy chỉ dạy cho con lúc  nào?” Thiền sư Đạo Ngộ trả lời: “Mỗi ngày ngươi dâng trà lên ta vì ngươi  mà tiếp, ngươi bưng cơm lên ta vì ngươi mà nhận, ngươi xá lui thì ta vì  ngươi mà gật đầu, vậy thì có chỗ nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi  đâu!” Ngài Sùng Tín nghe vậy cũng chưa hiểu mới cúi đầu trầm ngâm suy  nghĩ. Ngài nói: “Thấy thì thẳng đó thấy liền còn suy nghĩ là sai rồi”.  Ngay đó Ngài tỉnh ngộ.
Thiền  sư Đạo Ngộ khéo léo, vì nếu lúc bình thường nghe nói như vậy chưa chắc  là ngài Sùng Tín đã ngộ vì xem thường. Khi tâm thật thiết tha, khao  khát, cõi lòng luôn mở sẵn sàng để đón nhận, chỉ cần khơi nhẹ nó là nhận  liền.
Đây  cũng vậy, đang khi khao khát nghe Thiền sư nói một cách bất ngờ là ta  không có lúc nào mà không chỉ dạy tâm yếu cho ngươi. Ngài Sùng Tín mới  ngạc nhiên, rõ ràng mình có được chỉ dạy lúc nào đâu. Nhưng không ngờ là  Thầy chỉ hàng ngày khi dâng trà, bưng cơm, thưa, xá chào, ngay đó là  tâm yếu rồi, là lẽ thật nó đang hiện hữu, nhưng đặc biệt nhận thì ngay  đó nhận liền, mà suy nghĩ là sai.
Bởi  vì suy nghĩ là gián tiếp rồi, suy nghĩ là suy nghĩ về nó tức là biến nó  thành đối tượng để suy nghĩ, thành ra mình tách rời mình với nó, nên hễ  suy nghĩ là sai, nhận thì ngay đó nhận liền. Vậy, cho thấy rằng cái lẽ  thật đó nó luôn hiện hữu sáng ngời trong chính mình, trong mọi cử chỉ  hành động đó chứ không đâu xa hết.
Song,  cũng do tâm mình phải thật sự sáng thì mới nhận rõ như vậy, chứ còn đem  cái tâm lanh lợi, cái tâm sanh diệt suy nghĩ vào trong đây thì nó cũng  thành sanh diệt theo. Có người nói nếu cái biết luôn hiện hữu sáng ngời  như vậy thì khi biết đau, biết khóc, biết buồn, biết vui thì nó cũng là  cái biết sáng ngời đâu cần tu chi nữa? Mà nếu cái biết đó là cái biết  sanh diệt thì sao?
Nên  chúng ta phải nhớ các Ngài ở trong cái biết chân thật, cái biết của  chân tâm nên lúc nào nó cũng sáng. Vì vậy, chúng ta cũng phải đem cái  biết chân tâm để nhận, còn nếu đem cái biết suy nghĩ mà suy nghĩ về nó  thì cũng theo chiều sanh diệt.
Cho  nên đối với các thiền sư khi được hỏi đến chỗ này thì các Ngài nói  không biết. Vì sao? Là để cắt đứt tâm nghĩ theo duyên của chúng ta đó,  tức là tâm lưu lạc nơi xứ người, cắt đứt để nó trở về ngay hiện thực.  Nên nói không biết không có nghĩa là không biết, phải không?
Ngày  xưa, ngài Khuê Phong có nói là “Tri chi nhất tự chúng diệu vi môn” tức  là “Một chữ biết là cửa các thứ nhiệm mầu”. Nhưng sau các thiền sư cũng  nói lại “Tri tri nhất tự chúng họa chi môn” tức là “Một chữ biết là cửa  các thứ họa”. Cùng một chữ biết các vị cho đó là cửa các thứ nhiệm mầu  mà cũng là cửa các thứ họa. Cũng từ nó mà có sân si, rồi cũng từ nó mà  giác ngộ nên chúng ta phải khéo soi trở lại thì nó là cửa các thứ diệu,  nếu không khéo theo nó mà vươn ra là cửa các thứ họa.
Tóm  lại, mỗi người sống ở đây ai có tâm thì cũng có biết, mà có biết tức là  có dấu vết để cho chúng ta trở về, chứ đâu có mất. Đó là một niềm an ủi  cho tất cả. Cái biết xưa nay vốn là nguồn tâm sáng ngời muôn thuở cho  chúng ta, mỗi người phải soi trở lại chớ theo cái biết sanh diệt rồi  nhiều khi lại chê bai lẽ thật xưa nay. Lẽ thật này là lẽ thật muôn thuở,  xưa nay không có gì phá hoại được.
Trong  Kinh Pháp Hoa, Phật nói: “Dù cho đến thời kiếp hỏa cháy tận hết mà cõi  của Ta thì vẫn còn an ổn”. Nghĩa là “Dù cho thế giới này đến thời kiếp  hỏa lửa bốc cháy, cháy hết cả thế giới nhưng cũng không đốt cháy cái thể  biết này”. Nó đốt cháy tất cả nhưng làm sao nó cháy tới chỗ này. Tức là  các thứ có thể hoại còn cái thể biết này làm sao hoại được, lấy cái gì  mà làm nó hoại đây? Dù cho ngoại đạo nhập định vô tưởng đến hàng triệu  năm nhưng có làm hoại nó được không? Cũng không làm hoại được nó. Khi  xuất định rồi thì cũng rơi trở lại tức là cũng biết nữa.
Cho  đến người bị tội vào trong địa ngục, lửa đốt cháy xương thịt tan hết  thành tro hàng trăm lần mà có tiêu được không? Trong kinh kể rằng bị đốt  cháy chết rồi thì có làn gió thổi qua liền sống lại, chịu tội tiếp tục  vậy mà cũng không đốt tiêu được. Cái gốc chân thật này không có thể làm  gì tiêu được, vậy mà chúng ta không nhớ trở lại để sống mà lại sống với  cái hư dối, cái tạm thời này để rồi phải lo, phải sợ? Ngay đây cần phải  phát minh ra lẽ thật này để sống trở về nguồn, tức là trở về sống ngay  với quê nhà của mình chứ đừng sống lưu lạc nơi quê người. Chúng ta mừng  là còn dấu vết để trở về, cũng như còn nghe được lẽ thật này nên đây  cũng là một nhân duyên hy hữu cho chúng ta. Nếu không thì cũng lờ mờ rồi  không biết sẽ lưu lạc ở đâu? Chỉ một chút đó khéo nhớ trở lại thì nó  chuyển hóa cả cuộc đời lớn lao của chúng ta, đúng là quí vị cũng có gieo  trồng duyên lành lớn, nên rồi cũng được nghe nhắc lại những lẽ thật này  để rồi cùng nhớ trở về. Trước kia, chúng tôi có làm một bài kệ nhằm làm  sáng tỏ lẽ thật này, tựa là: “Đẹp Lắm Ai Ơi!”:
                        Ôi! đẹp lắm kìa nắng mai đang rải khắp
                        Đem lại cho sức sống với muôn loài
                        Sau một đêm dài tối tăm chìm lặng
                        Và giờ đây bừng dậy ánh nắng ban mai.
                        Này đẹp lắm với cỏ cây hoa lá
                        Đang rung rung rung theo gió nhẹ đong đưa
                        Trong mắt người như gợi gợi cái gì kia đấy
                        Hỡi ai đó đã nhìn rõ hay chưa?
                        Và còn nữa muôn vàn cảnh vật
                        Đang hiện tiền chói sáng trước ai kia
                        Như nhắc rõ đây quê nhà muôn thưở
                        Thôi chạy tìm hãy mở mắt nhìn ra.
                        Có đúng không còn gì đẹp hơn nữa?
                        Chỉ một phen nhắm mở nhọc chi đâu
                        Vậy nhắn bảo ai kia mau mở mắt
                        Này đẹp lắm, ôi đẹp đẹp làm sao!
Ánh  nắng rải khắp muôn loài đều đủ hết sau một đêm dài tối tăm chìm lặng,  đêm dài giờ đây đãù bừng dậy dưới ánh nắng ban mai. Gió thổi nhẹ rung  rung, trong ánh mắt con người nó gợi cái gì? Ai thấy rõ được lẽ thật, đó  là tỉnh dậy sau đêm dài tối tăm. Quê nhà ngay đây chứ không đâu khác,  đang hiện hữu chỉ cần mở mắt nhìn ra thôi. Quí vị đang ngồi ở đây là mở  mắt hay nhắm mắt? Chỉ chút xíu đó thôi! Chỉ cần một phen nhắm mắt mở mắt  không phải nhọc nhằn chi nhiều. Ngay đây mình nhắm mắt rồi mở mắt, đơn  giản vậy thôi.
Vậy  hỏi kỹ lại tất cả quí vị chịu nhắm mắt hay chiụ mở mắt? Sống nhắm mắt  là tối tăm, mở mắt là sáng tỏ. Trong đạo nhiều khi mở mắt trao tráo lại  là ngủ. Cho nên cần thật sự là mở mắt, chỉ nhiêu đó thôi, lẽ thật nó là  như vậy.
Đây  là một cái lẽ thật muôn đời nay đã phơi bày trước tất cả, không còn dấu  diếm gì nữa hết, phần còn lại thì sao? Phần của Thầy xong rồi phần còn  lại của mỗi người, phải không?
Để  kết thúc xin chúc mọi người sớm nhận ra lẽ thật này. Đây là chân lý  muôn thưở, vượt cả thời gian và không gian, dù người có chấp nhận hay  không chấp nhận, hoặc là cố tình phủ nhận nó nhưng nó vẫn luôn hiện  hữu, chứ không phải vì phủ nhận nó mà nó không có. Lại cũng không phải  vì chấp nhận nó mà nó thành có, nó vẫn luôn hiện hữu như vậy, vẫn luôn  sáng ngời như vậy, vẫn luôn là như vậy. Danh từ nhà Phật gọi là “Vẫn là  như thị”, vẫn sẵn sàng đợi người đó, nhiêu đó là đủ rồi.
Các bài mới
- Ta là gì ? - 26/02/2016
- Thiền tông đốn ngộ - 16/11/2015
- Tâm yếu nhà Thiền - 16/11/2015
- Niệm về cái chết - 15/11/2015
- Sống tỉnh giác - 15/10/2015
Các bài đã đăng
- Tam nhân Phật tánh - 23/09/2015
- Tâm Kinh Bát Nhã qua cái nhìn của nhà thiền - 23/09/2015
- Giải trừ bản ngã - 23/06/2015
- Ta thì chẳng phải là ta - 22/06/2015
- Chẳng lầm nhân quả - 18/06/2015
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 35726
- Online: 31
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
                              
             
             
             
             
            