Chớ để thời gian qua suông
08/08/2013 | Lượt xem: 3543
ĐĐ.Thích Tâm Hạnh giảng
Thưa toàn thể quí Phật tử Trong những lần được hầu chuyện và thưa hỏi đạo lý, Hòa thượng ân sư đã chỉ dạy và nhấn mạnh giá trị của sự tu tập để sách tấn quý Thầy. Có lần Ngài nói: “Tôi thấy mấy chú bây giờ còn trẻ mà để thời giờ phí quá!” Đang lắng nghe nói về giá trị đạo lý, bất chợt Hòa thượng bảo "sao để thời giờ phí quá", tôi giựt mình. Tự trong sâu thẳm lòng mình thôi thúc tôi tự hỏi:
"Như vậy lâu nay mình đã sống trọn vẹn hết thời giờ chưa? Mình có để lãng phí thời giờ hay không? Và bằng cách nào để chúng ta sống một cách có ý nghĩa, không để lãng phí thời giờ đúng như lời Hòa thượng đã chỉ dạy?"
Từ suy nghĩ đó, hôm nay chúng tôi sẽ nói chuyện với toàn thể quí vị đề tài: “Chớ để thời giờ qua suông”.
I. CHƯ TỔ TÔN TRỌNG GIÁ TRỊ THỜI GIAN.
Trong bài “Tham Đồng Khế”, ở phần cuối, Thiền sư Thạch Đầu có nói:
Cẩn bạch tham huyền nhân
Quang âm mạc hư độ.
Nghĩa là:
Kính bạch bậc tham huyền
Thời giờ chớ để luống qua.
Lời Ngài nhắc nhở thật là thiết tha! Ngay dưới bài đó, Thiền sư Pháp Nhãn có lời chú: “Ơn lớn vòi vọi khó đền.” Tiếp theo lời chú của Thiền sư Pháp Nhãn, một vị Thiền sư nổi tiếng đương thời nữa là ngài Đức Hồng Giác Phạm, Ngài có một hiệu khác là Tịch Âm tôn giả, cũng có lời tán thán: “Pháp Nhãn quả là bậc thấy được tâm của Tiên đức.” Có nghĩa là ngài Pháp Nhãn đúng là một vị thấy được tâm của ngài Thạch Đầu.
Như quí vị thấy, bài “Tham Đồng Khế” nói lên chỗ của những vị tham thiền khế hợp, nói đến lý mầu huyền diệu cao sâu, nhưng tại sao cuối bài Ngài lại nhắc “chớ để thời giờ luống qua”? Mình nghe lời Ngài nói rất là bình thường, phải không? Nhưng ngài Pháp Nhãn thì nói "đó là một cái ơn lớn vòi vọi khó lấy gì đền đáp nổi". Ngài Đức Hồng Giác Phạm lại nói rằng "Ngài Pháp Nhãn nói như vậy là Ngài đã thấy được tâm của bậc Tiên đức", có nghĩa là thấy được tâm lão bà tha thiết của ngài Thạch Đầu. Trong đây có quí vị nào thấy được tâm của ngài Thạch Đầu tha thiết thương chúng ta như thế nào chưa?
"Bậc tham huyền" tức là những vị tham cứu thiền thấu suốt đến chỗ huyền vi, tham tột đến chỗ yếu diệu của đạo. Cụ thể là chỉ cho những hành giả tham thiền. Thiền sư Thạch Đầu nói "kính bạch bậc tham huyền, thời giờ chớ để luống qua" tức là Ngài thấy rõ được sự lợi hại và nói lên một cách chí thiết, để nhắc thức cho những ai là người thiết tha tu hành, muốn đạt đến chỗ sâu xa mầu nhiệm của đạo lý thì đừng để thời giờ luống trôi qua suông.
“Chớ để thời giờ qua suông!”, mới nghe qua, chúng ta nghĩ chắc là Ngài cũng chỉ nhắc nhở cho chúng ta biết quý tiếc thời giờ vậy thôi chứ không có ý gì cao siêu, và cũng coi như là việc bình thường không có gì quan trọng lắm, phải không? Nhưng tại sao với ngài Pháp Nhãn thì thấy đây là một cái ơn lớn rất khó đền? Một lời nói này thôi mà là ơn lớn khó đền, và ngài Tôn giả Tịch Âm lại khen ngài Pháp Nhãn là một người thấy được tâm của ngài Thạch Đầu nữa?
Khi quí ngài tán thán, có nghĩa là quí ngài đã đồng cảm thông và thấy được chỗ trọng yếu thống thiết của nhau. Nghĩa là quí ngài đã thầm khế hợp, thông suốt nhau nên thấy rõ việc quí tiếc thời giờ quả là một điều thiết yếu, phải không? Còn nếu coi đây là một câu nói bình thường, không có gì quan trọng thì chúng ta đã đồng cảm, đã có chỗ cảm thông khế hợp với quí ngài hay chưa?
Quí ngài là những bậc Tông sư lỗi lạc của một thời và đã thông cảm nhau. Nếu chúng ta chưa đồng cảm với quí Ngài thì có nên xét lại, hiện tại mình đang là gì, là đang mê hay tỉnh?
Như vậy, do không thấy suốt một cách trọn vẹn nên chúng ta xem việc quí tiếc thời giờ là tầm thường, không quan trọng, có khi mình còn không biết trân quí thì giờ nữa. Nhưng đối với quí ngài đã giác ngộ, thấy rõ tầm quan trọng và lợi hại, nên các ngài đã hết lòng răn nhắc người sau. Quí ngài đồng có một chỗ thống thiết, cho nên thấy được nhau. Đó là ba bậc tác gia cùng xướng họa, khen nhau có nghĩa là quí ngài đã gặp nhau trong chỗ chân thật ấy, phải không?
Hôm nay quí thầy sẽ nói rõ ra cho quí Phật tử hiểu để cùng thấy chỗ của các ngài chỉ dạy, từ đó chúng ta thực hành cho được trọn vẹn và đúng nghĩa.
Chư Phật chư Tổ răn nhắc “chớ để thời giờ qua suông” cũng có nghĩa là nhắc thức cho tất cả chúng ta quí tiếc thời giờ, phải vậy không? Nhưng để thấu suốt và thấy rõ tại sao các ngài đã đề cao và nhắc nhở "chúng ta phải quí tiếc thời giờ" một cách thống thiết như vậy, trước tiên mình nên cùng nhau xét lại, tại sao phải quí tiếc thì giờ?
II. TẠI SAO PHẢI QUÝ TIẾC THỜI GIỜ?
Bây giờ, theo quí vị tại sao chúng ta phải quí tiếc thì giờ? Nếu nói cho hết những nguyên nhân từ nhỏ nhặt cho tới lớn thì rất nhiều. Nhưng nếu nói tóm gọn lại để đi vào trọng tâm thì theo chúng tôi có ba nguyên nhân chính mà chúng ta cần phải quí tiếc thì giờ. Đó là gì?
1. VÌ TRÂN QÚY DUYÊN LÀNH ÍT CÓ, KHÓ ĐƯỢC MÀ NGÀY NAY MÌNH ĐÃ CÓ ĐƯỢC NÊN CHÚNG TA PHẢI QÚY TIẾC THÌ GIỜ.
Bây giờ quí vị thử nghiệm xem: Nếu có một cái gì đó ít có và khó gặp thì quí vị có quí tiếc không? Quí tiếc và sợ mất đi, phải không? Vì sợ mất đi cho nên chúng ta phải tìm cách giữ gìn và làm cho nó tăng trưởng, không dám để cho nó trôi suông, bị cuốn đi một cách oan uổng, phải không? Nhưng thời gian trôi qua lại cuốn phăng cái đó đi, khoảng thời gian còn lại để mình may mắn có được cái đó, thì khoảng thời gian còn lại đó có quí hay không? – Rất trân quý! Chính vì trân quí như vậy, cho nên chúng ta không dám để một phút giây nào lơi lỏng, trôi suông, phải không?
1.a Thân người khó được.
Theo quí vị "chúng ta được làm thân người" là khó hay dễ? Khó phải không? Mang thân người đã là khó, mà hôm nay chúng ta đã được thân rồi, kế đó là mình được đầy đủ căn trí, rồi được gặp minh sư, nghe pháp, đó là một điều khó hơn, phải không? Cái ít có, khó được mà ngày nay chúng ta đã có, đã được thì mình có trân quí nó không? - Rất là trân quí! Mà trân quí thì chúng ta có nên dốc hết lòng để giữ gìn và làm tăng trưởng duyên lành mà đời nay mình đã có được hay không?
Trong Kinh nói “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn” có nghĩa là "thân người khó được và chánh pháp thì khó nghe". Hiện nay chúng ta nhìn thấy con người ở trên quả địa cầu này quá nhiều, nhưng tại sao đức Phật lại nói là thân người khó được? Có mâu thuẫn hay không? Tuy trên quả địa cầu này đang có nhiều chúng sanh được làm người, nhưng so với các chúng sanh là những loài khác, chưa được làm người, thì chúng sanh đang được làm người vẫn còn rất ít, phải không? Cho nên được làm thân người là khó.
Trong kinh Tạp A-hàm, đức Phật có nói ví dụ, ví như cả đại địa đất liền này đều biến thành biển cả, trên biển đó có một khúc cây trôi dạt từ đông sang tây. Có một con rùa mù tuổi thọ sống đến một vạn năm, và một trăm năm nó mới trồi đầu lên một lần. Quí vị thử nghĩ, con rùa mù đó có dễ dàng gặp được bộng cây trôi dạt kia để chui vào trong hay không? Rất là khó! Vậy mà Phật nói, được thân người còn khó hơn thế nữa! Qua đó chúng ta mới thấy, được làm thân người không phải là dễ.
Cũng trong một bài kinh, đức Phật nói, ví như đất dính ở trong móng tay của Ngài và đất của cả đại địa thì những chúng sanh có được thân người chỉ như đất trong móng tay Ngài thôi, còn những chúng sanh đi trong các đường khổ không được làm người thì như đất của quả địa cầu này. Ngài đã dùng Phật nhãn xem thấy rõ như vậy. Qua đó quý vị thấy được làm thân người có khó hay không? Ngày hôm nay chúng ta đã hội đủ duyên, đủ phước, đủ điều kiện thì mới có được thân người chứ không phải là dễ dàng. Cho nên các bậc Cổ đức nói:
Thiên niên thiết thọ khai hoa dị
Nhất thất nhân thân vạn kiếp nan.
Nghĩa là "cả ngàn năm cây sắt mới trổ hoa một lần, vẫn còn là dễ, nhưng một phen mất thân người rồi thì muôn kiếp khó được lại". Được làm thân người là khó, đó là cái khó thứ nhất mà ngày hôm nay chúng ta đã có được.
1.b. Chánh pháp khó nghe.
Tới cái khó thứ hai là "chánh pháp khó nghe". Tại sao chánh pháp lại khó nghe? Có hai lý do:
- Lý do thứ nhất khó nghe là do ít có và khó gặp được bậc thiện tri thức nói cho nghe.
Xưa kia, trong một tiền kiếp đức Phật là một nông dân, ra đời không gặp Phật để nghe pháp, không có Tỳ kheo tăng để cầu pháp, Ngài thiết tha cần cầu chánh pháp, nhưng không có ai nói pháp cho nghe. Có một cư sĩ người hàng xóm bảo: “Tôi biết ba điều giới luật.” Người nông dân nghe thế trong lòng rất vui mừng qùy xuống khẩn cầu. Người hàng xóm bảo: “Phật pháp vô thượng, ông chỉ muốn được nghe suông thôi sao?” Nông dân hỏi: “Vậy phải làm sao?” Người hàng xóm bảo: “Mỗi lỗ chân lông châm vào một cây kim, máu chảy ra như suối mà không có tâm hối tiếc thì mới được.” Nông dân vui mừng thưa: “Dẫu giết chết thân này tôi vẫn vui vẻ làm theo, huống nữa là còn sống?” Người nông dân liền đi vào chợ mua kim rồi tự tay châm vào thân thể mình, máu ra như suối. Người hàng xóm cảm phục ý chí của anh bèn trao cho bài kệ:
Giữ miệng và nhiếp ý,
Thân không phạm điều ác.
Trừ được ba hành này,
Thẳng tắt thành bậc Hiền.
Người nông dân nghe xong, lòng rất vui mừng, thân thể liền được bình phục như cũ, trời người đều khen ngợi. Từ đó càng thêm tinh tấn, trải qua nhiều kiếp không hề biếng nhác cho đến ngày thành Phật, hiệu là Thích Ca Mâu Ni.
Châm kim đầy mình, máu ra như suối, chỉ để được nghe một bài kệ. Vì dốc hết tâm, quên mình cầu đạo, trân quý Chánh pháp, cho nên vị nông dân này mới thiết tha, hết lòng siêng năng tu tập, trải qua thời gian lâu dài mà vẫn không hề chán mỏi và cuối cùng mới thành Chánh quả. Như vậy, muốn nghe được Chánh pháp là khó hay dễ? Ngày nay sở dĩ chúng ta thấy dễ là vì được nghe nhiều quá. Vì được nghe nhiều và dễ dàng quá cho nên chúng ta tu hành cũng “khiêm nhường”, ít tiến bộ như người xưa, phải không? Còn ngày xưa, ra đời gặp thời không ai nói pháp thì lúc đó mới thấy chánh pháp là khó được nghe.
- Lý do thứ hai là ngày nay quý Phật tử được nghe quý Thầy giảng nói nhiều, nhưng quí vị thấy chánh pháp là khó nghe hay dễ? Được nghe quí thầy giảng nhiều, kinh luận in ấn cũng nhiều nên chúng ta thấy rằng chánh pháp vẫn dễ được nghe, phải không? Nhưng quý vị nghe có dễ hiểu không? Tuy được nghe nhiều, nhưng lắm lúc chúng ta cũng cảm thấy khó hiểu, cho nên nó cũng đồng với nghĩa là " khó nghe", phải không? Có khi mình ngồi nghe mà còn buồn ngủ nữa, hoặc tuy có chú ý nghe mà cũng cảm thấy khó tiếp thu, khó hiểu sâu đúng nghĩa, thành ra cũng là khó nghe.
Như vậy quý vị đã thấy "chánh pháp là khó nghe" chưa?
1.c. Tóm kết.
Ngày nay mình đã được làm thân người, đã được nghe chánh pháp và quí vị còn hiểu được nghĩa lý nữa, đó là do duyên lành mình đã huân tu nhiều đời nên hôm nay mới có được chứ không phải thường.
Chính vì vậy mà trong Kinh Kim Cang cũng như các Kinh điển Đại Thừa, đức Phật thường nhấn mạnh:
Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người đối với chương cú này mà hay sanh lòng tin, cho những điều đó là thật; thì phải biết người ấy chẳng phải chỉ ở nơi một Đức Phật, hai Đức Phật, ba, bốn, năm Đức Phật gieo trồng căn lành, mà đã ở nơi chỗ vô lượng, ngàn vạn đức Phật gieo trồng các căn lành.
Ngày nay mình đã được làm thân người, đầy đủ căn trí; được nghe chánh pháp, tin được diệu lý tối thượng, tin nơi chính mình có Phật tánh, hiểu được giáo lý thâm sâu và còn thực hành, ứng dụng tu tập nữa, thì phải biết rằng đó là duyên lành rất lớn của mình chứ không phải là chuyện thường. Chúng ta phải nhận biết cho rõ thì mới biết trân quí và giữ gìn, làm cho duyên lành đó ngày càng tăng trưởng thêm.
Tất cả chúng ta giống như một đoàn người đang cùng đi trên một chuyến tàu tử sanh mà tới điểm cuối con tàu sẽ lao mình xuống đáy biển. Chuyến tàu tử sanh ấy đang lao dần và tiến gần đến điểm cuối không còn bao xa nữa. Quí vị thấy đã gần kề chưa? Từ khi sanh ra, lớn lên, mỗi ngày qua là mỗi ngày thân thể, sức khỏe hao mòn, rồi đến già, đến bệnh… đó là con tàu nó gần đâm đầu xuống biển rồi đó. Nếu là người biết thương mình, biết lo cho mình thì ngay từ bây giờ chúng ta phải lo cái phao của mình là vừa rồi, phải không? Phao gì đó là tùy quí vị, mỗi vị tự chọn cho mình một cái phao, mà chọn như thế nào để khi con tàu lao xuống đáy biển, chúng ta không bị chết chìm là tốt.
Tất cả chúng ta hễ ai được sinh ra và sống trên trần gian này rồi tới lúc cũng phải tạm biệt cõi đời để ra đi. Cuộc ra đi ấy người người đều phải chung chịu, dù có sợ hãi hay lo lắng bao nhiêu cũng không thể tránh khỏi. Điều chúng ta có thể lo được là ngày hôm nay mình phải lo chuẩn bị lương thực trước cho mình, chuẩn bị hành trang trước lúc ra đi. Được như vậy là chúng ta đã chuẩn bị được cái phao cứu mình khỏi chết chìm.
Trong lời tựa quyển “Kiến Tánh Thành Phật” của Thiền sư Chân Nguyên, Ngài có nói bài kệ “Khuyến Đàn-na”:
Quyến thuộc giai xả khứ
Tài hóa tán hoàn tha
Đản trì tự thiện căn
Hiểm đạo sung lương thực.
Có nghĩa là:
Quyến thuộc đều bỏ đi
Tiền của trả lại người
Chỉ căn lành gìn giữ
Đường hiểm lương thực đầy.
Đi trên một con đường nguy hiểm nhưng mà lương thực đầy đủ thì quí vị có còn lo lắng không? Hễ mệt chỗ nào là có lương thực ngồi ăn chỗ đó rồi, không có gì lo cả, phải không? Lương thực đó chính là căn lành. Biết lắng nghe chánh pháp, khéo ứng dụng tu tập là biết gìn giữ căn lành. Căn lành tăng trưởng, đó là loại lương thực rất cần thiết giúp cho chúng ta được an toàn khi đi trên con đường hiểm nguy sanh tử này. Đây là Ngài Chân Nguyên đã thấy rõ và nhắc thức tất cả chúng ta biết trước để chuẩn bị tư lương trang bị cho ngày ra đi. Trên lộ trình nguy hiểm đó, nếu ai có lương thực đầy đủ thì không có gì lo lắng, sợ sệt cả.
Cũng như mỗi người chúng ta đều có một chiếc xe, sử dụng một thời gian rồi nó cũng sẽ bị hư hoại. Nhưng khi chiếc xe sắp hư hoại thì có người rất lo lắng, có người thì bình thường. Người lo lắng là vì sao? - Vì trong quá trình sử dụng, chúng ta chỉ biết đi xe mà không biết tu sửa chiếc xe, cũng không biết tận dụng thời giờ để làm ra tiền của mà sống bê tha, phải không? Nếu chúng ta kiếm được nhiều tiền, được giàu có rồi thì khi chiếc xe cũ bị hư, chúng ta có bị hụt hẫng không? Xe hư mà tiền của mình đã có thừa thì muốn mua chiếc xe khác tốt hơn, hay không cần mua nữa là quyền mình thôi, phải không? Chiếc xe đó là dụ cho tấm thân tứ đại mà mỗi người chúng ta đang sống đây. Và tiền của giành dụm được là sự huân tu và phước đức của mình. Hôm nay chúng ta đang có một mái ấm gia đình, có một cuộc sống tương đối ổn định là do phước đức mình đã tích lũy từ đời trước. Nhưng nếu trong cuộc sống hiện tại chúng ta không biết tu tạo, vun bồi mà chỉ xài cái của quá khứ thì có ngày nó cũng sẽ hết. Khi sắp ra đi, chúng ta sẽ hốt hoảng, lo sợ. Ngược lại, nếu trong cuộc sống, chúng ta biết ứng dụng tu tập, sống tỉnh giác, không quan trọng mình và mọi thứ một cách thái quá mà luôn nghĩ đến người khác, bất cứ điều tốt gì trong khả năng mình có thể tranh thủ làm được thì sẵn sàng làm ngay. Người sống được như vậy thì khi sắp lâm chung, như người xe cũ sắp hư mà có nhiều tiền của giàu có, thì chúng ta sẽ đổi xe thôi, không có gì lo sợ cả. Như vậy, nếu mọi thứ đã được chuẩn bị trước rồi thì chúng ta sẽ được chủ động, khi chiếc xe cũ này hư hoại, chúng ta vẫn bình thường, vẫn an ổn, vui vẻ mà không có gì buồn lo hay sợ sệt gì cả. Nếu còn sợ sệt, có nghĩa là chúng ta chưa chuẩn bị đủ tiền cho mình rồi. Điều này mỗi người trong chúng ta cần phải xem xét lại, kiểm tra lại tài khoản của mình, phải không? Kiểm tra lại hằng ngày mình có dành dụm được đồng nào cho mình hay không? Nếu có thì tài sản của mình đã đủ hay chưa?
Trong Kinh Tạp A Hàm, đức Phật nói thế gian này có bốn hạng người: hạng thứ nhất đi “từ tối đến tối”, hạng thứ hai đi “từ tối đến sáng”, hạng thứ ba đi “từ sáng đến tối” và hạng thứ tư đi “từ sáng đến sáng”.
- Hạng người đi “từ tối đến tối” là sao? - Là người sanh ra trong hoàn cảnh không được tiện nghi, sống trong nghèo khó, không có điều kiện để học hỏi, mở mang hiểu biết. Lại còn thiếu duyên lành, không được ai chỉ cho biết các thiện pháp, thân cứ làm ác, miệng cứ nói ác và ý nghĩ đều ác. Như vậy do nghiệp đen tối của mình từ quá khứ nên đời này sanh ra không đủ phước duyên, cộng thêm đó, ngày hôm nay lại tiếp tục theo nghiệp đời trước, theo lối mòn của quá khứ để gieo những nhân ác nữa. Từ nhân tối tăm nên phải thọ quả báo tối tăm; đang khi lãnh thọ quả báo tối tăm, lại tiếp tục tạo nhân tối tăm để rồi sẽ đi vào con đường tăm tối vào những kiếp về sau nữa. Đức Phật dạy, đó là hạng người từ chỗ tối đi vào chỗ tối thôi, không thể sáng hơn được.
- Hạng người thứ hai đi “từ tối đến sáng” nghĩa là sao? - Cũng là một người sanh ra đời không gặp nhiều may mắn như vậy, nhưng ngoài những giờ mình phải ngược xuôi để lo cho cuộc sống, còn lại thời gian nào có thể cho phép được, chúng ta tranh thủ tạo duyên lành; hoặc là học Phật pháp, hoặc làm tất cả những gì mình thấy tốt. Cũng có thể vận dụng ngay trên các công việc sinh hoạt hằng ngày, tâm luôn nhẹ nhàng, chan hòa, cởi mở, sẵn lòng tha thứ cho tất cả và luôn nghĩ tốt cho người. Miệng luôn nói lời hòa nhã. Bất kỳ trong một hành động nào đó tiện tay, chúng ta nên tranh thủ làm những điều tốt giúp người, cứu vật… Và cứ như thế, mỗi ngày luôn lấy các việc tốt làm niềm vui. Được như vậy, cuộc sống hiện đời được an vui, gặp nhiều may mắn, được nhiều người cảm mến giúp đỡ, sống trong sự quan tâm của mọi người. Về sau sanh ra đời sẽ gặp nhiều duyên lành, cuộc sống sẽ sáng sủa hơn đời này. Như vậy, tuy hôm nay ra đời kém may mắn, ở trong chỗ tối tăm, nhưng ngày mai mình tiến lên được chỗ sáng, đó là người sáng suốt biết vươn lên trong cuộc sống, biết lo cho mình và người.
- Hạng người thứ ba đi “từ sáng đến tối” có nghĩa là ngày nay chúng ta sanh ra trong gia đình giàu có, đầy đủ tiện nghi, được học hành, có trí thức. Sở dĩ có được như vậy là do kiếp trước mình đã tu tạo phước đức, nhưng hôm nay không nhận thức được cho nên trong cuộc sống lại bê tha, phung phí, không biết vun bồi. Có khi một bữa tiệc lên đến hàng chục triệu nhưng lại quên cho người ăn xin bên cạnh mình vài ngàn đồng. Lắm lúc đi du lịch từ miền này sang nước khác, lên đến tận cung trăng mà không có thời gian sang hỏi thăm nhà bên cạnh. Thường xuyên thích thú ngao du với rất nhiều người được cho là đẳng cấp trong xã hội mà không nhớ đến cha mẹ hay người sống bên cạnh mình đang suy nghĩ gì. Chuyện thế giới thì bàn nói thao thao mà gạo trong nhà còn bao nhiêu không biết… Có nhiều người khác có cơ may hơn, được học hỏi và tỏ ra như mình là người thông thạo mọi việc, hiểu thông cả Phật pháp nữa. Nghe thì có nghe, hiểu thì có hiểu, nhưng gặp việc thì những hiểu biết kia nó bay đi đâu mất biệt tăm dạng, không ứng dụng được một phần nhỏ nào vào cuộc sống và chứng nào lại cứ trở lại tật ấy, sống theo một bộ mặt của sân si, độc ác, ích kỷ, xan tham, lừa dối, hư ngụy, xu nịnh... Tuy cái quả hôm nay gặp nhiều may mắn, là sáng, nhưng chúng ta không biết giữ gìn, phát huy mà ngược lại sống trong bê tha, mờ mịt, tạo nhân tối tăm. Khi cái sáng may mắn hết, cái tối được tạo ra quá nhiều thì kết quả sẽ đưa chúng ta đi về đâu? Như vậy là từ chỗ sáng mà đi vào bóng tối, thật là đáng tiếc, phải không?
- Và hạng người thứ tư là đi “từ sáng đến sáng” có nghĩa là tất cả chúng ta sanh ra được làm thân người, được học Phật pháp, có hiểu biết, hằng ngày còn khéo ứng dụng tu tập, luôn giữ sự trung chánh, hướng đến đời sống nhàn tịnh, xem nhẹ cá nhân mình và quan tâm đến người khác. Sống bằng sự hy sinh, tha thứ, không cố chấp. Lấy niềm vui của mọi người làm niềm vui của mình. Tất cả những gì đang có được là duyên tốt để mình có đủ điều kiện làm lợi ích cho người khác… Đó là hạng người ngày hôm nay đang sáng, ngày mai sẽ được đến chỗ sáng hơn nữa, phải không?
Đức Phật đã nói rõ bốn hạng người cho chúng ta biết rồi, quí vị muốn hạng người nào đó thì tùy mỗi người tự chọn để sống cho mình. Không ai có thể sống thay cho mình được cho nên cũng không người nào có quyền chọn lựa thay cho mình được hết, phải không?
Ngài Tuyên Luật Sư ở núi Chung Nam thương xót cho người sau, nên Ngài đã nhắc thức cho biết rằng: “Chỉ nên đời sau hơn đời này, chớ để đời này hơn đời sau.” Hay là nói cho rõ hơn là đừng để "đời sau tệ hơn đời này" mà buồn lắm, phải không? Bây giờ mình muốn đừng để tệ hơn thì phải làm sao? Phải tận dụng những khoảng thời giờ còn có được để chọn cho mình một con đường và sống cho có ý nghĩa. Ngày hôm nay mình không nói là sáng hay tối, chuyện hôm nay là chuyện của hôm nay, nhưng nếu biết chọn đúng và sống cho trọn vẹn với những gì đã chọn thì chúng ta sẽ thấy được cái sáng sủa của mình ngày mai. Được như vậy thì càng về sau càng được thăng tiến hơn. Còn nếu để đời sau trì trệ hơn đời này thì thật là đáng tiếc.
Ngày nay chúng ta đã được làm người, có đầy đủ trí tuệ, đầy đủ các căn lành, cuộc sống ổn định và được gặp minh sư, được nghe chánh pháp rồi mình khéo tu tập để thoát khổ trong sanh tử. Nếu nói là tối ưu thì không có một mức độ nào ở cuộc đời này để so sánh, để nói rằng chúng ta có được cái phước tối ưu tuyệt đối. Nhưng nếu nhìn lên thì tuy rằng mình chưa bằng ai, mà nhìn xuống thì cũng có người không bằng mình. Như vậy, hiện nay những gì mình đang có cũng là đáng quí lắm rồi, phải không?
Khi đã biết rõ sự có mặt của chúng ta ngày hôm nay là một phước duyên lớn do chúng ta đã gieo trồng từ nhiều đời trước, một phen mất đi, muôn kiếp khó gặp lại, thì chúng ta rất trân quí nó, cần phải tiếp tục vun bồi và phát huy thêm. Nhưng thử nghiệm xem, khoảng thời gian còn lại cho phép chúng ta làm công việc đó là nhiều hay ít? Rất ít, phải không? Đã ít rồi mà thêm vào đó mỗi ngày qua nó lại bào mòn đi mạng sống, cướp đi khoảng thời gian còn lại của mình nữa, thì chúng ta có dám lơi lỏng hẹn nay hẹn mai, rồi để cho thời giờ nó trôi suông một cách hoang phí nữa hay không? Còn ít mà lại bị cướp đi thì chúng ta không dám hẹn nữa rồi, phải không?
Nếu ai ai cũng thấy rõ như vậy thì chúng ta rất quí tiếc thì giờ, đồng thời tranh thủ tận dụng khoảng thời gian mình còn có được để làm những gì có ý nghĩa nhất, có vậy thì mỗi ngày qua là mỗi ngày chúng ta sống được có ý nghĩa. Vì thế mà cuộc sống trở nên đầy ý vị, sau này mình sẽ không hối tiếc và ăn năn cho quãng đời mình đã sống qua.
Đó là lý do thứ nhất mà quí vị cần phải ý thức để quí tiếc thì giờ, phải không?
2/ VÌ VÔ THƯỜNG MAU CHÓNG, KHÔNG HẸN VỚI BẤT CỨ AI NÊN PHẢI QÚY TIẾC THÌ GIỜ.
2.a/ Vô thường già bệnh, không hẹn với ai.
Bây giờ quí vị nhìn lại thực tế nơi mỗi người. Hễ ai có sanh ra, có lớn lên thì có già và rồi sẽ chết, phải không? Cuộc vô thường nó không tha cho bất cứ một ai cả. Nhưng cái già cái bệnh cái chết đó nó có báo trước cho quí vị biết không? - Không báo trước cho ai biết hết, phải không? Ưa già là nó già, ưa bệnh là nó bệnh, mà ngày mai mình có chết đi nữa thì nó cũng không thèm báo trước cho mình biết. Chính vì không báo trước cho nên nó rất nguy hiểm và đến lúc nào mình cũng không hay. Bởi vậy mình không thể nghĩ rằng khoảng thời gian còn lại của mình là dài được, phải không?
Trong kinh A-hàm, đức Phật dạy có bốn việc không báo trước cho người hay biết: Một là đầu bạc, hai là già, ba là bệnh và bốn là chết. Bốn việc này tránh cũng không được mà bỏ cũng không xong. Bây giờ quí vị nhìn lại, mới thấy mình còn trẻ đây, rồi lo lụi hụi làm ăn, thời gian sau soi gương nhìn lại thì tóc chúng ta đã bạc hồi nào không hay nữa, phải không? Thế thì vô thường nó có hẹn cho chúng ta hồi nào không? Nếu mà hẹn thì mình phải được báo cho biết trước. Đằng này đợi cho đến khi soi gương kiểm tra lại mới giựt mình, ủa sao bữa nay tóc tôi bạc nhiều quá rồi! Như vậy là nó không có hẹn với ai cả, phải không? Rồi bệnh cũng vậy, hôm qua mới khỏe mạnh đó, sáng nay thức dậy đột nhiên nghe trong người chóng mặt, nhứt đầu, không được khỏe và bị bệnh rồi. Ưa bệnh là nó bệnh. Hôm nay bị bệnh mà ngày hôm qua nó cũng không thèm báo cho mình biết một tiếng nữa, phải không? Nếu bệnh thông thường thì không nói, thời đại này còn có nhiều loại bệnh rất nguy hiểm và nó đến một cách bất ngờ không ai lường trước được. Rồi cái chết cũng vậy, nó cũng xảy đến rất bất thường, phải không?
Như vậy bốn việc này là không tránh được, và nó không hẹn cho ai biết trước cho nên bản chất của nó rất là nguy hiểm. Nó có thể đến với bất cứ ai trong bất cứ lúc nào mà không ai có thể đoán biết được. Chiêm nghiệm lại rồi mới thấy rõ bản chất của sự vô thường rất nguy hiểm và mau chóng, thời gian còn lại cho chúng ta sống được và làm những gì cần làm thì không còn là bao nữa. Tự thân mình cảm nhận một cách sâu sắc và thấm thía như vậy thì chúng ta rất quý tiếc thì giờ, thấy rằng mỗi ngày qua là một sự mất mác cho nên không dám buông lung để thời gian trôi qua một cách vô ích.
2.b. Con người thì hay hẹn.
Tuy sự vô thường nhanh chóng, nó không hẹn với bất cứ ai, nhưng con người chúng ta thì có thường hay hẹn không? Thời gian thì không hẹn nhưng mà ngược lại con người thì thường hay hẹn, phải không? Cụ thể là, vừa hơi mỏi một chút thì hẹn, hôm nay mệt, thôi ngày mai mình tu, phải không? Bữa nay tính lên chùa nhưng bận quá, thôi hẹn lại tháng sau lên. Như vậy thì thưa quí vị, nó không hẹn với mình, nó không dừng lại và cũng không cho mình biết trước nữa. Nhưng ngược lại, mình lại hẹn với nó thì chúng ta đã bị lầm to, bị thất trận rồi, phải không? Nếu cứ tiếp tục hẹn như thế thì chắc chắn chúng ta sẽ mãi mãi chuốc lấy thất bại, chuốc lấy sự mất mác lớn lao mà không mang lại được lợi ích gì cho một ai cả.
Phẩm Ngu Ám trong kinh Pháp Cú Thí Dụ, đức Phật có nêu gương này để chúng ta thức tỉnh:
Khi Phật trú tại nước Xá Vệ, trong thành có vị Bà la môn gần tám mươi tuổi, giàu có vô số, nhưng ông là người khó độ, không tin đạo đức, không biết vô thường và ham thích cất nhà to lớn sang trọng. Ông ra sức cất nhà trên, nhà dưới, đài hóng mát, nhà sưỡi ấm, dãy bên đông, dãy bên tây… tất cả mấy mươi gian, duy chỉ còn mái hiên che nắng căn nhà sau là chưa xong. Lúc đó vị bà la môn để hết tâm trí lo chỉ huy mọi người làm việc. Đức Phật dùng Phật nhãn thấy mạng ông sống không hết ngày hôm đó. Thế mà ông không tự biết, cứ mãi miết lo tính nhọc nhằn đến nổi thân thể tiều tụy, thật đáng thương! Đức Phật cùng ngài A Nan đi đến nhà ông thăm hỏi:
- Ông có mệt nhọc lắm không? Nhà cửa xây dựng nhiều như vậy dùng để làm gì?
Ông lão đáp:
- Nhà trước dùng để tiếp khách, nhà sau dùng để ở, hai dãy bên đông bên tây dành cho dâu con, tôi tớ và cất chứa của cải. Mùa hạ thì lên đài hóng mát, mùa đông lại vào phòng sưỡi ấm.
Quí vị nghe vui không? Chút xíu nữa là đến lúc phải chết rồi mà còn ở đó nói đủ thứ chuyện! Nhưng thưa quí vị, tại sao đức Phật không từ bi nói thẳng rằng, "lát nữa ông sẽ chết" mà đức Phật phải hỏi một câu nhẹ nhàng để đặt vấn đề như vậy?
Ngày hôm nay ngồi đây mình có thể không hiểu tại sao đức Phật không nói thẳng. Nhưng nếu quí vị thử đến nhà một người chưa hề biết Phật pháp, người ta đang hăng hái để cất nhà như vậy mà quý vị bước vào nói "thôi vô thường chết tới nơi rồi, cất nhà làm gì cho uổng công" thì họ có nổi trận xung thiên mắng cho mình một trận không? Người ta đang tham nhà to cửa lớn, đang hăng hái cao độ mà mình nói ngang chuyện huyễn hóa, vô thường thì không mấy ai dễ dàng chấp nhận, phải không? Cho nên đức Phật tới đặt một câu hỏi tế nhị trước để khơi mở cho ông nhận biết, nhưng mà ông đang còn hăng hái cất nhà quá nên cũng không biết Phật muốn nói gì. Nếu lúc ấy có chúng ta ở đó và thấy ông lão gần chết rồi mà không biết và còn nói như vậy thì rất là mắc cười, phải không? Cười cho ông lão ấy mà có nhớ mắc cười cho mình không? Mình còn sống được lâu nữa không? Hiện tại mình có hăng say lo đủ thứ đánh mất cả chính mình giống như ông lão ấy không? Có lẽ chúng ta không lo bằng ông lão đó, nhưng cũng chỉ thua ông ta một chút thôi, phải không?
Đức Phật nói:
- Đã lâu nghe danh đức của ông mà nay mới có dịp trò chuyện. Tôi có một bài kệ quan trọng có ích lợi cho cả kẻ còn và người mất muốn đem tặng ông. Không biết ông có vui lòng nghỉ tay ngồi nói chuyện một chút không?
Ông lão đáp:
- Hôm nay bận lắm, không thể ngồi trò chuyện, xin hẹn hôm khác đến sẽ thong thả luận bàn. Còn bài kệ quan trọng gì đó xin nói ngay đi.
Một lát nữa là chết rồi mà còn hẹn hôm khác nữa! Lúc bấy giờ đức Thế Tôn mới nói ba bài kệ, quý Thầy dẫn điển hình một bài cho quý vị cùng nghe. Ngài nói:
Có con, có tài sản
Người ngu phải rộn ràng
Ta còn không thật có
Lo gì của và con.
Mình cứ nghĩ rằng đây là con ta, đây là tài sản của ta, kẻ phàm phu thường nghĩ như thế mà họ không biết rằng, chính "ta còn không thật có" huống nữa là con ta hay tài sản của ta! Bây giờ thử chiêm nghiệm, con ta, tài sản của ta mang lại hạnh phúc cho ta, từ ta mà định hình, từ ta mà có ra. Nhưng xét lại, chính ta là thật có hay không? Ai rồi cũng già, cũng đang bệnh và đang chết dần chết mòn từng phút từng giây thì thân tâm sanh diệt không bền chắc này có gì chắc thật được! Chính ta đã không thật có thì dựa vào đâu để nói là con ta hay là tài sản của ta! Mà cụ thể nhất là lát nữa đây ông lão sẽ chết thì cái ta có thể có thật được không? Chút xíu là chết thì không thể là thật có lâu dài được, vậy mà lại còn lăng xăng đi lo cho con ta và cái nhà của ta, tài sản của ta nữa. Khi chết rồi thì bao nhiêu thứ gọi là "của ta đó" trở nên vô nghĩa, nhưng phần đông chúng ta thường chạy theo cái vô nghĩa đó mà quên đi, không biết lo cho "cái gốc chính nơi mình". Đó là điều thật đáng thương cho tất cả chúng ta, phải không?
Vị Bà-la-môn này nghe Phật nói kệ rồi mà vẫn chưa tỉnh ngộ nên ông nói:
- Bài kệ này hay thật. Nhưng hôm nay tôi rất bận, xin bữa khác hãy đến bàn luận.
Đức Phật chỉ còn biết thương xót và ra đi. Ông lão tiếp tục đích thân chỉ huy mọi người gác đòn tay. Không ngờ cây đòn tay rơi xuống trúng vỡ đầu và chết. Con cháu than khóc động cả xóm làng chung quanh. Đức Phật đi chưa bao xa liền xảy ra biến cố này. Khi đến đầu làng, Ngài gặp vài mươi người Phạm Chí. Họ hỏi Phật:
- Ngài từ đâu lại?
Đức Phật đáp:
- Ta vừa đến nhà ông lão vừa mới chết để thuyết pháp cho ông nghe. Nhưng ông ta không tin lời Phật, không biết lẽ vô thường, giờ đây bỗng chốc đã sang đời khác.
Rồi đức Phật nói lại bài kệ trước cho các Phạm Chí này nghe, ai nấy đều hoan hỷ chứng được Pháp nhãn.
Thưa quí vị, cùng một bài kệ đó, nhưng tại sao trước kia đức Phật nói thì ông Bà-la-môn không chịu nghe mà ông Phạm chí này mới nghe qua lại chứng được con mắt pháp thanh tịnh nhanh như vậy? Quí vị biết tại sao không? - Vì khi nghe đức Phật nói kệ, ông lão không chí thành để tâm nghe mà lo để tâm vào việc cất nhà cho nên ông ta không thấm được chút nào cả! Còn quý vị Phạm chí này nghe nói ông lão kia không tin bài kệ, mới đó đã chết rồi, thì ông giựt mình, phải không? Giựt mình vì ông thấy rằng ông lão ấy chết một cách đột ngột thì cái chết nó cũng sẽ đến với mình bất cứ lúc nào. Khi vừa thấm sâu như vậy thì trong lòng không thấy có gì quan trọng để vướng bận. Lòng được dọn sạch cho nên nghe đức Phật nói qua bài kệ thì quý vị Phạm Chí chứng được Pháp nhãn thanh tịnh liền. Hôm nay quí vị nghe kể lại mà thấm nhuần được, cũng do chúng ta giác ngộ từ sự vô thường và thiếu sáng suốt của ông lão đó, phải không?
Nghiệm lại cho kỹ thì chúng ta mới thấy sự vô thường rất nhanh chóng, nó đến một cách bất ngờ và không hẹn với bất cứ ai. Vì thế chúng ta thường bị chới với, hoảng sợ trước vô thường vì chưa kịp chuẩn bị gì cho mình một cách đúng nghĩa cả. Ông lão trong câu chuyện trên đã gần kề với cái chết rồi mà không biết lo cho mình, còn lo đủ thứ bên ngoài, và cuối cùng ông đã lo được gì? Hay chỉ lo cho một cái rỗng tuếch rồi mang lấy một đống nghiệp chướng, một mình lủi thủi ra đi rồi một mình mình phải gánh chịu đống nghiệp chướng đó! Chẳng khác nào một người đang ngủ mê nói mớ, ở trong mộng mà lăng xăng đặt bày lắm chuyện, nào là đánh số đề, nào là mua vé số được trúng giải đặc biệt… Thử hỏi khi mở mắt ra, có tìm lại được cái gì trong mộng hay không? Hay là mộng quá say sưa, để rồi khi choàng tỉnh giấc, ôm gối mộng mà vẫn chưa hết bàng hoàng! Người xưa nói:
Bách niên thế sự tam canh mộng,
Vạn lý càn khôn nhất cục kỳ.
Quý Ngài nói, việc thế sự trăm năm chỉ là ba canh mộng. Đất trời muôn dặm cũng chỉ một cuộc cờ. Giấc mộng của một đêm là giấc mộng ngắn, mà đời người là một giấc mộng dài. Dài hay ngắn thì mộng vẫn là mộng, không thể là thật được. Mình đã là mộng thì việc trong mộng có thật được không? Nếu vì cái không thật mà đánh mất mình và lo cho nó một cách thái quá, rồi cứ để cho dòng thời gian cứ thế mà cuốn trôi đi, cho đến một ngày hay ra thì mọi thứ đã muộn màng, chúng ta bị hụt hẫng, hoảng hốt, chơi vơi, không nơi nương tựa. Lúc đó, chúng ta có tủi thương mình và hối tiếc cho khoảng thời gian qua đã trôi suông một cách luống uổng hay không? Biết rõ như vậy thì chúng ta mới quí tiếc thì giờ còn lại để sống cho có ý nghĩa. Ngài Hàn Sơn có nói:
Nhân sanh bất mãn bách
Thường hoài thiên cổ ưu.
Nghĩa là, đời người sống không đầy một trăm tuổi. Có ai cam đoan rằng mình sống được một trăm tuổi không? Chưa biết ngày mai mình thế nào, nhưng mà cái lo của mình thì thường lo tới chuyện của ngàn năm. Có khi ngày mai sẽ chết mình cũng không biết, nhưng ngày nay mình lại lo đủ thứ, lo cho con, con đủ rồi lo cho cháu, lo chạy đầu này đầu kia lăng xăng kiếm đủ tiền cho con cháu tiêu xài, vội vội vàng vàng tìm đầu này kiếm đầu nọ cho có tài sản để lại, mai mốt mình chết con cháu nó còn có để mà tran trải cho cuộc sống của nó. Lo lắng đó là người có trách nhiệm tốt. Nhưng mà lo trong lăng xăng lộn xộn, vội vội vàng vàng, đánh mất sự tỉnh táo chính mình thì cái lo đó sẽ làm cho con cháu không yên tâm, không bằng lòng và nó còn lo lắng trở ngược lại cho mình nữa. Như vậy là lo qua, lo lại trong vòng lẩn quẩn, không thoát ra được sự ràng buộc khổ đau. Mới thấy, sống trong tán tâm, lo trong loạn động thì không mang lại lợi ích đích thực cho mình và người, đó là cái lo không đúng nghĩa, phải không?
2.c. Vô thường mau chóng.
Đến đây quý vị đã thấy rõ mạng sống cho đến sự thể cuộc đời vốn là vô thường chóng vánh, bất ngờ và nguy hiểm, nó không hẹn với bất cứ một ai. Nhưng tại sao con người chúng ta lại có một cái tật là hay hẹn như vậy?
Nếu quí vị thấy rõ khoảng thời gian còn lại của mình là ngắn ngủi thì chắc rằng không ai dám hẹn cả, phải không? Nhưng mình vẫn cứ ảo giác tưởng rằng nó là lâu dài cho nên mình thoải mái mà hẹn. Như vậy, lý do mình hay hẹn là vì không giác biết, không thấy rõ sự ngắn ngủi và nguy hiểm của vô thường cho nên mình mới hẹn.
Thí dụ mình đang khỏe mạnh, ai đó khuyên tu hay bảo làm việc tốt gì đó thì chúng ta thường chần chừ, cứ sống tà tà và hẹn lại từ từ rồi hãy làm, không có gì vội, phải không? Tình cờ có người rủ đi khám sức khỏe. Khám xong bác sĩ báo mình bị ung thư gì đó, khoảng bảy ngày nữa là chết. Khi thấy cái chết nó tới nơi, nó đã chờ chực sẵn một bên rồi thì mình có còn thì giờ để hẹn nữa không? Nghe báo tử rồi thì hễ cái gì thấy cần làm là tranh thủ làm ngay, không cần ai đôn đúc mình cả. Nếu có hiểu biết Phật pháp thì chúng ta sẽ tranh thủ thu xếp, gói gọn công việc lại trong một thời gian ngắn nhất, thời gian còn lại chúng ta sẽ cắm đầu cắm cổ lo mà tu tập, không còn thời gian để hẹn nữa, phải không? Trong cuộc sống, nếu chúng ta luôn xem nhẹ mọi thứ bên ngoài, tranh thủ thu xếp mọi việc và khéo ứng dụng tu tỉnh trong mọi hoàn cảnh thì tất cả mọi việc đều được chu đáo, mỗi một ngày qua là một ngày sống vui và cuộc sống sẽ trở nên sinh động, đầy ý vị.
Trên thực tế, quí vị nào đã lớn tuổi, tóc đã bạc, nghiệm lại thì sẽ thấy cuộc sống của mình từ nhỏ cho đến lớn như là mới thoáng chốc đây thôi, phải không? Và cái già cái chết nó lại tới gần kề một bên rồi! Nếu đem khoảng thời gian còn lại được sống, so sánh với khoảng thời gian quá khứ mình đã sống qua, thì sẽ thấy khoảng thời gian còn lại để sống không còn nhiều nữa. Kỷ niệm thơ bé ngày nào bây giờ ngồi nhớ lại như mới xảy ra hôm qua, nhưng hôm nay ngồi gẫm xem lại thì giựt mình vì tuổi đã lớn, tóc đã bạc rồi! Mới thấy, cuộc sống của chúng ta không phải là dài. Nếu ai không biết lo cho mình thì chúng ta sẽ không trở tay kịp. Khi thời gian trôi qua và cuốn phăng mọi thứ đi rồi, chúng ta có muốn quay trở lại cũng không còn được nữa. Ngồi đó mà hối tiếc có được ích lợi gì? Ngay từ bây giờ, tại sao không chịu tỉnh táo, ngồi lặng lại mà xét cho tường tận để thấy rõ sự vô thường nhanh chóng, sống nay chết mai bất thường, nó rình rập chực sẵn bên mình, sẵn sàng cướp đi mạng sống của mình bất cứ lúc nào không ai biết được, để thấy rằng một ngày còn sống được là một ngày đáng trân quí và tận dụng sống cho xứng đáng, để không hối tiếc về sau?
Ngài Qui Sơn Linh Hựu, một vị Thiền sư nổi tiếng đã nói:
Vô thường già bệnh không hẹn cùng người, sáng còn tối mất chỉ trong khoảng sát-na là đã qua đời khác. Ví như sương mùa xuân, móc sáng sớm bỗng chốc liền tan; cây bên bờ vực, dây leo miệng giếng há được lâu bền. Niệm niệm qua nhanh chỉ trong khoảng sát-na, chuyển hơi thở đã là đời sau. Sao lại ngồi yên để ngày tháng trôi suông vô ích?
Ngài nói, sự vô thường già bệnh nó không hẹn với bất cứ một người nào. Mới sớm thì còn mà lát tối thì mất, chỉ trong một khoảng chớp thôi là mình đã qua đời khác rồi. Mạng sống của con người cũng giống như sương mùa xuân, móc sáng sớm, thấy thì có đó, nhưng chỉ cần nắng lên chút xíu là tan liền, đâu có tồn tại lâu dài, phải không? Rồi giống như cây bên bờ vực, dây leo miệng giếng. Cây mà nó mọc bên bờ vực, nửa trên nửa dưới, chỉ cần một làn nước cuốn, một ngọn gió chợt thổi qua, một cơn mưa ngấm vào làm đất sạt lỡ… thì nó liền đổ ngã. Và dây ở miệng giếng thì cũng rất mong manh, không có gì bền chắc cả. Rồi mỗi niệm mỗi niệm nó cứ qua nhanh chỉ trong thoáng chốc, hơi thở vừa chuyển, có nghĩa là vừa thở ra mà không hít vào thì mình đã qua đời sau rồi. Nó vốn ngắn ngủi như vậy, tại sao mình lại ngồi không để cho thời gian trôi qua suông, cuốn phăng đời mình luống qua một cách vô ích như vậy?
Trong kinh Tứ Thập Nhị Chương, đức Phật nói, mạng sống của chúng ta chỉ "trong hơi thở". Trên thực tế chúng ta thấy, bất kỳ ai đó thở ra mà không hít vào là chết, có nghĩa là chúng ta có thể chết bất cứ lúc nào, thì cái khoảng thời gian còn sống đây không thể nói là lâu dài được, phải không? Và con người có sợ chết không? - Ai cũng sợ chết, nghe nói tới chữ chết là không ưa rồi, phải không? Mà thêm một ngày qua đi, có nghĩa là chúng ta đang tiến đến gần với cái chết, đó là một sự thật. Nhưng ít có ai dám chấp nhận sự thật đó để lo làm những gì nên làm, mà phần đông chúng ta lại trông ngày mai coi thử có gì hay hơn không? có gì vui hơn không? Nhưng trông ngày mai có nghĩa là sao? - Là trông mình đến với chỗ chết nhanh hơn, phải không? Tâm lý thì sợ chết, nhưng lại trông đến ngày mai để gần với cái chết hơn, đó là sự mâu thuẫn của con người. Qua đó để thấy, do thiếu sự sáng suốt nên hầu hết con người chúng ta luôn sống trong mê lầm, dẫn đến nhiều thứ mâu thuẫn như vậy. Muốn ngày mai vui hơn thì ngay từ ngày hôm nay, ngay phút giây hiện tại này, tại sao chúng ta không sống thực sự có ý nghĩa, không phấn đấu sống cho được tốt hơn ngày hôm qua để ngày mai chúng ta sẽ được vui hơn, lại ngồi ở đó mà mong chờ một cái gì đó viễn vông, không có căn cứ?
Đó là Thiền sư Linh Hựu đã thấy rõ và đánh mạnh để cho chúng ta giựt mình mà thức tỉnh. Nếu tất cả quí vị thấy rõ mỗi ngày qua là nó bào mòn thân mạng con người, đưa chúng ta đến gần với cái chết và làm giảm bớt đi thời gian quí báu còn lại của mình thì chúng ta phải quí tiếc thì giờ để tận dụng dành vào những việc làm có ý nghĩa và cần thiết nhất. Khi biết trân quí khoảng thời gian còn lại thì tự khắc chúng ta sẽ biết vận dụng để sống với những phút giây có giá trị nhất. Cũng chính vì thế, cuộc sống của chúng ta sẽ tích cực, sống động, trở nên có ý nghĩa và không để đời mình trôi suông vô ích. Sau này khi nhắm mắt, chúng ta cũng không tiếc khoảng thời gian mình đã sống qua là vô nghĩa. Nếu đợi đến khi gần chết mới biết thì mọi chuyện đã trễ lắm rồi. Chi bằng hôm nay chúng ta nên nhận biết trước để lo cho mình thì khi đang sống cũng có ý nghĩa và đến lúc gần nhắm mắt lìa đời cũng được an vui, thì không thích hơn hay sao! Đó là lý do thứ hai.
3. KHỔ LỚN TRONG SANH TỬ DÀI LÂU.
Trong nhiều kiếp về trước, chúng ta đã trải qua và gánh chịu cái khổ lâu dài trong sanh tử, hôm nay mới thấy rõ lối ra. Vì cần một khoảng thời gian để ứng dụng tu tập và thoát ra khỏi nó, cho nên chúng ta quí tiếc thời giờ và không dám để nó trôi suông vô ích.
Trải qua nhiều kiếp luân hồi sanh tử, chúng ta đã chịu rất nhiều thống khổ và bây giờ đã gặp được bậc minh sư, Hòa thượng ân sư chúng ta đã chỉ cho tất cả chúng ta con đường để thoát ra khỏi cái khổ đó. Mà khi thấy con đường là chúng ta đã thoát ra rồi, hay chính mỗi người cần phải đi nữa mới thoát ra được? Tuy thấy con đường hướng cho chúng ta thoát ra khỏi nỗi khổ sanh tử, nhưng chúng ta phải đi nữa mới thoát ra được chứ không phải nghe Hòa thượng giảng là mình ra được liền, phải không? Nhưng thời gian còn lại cho phép chúng ta làm được việc đó thì quá ít, cho nên mình rất quí tiếc thời giờ và không dám để nó trôi suông vô ích. Chúng ta phải tận dụng thời giờ, cần thời giờ tu tập để thoát ra khỏi cái khổ trong sanh tử, đó là lý do thứ ba mà chúng ta phải quí tiếc thì giờ.
Theo quí vị, chúng ta trôi lăn trong sanh tử đã lâu chưa hay là mới đây? Lâu lắm rồi, phải không? Mỗi vị có mặt ngày hôm nay, không phải là mới có, mà mình đã lặn hụp trong sáu đường luân hồi sanh tử lâu lắm rồi. Đức Phật nói Ngài cầm một cây gậy cắm vào bất cứ chỗ nào trên quả địa cầu này cũng đều trúng nhằm thân xác của Ngài cả. Tại sao vậy thưa quí vị? Tại vì đã nhiều kiếp tử đi sanh lại, tấm thân chết đó chôn xuống đất đã trải khắp cả quả địa cầu này rồi. Với Phật nhãn Ngài thấy rõ tất cả chúng sanh luân hồi trong sáu đường đã nhiều lần rồi. Sanh ra rồi chết, chết rồi lại sanh, tấm thân tử sanh đó đã chôn xuống đất khắp cả quả địa cầu này, nơi nào cũng có thì không phải là ít nữa.
Thời xưa có một vị Thánh là Xà-dạ-đa, đã tu chứng A-la-hán nên có tuệ nhãn. Một lần đi vào thành, vị đệ tử thấy Ngài bỗng nhiên buồn, chốc lát Ngài lại vui và cười lên. Vị đệ tử hỏi nguyên do, Ngài mới thuật lại:
Ban đầu đi vào thành, Ngài thấy ở dưới cửa thành có một con quỉ đói đang mệt lã, nó tự nói rằng, khi mẹ sanh ra ta rồi thì đi vào thành tìm thức ăn. Từ khi từ biệt đến nay đã năm trăm năm rồi, bụng thì đói trống trơn, khốn khổ, mạng sống chẳng còn bao lâu. "Mạng chẳng còn bao lâu này" không phải là nó sẽ chết ngay đâu quí vị. Quỉ đói là phải chịu nghiệp đói chứ chưa được chết liền đâu. Nhưng nó nói mạng chẳng còn bao lâu, có nghĩa là đói quá gần chết nhưng không thể chết đi được vì phải mang cái nghiệp ngạ quỉ đó. Từ khi sanh ra cho tới năm trăm năm rồi mà con quỉ đó vẫn còn là một con quỉ con còn nhỏ nữa. Chịu đói mà đói tới năm trăm năm, quí vị thấy có ít không? Mình đây nhiều lúc đói một hai ngày là chịu không nổi rồi, phải không? Chịu đói gần chết tới năm trăm năm mà vẫn còn là một con quỉ con, vậy còn bao lâu nữa nó mới tới già và chết để thoát khỏi kiếp quỷ đói đó? Còn rất lâu! Sống một thời gian dài như thế để chịu khổ thì có gì thích thú không?
Sau khi đi một đoạn nữa thì gặp con quỉ mẹ và Ngài đã thuật lại đầy đủ lời của con quỉ con. Lúc bấy giờ con quỉ mẹ mới nói: “Tôi từ biệt vào thành đã lâu để tìm thức ăn mà không có được, nếu kiếm được một chút ít đồ khạc nhổ thì lại bị các con quỉ mạnh nó cướp đi.” Loài ngạ quỉ chỉ ăn những đồ khạc nhổ, khi quỉ mẹ kiếm được một chút đồ khạc nhổ thì bị những con qủy khác mạnh hơn nó giành cướp đi, nên không đem về cho con được. “Mới ngày hôm nay gặp một người ói mửa mà không có con quỷ nào khác, tôi định muốn đem về cho con, nhưng ở dưới cửa thành lại có nhiều quỷ thần, sợ bị giành đoạt mất nên chẳng dám mang ra. Nguyện Tôn giả từ bi ngầm đem tôi ra khỏi thành để mang những đồ người ói đó ra cho mẹ con tôi cùng ăn.” Quí vị thấy đau khổ chưa?
Tôn giả Xà-dạ-đa hỏi: “Từ khi ngươi được sanh ra cho tới nay là bao lâu rồi?” Con quỉ mẹ nói: “Tôi cũng không biết là thời gian bao lâu nữa”, (dài quá cho nên không biết thời gian là bao lâu) “chỉ thấy cái thành này bảy lần thành rồi hoại”, có nghĩa cái thành này đã được xây lên rồi sau đó nó bị hoại đi, hoại đi rồi xây lại, rồi lại hoại đi, bảy lần như vậy mà con quỉ đó vẫn còn chịu đói và chưa thoát ra khỏi kiếp của nó. Đó mới chỉ là một kiếp ngạ quỷ mà đã dài lâu như thế, huống nữa trong luân hồi sanh tử, chúng ta đã trải qua không biết bao nhiêu kiếp như vậy rồi, thì quí vị thử gẫm lại xem, chúng ta trôi lăn chịu khổ trong sanh tử đã lâu chưa?
Tôn giả Xà-dạ-đa nghe quỉ mẹ nói như vậy, Ngài rất đau buồn cho việc sanh tử không có bờ mé, do đó Ngài mới lộ vẻ buồn bã không vui. Chỉ một kiếp ngạ quỉ thôi là mình đã thấy thời gian dài triền miên và chịu khổ cũng nhiều lắm rồi, chưa kể đến nhiều loài khác nữa. Mà chúng ta đã làm đủ tất cả mọi loài lên xuống trong sáu đường rồi, quí vị gẫm lại thì mới thấy "ôi thôi là dài, chịu không biết bao nhiêu là khổ", phải không? Nghe như vậy mới thấy, hôm nay mình được làm người, còn gặp được chánh pháp, đó là một phúc duyên to lớn chứ không phải là chuyện thường.
Tôn giả Xà-dạ-đa thuật lại lý do khiến Ngài vui:
Trong quá khứ cách đây chín mươi mốt kiếp về trước, Ngài sanh ra trong gia đình của một trưởng giả giàu có. Vì chán lìa dục trần, Ngài rất muốn xuất gia. Giả sử khi đó được xuất gia thì Ngài sẽ đoạn được các kết sử và thành bậc A-la-hán. Nhưng vì trong gia đình chỉ có một mình Ngài là con trai nên cha mẹ không cho phép theo chí nguyện, bắt phải cưới vợ để mong có người nối dõi. Biết chẳng thoát khỏi, Ngài đành phải cưới vợ sanh con rồi sẽ tìm kế xin xuất gia sau.
Nhưng thưa quí vị, khổ nổi nó không phải đơn thuần giống như mình nghĩ, và không cho phép hẹn như vị này hẹn. Thế rồi, theo mong ước của gia đình, một đứa bé chào đời. Khi lên sáu tuổi thì cha mẹ của Ngài, tức là ông bà nội của đứa bé, mới dạy đứa bé rằng:
- Cha của con muốn từ giã ta để đi xuất gia, con nên đến ôm chân cha mà nói rằng "nếu cha mà bỏ con đi thì ai sẽ nuôi con, thà trước cha nên giết con đi rồi sau đó hãy đi tu".
Quí vị thấy không, ước hẹn rằng có con rồi đi tu. Nhưng khi có con rồi thì nó lại ôm chân cha và nói, thà giết nó đi rồi đi tu, chứ đi rồi ai lo cho nó. Lúc bấy giờ Ngài thấy đứa bé ôm chân thì sanh quyến luyến bèn nói với con rằng:
- Nay cha vì con nên không đi xuất gia nữa.
Vì đứa trẻ ấy, cho nên Ngài chẳng được chứng đạo. Từ khi có đứa bé cho tới khi Ngài thành Thánh đã trải qua chín mươi mốt kiếp lưu chuyển trong năm đường. Do thân sanh tử chưa từng gặp nhau, nay dùng đạo nhãn thấy nó sanh trong loài quạ, thương xót cho sự ngu dại của nó, vì thế cho nên Ngài cười.
Đứa bé ngày xưa ngăn cản Ngài đi xuất gia, trong chín mươi mốt kiếp luân hồi cha con không gặp nhau, hôm nay chứng đạo Ngài mới thấy được kiếp sanh tử của nó. Khi gặp lại nhau, người cha năm xưa đã chứng Thánh quả mà người con vẫn còn sanh trong loài quạ, Ngài thấy vậy nên mới cười.
Qua đó mới thấy, trong luân hồi sanh tử, chúng ta đã lang thang lâu lắm rồi, lên xuống đủ chỗ và chịu đủ thứ khổ đau, khóc cười lẫn lộn, nhưng mà chúng ta nào có hay biết gì đâu! Cho nên đức Phật nói chúng sanh mê mờ là vậy. Ngày nay sống được thì cứ lụi hụi sống vậy thôi chứ không ai biết là mình đã lăn lộn và khổ đau như thế nào. Nếu thấy được nỗi khổ trong vòng luân hồi sanh tử đã quá lâu dài, giác biết được mạng sống của con người là ngắn ngủi, thì chúng ta sẽ rất quí tiếc thời gian còn lại để chọn cho mình một hướng sống tốt.
III. SỐNG NHƯ THẾ NÀO THÌ MỚI TẬN DỤNG THỜI GIỜ MỘT CÁCH SÍT SAO, KHÔNG BỊ LÃNG PHÍ?
Từ đầu tới giờ quí vị nghe phân tích và đã thấy rõ giá trị của thì giờ, giá trị của khoảng thời gian còn lại mà chúng ta đang sống là vô cùng quý báu, phải không? Phải thấy rõ giá trị mới biết trân quí. Từ đó, mỗi người sẽ tự nỗ lực dốc chí tu hành và làm những việc cần làm, sống làm sao cho xứng đáng là một cuộc sống có ý nghĩa, cho khoảng thời gian chúng ta còn có được không bị lãng phí.
Nhưng đó là nói đến mức độ bình thường, có tính cách chung chung cho tất cả mọi người, ai muốn làm gì đó thì tự chọn, miễn sao mình sống mà không lãng phí thì giờ là được. Riêng với quý vị là người đã hiểu đạo, đã rõ biết hết mọi lý, biết được làm thân người là khó, biết được nghe chánh pháp là khó, hôm nay mình có được thân người, được nghe chánh pháp là điều trân quí, biết vô thường là nhanh chóng, biết hết tất cả và biết khoảng thời gian còn lại cũng là ít và đáng quý nữa… Thưa quí vị, khi đã hiểu đạo rồi, biết rõ hết tất cả diệu lý rồi thì chúng ta phải sống như thế nào thì mới tận dụng thời giờ quí báu ấy một cách sít sao và tối ưu nhất mà không bị lãng phí?
1. NGAY MỖI NIỆM KHÉO XOAY TRỞ LẠI KIỂM ĐIỂM CHÍNH MÌNH.
Thiền sư Đại Huệ nói:
Người học đạo sở dĩ để cho ngày tháng trôi suông là chỉ vì cứ lo kiểm điểm công phu của người khác. Nếu thường tự kiểm điểm lại chính mình thì đạo nghiệp sẽ chóng thành. Hoặc mừng, hoặc giận, hoặc tĩnh lặng, hoặc náo động đều là lúc để cho chúng ta tự kiểm điểm cả.
Ngài nói lý do mà người học đạo để cho thời giờ trôi qua suông là tại sao? - Tại vì mình không chịu kiểm điểm mình mà lại đi kiểm điểm người khác. Đây là cái tật chung của con người chúng ta. Vì thế các bậc cổ đức có dạy:
Chư nhơn tự tảo môn tiền tuyết,
Mạc quản tha nhơn ốc thượng sương”
Tức là, mỗi người nên quét tuyết trước nhà mình, đừng có đi quan tâm những hạt sương mai đọng trên nhà người khác. Tuyết nhà mình thì dày đặc lấp kín cả cổng không có lối đi mà không chịu nhìn thấy để quét cho sạch, lại đi dòm ngó, soi mói mấy hạt sương mỏng đọng trên nhà người ta. Đó là cái tật chỉ giỏi phóng ra kiểm điểm người khác mà không xoay lại để soi xét tự kiểm điểm mình. Khi phóng tâm kiểm điểm người khác là mình đang hiện hữu hay đã đánh mất chính mình? – Là đánh mất chính mình. Người xưa nói, nếu như chợt quên, liền đồng với người chết. Đánh mất chính mình thì lúc ấy mình không hiện hữu, mình đang vắng bóng, đang chết, chính mình đã tự giết chết mình, và thời gian ấy cũng bị giết chết, bị bỏ trôi qua suông một cách vô ích. Và Ngài dạy, nếu như ngược lại, thay vì đi kiểm điểm người khác, chúng ta xoay lại để kiểm điểm chính mình thì đạo nghiệp rất chóng thành. Như vậy, với khoảng thời gian mình lo kiểm điểm người khác, bây giờ mình dùng để xoay trở lại kiểm điểm mình thì đạo nghiệp sẽ chóng thành và không có một thời gian nào luống phí cả, phải không? Tất cả chúng ta chưa phải là Thánh nên trong cuộc sống, có khi mừng, có khi giận, có khi tĩnh lặng mà cũng có khi náo động. Nhưng khi các duyên đó xảy ra, chúng ta luôn xoay trở lại tự kiểm điểm mình thì bất kỳ duyên nào đến, mỗi mỗi thảy đều là lúc để cho chúng ta tự soi xét và tu tập. Ngay cả khi nghịch duyên đến khiến cho mình dễ sanh bực bội, dễ nổi giận, cũng chính là lúc có cơ hội tốt để chúng ta ứng dụng công phu tu tập của mình, vậy thì quí vị thấy thì giờ của mình có bị đánh mất không? Ngay đó khoan phán đoán đúng sai trên cảnh mà hãy tỉnh táo trở lại, lặng lòng xuống, không thèm tốn công để giận mà nên nhận hết về mình thì những sự việc diễn ra tiếp đó sẽ tốt, mọi duyên tự trong lặng và được hóa giải một cách kỳ diệu khó lường. Được như vậy là quý vị đã tận dụng thì giờ một cách có hiệu quả rồi.
2. SỐNG VỀ VỚI BẢN TÂM MIÊN MẬT, KHÔNG ĐỂ CÓ CHỖ XEN HỞ CHO PHÀM TÌNH CHEN VÀO.
Đó là mức độ của những vị còn đang trên đường quay trở về dụng công tu tập. Còn một mức độ sít sao tuyệt đối hơn nữa là chúng ta phải một phen nhận lại bản tâm nơi chính mình và hằng sống bằng bản tâm đó, không để một chút xen hở thì trong tất cả thời, lúc nào chúng ta cũng sống đầy đủ ý nghĩa chân thật, không có một phút giây nào lãng phí cả. Đây là điều trọng yếu. Chúng ta là những người đã từng lâu năm nghe Hòa thượng giảng dạy và hiểu suốt đạo lý, nếu quí vị nắm rõ ý này và ứng dụng được thì cuộc sống của chúng ta sẽ có ý nghĩa trọn vẹn.
Trở lại bài “Tham Đồng Khế” của Thiền sư Thạch Đầu, Ngài nói:
Kính bạch bậc tham huyền
Thời giờ chớ để luống qua.
Ngài Pháp Nhãn nói đó là “ơn lớn vòi vọi khó đền”, còn Thiền sư Đức Hồng Giác Phạm thì bình: “Pháp Nhãn đáng gọi là bậc thấy được tâm của Tiên đức.”
Quí vị thấy ngài Thạch Đầu chỉ nói “kính bảo với bậc tham huyền, chớ để thời giờ luống trôi qua suông”, nhưng ngài Pháp Nhãn thấy gì qua lời khuyên ấy mà Ngài lại nói là “ơn lớn vòi vọi khó đền”? Và ngài Tịch Âm Tôn giả thấm nghiệm được gì trong cuộc sống tu hành, cảm thông điều gì mà Ngài nói rằng Pháp Nhãn đáng gọi là bậc thấy được tâm của Tiên đức? Tức là thấy được nội tâm sâu thẳm của Thiền sư Thạch Đầu, vì lý do gì, phát xuất từ đâu mà ngài Thạch Đầu đã nói lên câu ấy để khuyên bậc tham huyền một cách thống thiết như vậy?
Những lý do chúng tôi vừa nêu bày ở trên để quí vị chiêm nghiệm lại và thấy rõ chúng sanh đã chịu khổ lâu dài trong sanh tử, điều thứ hai là ngày nay mình có được thân người, được nghe chánh pháp, đó là một duyên lành lớn, là một điều kiện thuận lợi nhất giúp cho chúng ta thoát được cái khổ triền miên trong sanh tử. Thêm vào đó nữa là sự vô thường mau chóng không hẹn trước với bất cứ ai, cho nên thời gian còn lại cho chúng ta tu hành thoát khổ là ít ỏi quí hiếm. Vì chúng ta không biết cho nên Ngài nhắc thức cho biết. Mà nhắc thức cho biết trước để chuẩn bị thì đó là một ơn lớn, phải không?
Nhưng nếu nhìn như vậy thì mới thấy được một phần thôi, chưa thấy trọn hết cái ơn lớn cao cả ấy. Muốn thấy trọn vẹn cái ơn lớn của Thiền sư Thạch Đầu, thấy rõ được sự cảm thông của Thiền sư Pháp Nhãn và cái thấm nghiệm của Tôn giả Tịch Âm thì bước cuối cùng là chúng ta phải xét cho tột cùng lời dạy của Ngài bằng sự chiêm nghiệm công phu tu hành thực tế nơi mỗi người thì chúng ta sẽ thấy rõ lời khuyên của Thiền sư Thạch Đầu quả là một bậc thấy tột cùng sự lý, cho nên mới nói ra thống thiết như vậy.
Quí vị thấy Ngài đã xưng hô là “kính bạch”, phải không? rồi Ngài không gọi là người này người khác mà gọi là “bậc tham huyền”. Đó là lời nói xuất phát từ tâm từ bi cao cả chí thiết của Ngài chứ không phải thường.
Qua giai thoại trên, ngài Tịch Âm tôn giả bình tiếp: “Chúng sanh hằng ngày do vọng tưởng điên đảo tự che mất ánh quang minh, cho nên phần nhiều bỏ sót đánh mất thời giờ, gọi là để thời giờ qua suông.” Ngài nói, hằng ngày vì mình theo cái vọng tưởng điên đảo mà che lấp ánh quang minh, đó là chúng ta đã đánh mất thời giờ một cách vô ích, cho nên gọi là để thời giờ qua suông.
Bây giờ quí vị nhìn lại, trong khoảng sống theo vọng tưởng là chúng ta đang sống với cái giả hay là cái thật? Sống với cái giả có nghĩa là nhận cái giả làm mình, mê lầm quên mất bản tâm chân thật chính mình, phải không? Mà nếu sống theo cái giả, quên mất cái chân thật thì tuy nói là sống mà thực ra trong khoảng thời gian đó chúng ta đang chết. Vì thế cho nên Ngài nói theo vọng tưởng điên đảo che mờ ánh quang minh, bỏ sót, đánh mất thời giờ trong khoảng đó nên gọi là để thời giờ trôi suông một cách vô ích. Dù cho chúng ta có tụng kinh hay là tọa thiền suốt đêm đi nữa, nhưng trong khi đó mình không khéo “chăn” mà cứ buông thả tâm phóng ra chạy đi đầu này đầu kia thì tuy có ngồi đó, nhưng khoảng thời giờ đó mình vẫn để trôi suông như thường, chứ không phải ngồi tu như vậy là mình đã vận dụng hết thời giờ, phải không? Vì ngay khi phóng tâm chạy ra, cũng chính là lúc bị gián đoạn xen hở công phu. Có những khoảng thời gian tuy là chúng ta đang ngồi tu, nhưng không khéo dụng công, để cho tâm mình bị loạn động, hoặc chìm trong cái lờ mờ không sáng suốt, hay hôn trầm ngủ gục... Ngồi tu như vậy thì tuy đang ngồi sống đó mà thật sự là chúng ta đang chết, đang giết chết thời gian quý báu cho nên cũng bị lãng phí thời giờ, để cho thời giờ trôi suông một cách vô ích.
Ngài Tịch Âm tôn giả bình tiếp: “Người có đạo không phải làm gì khác, chỉ khéo dụng cái tâm kia thôi.” Thế nên ngài Triệu Châu nói: “Hết thảy chỉ như cũ, các bậc Thánh từ trước không ai chẳng từ trong chỗ như cũ mà được.” Chỗ như cũ này cũng chính là cái chỗ nguyên thủy ban đầu chưa khởi niệm, chỗ chưa phân vọng kiến hai bên, cũng chính là bản tâm chân thật mà các Ngài muốn chỉ bày cho tất cả chúng ta. Người có đạo chỉ là khéo thầm nhận và sống bằng tâm đó. Sống được như vậy thì giờ nào cũng là thời gian sống có ý nghĩa cả.
Đời là cõi mộng. Và tất cả chúng ta là những người đang sống trong cõi đời mộng huyễn ấy. Nếu ai nhận lại bản tâm, sống về trọn vẹn bằng bản tâm chân thật thì đó là người tỉnh đi trong cõi mộng để đánh thức những người đang say mộng. Bằng như ngược lại, không quay về nhận lại bản tâm mà cứ lao ra sống theo vọng tưởng, thì đó là người đang ngủ say trong mộng, làm tất cả mọi việc cũng chỉ là việc của người đang ngủ mê nói mớ trong mộng mà thôi. Nhưng việc trong giấc mơ thì có gì thật không? Vì hoài công làm một việc không thật và vô ích cho nên thời gian dùng vào việc mộng ấy cũng thật luống uổng, lãng phí mà thôi.
Đến đây quý vị đã thấy rõ, nếu chúng ta mê lầm chạy theo vọng tưởng, đó là bỏ phí thời giờ trôi qua vô ích, phải không? Nhưng đối với bậc có đạo thì quí ngài làm gì để tận dụng được thời giờ? - "Không làm gì khác chỉ là dụng tâm kia thôi." Đó, Ngài Tịch Âm tôn giả nói, người có đạo thì không phải làm cái gì đó kỳ đặc mới tiết kiệm thì giờ mà quí ngài chỉ khéo dụng tâm kia thôi. Nếu mình khéo dụng tâm kia, có nghĩa là khéo nhận lại và thầm khế hợp với bản tâm, khéo sống trọn vẹn bằng bản tâm một cách miên mật, không xen hở thì lúc nào chúng ta cũng đang sống có giá trị, giờ nào cũng là giờ sống có ý nghĩa. Sống bằng bản tâm một cách liên tục như vậy, không có chỗ xen hở cho vọng tưởng lao ra ngoài thì quí vị tìm lại coi có khoảng thời giờ nào mà bị lãng phí, phải không?
Cho nên muốn tận dụng thời giờ thì không phải làm gì khác, rốt cuộc chỉ là khéo dụng tâm kia thôi. Người nào đã thể nhận và sống trở về được với bản tâm chân thật chính mình thì chỉ sống trọn vẹn bằng bản tâm đó. Ai còn trên đường tu tập, chưa được như vậy thì ngay mỗi niệm nên kiểm điểm lại mình, đừng lo ra nhìn lỗi người khác, đó là chúng ta đã tận dụng thời giờ một cách tối ưu nhất.
Ngài nói tiếp:
Luận Đại Trí Độ nói: “Tâm tánh chúng sanh giống như dao bén, chỉ dùng để cắt bùn, bùn chẳng thành gì, mà dao thì mỗi ngày một hư tổn. Lý thể thường diệu mà chúng sanh tự thô, nếu ai hay khéo dùng đó thì liền hợp với bản diệu.”
Ngài nói tâm tánh của tất cả chúng sanh cũng giống như là con dao bén, nghĩa là tâm tánh của chúng ta vốn là sáng suốt. Nhưng dùng để cắt bùn nghĩa là sao? Tức là trong thể sáng suốt đó mà không khéo thể nhận để sống, ngược lại đã bất giác khởi vọng, nghĩ tưởng lung tung, lăng xăng làm tất cả việc trong mê loạn, tạo bao nhiêu thứ nghiệp không đáng. Đó là dao thì bén mà chỉ dùng để cắt bùn. Nhưng cắt bùn thì thành gì? Cũng chỉ là thành bùn thôi. Quên bản tâm theo vọng thì vọng càng chập chùng. Quên cái chân thật mà sống theo cái giả, thì làm việc gì cũng chỉ là trên giả mà tạo tác để thành những thứ giả, không có gì giá trị cả. Ngược lại, càng sống bằng vọng rồi tạo các vọng nghiệp thì ngày càng che lấp tâm tánh sáng suốt chân thật chính mình. Cho nên các Ngài nói, bùn không thành gì mà dao thì mỗi ngày một hư tổn.
Tương tự, Ngài nói lý thể thì vốn là thường tế diệu mà do chúng ta khởi tưởng rồi sống theo vọng, làm dấy động và che mờ đi thể tánh vốn tế diệu đó, cho nên chính mình làm cho nó trở thành thô. “Nếu ai khéo dùng”, tức là khéo nhận lại và hằng sống với tâm thể chân thật, thì liền khế hợp với cái thể sẵn diệu đó, chứ không cần tìm kiếm một cái mầu nhiệm nào từ bên ngoài cả.
Ngài Tịch Âm tôn giả nói tiếp:
Kinh Thủ Lăng Nghiêm nói:
Phật bảo A-nan: Thí như các loại đàn Cầm, Sắt, Không hầu, Tỳ bà, tuy có âm thanh hay, nhưng nếu không có ngón tay khéo thì trọn không thể phát ra được. Ông cùng với chúng sanh cũng lại như thế. Cái Bảo Giác Chân Tâm mỗi mỗi tròn đủ; như ta ấn ngón tay thì Hải ấn phát quang, ông vừa khởi tâm thì trần lao dấy trước.
Phật dùng ví dụ: Cũng giống như các loại đàn có âm thanh hay, tuy vốn nó có âm thanh hay, nhưng nếu không có ngón tay khéo của người biết đàn thì âm thanh hay có phát ra được không? - Không thể phát ra được, phải không? Tất cả chúng sanh cũng vậy, mỗi người đều sẵn có Chân tâm hằng giác quí báu đó, nhưng vì mình không khéo sống bằng nó mà bỏ quên đi rồi chỉ sống theo vọng tưởng nên không phát dụng được, còn bị mê mờ, tạo bao nhiêu thứ trần lao phiền não để rồi phải chịu khổ trong sanh tử. Cái Bảo giác tam-muội đó ai ai cũng đều tròn đủ chứ không phải thiếu. Nhưng chúng ta bỏ quên nó cho nên hằng ngày đi đứng suy nghĩ nói năng..., hành động gì cũng là tạo tác sinh diệt, đều rơi vào vọng. Sống bằng vọng tưởng nên tất cả hành động của chúng ta đều thuộc về trần lao phiền não. Đức Phật hằng sống trong Bảo giác tam-muội đó cho nên tất cả hành động thi vi của Ngài đều không động, đều thuộc về diệu dụng của trí. Cho nên nói, Ngài vừa ấn ngón tay thì Hải ấn phát hào quang, mà mình vừa khởi tâm thì trần lao dấy trước.
Ngài A-nan là đại diện cho tất cả chúng ta. Vì hằng ngày mình sống trong vọng tưởng, lấy vọng tưởng làm chính mình cho nên vừa khởi tâm thì anh em quyến thuộc của vọng tưởng là trần lao phiền não nó kéo theo, nó dấy tung lên, phải không? Trần lao dấy thì sống và làm việc theo trần lao, mà việc trần lao thì giả tạm, không có gì đáng giá, không có ý nghĩa. Nếu suốt ngày trôi theo trần lao, cũng có nghĩa là mình đã bỏ phí thì giờ một cách đáng tiếc. Nếu ai khéo sống trở về với bản tâm chân thật đó thì trong tất cả thời mới có giá trị, mới có ý nghĩa và chính chúng ta cũng tận dụng được thời gian một cách trọn vẹn, không bị lãng phí.
Thiền sư Tịch Âm nói tiếp:
Trong kinh Hoa Nghiêm có bài kệ chép:
Nếu người muốn biết cảnh giới Phật
Nên tịnh ý kia như hư không
Xa lìa vọng tưởng cùng chư kiến
Khiến chỗ tâm hướng đều không ngại.
Ngài nói, nếu ai muốn biết được cảnh giới của chư Phật thì phải lóng lặng cái ý kia xuống, phải thanh tịnh giống như hư không, phải xa lìa các vọng tưởng và vọng kiến nơi mình, một lìa tất cả đều lìa, không một chỗ nào ngăn ngại thì tâm thể tự là trùm khắp, cảnh giới chư Phật hiện tiền nơi mỗi người chúng ta chứ không phải tìm ở đâu cả.
Ý đã lặng và thanh tịnh như hư không, vọng tưởng và các vọng kiến đã xa lìa rồi thì tâm thể tự bàng bạc, trùm khắp. Ở bất cứ nơi nào mình cũng được tự tại, không bị ngăn ngại bởi bất cứ gì. Mà trong tất cả thời, ở tất cả mọi nơi, tâm đều như như, thì có khoảng nào xen hở để lãng phí không? Không có một khoảng nào xen hở lãng phí thì cuộc sống của mình tự nhiên trở nên có ý nghĩa trọn vẹn, không một tích tắc thời gian nào vô nghĩa lãng phí đối với người này, phải không?
Chính đó cũng là chỗ mà Thiền sư Thạch Đầu mong mỏi những bậc tham thiền học đạo, tham tột lẽ huyền vi, phải tận dụng thời giờ một cách có ý nghĩa và tuyệt đối như vậy. Khéo nhìn kỹ hơn một chút mới thấy, Ngài khuyên người tham thiền sống không để thời giờ luống trôi qua, tận dụng thời giờ một cách tuyệt đối như vậy, cũng có nghĩa là Ngài khuyên tất cả chúng ta phải nhận và sống cho bằng được với bản tánh sáng suốt sẵn đủ nơi mỗi người đó, phải không?
Nhưng nhận được Bản tánh và sống miên mật không xen hở thì niềm an lạc nhẹ nhàng siêu thoát sẽ ngập tràn, cuộc sống tràn đầy nhựa sống và hân hoan vô tận. Như vậy có cái vui nào của thế gian tác động đến mình được không? – Lúc này, buồn vui, được mất, hơn thua... của thế gian chỉ là một ly nước lã với người đã no đủ. Nước lã không còn có giá trị tác động đến con người no đủ thượng vị này. Niềm vui thế gian còn không tác động được thì nói gì đến khổ, phải không? Như vậy người sống được với bản tánh trọn vẹn thì tất cả cảnh khổ vui thế gian không còn tác dụng đối với con người ấy, thì có tử sanh nào còn chi phối được nữa? Không có tử sanh nào chi phối nữa, tức là mình đã giải thoát được cái khổ của sanh tử rồi, phải không? Ngay đó không mong cầu giải thoát cũng tự là giải thoát. Người chí thiết nhắc thức cho mình nhận ra lẽ thật, giác ngộ, an vui và giải thoát khỏi cái khổ của sanh tử thì đó là ơn lớn hay là ơn nhỏ thưa quí vị? - Ơn lớn, phải không? Khó lấy những cái sanh diệt tầm thường của thế gian mà đền đáp được, cho nên Thiền sư Pháp Nhãn mới nói, ơn của Thiền sư Thạch Đầu nhắc thức như vậy là rất lớn, khó đáp đền.
Bây giờ quí vị đã thấy được cái ơn lớn chưa? Ngài nhắc mình đừng để thời giờ trôi qua suông cũng có nghĩa là nhắc cho chúng ta thấy, muốn không để thời giờ trôi qua suông thì phải khéo nhận ra và sống trọn vẹn bằng bản tâm, đó là giác ngộ. Mà trở lại sống trọn vẹn với bản tâm thì cuộc sống nhàn tịnh, sâu lắng mà ngập tràn hân hoan, tràn đầy nhựa sống và thanh thoát lạ thường, đó là được an vui. Lúc này không còn bị cái khổ vui của thế gian chi phối, không còn bị ràng buộc trong sanh tử, đó là đã giải thoát. Ngài nhắc thức cho mình được giác ngộ, giải thoát và an vui, đó là một cái ơn lớn chớ không phải thường, phải không?
Bản tâm chân thật vốn sẵn tính chất an tịnh, giải thoát và an vui. Khéo nhận lại bản tâm, đó là giác ngộ. Ngay khi giác ngộ, liền được an định, giải thoát và an vui. Tất cả đều từ bản tâm, là diệu dụng đồng thời của tự tâm, không có trước sau gì cả. Những ai đã nhận và sống trọn vẹn với bản tâm đó rồi thì mới cảm nhận hết tính chất và diệu dụng của nó. Và cũng từ đó mới cảm nhận một cách trọn vẹn và sâu sắc cái ơn lớn của vị Thầy đã chỉ bảo, đánh thức cho mình. Cho nên Thiền sư Pháp Nhãn mới nói rằng, thật là một ơn lớn vòi vọi khó lấy gì mà đáp đền nổi.
Tôn giả Tịch Âm cũng vì thấm nghiệm và thông cảm được chỗ cao cả đó nên Ngài mới nói: “Pháp Nhãn đáng gọi là bậc thấy được tâm của bậc Tiên đức.” Có nghĩa là Ngài thấy được thâm tâm sâu thẳm của ngài Thạch Đầu; xuất phát từ đâu, cảm nhận như thế nào mà Ngài đã nói ra một lời thống thiết để khuyên tất cả người tham thiền như vậy. Qua ba vị Thiền sư trải qua ba đời khác nhau, nhưng thông qua lời chỉ dạy, quí Ngài đã thấy rõ, cảm thông và tỏ suốt với nhau. Mới thấy rằng, ai trở về trong chỗ chân thật đó rồi cũng cùng một chỗ thông cảm như nhau không khác, và chỉ khi trở về trong đó mới cùng thông suốt, đồng hành, thường gặp nhau không có gì làm ngăn cách được.
IV. CHƠN CHÂU TRONG VẢI RÁCH - SỐNG TRỌN VẸN GIÁ TRỊ THỜI GIAN.
Tướng quốc Bùi Hưu có lần đến chùa Đại An thưa hỏi Tăng chúng trong chùa:
- Đức Phật có mười đại đệ tử, mỗi người đứng đầu một hạnh. Như vậy ngài La-hầu-la đứng nhất về hạnh gì?
Trong đây có vị nào trả lời được không? – Ngài La-hầu-la là mật hạnh đệ nhất phải không? Điều đó ai cũng biết cả. Cũng như chúng ta, tất cả Tăng chúng trong chùa đều cho đây là câu hỏi đơn giản về Phật pháp thường thức, do đó cùng trả lời rằng "ngài La-hầu-la lấy mật hạnh làm đệ nhất". Trả lời như vậy không phải là sai, nhưng đối với Thiền sư là bị quở. Tại sao bị quở quí vị biết không? Tại vì đối với giáo thì được, nhưng đối với thiền thì chưa có thầy. Bởi vì đối với giáo thì ai học hiểu và thuộc bài thì cũng trả lời được như trong kinh. Nhưng đối với thiền thì ngoài việc học hiểu rồi, mình còn phải thấy được cái gì là điều trọng yếu mà chư Phật và Tổ chỉ dạy ngay nơi chính mỗi người, phải không? Như vậy phải trả lời như thế nào cho khế hợp với thiền đây?
Mình phải khéo thấy mới được. Cụ thể ở đây không phải là chỉ trả lời bằng lời lẽ mà phải có một cơ sống nơi chính sự thể nghiệm tâm mình. Nếu trả lời như quý vị chư tăng trong chùa trên đã trả lời thì không phải là sai, nhưng đó là mình mới nói về cái mật hạnh của ngài La-hầu-la cho ông Bùi Hưu nghe thôi, còn mật hạnh của mình thì sao? Chính vì vậy mà ông Bùi Hưu không thỏa mãn câu trả lời đó, nên thuận miệng ông mới hỏi thêm: “Ở trong chùa này có Thiền sư không?” Khi ấy đúng dịp có Thiền sư Long Nha Cư Đôn đang trồng rau ở vườn sau, trong chùa bèn mời Ngài ra cho ông Bùi Hưu gặp và đem vấn đề trên hỏi: “Ngài La-hầu-la là đệ nhất về hạnh gì?” Thiền sư Long Nha chẳng chút do dự, liền đó đáp thẳng: “Không biết.” Ông Bùi Hưu nghe xong rất mừng, lễ bái và tán thán: “Thật là trong vải rách có buộc hạt trân châu!”
Đã "không biết" tại sao ông Bùi Hưu lại khen ngợi quá vậy? Thay vì người mà giỏi thì phải đáp rằng "theo tôi biết ngài Phú-lâu-na là hạnh gì đệ nhất, ngài Ca-diếp là hạnh gì đệ nhất, rồi tới ngài La-hầu-la là mật hạnh đệ nhất", nói thao thao bất tuyệt, như vậy mới là người giỏi, phải không? Nhưng đối với ông Bùi Hưu thì ông không thỏa mãn, còn Thiền sư Long Nha Cư Đôn thì chỉ đáp rằng “không biết”, đáp vậy thôi mà ông Bùi Hưu lại khen ngợi hết lời. Tại sao như vậy? Ông Bùi Hưu đã nhận thấy gì mà tán thán? Quí vị thấy chưa?
Bây giờ chúng tôi lấy một ví dụ thế này: Vào thời nhà Minh ở Trung Quốc có ông Đường Bác Hổ là một họa sĩ nổi tiếng. Một hôm ông đi dạo Tây Hồ, nhân lúc cao hứng, ông tiện tay vẽ bức tranh một Con Chó Đen, cạnh đấy ông ta viết một hàng chữ nhỏ: “Đây là một câu đố tranh, biểu thị một chữ. Người nào đoán ra thì xin kính tặng bức tranh này, một cắc một xu cũng không lấy. Nếu ai muốn mua thì xin trả 30 lượng bạc.” Nhiều người tấp nập đua nhau đến đoán mà không trúng. Có một thanh niên đốn củi đi ngang qua thấy thế ghé xem và liền chen vào lấy bức tranh bỏ ra đi mà không nói một giải đáp nào về bức tranh cả. Mọi người ai nấy đều kinh ngạc vì đã có nhiều Giáo sư, Trí thức không đoán ra. Đường Bác Hổ vội đến hỏi: “Anh mua bức tranh này phải không?” Chàng đốn củi lắc đầu. _“Anh đoán ra rồi phải không?” Anh ta chỉ gật đầu mà không nói thêm gì. _“Xin hãy nói lời giải đáp cho mọi người biết đi.” Anh ta cũng im lặng không lên tiếng. Đường Bác Hổ cố gạn hỏi liên tiếp ba lần mà anh ta vẫn không trả lời thêm gì. Anh chỉ gánh củi và cầm theo bức tranh lặng lẽ ra đi. Đường Bác Hổ nhìn theo cái bóng xa dần của người đốn củi và nói: “Đoán đúng rồi! Đoán đúng rồi!” Nói xong, ông cũng đi ra khỏi đám đông.
Như vậy câu trả lời của mẫu chuyện nằm ở chỗ nào mà ông Đường Bác Hổ nói là đoán đúng rồi? Và anh chàng đốn củi đó đã đoán ra cái gì mà chỉ giựt bức tranh ra đi, không hề nói thêm một câu giải đáp gì cả? Chúng tôi đã đọc câu chuyện này trong một tập sách được ghi lại như một câu đố chưa có lời giải đáp. Có phải thật sự là chưa có ai giải đáp được, hay sự thật của đáp số là “vừa động môi lưỡi thì liền sai?”. Ông Đường Bác Hổ là tác giả của bức tranh mà cũng không thể nói lên đáp số, chỉ nói: “Đoán ra rồi! Đoán ra rồi!” tức là cũng chỉ được nói lên nỗi niềm vui sướng của mình khi thấy có một người tri âm hiểu được mình rồi bước đi ra khỏi đám đông thôi. Tuy hai người ra đi hai lối không giáp mặt nhau, không nói với nhau một lời nào, nhưng trong họ đã có sự thấy nhau, cảm thông nhau sâu sắc. Nếu ai khéo nhận ra thì câu chuyện liền có đáp số, nếu chưa thì câu chuyện vẫn còn bỏ ngỏ đó, chưa có đáp số.
Đây là một câu chuyện chơi chữ, nhưng phải suốt thông qua chữ nghĩa để cảm nhận và thực hành đúng như những gì chữ nghĩa muốn chỉ thì đáp án mới đúng. Cho nên tính chất của nó còn là một câu chuyện thiền rất thú vị. Quý thầy sẽ giải đáp cho quí vị nghe để vận dụng về hai chữ "mật hạnh" này.
Bức tranh vẽ hình một con chó màu đen. Theo hán tự (chữ Nho) thì con chó đen có nghĩa là “hắc khuyển”. “Hắc khuyển” là chữ Hán và có nghĩa là “con chó đen”. Mà chữ “hắc” kết hợp với chữ “khuyển” nhập lại sẽ thành ra chữ “mặc”. Mà chữ “Mặc” có nghĩa là im lặng. Im lặng thì có được nói không? Im lặng thì không được nói. Nhưng nếu anh nông dân nói lời giải đáp "chó đen là hắc khuyển, hắc khuyển cộng lại là chữ mặc, chữ mặc là im lặng không được nói", nghĩa lý là không được nói mà cái miệng anh ta lại nói thao thao đủ thứ để giải thích thì chính hành động nói ra đó đã làm sai đi cái ý mà bức tranh muốn chỉ là im lặng không được nói, và đã bị ông Đường Bác Hổ lấy lại bức tranh rồi, phải không? Im lặng không được nói, nó chỉ đúng khi chúng ta im lặng tuyệt đối, không được nói gì cả. Còn nếu hiểu được nghĩa lý im lặng không được nói mà miệng mình lại nói thao thao thì đó là hiểu một đường mà thực hành một nẻo khác, càng nói sẽ càng xa với ý chính rồi. Do đó nếu ai giải đáp được bức tranh đó thì họ sẽ trả lời bằng một sự lặng lẽ, không nói gì. Vì thế, sách chỉ ghi lại câu chuyện để mỗi người tự cảm nhận mà không chép lời giải đáp. Hôm nay, vì muốn tạm mượn nghĩa lý câu chuyện để dẫn giải cho quý vị cảm nhận ý nghĩa mật hạnh này, cho nên quý thầy mới làm trái với ý chỉ câu chuyện mà giải thích cho tất cả quý vị cùng nghe.
Trở lại giai thoại của tướng quốc Bùi Hưu hỏi Thiền sư Long Nha Cư Đôn nói về mật hạnh. Mật hạnh có nghĩa là hạnh thầm kín, miên mật, sít sao sâu thẳm từ trong nội tâm, mà lại nói ra cho người khác hiểu, cho người khác thấy, tức là tin tức đã lọt ra bên ngoài. Mà tin tức bị lộ ra bên ngoài có nghĩa là đã xen hở, có chỗ cho tình thức xen vào là hết mật, hết kín rồi, phải không? Khi được hỏi ngài La-hầu-la là hạnh gì đệ nhất. Chúng ta liền nhanh nhẹn đáp, là mật hạnh đệ nhất. Nhưng vừa mở miệng nói “là mật hạnh” thì liền đó đã bị lộ, bị xen hở, đã đánh mất mật hạnh rồi. Cho nên khi các vị Tăng trong chùa trả lời như vậy thì ông Bùi Hưu không bằng lòng.
Mật hạnh mà còn dẫn giải cho hiểu là trái với mật hạnh rồi. Nhưng nếu không nói thì quý vị sẽ không hiểu cho nên quý thầy đành phải gợi ý một chút. Ngày nay chúng ta không lanh lợi bằng người xưa, cho nên tạm thời hiểu để biết con đường tu tập và sống về.
Để nói về mật hạnh, Thiền sư Long Nha Cư Đôn nói “không biết”. Nếu “có biết” là chúng ta biết về một cái gì đó, tức là có đối tượng biết. Mà có mình biết, có đối tượng để biết là năng sở có ra. Có năng sở là có hai bên, là có chỗ xen hở, tin tức bị lộ ra bên ngoài, nên hết mật hạnh rồi. Còn “không biết” tức là không có đối tượng, không có cái thứ hai, không có chỗ hở cho tình thức, cho người ngoài cuộc xen vào, ngay đó đang sống trọn vẹn bằng mật hạnh. Thiền sư Long Nha Cư Đôn nói "không biết", nhưng có phải là không biết gì hết hay không? Nếu thật sự Ngài không biết gì hết thì "cái gì biết nói là không biết" để cho ông Bùi Hưu biết đó, phải không? Như vậy, khi nói “không biết”, ngay đó "cái biết nói không biết" hiển hiện rõ ràng một cách tuyệt đối, không có chỗ xen hở cho tình thức xen vào, đó là Ngài đã trình mật hạnh một cách tuyệt đối. Nếu biết mật hạnh là như thế nào đó và giải đáp, trả lời thì đã có đối tượng cho mình nói, cho người khác hiểu. Mà có mình nói, có đối tượng nghe, có cái mật hạnh để hiểu là đã bị phân chia, có chỗ xen hở cho tình thức xen vào và tin tức bị lộ ra bên ngoài, cho nên mất hết mật hạnh rồi! Như vậy, khi Thiền sư Long Nha nói "không biết" là Ngài đã trình bày mật hạnh một cách đầy đủ và chính xác chứ không phải là Ngài mờ mịt không biết gì cả.
Thêm nữa, khi Thiền sư Long Nha nói "không biết" thì không phải là Ngài chỉ trình mật hạnh của Ngài không đâu. Ngài Long Nha Cư Đôn có trình mật hạnh chính xác đến mức nào đi nữa thì cũng chỉ là mật hạnh nơi Ngài, còn mình thì sao? Nếu mình còn lơ mơ, thì mật hạnh của mình cũng bị mất luôn. Cũng vậy, khi Ngài nói "không biết", cũng chính là lúc Ngài đánh thức cho ông Bùi Hưu khéo nhận lại mật hạnh nơi chính ông. Tại sao? Vì Ngài nói "không biết" có nghĩa là Ngài nói "dám bảo cái ấy nơi ông không có hay sao mà đi hỏi", phải không? Đã là mật hạnh thì đâu có cho phép đi hỏi nơi người ngoài. Mật hạnh bậc nhất mà còn đi hỏi nơi người khác là tin tức đã bị lộ ra bên ngoài, bị người kiểm điểm, là hết mật rồi.
Nếu ông Bùi Hưu khéo thấy trở lại mật hạnh nơi chính ông thì nơi Thiền sư Long Nha Cư Đôn và ông Bùi Hưu, mỗi vị tự hiển bày mật hạnh một cách rõ ràng, tức là chủ thấy chủ, phải không? Mà chủ và chủ đã thấy nhau thì tuy nói là mật hạnh mà không còn là mật nữa, đã hiển bày một cách rõ ràng rồi. Đó là người về đến nhà thì thấy nhau rõ ràng, không còn là mật nữa. Nhưng đối với người chưa nhận ra mật hạnh thì vẫn còn mơ hồ, không sao cảm nhận được, cho nên nó vẫn còn rất là mật, vẫn còn giấu rất kín đó với những người ngoài cuộc, không ai ăn cắp được cả.
Như vậy, “mật hay không mật” là trả quyền lại cho ai? - Cho mọi người, phải không? Ngang đây chúng ta mới thấy rõ chỗ sống của Thiền sư Long Nha. Ngài hằng sống trong chỗ chân thật đó rất sít sao, cho nên hễ vừa đụng đến thì liền nhảy, phải không? Tại sao? Chúng ta thấy rõ ràng là Ngài đang trồng rau ở phía sau vườn. Ngài đâu có suy nghĩ gì! Và tới khi được mời vào thì Ngài cũng chẳng cần biết là mời vào để gặp ai và vì vấn đề gì nữa! Cứ vào thôi! Rửa tay xong chưa kịp lau khô thì ông Bùi Hưu đặt câu hỏi. Vừa được hỏi, ngài La-hầu-la đệ nhất hạnh gì, Ngài nói "không biết", thế là xong, thấy không? Vừa nói "không biết" là mật hạnh tròn đầy, không một chút gì có thể xen vào được.
Mới thấy hằng ngày Thiền sư Long Nha Cư Đôn lúc nào cũng sống trong thể chân thật ấy một cách miên mật sít sao. Nào là trồng rau, làm vườn, rửa tay, hỏi đáp... luôn luôn hiển hiện đầy đủ, không xen hở. Lúc nào cũng là lúc Ngài sống bằng tâm thể sáng suốt. Ở bất cứ nơi đâu cũng là nơi tâm thể hiện bày. Như thế, có khoảng thời giờ nào đối với Ngài là luống phí vô ích hay không? Hằng sống trong đó thì không có một khoảng thời gian nào là luống phí nữa.
Ông Bùi Hưu nghe xong rất mừng, liền lễ bái và tán thán "thật là trong vải rách có buộc trân châu". Khi nghe trả lời "không biết", ông Bùi Hưu cảm nhận được điều gì mà tán thán như vậy? Đời sống hằng ngày Ngài vẫn sinh hoạt ngủ nghỉ, cuốc đất trồng rau, rồi cũng đi tiêu đi tiểu, mặc áo ăn cơm... vẫn bình thường như bao nhiêu người khác, không có gì khác lạ cả. Sự vận hành thường ngày của tấm thân tứ đại đó ai ai cũng giống nhau nên ông Bùi Hưu ví giống như một miếng vải rách. Nhưng hòa trong cuộc sống đó, Thiền sư Long Nha luôn luôn tiềm ẩn một sức sống chân thật sáng ngời, cho nên vừa nghe hỏi đến liền nói ra được như vậy, vừa đụng đến thì tỏa sáng liền. Mới biết, trong miếng vải rách như bao nhiêu tấm vải rách kia, vẫn còn đây một hạt châu chân thật luôn luôn tỏ rạng sáng ngời. Cảm nhận sâu xa sức sống của một Thiền sư nên ông Bùi Hưu đã hết lời tán thán.
Cũng vậy, hôm nay muốn sống trọn vẹn thời giờ không để trôi suông thì tất cả chúng ta cũng phải khéo thể nhận và sống về với cái thể chân thật đó. Nhưng không có nghĩa là mình phải làm việc gì khác lạ hơn người. Cũng như bao nhiêu người khác, nhưng tâm thể chân thật luôn hiện tiền. Đó là trong vải rách đã sẵn một hạt trân châu đang chiếu sáng. Và hạt châu đó nếu ai khéo nhận thì liền xài, khỏi cần phải nói dong dài nữa, phải không?
Ông Bùi Hưu biết tán thán như vậy là ông đã cảm thông được chỗ sống thực của Thiền sư Long Nha, phải không? Đây là hai bậc tác gia đã thấy nhau. Nếu không phải là một bậc tác gia như ông Bùi Hưu thì không dễ gì thấy được chỗ "không biết" của Thiền sư Long Nha được. Trong tất cả thời, ở bất cứ nơi đâu, bằng tâm thể chân thật đó, nếu tất cả chúng ta luôn sống miên mật, không một chút xen hở, giống như Thiền sư Long Nha thì người người vốn gặp nhau trong ấy và không có một khoảng thời giờ nào bị lãng phí cả. Thấu suốt được như vậy thì chúng ta mới thực hành trọn vẹn được những lời dạy của người xưa và thấy rõ được tâm từ bi thống thiết của quí ngài đã chỉ dạy cho mình, chứ không phải những lời quý ngài nói ra đó là tầm thường.
Có một vị Tăng hỏi ngài Triệu Châu Tùng Thẩm: “Chỗ Phật Tổ chẳng gián đoạn là thế nào?” Ngài đáp: “Không rỉ lọt.” Nếu nghe hỏi "chỗ Phật Tổ không gián đoạn" mà chúng ta đáp là "có một chỗ nào đó" là bị gián đoạn rồi, phải không? Tại vì có chỗ là liền thành đối tượng, mà có mình có đối tượng là rỉ lọt chưa? - Rỉ lọt xen hở rồi, phải không? Cho nên Sư đáp "không rỉ lọt” có nghĩa là không một niệm cho tình thức xen vào thì có chỗ nào mà gián đoạn, phải không? Không có một chỗ mà hay bàng bạc khắp tất cả chỗ, nên không có chỗ nào để xen hở gián đoạn cả. Sống được như vậy thì có thời giờ nào mà luống phí vô ích, phải không? Đó là chỗ tột cùng mà các vị Thiền sư đã chỉ cho mình.
Chỉ một lời “chớ để thời giờ qua suông”, mới nghe qua thì thấy như là bình thường, phải không? Nhưng mà sống cho hết lời đó là khó hay dễ? Nếu không tha thiết với sự tu tập, không kiên nhẫn lâu bền, không có sự quả cảm và quyết tâm cao thì không dễ dàng thực hành trọn vẹn được lời dạy đó, phải không? Thấy được như vậy là chúng ta đã cảm thông được lời Thiền sư Thạch Đầu chỉ dạy rồi. Mà đã cảm thông được lời Ngài Thạch Đầu chỉ dạy thì chúng ta cũng thấy được lời ngài Pháp Nhãn nói “ơn lớn vòi vọi khó đền”, phải không? và cũng thấy được chỗ Thiền sư Tịch Âm tôn giả nói “ngài Pháp Nhãn đúng thật là người thấy được tâm của bậc Tiên đức”.
Nếu thấu hiểu và khéo sống được như vậy là chúng ta sẽ thấu hiểu được lời nói của Hòa thượng ân sư dạy chúng ta, “mấy chú để thời giờ trôi uổng quá”, và mới thấy rõ tâm từ bi sâu sắc của Ngài nhắc nhở cho chúng ta. Chỉ có người nào thấu hiểu và sống được thì mới cảm sâu được công ơn cao dầy của vị thầy đối với mình. Nếu chỉ nghe qua thì không bao giờ chúng ta có thể thấy hết được tâm lão bà của các bậc Tôn đức.
V/ GIÁ TRỊ THỜI GIAN LÀ GIÁ TRỊ CUỘC SỐNG.
Con người chúng ta ít có ai chịu cảm nhận giá trị và niềm vui ngay trong cuộc sống, ngay trên công việc mình đang làm mà thường thích sống trong niềm vui ảo giác của hy vọng và mong chờ. Cụ thể là khi chúng ta đi làm một công việc gì thì thường mong làm xong cho rồi hoặc mong sao mau hết giờ để về nhà nghỉ ngơi. Làm một công việc trong tâm trạng như vậy là chúng ta đã giết chết thời gian, giết chết sự sống của mình ngay khi đó rồi. Ngay đó tuy là đang sống mà thực sự là chúng ta đang chết. Khi về đến nhà thấy nhiều việc chưa vừa lòng thì sanh bực bội, không vui, rồi vội vàng cố làm cho xong mọi thứ để chiều nay được đi chơi, hy vọng sẽ có một buổi chiều thứ Bảy thật tuyệt. Nhưng chiều đến thì lại gặp chuyện không như ý, người bạn thân trở tánh xấu lừa mình... và sự khó chịu bực bội nhân lên gấp đôi... thế là thời gian hy vọng sẽ được thảnh thơi cũng lại tiếp tục không có được. Và cứ như thế, nhiều tình huống tương tự lại lần lượt đi qua trên từng đời người như thế, để rồi sự chờ đợi cũng chỉ là đợi chờ và khoảng thời gian được gọi là thảnh thơi lại còn quá xa vời ở một phương trời vô định nào đó, dường như không bao giờ có được. Tại sao chúng ta không khéo nghỉ ngơi ngay trên công việc? Tại sao không ngay trên công việc mà tìm niềm vui? Khi đang làm một công việc nào đó, nếu chúng ta luôn giữ trạng thái an tĩnh, nhẹ nhàng, vui tươi ngay trên việc đó, không phóng tâm tìm cầu một niềm vui nào xa vời cả thì trong mọi lúc, mọi nơi, việc nào cũng là việc có ý nghĩa, chỗ nào cũng là chỗ mình nghỉ ngơi, và bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì cũng thảnh thơi cả. Như vậy chúng ta đã có được niềm vui thực sự ngay đây, ngay chỗ mình đang đứng, sự thảnh thơi là nơi chính mình, không cần tìm kiếm hay đợi chờ và hy vọng trong vô vọng nữa! Khéo vận dụng và sống được như vậy thì bất cứ thời gian hay công việc nào cũng có ý nghĩa, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên ý vị và tràn đầy nhựa sống. Không phải nhọc công kiếm tìm ở đâu xa mà sự an vui hạnh phúc là ngay đây và bây giờ.
Tuy nói nhiều, nhưng điều chính yếu là tự nơi mỗi người phải ứng dụng thực hành thôi, phải không? Xét lại ngay nơi mỗi người, khi một niệm khởi mà mình lao theo thì đó là mê hay giác? À, mê! Mà mê thì dao vốn là bén mà lại dùng để cắt bùn, dao thì cùn mà bùn thì không thành gì cả, cho nên trở thành vô nghĩa, phải không? Cũng ngay một niệm khởi mà không lao theo, giác trở lại thì mỗi một niệm là một niệm trở về. Như vậy, ngay đó mà khéo sống về với bản tánh thì hợp với bản diệu, mỗi giây phút sống về có nghĩa là mỗi giây phút có giá trị lớn, phải không?
Như vậy ngay một niệm mà phóng ra lao theo thì mình vốn là châu báu quí giá mà trở thành cây cỏ, đó là để thời giờ luống trôi suông một cách vô ích. Cũng ngay một niệm đó mà giác biết rõ ràng, đó là từ phàm mê trở về bảo giác, thì không có một khe hở thời gian nào để lãng phí cả.
Muốn biết mình sống có lãng phí thì giờ hay không thì không gì hơn là ngay nơi mỗi niệm mà khéo kiểm điểm lại, phải không? Mỗi một niệm khéo kiểm điểm thì không một thời giờ nào là luống phí cả. Ngay một niệm mà không theo là chúng ta đang sống và tu rất miên mật, sống rất kỹ, ở mọi lúc mọi nơi, làm bất cứ việc gì cũng là lúc mình tu, không để thời giờ trôi suông. Còn nếu ai khéo hơn, luôn sống trở về Tự tánh, sống bằng Tự tánh, không có chỗ cho tình thức xen vào thì tất cả pháp đều là Phật pháp, tất cả việc đều là việc Phật, tất cả động dụng thi vi đều là diệu dụng của tự tánh, thì có thời gian nào là vô nghĩa?
Tự trong sâu thẳm lòng mình, nếu ai có cảm nhận rằng, "thoạt rời Tâm thể trong chốc lát, tạm thời vắng bóng, vừa chợt thoáng mê" mà mình cảm thấy vô vị, hụt hẫng, miên mang trong lòng giống như người sắp chết, thì đó là đã thấm nhuần đạo lý đáng kể. Chính chỗ thấm sâu đó sẽ thôi thúc mình có một sự thiết tha và nổ lực trong công phu. Từ đó, chúng ta sẽ sống một cuộc đời xứng đáng, không có một khoảng thời gian nào trôi suông cả. Nếu chúng ta khéo xét cho thật kỹ, thấy rõ như thế để ứng dụng một cách triệt để thì cuộc sống chúng ta mới có giá trị, có lợi ích cho mình và người ở hiện đời và mai sau, không để thời giờ trôi suông một cách vô nghĩa.
Các bài mới
- Tâm trộm - 16/01/2013
- Tâm bình thường - 06/12/2012
- Nghi vấn sau cùng của Đức Phật - 02/10/2012
Các bài đã đăng
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 89500
- Online: 24