Thiền phái Trúc Lâm VN tổ chức khóa tu dành cho chư Tăng các thiền viện khu vực phía Bắc
Lễ Giỗ Tổ Bồ Đề Đạt Ma PL.2568-DL.2024 tại TVTL Sùng Phúc
Chuyện Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Tiểu Sử Tổ Bồ Đề Đạt Ma
Thiền Tông Là Gì
Thiền Của Đạo Phật
Đoàn Tăng Ni Phật Tử Thiền Phái Trúc Lâm Thăm và Hỗ Trợ Đồng Bào Bị Ảnh Hưởng Lũ Lụt tại các Tỉnh Miền Bắc
Con Trâu Và Cái Tâm
Sống Trở Về
Lời Dạy Trong Ngày Tự Tứ
Thứ tư, 13/11/2024
,
Diệu chỉ Phật tâm tông (Phần 2)
23/05/2011 | Lượt xem: 3479
Thích Đạt Ma Khế Định
VI. Ý CHÍ HƯỚNG THƯỢNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG
Con đường hướng thượng của người tu theo tinh thần Thiền tông trước hết phải chuyển phàm thành Thánh, chuyển phiền não thành Bồ đề, chuyển mê thành giác, chuyển tham sân si thành giới định tuệ… Nhờ vào năng lực phát đại tâm đại hạnh mà hành giả mới có đủ cơ duyên phát huy năng lực khai phóng tiềm năng để đạt đến con đường tự lợi lợi tha, tự giác giác tha cho đến giác hạnh viên mãn, hoàn tất phương trình Phật quả vô sanh.
Tông chỉ hướng thượng của Phật tâm tông chẳng dùng lời để nói, chỉ thầm hội yếu chỉ cương tông của Phật Tổ mà xưa kia Đức Phật đã dùng con đường hướng thượng này mà hoàn tất phương trình Phật quả vô sanh.
Song con đường hướng thượng như thế nào? Điều cần yếu phải khai phóng chí khí, phải kiên tâm nhẫn nại, phải nhẫn nhục thực hành, phải khổ công tham cứu, phải tín tâm trường viễn.
Nhờ vào sự gia công tu tập này mà huân tập và hun đúc những đức tánh cao quý, những chí hạnh kiên cường. Do đây mà có được con đường hướng thượng vững chắc và sâu thẳm.
Nói đến ý chí hướng thượng, phải thứ lớp thực hành miên mật. Lý, sự, tánh, tướng đều phải viên dung khế hợp tâm ấn của Phật Tổ. Tức là phải nỗ lực gia công hành trì miên mật mới có ngày tiến thẳng vào ngôi Bảo giác. Như trường hợp Ngài Kiệt Phong Ngu chẳng hạn:
“Kiệt Phong Ngu thiền sư trước tiên học đạo với Tổ Thạch Môn. Sư vâng giữ pháp ngữ của Tổ, ngày đêm mải miết tham cứu. Về sau Sư đến tham vấn Tổ Chỉ Nham, tham câu “Không phải tâm, không phải vật, không phải Phật”. Lúc ấy lòng nghi càng tăng, Sư bỏ hết muôn việc, quên cả ăn ngủ. Hết mai lại chiều, Sư ngồi sững như tượng gỗ. Một đêm, Sư nghe vị Tăng ở phòng cạnh bên ngâm câu “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân” trong bài Chứng Đạo Ca, bỗng nhiên thấy tự do như người trút gánh nặng. Sư đắc ý hai câu:
Song con đường hướng thượng như thế nào? Điều cần yếu phải khai phóng chí khí, phải kiên tâm nhẫn nại, phải nhẫn nhục thực hành, phải khổ công tham cứu, phải tín tâm trường viễn.
Nhờ vào sự gia công tu tập này mà huân tập và hun đúc những đức tánh cao quý, những chí hạnh kiên cường. Do đây mà có được con đường hướng thượng vững chắc và sâu thẳm.
Nói đến ý chí hướng thượng, phải thứ lớp thực hành miên mật. Lý, sự, tánh, tướng đều phải viên dung khế hợp tâm ấn của Phật Tổ. Tức là phải nỗ lực gia công hành trì miên mật mới có ngày tiến thẳng vào ngôi Bảo giác. Như trường hợp Ngài Kiệt Phong Ngu chẳng hạn:
“Kiệt Phong Ngu thiền sư trước tiên học đạo với Tổ Thạch Môn. Sư vâng giữ pháp ngữ của Tổ, ngày đêm mải miết tham cứu. Về sau Sư đến tham vấn Tổ Chỉ Nham, tham câu “Không phải tâm, không phải vật, không phải Phật”. Lúc ấy lòng nghi càng tăng, Sư bỏ hết muôn việc, quên cả ăn ngủ. Hết mai lại chiều, Sư ngồi sững như tượng gỗ. Một đêm, Sư nghe vị Tăng ở phòng cạnh bên ngâm câu “Chẳng trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân” trong bài Chứng Đạo Ca, bỗng nhiên thấy tự do như người trút gánh nặng. Sư đắc ý hai câu:
Dạ bán hốt nhiên vong nguyệt chỉ
Hư không tịnh xuất nhật luân hồng.
Hư không tịnh xuất nhật luân hồng.
Dịch:
Đêm vắng bỗng quên tay chỉ nguyệt
Hư không thoát lộ bóng dương hồng”.
Hư không thoát lộ bóng dương hồng”.
Như chúng ta thấy rõ người xưa dụng công tu tập thật là thiết tha gắng gổ miên mật, dẫu ngày hay đêm nên mới có ngày triệt chứng Bản tâm, chóng thành quả vị. Đâu như ngày nay chúng ta dụng công lơ là cho ngày qua tháng lại. Song nếu được bậc thiện tri thức chỉ bày lại tuyên bố đạo đã có sẵn lại đâu cần dụng công. Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền, quơ tay múa chân, khạc nhổ, nhướng mày chớp mắt đâu ngoài cái ấy. Song thử hỏi nếu lúc thân này bại hoại thì cái ấy ở đâu?
Như trong luận Thiền Tông Trực Chỉ của Ngài Thiên Cơ nói:
Gần đây có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công, lại nói: “Cổ nhân chưa từng dụng công”. Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.
Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh Tọa Thiền nói:
Như trong luận Thiền Tông Trực Chỉ của Ngài Thiên Cơ nói:
Gần đây có một số tà sư dạy người, không do cố gắng dụng công, lại nói: “Cổ nhân chưa từng dụng công”. Lời nói này rất độc, làm mê lầm kẻ hậu học, sẽ vào địa ngục vậy.
Thiền sư Đại Nghĩa làm bài minh Tọa Thiền nói:
Chớ tin rằng đạo chẳng cầu tham
Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam
Dù rằng gác cũ nhàn điền địa
Một phen gầy dựng thật gian nan.
Thánh trước chăm chăm làm chỉ nam
Dù rằng gác cũ nhàn điền địa
Một phen gầy dựng thật gian nan.
Nếu chẳng cần tham cứu mà bảo được lý, đây là Di Lặc trời sanh, Thích Ca tự nhiên, bọn này thật là đáng thương xót vậy. Bởi vì họ chẳng hiểu tham cứu, hoặc thấy người xưa một hỏi một đáp liền lãnh ngộ, bèn đem cái hiểu biết của tình thức để giải thích, là dối gạt người. Hoặc bị cơn bệnh ngặt, liền kêu la om sòm, những cái hiểu lúc đương thời đem dùng không được. Hoặc đến lúc sắp chết, như con cua bỏ vào chảo nước sôi, tay chân rối loạn, bây giờ hối hận chẳng kịp”.
Thiền sư Hoàng Bá nói:
Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Đầu dây nắm chặt giữ lập trường
Chẳng phải một phen sương lạnh buốt
Hoa mai đâu dễ ngửi mùi hương.
Lời này thật rất thân thiết. Nếu đem bài kệ này luôn luôn cảnh sách công phu thì tự nhiên thực hành được tiến bộ. Như người đi con đường trăm dặm, đi một bước là gần một bước, không đi thì đứng nguyên chỗ cũ. Dù người ấy nói được sự nghiệp ở quê hương rõ ràng, rành rẽ, trọn không đến nhà, làm sao được việc lớn ấy.
Do đó, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ cũng thống thiết răn dạy như thế này:
“Cửa học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ cần gột sạch căn trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến giờ. Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với tất cả thứ ái dục ở thế gian tâm không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng tự nhiên thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc Đạo Sư chân chánh phải thiết tha thân cận, giả sử tham chưa thấu triệt, học chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành chủng tử trong tàng thức, kiếp kiếp không sợ vào ác thú, đời đời không mất thân người, vừa sanh ra đã một nghe ngàn ngộ”.
VII. LỰC DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Hành giả tu theo tinh thần Thiền tông phải đạt đến chỗ kiến tánh và vượt lên đến chỗ cùng tột. Nay đã rõ suốt phần hướng thượng rồi, thì phần lực dụng phải cho vững chắc như tường đồng vách sắt vậy.
Như thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung chẳng hạn:
“Sư họ Vi quê ở Duyên Lăng, Nhuận Châu. Năm mười chín tuổi, Sư đã học thông kinh sử, tìm xem bộ Đại Bát Nhã hiểu thấu lý chân không.
Một hôm, Sư tự than: “Đạo Nho sách đời không phải pháp cứu kính, Bát Nhã chánh quán là thuyền bè xuất thế”. Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia học đạo.
Sau, Sư đến núi Ngưu Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía Bắc chùa U Thê. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt.
Khoảng niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-650TL), Tổ Đạo Tín nhân thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhân đó, Sư được đại ngộ.
Song chuyện kể rằng từ khi đắc pháp về sau các loài chim không còn tha bông đến cúng dường nữa. Đây đều là do lực dụng của Thiền Sư Pháp Dung. Ngài đã đạt đến trình độ Pháp tánh bình đẳng thâm sâu vi diệu.
Vì thế sau này có vị Tăng nhân câu chuyện lạ lùng mới đâm ra thắc mắc đến thưa hỏi Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà. Tăng hỏi:
- Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thế nào?
Sư đáp:
- Cúc vàng nở hoa ong đua hút.
Tăng hỏi:
- Sau khi thấy thế nào?
Sư đáp:
- Mầm khô hoa rụng rõ không nương”.
“Hòa thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới yên tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai quỷ đến bắt Sư, song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý Thổ địa, Thổ địa bảo:
- Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích ái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm xuất định giữ lại. Quỷ thấy Sư xuất định liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm la.
Thiền sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất tuệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại, và để lại bài kệ:
Do đó, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ cũng thống thiết răn dạy như thế này:
“Cửa học đạo không có gì kỳ đặc, chỉ cần gột sạch căn trần và những chủng tử nghiệp thức từ vô lượng kiếp đến giờ. Các ông nếu tiêu trừ hết tình niệm, đoạn dứt vọng duyên, đối với tất cả thứ ái dục ở thế gian tâm không động nhiễm như cây đá, dù đạo nhãn chưa sáng tự nhiên thân tâm an tịnh. Nếu gặp bậc Đạo Sư chân chánh phải thiết tha thân cận, giả sử tham chưa thấu triệt, học chưa thành tài, một phen tai nghe đạo vị tạo thành chủng tử trong tàng thức, kiếp kiếp không sợ vào ác thú, đời đời không mất thân người, vừa sanh ra đã một nghe ngàn ngộ”.
VII. LỰC DỤNG CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Hành giả tu theo tinh thần Thiền tông phải đạt đến chỗ kiến tánh và vượt lên đến chỗ cùng tột. Nay đã rõ suốt phần hướng thượng rồi, thì phần lực dụng phải cho vững chắc như tường đồng vách sắt vậy.
Như thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung chẳng hạn:
“Sư họ Vi quê ở Duyên Lăng, Nhuận Châu. Năm mười chín tuổi, Sư đã học thông kinh sử, tìm xem bộ Đại Bát Nhã hiểu thấu lý chân không.
Một hôm, Sư tự than: “Đạo Nho sách đời không phải pháp cứu kính, Bát Nhã chánh quán là thuyền bè xuất thế”. Sư bèn vào ở ẩn núi Mao theo thầy xuất gia học đạo.
Sau, Sư đến núi Ngưu Đầu ở trong thất đá trên ngọn núi phía Bắc chùa U Thê. Lúc đó, có các loài chim tha bông đến cúng dường. Các loài thú dữ quanh quẩn bên Sư không ngớt.
Khoảng niên hiệu Trinh Quán nhà Đường (627-650TL), Tổ Đạo Tín nhân thấy khí tượng lạ tìm đến gặp Sư. Nhân đó, Sư được đại ngộ.
Song chuyện kể rằng từ khi đắc pháp về sau các loài chim không còn tha bông đến cúng dường nữa. Đây đều là do lực dụng của Thiền Sư Pháp Dung. Ngài đã đạt đến trình độ Pháp tánh bình đẳng thâm sâu vi diệu.
Vì thế sau này có vị Tăng nhân câu chuyện lạ lùng mới đâm ra thắc mắc đến thưa hỏi Thiền sư Tử Thuần ở Đơn Hà. Tăng hỏi:
- Ngưu Đầu khi chưa thấy Tứ Tổ thế nào?
Sư đáp:
- Cúc vàng nở hoa ong đua hút.
Tăng hỏi:
- Sau khi thấy thế nào?
Sư đáp:
- Mầm khô hoa rụng rõ không nương”.
“Hòa thượng Kim Bích Phong sau khi tỏ ngộ, Sư buông hết mọi tham ái, chỉ thích một cái bát bằng ngọc chẳng rời tay. Mỗi lần trước khi ngồi thiền định, Sư đem cái bát cất kỹ gần bên mới yên tâm. Có lần, nhân tuổi thọ Sư đã hết, vua Diêm La sai quỷ đến bắt Sư, song Sư cũng biết thời đã đến, mỉm cười nhập định, xem vua Diêm La làm gì. Quỷ đến bên cạnh Sư, đợi một ngày, hai ngày… không thể bắt Sư, bèn đi hỏi ý Thổ địa, Thổ địa bảo:
- Thiền sư Kim Bích Phong này rất thích ái bát ngọc, nếu ngươi có cách đem cái bát ấy đi, Ngài động niệm sẽ xuất định.
Quỷ nghe nói, liền nhanh đến chỗ đặt cái bát ấy làm lay động nó. Sư nghe tiếng cái bát động, động niệm xuất định giữ lại. Quỷ thấy Sư xuất định liền vỗ tay cười to:
- Hay đấy! Giờ xin mời Ngài theo tôi đến gặp vua Diêm la.
Thiền sư Kim Bích Phong vừa nghe lời quỷ, biết rõ do tâm tham ái cái bát, làm mất tuệ mạng ngàn năm của mình, liền đập vỡ cái bát ngọc, nhập định trở lại, và để lại bài kệ:
Nhược nhân dục nã Kim Bích Phong
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Trừ phi thiết luyện tỏa hư không
Hư không nhược năng tỏa đắc trụ
Tái lai nã ngã Kim Bích Phong.
Dịch:
Nếu người muốn bắt Kim Bích Phong
Trừ phi sắt luyện khóa hư không
Nếu hay khóa được hư không ấy
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Trừ phi sắt luyện khóa hư không
Nếu hay khóa được hư không ấy
Trở lại bắt ta Kim Bích Phong.
Do đó, chúng ta thấy rõ cuối cùng Ngài cũng phải đi sâu vào nội giới “không nghĩ thiện, không nghĩ ác chính khi ấy là gì?”. - Mầm khô hoa rụng rõ không nương.
“Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư, Sư cất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuống trai đường, Động Sơn thấy lạ hỏi:
- Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?
Sư thưa:
- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
Động Sơn bảo:
- Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.
Chiều Sư đến. Động Sơn gọi:
- Ưng am chủ!
Sư ứng thanh:
- Dạ!
Động Sơn bảo:
- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?
Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường”.
Do đây chúng ta thấy rõ từ xưa đến nay, tuy có rất nhiều người đầy đủ chánh tri kiến, nhưng muốn đạt đến chỗ lực dụng hiện tiền thì mọi vọng niệm thiện ác đều phải buông sạch. Bấy giờ lực dụng mới khai phóng ánh sáng Bát Nhã.
Thế nên những tác gia phải quên mình vì đạo, đem hết tinh thần khả năng, tạo nên lực dụng mạnh mẽ, khai phóng ánh sáng Bát Nhã hòng để gánh vác gia nghiệp Phật Tổ, thổi mạnh ngọn gió tông phong, dựng lập ngọn cờ chánh pháp, đốt lên ngọn đuốc Thiền tông, hòng dìu dắt những kẻ còn đang lầm đường lạc lối.
Tuy nhiên ở trong cuối đời mạt chánh pháp suy vi, ma cường pháp nhược, ngũ dục lẫy lừng, tuy ở trong cảnh Không mà chưa lìa danh tướng, tuy ngồi yên trong nhà Bảo giác mà thanh sắc chưa quên, thì thử hỏi Phật pháp làm sao không bị mai một? Cơ đồ Tổ giáo không bị dứt truyền? Khi xưa đức Như Lai đã từng nói: “Giáo pháp của ta chỉ có đệ tử ta phá hoại, giống như trùng trong thân sư tử, ăn thịt sư tử vậy!”.
Than ôi! Lời này thật là bi thương thống thiết. Thế thì, ngày nay chúng ta lại khoanh tay ngồi yên, an nhàn không việc hay sao? Cần nhất phải có những con người đầy đủ đại lực dụng, đại trí tuệ, lòng bi bình đẳng, thì mới có thể dựng lên rường cột chánh tông, phá tà hiển chánh. Có được như vậy mới không đến nỗi đoạn tuyệt ngôi nhà chánh giác của đức Như Lai đã dày công dựng lập.
VIII. DIỆU LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Những bậc Tông sư trên bước đường vân du hành đạo có đầy đủ trí lực nên có nhiều phương tiện diệu dụng, tùy cơ cảm của chúng sanh mà các Ngài thi thiết các phương tiện thiện xảo. Có lúc các Ngài đánh như thiền sư Đức Sơn, có lúc các ngài hét như thiền sư Lâm Tế, thảng hoặc một câu hỏi như nhau mà có lúc các Ngài đáp “không”, có khi các Ngài đáp “có”. Song điều đáng cho học nhân lưu ý là cốt tháo đinh nhổ chốt cho người đương cơ học đạo.
“Có người đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: - Không.
- Trên từ chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?
- Vì nó còn nghiệp thức.
Lại, có người hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: - Có.
- Đã có Phật tánh vì sao còn chui vào torng đãy da?
- Vì biết mà cố phạm”.
Bởi vậy diệu lực là một tiến trình huân tu của những bậc đại sư chân chánh. Chỗ dụng công của các Ngài đều y cứ vào “Thánh trí tự giác” mà diễn bày pháp âm “Vô tận tạng”. Như Thiền sư Duy Chánh ở viện Tịnh độ Hàng Châu chẳng hạn:
“Có vị Tăng hỏi:
- Thầy lấy danh là Thiền sư sao không nói thiền?
Sư đáp:
- Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày mà thôi. Ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này vô tận, nên gọi là tạo hóa vô tận tạng”.
Đây là đứng về mặt lý tánh tuyệt đối mà các Ngài chủ trương pháp học vô vi, cũng có khi đứng về mặt sự tướng mà chủ trương pháp học hữu vi. Sự vận hành và biến chuyển của các Ngài giống như “trời thu trăng sáng” hoặc như “sóng bủa mưa sa”. Đây chính là ánh sáng Bát Nhã đã khai phóng từ quê nhà muôn thuở.
“Như có người hỏi:
- Đã lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu nổi.
Sư bảo:
- Ông chỉ thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.
- Thế nào là cầu đá?
- Độ lừa độ ngựa.
- Thế nào là cầu nổi?
- Mỗi mỗi độ người”.
Bởi vậy, có những lúc các Ngài ẩn vào chốn rừng sâu hoang vắng, cô hành độc bộ, có khi vào nơi thành thị phố phường, dựng lập pháp tràng, nêu cao tông yếu. Chỗ hành tàng của các ngài lúc ẩn lúc hiện, chợt có chợt không, chợt còn chợt mất, hư hư thật thật, người đời khó mà lường xét nổi. Chí hạnh của các bậc Tông sư giống như con thần long, lúc hiện ra thân lớn đùa giỡn vẫy vùng nơi biển thẳm trời cao, hoặc hóa hiện ra thân nhỏ để tùy duyên chuyển biến hóa độ quần sanh. Như Tế Điên Hòa thượng:
“Thiền sư Đạo Ưng ở Vân Cư, Sư cất thảo am nơi Tam Phong, trải qua tuần nhật không xuống trai đường, Động Sơn thấy lạ hỏi:
- Mấy ngày nay sao ngươi không đến thọ trai?
Sư thưa:
- Mỗi ngày có thiên thần cúng dường.
Động Sơn bảo:
- Ta bảo ngươi là kẻ vẫn còn kiến giải. Ngươi rảnh chiều lại.
Chiều Sư đến. Động Sơn gọi:
- Ưng am chủ!
Sư ứng thanh:
- Dạ!
Động Sơn bảo:
- Chẳng nghĩ thiện, chẳng nghĩ ác là cái gì?
Sư trở về am ngồi yên lặng lẽ, thiên thần tìm mãi không thấy, trải qua ba ngày như thế mới thôi cúng dường”.
Do đây chúng ta thấy rõ từ xưa đến nay, tuy có rất nhiều người đầy đủ chánh tri kiến, nhưng muốn đạt đến chỗ lực dụng hiện tiền thì mọi vọng niệm thiện ác đều phải buông sạch. Bấy giờ lực dụng mới khai phóng ánh sáng Bát Nhã.
Thế nên những tác gia phải quên mình vì đạo, đem hết tinh thần khả năng, tạo nên lực dụng mạnh mẽ, khai phóng ánh sáng Bát Nhã hòng để gánh vác gia nghiệp Phật Tổ, thổi mạnh ngọn gió tông phong, dựng lập ngọn cờ chánh pháp, đốt lên ngọn đuốc Thiền tông, hòng dìu dắt những kẻ còn đang lầm đường lạc lối.
Tuy nhiên ở trong cuối đời mạt chánh pháp suy vi, ma cường pháp nhược, ngũ dục lẫy lừng, tuy ở trong cảnh Không mà chưa lìa danh tướng, tuy ngồi yên trong nhà Bảo giác mà thanh sắc chưa quên, thì thử hỏi Phật pháp làm sao không bị mai một? Cơ đồ Tổ giáo không bị dứt truyền? Khi xưa đức Như Lai đã từng nói: “Giáo pháp của ta chỉ có đệ tử ta phá hoại, giống như trùng trong thân sư tử, ăn thịt sư tử vậy!”.
Than ôi! Lời này thật là bi thương thống thiết. Thế thì, ngày nay chúng ta lại khoanh tay ngồi yên, an nhàn không việc hay sao? Cần nhất phải có những con người đầy đủ đại lực dụng, đại trí tuệ, lòng bi bình đẳng, thì mới có thể dựng lên rường cột chánh tông, phá tà hiển chánh. Có được như vậy mới không đến nỗi đoạn tuyệt ngôi nhà chánh giác của đức Như Lai đã dày công dựng lập.
VIII. DIỆU LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Những bậc Tông sư trên bước đường vân du hành đạo có đầy đủ trí lực nên có nhiều phương tiện diệu dụng, tùy cơ cảm của chúng sanh mà các Ngài thi thiết các phương tiện thiện xảo. Có lúc các Ngài đánh như thiền sư Đức Sơn, có lúc các ngài hét như thiền sư Lâm Tế, thảng hoặc một câu hỏi như nhau mà có lúc các Ngài đáp “không”, có khi các Ngài đáp “có”. Song điều đáng cho học nhân lưu ý là cốt tháo đinh nhổ chốt cho người đương cơ học đạo.
“Có người đến hỏi Thiền sư Triệu Châu:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: - Không.
- Trên từ chư Phật, dưới đến loài trùng kiến đều có Phật tánh, vì sao con chó không có Phật tánh?
- Vì nó còn nghiệp thức.
Lại, có người hỏi:
- Con chó có Phật tánh không?
Sư đáp: - Có.
- Đã có Phật tánh vì sao còn chui vào torng đãy da?
- Vì biết mà cố phạm”.
Bởi vậy diệu lực là một tiến trình huân tu của những bậc đại sư chân chánh. Chỗ dụng công của các Ngài đều y cứ vào “Thánh trí tự giác” mà diễn bày pháp âm “Vô tận tạng”. Như Thiền sư Duy Chánh ở viện Tịnh độ Hàng Châu chẳng hạn:
“Có vị Tăng hỏi:
- Thầy lấy danh là Thiền sư sao không nói thiền?
Sư đáp:
- Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày mà thôi. Ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này vô tận, nên gọi là tạo hóa vô tận tạng”.
Đây là đứng về mặt lý tánh tuyệt đối mà các Ngài chủ trương pháp học vô vi, cũng có khi đứng về mặt sự tướng mà chủ trương pháp học hữu vi. Sự vận hành và biến chuyển của các Ngài giống như “trời thu trăng sáng” hoặc như “sóng bủa mưa sa”. Đây chính là ánh sáng Bát Nhã đã khai phóng từ quê nhà muôn thuở.
“Như có người hỏi:
- Đã lâu nghe tiếng cầu đá Triệu Châu, nay đến chỉ thấy cầu nổi.
Sư bảo:
- Ông chỉ thấy cầu nổi mà không thấy cầu đá.
- Thế nào là cầu đá?
- Độ lừa độ ngựa.
- Thế nào là cầu nổi?
- Mỗi mỗi độ người”.
Bởi vậy, có những lúc các Ngài ẩn vào chốn rừng sâu hoang vắng, cô hành độc bộ, có khi vào nơi thành thị phố phường, dựng lập pháp tràng, nêu cao tông yếu. Chỗ hành tàng của các ngài lúc ẩn lúc hiện, chợt có chợt không, chợt còn chợt mất, hư hư thật thật, người đời khó mà lường xét nổi. Chí hạnh của các bậc Tông sư giống như con thần long, lúc hiện ra thân lớn đùa giỡn vẫy vùng nơi biển thẳm trời cao, hoặc hóa hiện ra thân nhỏ để tùy duyên chuyển biến hóa độ quần sanh. Như Tế Điên Hòa thượng:
Người đời bảo rằng ta kẻ điên
Điên điên đảo đảo chốn mê say
Ta say mà hồn ta vẫn tỉnh
Hóa độ muôn loài trong cơn say.
Điên điên đảo đảo chốn mê say
Ta say mà hồn ta vẫn tỉnh
Hóa độ muôn loài trong cơn say.
Vì vậy, mặc dầu bị người đời phê bình những lời hay dở hoặc nhục mạ, mà các Ngài vẫn an nhiên tự tại sống theo hạnh nguyện của mình. Như lời của Thiền sư Lâm Tế nói: “Kẻ ngu cười ta, người trí biết ta”, hay như lời Khổng Tử nói: “Ngàn người ngu biết ta không bằng một người trí biết ta”.
IX. NĂNG LỰC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Người tu theo tinh thần Thiền tông có năng lực mạnh mẽ phi thường, những người có đủ phước duyên huân tu nhiều kiếp theo học Thiền tông, với chí khí ngất trời, với tâm thái tự tín chắc thật, sừng sững như ngọn Thái Sơn, thần tốc như kiếm Thái A… những người này tạo cho mình một năng lực dồi dào, một đức tin vững mạnh nơi chính mình. Lập trường của họ vững chắc như tường đồng vách sắt, không ai phá vỡ được, dẫu cho có dấn mình vào hang hùm cọp sói để nhào nặn công phu cho đến chín muồi mà lòng họ vẫn an nhiên rảo bước. Như Thiền sư Qui Tông chẳng hạn, trong Thiền sử Trung Hoa có nói:
“Ngày kia Tư Mã Đầu Đà từ Hồ Nam đến yết kiến Bá Trượng, thưa:
- Qui Sơn là thắng cảnh nên lập đại đạo tràng kết tập bạn pháp.
Bá Trượng hỏi:
- Lão tăng muốn đến Qui Sơn chăng?
- Qui Sơn kỳ tuyệt có thể họp một ngàn năm trăm chúng, nhưng chẳng phải chỗ Hòa thượng ở.
- Sao vậy?
- Hòa thượng là người xương, núi kia là núi thịt, dù có ở, đồ đệ chẳng đầy một ngàn.
- Trong chúng có người ở được chăng?
- Đợi xem qua mới biết.
Bá Trượng sai Thị giả gọi Đệ nhất tọa đến, tức sư Hoa Lâm hỏi:
- Người này thế nào?
Đầu Đà bảo Hoa Lâm tằng hắng một tiếng, đi vài bước, thưa:
- Người này không được.
Bá Trượng sai Thị giả gọi Điển tọa đến, tức sư Linh Hựu, Đầu Đà thưa:
- Đây chính là chủ Qui Sơn.
Tối lại, Bá Trượng gọi Sư vào thất dặn dò:
- Ta hóa duyên tại đây, ngươi sẽ ở thắng cảnh Qui Sơn để nối tiếp tông môn của ta và rộng độ kẻ hậu học.
Hoa Lâm nghe tin đến thưa:
- Con là Thượng thủ, tại sao Linh Hựu được trụ trì?
Bá Trượng bảo:
- Nếu ai hay ngay trong chúng này nói được một câu xuất cách, sẽ cho trụ trì.
Bá Trượng liền chỉ tịnh bình hỏi:
- Chẳng được kêu tịnh bình, ngươi kêu là gì?
Hoa Lâm thưa:
- Không thể kêu là cây lủng vậy.
Bá Trượng lại hỏi Sư, Sư đạp nhào tịnh bình rồi đi ra. Bá Trượng cười bảo:
- Đệ nhất tọa thoái lui núi này.
Bá Trượng bèn sai Sư đến Qui Sơn.
Non Qui cao vót không có bóng người lai vãng, là hang ổ của cọp sói. Sư đến đây cất một am tranh, hằng ngày lượm trái lật, trái dẻ làm thức ăn nuôi sống”.
Bởi vậy chúng ta thấy rõ năng lực của Thiền giả ngày xưa kia là mảnh gương kiên cố, quyết tiến mà không lùi, dù ở tận trong rừng sâu núi thẳm nhưng vẫn một lòng một dạ quyết tâm hàng phục khách trần phiền não. Nhờ nương vào năng lực kiên cố vững mạnh này mà không ít các bậc Tông sư làm nên sự nghiệp vẻ vang cho chánh pháp, gây dựng ngôi nhà pháp bảo của đức Từ Phụ.
Vì thế, chúng ta thấy rõ các bậc Tông sư xưa kia đã làm những gì cao quý, chúng ta là hàng hậu học cũng phải cố gắng làm cho được như vậy, chớ không nên tự khinh mình mà lui sụt. Ngài Qui Sơn có nói:
Bỉ ký trượng phu ngã diệc nhĩ
Bất ưng tự khinh nhi thối khuất.
Bất ưng tự khinh nhi thối khuất.
Dịch:
Kia trượng phu ta cũng trượng phu
Chẳng nên tự khinh mà thối bước.
Chẳng nên tự khinh mà thối bước.
X. CÔNG ĐỨC CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Nói đến công đức của Phật tâm tông tức là nói đến “công đức huân từ Tự tánh Bát nhã” chớ chẳng phải tìm cầu bên ngoài, tạo các thứ phước điền mà cho là đạt đến chỗ “công đức chân thật”.
Nói đến công đức của Phật tâm tông tức là nói đến “công đức huân từ Tự tánh Bát nhã” chớ chẳng phải tìm cầu bên ngoài, tạo các thứ phước điền mà cho là đạt đến chỗ “công đức chân thật”.
“Xưa kia vua Lương Võ Đế hỏi Tổ Đạt Ma rằng:
- Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép Kinh độ Tăng Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì không?
Tổ đáp:
- Đều không có công đức.
- Tại sao không có công đức?
- Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
- Thế nào là công đức chơn thật?
- Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
- Thế nào là thánh nghĩa đế thứ nhất?
- Rỗng rang không Thánh.
- Đối diện với Trẫm là ai?
- Không biết”.
Do đó chúng ta thấy rõ “công đức của Phật tâm tông” không phải tìm cầu bên ngoài mà được, mà công đức này phải huân từ Tự tánh Bát nhã, phải huân từ Bản tâm chân thật của chính mình như Lục Tổ Huệ Năng nói về công đức của Phật tâm tông, Tổ dạy:
“Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công. Tâm thể lìa niệm là đức; không lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức tâm tức không có khinh người, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công. Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này thiện tri thức, mỗi niệm không gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không hải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng công đức khác nhau”.
Vì vậy, các bậc Tông sư đạt đến chỗ “công đức chân thật” rồi thì lúc nào cũng khiêm nhường, không bao giờ tỏ ra thái độ tự mãn tự thị. Càng khiêm cung đức độ càng sâu dầy, lời nói càng khiêm nhã ôn hòa. Song trong lời khiêm cung đều cần yếu phải đạt đến tinh thần vô ngã. Nếu còn vẩn đục cù cặn vị kỷ trong tâm thức thì lời khiêm cung ấy chỉ là lời nói rỗng, là tinh hồn ma quái của lòng si mê và tật đố, chớ chẳng phải là lời nói chân thật được khai phóng từ quê nhà tịch chiếu.
Do đó các Ngài sống giữa cuộc đời này chỉ biết dung hòa giữa hai thái cực phân biệt đối đãi chấp trước của chúng sanh chớ không bao giờ chỉ trích đây phải kia quấy, đây đúng kia sai. Vì sao thế? – Vì tâm còn thấy hai là tình chấp chưa đoạn, mà tình chấp chưa đoạn là quyến thuộc của lòng tật đố và thù hận. Thế nên các Ngài chỉ khéo léo dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp phục chúng sanh. Nhân vì pháp Phật bao la, phương tiện tùy cơ chỉ giáo để tiếp độ khắp cả mọi người đồng hương về cảnh giới tịnh lạc, vì vậy nên đức Như Lai diễn bày cảnh khổ để nêu rõ cảnh vui. Có khi nói hiếu đạo hữu vi để khuyên người thế tục kiến tạo “phước điền” và định vị con đường hạnh phúc trong giờ phút thực tại và mai sau, có lúc lại diễn bày cảnh giới vô vi để khai mở trí lực với những người có tâm thái vượt thoát ba cõi để kiến tạo “tâm điền”. Nói chung chư Phật chư Tổ có lúc nói quyền, có khi nói thật, hoặc có khi nói mật, có khi nói hiển đều tùy cơ cảm của chúng sanh mà mở mang giáo pháp.
Do đó chúng ta phải biết: Giáo pháp của Phật đến chỗ thẩm sâu vi diệu, thường là “động tịnh nhất như”. Vì vậy trong thể “vắng lặng” mà hàm ẩn tướng “động”, trong thể “động” mà hàm ẩn tướng “vắng lặng”. Vì thế trong cái “phước điền” đã hàm tàng công đức “tâm điền”, trong công đức “tâm điền” đã hàm tàng “phước điền”, cho nên nói: động tức tịnh, tịnh tức động, tâm điền tức phước điền, phước điền tức tâm điền. Động tịnh, tâm điền và phước điền là hai nguồn công đức bao la cùng tột.
“Tịnh” như Tổ Đạt Ma, suốt chín năm quay mặt vào vách, không nói một lời mà pháp an tâm đến hôm nay vẫn còn vang dội, người người vẫn còn thao thức và bồi hồi sửng sốt âm vang giữa thầy và trò.
“Tổ Huệ Khả bạch:
- Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.
Tổ Đạt Ma bảo:
- Đem tâm ra ta an cho.
Tổ Huệ Khả thưa:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
Tổ Đạt Ma nói:
- Ta đã an tâm cho ông rồi!”
“Động” như đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, trên ba trăm pháp hội lưu lại biết bao nhiêu lời trong ba tạng giáo điển: Kinh, Luật, Luận, song cuối cùng vẫn là:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại.
Dịch:
Nhìn hoa cười mỉm còn nguyên đó.
Thế nên phải biết: Trong tâm thể bao la rộng lớn, trong pháp giới mười cõi gồm đủ, lẽ đâu lại không có tướng hữu vi, vô vi dung hòa? Lẽ đâu lại không có “phước điền” để trang nghiêm tự thân và “tâm điền” để trang nghiêm thật tướng? Song trong cảnh giới “vô vi” thì không có một điểm vi trần, mà trong cảnh giới “hữu vi” thì bao hàm khắp cả mười phương cõi, như Tổ Qui Sơn có nói:
- Trẫm từ khi lên ngôi đến nay thường cất chùa, chép Kinh độ Tăng Ni không biết bao nhiêu, vậy có công đức gì không?
Tổ đáp:
- Đều không có công đức.
- Tại sao không có công đức?
- Bởi vì những việc ấy là nhân hữu lậu, chỉ có quả báo nhỏ ở cõi người cõi trời, như bóng theo hình, tuy có mà chẳng phải thật.
- Thế nào là công đức chơn thật?
- Trí thanh tịnh tròn mầu, thể tự không lặng, công đức như thế chẳng do thế gian mà cầu.
- Thế nào là thánh nghĩa đế thứ nhất?
- Rỗng rang không Thánh.
- Đối diện với Trẫm là ai?
- Không biết”.
Do đó chúng ta thấy rõ “công đức của Phật tâm tông” không phải tìm cầu bên ngoài mà được, mà công đức này phải huân từ Tự tánh Bát nhã, phải huân từ Bản tâm chân thật của chính mình như Lục Tổ Huệ Năng nói về công đức của Phật tâm tông, Tổ dạy:
“Thấy tánh là công, bình đẳng là đức, mỗi niệm không ngưng trệ, thường thấy Bản tánh, diệu dụng chân thật gọi là công đức. Trong tâm khiêm hạ là công, bên ngoài hành lễ phép là đức; tự tánh dựng lập muôn pháp là công. Tâm thể lìa niệm là đức; không lìa tự tánh là công, ứng dụng không nhiễm là đức. Nếu tìm công đức pháp thân, chỉ y nơi đây mà tạo là chân công đức. Nếu người tu công đức tâm tức không có khinh người, thường hành khắp kỉnh. Tâm thường khinh người, ngô ngã không dứt tức là không công. Tự tánh hư vọng không thật tức tự không đức, vì ngô ngã tự đại thường khinh tất cả. Này thiện tri thức, mỗi niệm không gián đoạn là công, tâm hành ngay thẳng là đức, tự tu tánh là công, tự tu thân là đức. Này thiện tri thức, công đức phải là nơi Tự tánh mà thấy, không hải do bố thí cúng dường mà cầu được. Ấy là phước đức cùng công đức khác nhau”.
Vì vậy, các bậc Tông sư đạt đến chỗ “công đức chân thật” rồi thì lúc nào cũng khiêm nhường, không bao giờ tỏ ra thái độ tự mãn tự thị. Càng khiêm cung đức độ càng sâu dầy, lời nói càng khiêm nhã ôn hòa. Song trong lời khiêm cung đều cần yếu phải đạt đến tinh thần vô ngã. Nếu còn vẩn đục cù cặn vị kỷ trong tâm thức thì lời khiêm cung ấy chỉ là lời nói rỗng, là tinh hồn ma quái của lòng si mê và tật đố, chớ chẳng phải là lời nói chân thật được khai phóng từ quê nhà tịch chiếu.
Do đó các Ngài sống giữa cuộc đời này chỉ biết dung hòa giữa hai thái cực phân biệt đối đãi chấp trước của chúng sanh chớ không bao giờ chỉ trích đây phải kia quấy, đây đúng kia sai. Vì sao thế? – Vì tâm còn thấy hai là tình chấp chưa đoạn, mà tình chấp chưa đoạn là quyến thuộc của lòng tật đố và thù hận. Thế nên các Ngài chỉ khéo léo dùng phương tiện thiện xảo để nhiếp phục chúng sanh. Nhân vì pháp Phật bao la, phương tiện tùy cơ chỉ giáo để tiếp độ khắp cả mọi người đồng hương về cảnh giới tịnh lạc, vì vậy nên đức Như Lai diễn bày cảnh khổ để nêu rõ cảnh vui. Có khi nói hiếu đạo hữu vi để khuyên người thế tục kiến tạo “phước điền” và định vị con đường hạnh phúc trong giờ phút thực tại và mai sau, có lúc lại diễn bày cảnh giới vô vi để khai mở trí lực với những người có tâm thái vượt thoát ba cõi để kiến tạo “tâm điền”. Nói chung chư Phật chư Tổ có lúc nói quyền, có khi nói thật, hoặc có khi nói mật, có khi nói hiển đều tùy cơ cảm của chúng sanh mà mở mang giáo pháp.
Do đó chúng ta phải biết: Giáo pháp của Phật đến chỗ thẩm sâu vi diệu, thường là “động tịnh nhất như”. Vì vậy trong thể “vắng lặng” mà hàm ẩn tướng “động”, trong thể “động” mà hàm ẩn tướng “vắng lặng”. Vì thế trong cái “phước điền” đã hàm tàng công đức “tâm điền”, trong công đức “tâm điền” đã hàm tàng “phước điền”, cho nên nói: động tức tịnh, tịnh tức động, tâm điền tức phước điền, phước điền tức tâm điền. Động tịnh, tâm điền và phước điền là hai nguồn công đức bao la cùng tột.
“Tịnh” như Tổ Đạt Ma, suốt chín năm quay mặt vào vách, không nói một lời mà pháp an tâm đến hôm nay vẫn còn vang dội, người người vẫn còn thao thức và bồi hồi sửng sốt âm vang giữa thầy và trò.
“Tổ Huệ Khả bạch:
- Bạch Hòa thượng, tâm con không an, xin Hòa thượng dạy con pháp an tâm.
Tổ Đạt Ma bảo:
- Đem tâm ra ta an cho.
Tổ Huệ Khả thưa:
- Bạch Hòa thượng, con tìm tâm không được.
Tổ Đạt Ma nói:
- Ta đã an tâm cho ông rồi!”
“Động” như đức Phật Thích Ca Mâu Ni trong suốt bốn mươi chín năm thuyết pháp độ sanh, trên ba trăm pháp hội lưu lại biết bao nhiêu lời trong ba tạng giáo điển: Kinh, Luật, Luận, song cuối cùng vẫn là:
Hoa lưu động khẩu ưng trường tại.
Dịch:
Nhìn hoa cười mỉm còn nguyên đó.
Thế nên phải biết: Trong tâm thể bao la rộng lớn, trong pháp giới mười cõi gồm đủ, lẽ đâu lại không có tướng hữu vi, vô vi dung hòa? Lẽ đâu lại không có “phước điền” để trang nghiêm tự thân và “tâm điền” để trang nghiêm thật tướng? Song trong cảnh giới “vô vi” thì không có một điểm vi trần, mà trong cảnh giới “hữu vi” thì bao hàm khắp cả mười phương cõi, như Tổ Qui Sơn có nói:
Thật tế lý địa bất thọ nhất trần
Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.
Vạn hạnh môn trung bất xả nhất pháp.
Tạm dịch:
Chỗ lý chân thật không nhận một hạt bụi
Trong cửa muôn hạnh không bỏ một pháp.
Trong cửa muôn hạnh không bỏ một pháp.
XI. TRƯỞNG DƯỠNG VÀ NUÔI LỚN THAI THÁNH CỦA PHẬT TÂM TÔNG:
Có người ngộ nhận rằng sau khi hành giả trực nhận ra được Bản tâm mình, liền vào núi sâu rừng thẳm để trưởng dưỡng và nuôi dưỡng thai thánh, nghĩa là có một cái gì ở ngoài mình để mà nuôi lớn thai thánh. Nếu hiểu theo thế này thì thật là “hàm oan cho ba đời chư Phật”. Trưởng dưỡng và nuôi lớn thai thánh có nghĩa là tiêu trừ tập khí dư thừa từ vô thủy đến nay.
Như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Như nước đục lóng trong, lấy đồ đựng để yên mãi không lay động thì đất cát tự chìm xuống, nước sạch hiện tiền, ấy gọi là ban đầu hàng phục khách trần phiền não. Kế là gạn bỏ đất bùn chỉ thuần nước trong, ấy gọi là dứt hẳn cội gốc vô minh, tướng minh tinh thuần, tất cả đều biến hiện mà không bị khách trần phiền não, đều khế hợp với đức tánh thanh tịnh Niết Bàn”.
Đoạn này Phật dạy: Như bước đầu chúng ta muốn hàng phục khách trần thì Phật thường dạy các thầy Tỳ-kheo vào chốn A-lan-nhã để tiêu trừ tập khí dần. Kế là chúng ta phải huân tu nhào nặn một thời gian nữa. Cuối cùng cội gốc vô minh dứt hẳn chỉ thuần tịnh là ánh sáng Bát Nhã mà không lay động bởi khách trần phiền não tác động vào. Đây mới thật sự là khế hợp với đức tánh thường trụ Niết Bàn, cũng là khế hợp vớ đức tánh thường hằng của mười phương chư Phật.
Do đó, Thiền sư Tông Cảnh Đại Huệ cũng nói: “Nạo sạch chánh tánh, trừ sạch nghiệp nhân, chẳng thọ hiện nghiệp”.
Song thế nào là chánh tánh? Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Sao gọi là chánh tánh? A-nan, chúng sanh tu Ta-ma-địa như vậy, trước phải cần yếu nghiêm trì giới luật cho thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sanh mà muốn ra khỏi ba cõi, thì thật không có lẽ ấy, phải quán sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù”.
Vì thế các Ngài sau khi kiến tánh rồi cần phải khởi tu để đoạn sạch hết tập khí dư thừa và hằng sống với Bản tánh như như bất động của chính mình. Nên người xưa nói: “Như lò hoang miếu cổ, như dải lụa trắng đi” là ý này vậy. Hay Thiền sư Trần Tôn Túc nói:”Việc lớn chưa sáng như đưa tang mẹ, việc lớn đã sáng như đưa tang mẹ”.
Bởi vậy, khi xưa những bậc Tông sư khi ngộ đạo rồi, liền tìm đến núi cao, hang thẳm, rừng sâu để nuôi dưỡng đạo tâm và tiêu trừ tập khí, bắt đầu từ khi còn non nớt yếu kém, cho đến lúc già dặn cứng cáp mới dám ra làm bậc thiện tri thức, dìu dắt tông đồ, lập bày tông chỉ, nêu cao pháp yếu. Hoặc lắm lúc các Ngài xả bỏ nhân duyên đời này, qua đến đời sau đầy đủ cơ duyên, tìm nơi mở đạo, hoặc tìm nhân duyên trả nghiệp độ sanh. Sau mới làm bậc đại thiện tri thức đầy đủ đại lực lượng, đại trí tuệ liền kiến lập đạo tràng, khai mở đạo pháp, lập bày tông yếu đúng theo chí nguyện nhân duyên xả mạng ba đầu, để làm lợi lạc cho quần sanh và truyền thừa mạng mạch Phật pháp như trường hợp Tài Tòng đạo giả tái lai làm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chẳng hạn.
“Một hôm Tổ Đạo Tín đi viếng núi Long Phong gặp một vị sư già trồng tòng – thời nhân gọi là Tài Tòng đạo giả. Vị Sư ấy hỏi Tổ rằng:
- Đạo pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được chăng?
Tổ đáp:
- Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng pháp kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:
- Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng?
Cô đáp:
- Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền. Mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
Ông bảo:
- Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?
Cô đáp:
- Riêng tôi bằng lòng.
Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch
Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong quyết định đuổi cô đi.
Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.
Đến ngày, cô sanh ra một đứ con trai xinh xắn nhưng vì sự kỳ dị không chồng mà có con nên cô đành đem thả xuống sông. Sáng ngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo Tín đối đáp một cách phi thường, được Tổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng Nhẫn.
Hoằng Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa là Tổ Đạo Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp.
Theo truyện này, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tòng đạo giả”.
Do đó, thiền sư Viên Ngộ dạy rằng:
“Hàng nạp tử đang lúc đau bệnh, phải lấy sanh tử làm việc lớn, siêng năng lo tiêu trừ tri kiến, cởi mở sự chướng ngại, thấu triệt và chứng ngộ nhân duyên lớn của Phật Tổ truyền trao. Chớ ham ưa danh tiếng, phải lưu bước đến chỗ chưa chắc thật. Càng lặng lẽ ẩn dấu mà càng thêm ẩn dấu chỗ kín đáo mới được. Các bậc Thánh nhân và hàng Thiên long có lúc đưa ông lên ngôi vị Thánh nhân để mở mang đạo cả”.
Đây là ngài Viên Ngộ dạy rất rõ trước phải thẩm thấu sanh tử là việc lớn hun đúc tâm cơ hướng thượng ban đầu. Vì sao? Vì kinh nói:
Sanh tử sự đại
Vô thường tấn tốc
Dịch:
Sống chết là việc lớn
Vô thường thật nhanh chóng.
Thật vậy! Chúng ta gẫm lại cuộc đời của mình thật là nhanh chóng, mới hồi nào còn tiếng khóc oe oe mà nay thì tóc đã pha màu tuyết. Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu, do đó một hôm Khổng Tử đứng trên cầu nhìn dòng nước chảy, ông cảm khái thốt lên:
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ
Tạm dịch:
Chảy mãi! Chảy mãi ư! Ngày đêm không dừng nghỉ.
Do đó, vua Trần Thái Tông trong bài “Rộng khuyên phát tâm Bồ đề” cũng nói:
“Rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh môn, vô tận. Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái thế cũng chỉ là trường đại mộng, phú quý kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.
Gió lửa khi tan không già trẻ
Núi sông bại hoại mấy anh hùng.
Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đã sớm điểm sương, ngày vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hài buông lòng tham tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai”.
Kế là ngài Viên Ngộ dạy phải siêng năng tinh tấn lo tiêu trừ và giải thoát tri kiến phân biệt phải quấy, tốt xấu, thương ghét… và thấu tột nhân duyên lớn của Phật Tổ, chớ ham cầu danh lợi ở đời mà chuốc lấy quả khổ về sau.
Như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Như nước đục lóng trong, lấy đồ đựng để yên mãi không lay động thì đất cát tự chìm xuống, nước sạch hiện tiền, ấy gọi là ban đầu hàng phục khách trần phiền não. Kế là gạn bỏ đất bùn chỉ thuần nước trong, ấy gọi là dứt hẳn cội gốc vô minh, tướng minh tinh thuần, tất cả đều biến hiện mà không bị khách trần phiền não, đều khế hợp với đức tánh thanh tịnh Niết Bàn”.
Đoạn này Phật dạy: Như bước đầu chúng ta muốn hàng phục khách trần thì Phật thường dạy các thầy Tỳ-kheo vào chốn A-lan-nhã để tiêu trừ tập khí dần. Kế là chúng ta phải huân tu nhào nặn một thời gian nữa. Cuối cùng cội gốc vô minh dứt hẳn chỉ thuần tịnh là ánh sáng Bát Nhã mà không lay động bởi khách trần phiền não tác động vào. Đây mới thật sự là khế hợp với đức tánh thường trụ Niết Bàn, cũng là khế hợp vớ đức tánh thường hằng của mười phương chư Phật.
Do đó, Thiền sư Tông Cảnh Đại Huệ cũng nói: “Nạo sạch chánh tánh, trừ sạch nghiệp nhân, chẳng thọ hiện nghiệp”.
Song thế nào là chánh tánh? Trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy:
“Sao gọi là chánh tánh? A-nan, chúng sanh tu Ta-ma-địa như vậy, trước phải cần yếu nghiêm trì giới luật cho thanh tịnh, đoạn hẳn lòng dâm, không dùng rượu thịt, chỉ ăn đồ trong sạch nấu chín, không ăn đồ sống. A-nan, người tu hành đó, nếu không đoạn dâm dục và sát sanh mà muốn ra khỏi ba cõi, thì thật không có lẽ ấy, phải quán sự dâm dục như là rắn độc, như thấy giặc thù”.
Vì thế các Ngài sau khi kiến tánh rồi cần phải khởi tu để đoạn sạch hết tập khí dư thừa và hằng sống với Bản tánh như như bất động của chính mình. Nên người xưa nói: “Như lò hoang miếu cổ, như dải lụa trắng đi” là ý này vậy. Hay Thiền sư Trần Tôn Túc nói:”Việc lớn chưa sáng như đưa tang mẹ, việc lớn đã sáng như đưa tang mẹ”.
Bởi vậy, khi xưa những bậc Tông sư khi ngộ đạo rồi, liền tìm đến núi cao, hang thẳm, rừng sâu để nuôi dưỡng đạo tâm và tiêu trừ tập khí, bắt đầu từ khi còn non nớt yếu kém, cho đến lúc già dặn cứng cáp mới dám ra làm bậc thiện tri thức, dìu dắt tông đồ, lập bày tông chỉ, nêu cao pháp yếu. Hoặc lắm lúc các Ngài xả bỏ nhân duyên đời này, qua đến đời sau đầy đủ cơ duyên, tìm nơi mở đạo, hoặc tìm nhân duyên trả nghiệp độ sanh. Sau mới làm bậc đại thiện tri thức đầy đủ đại lực lượng, đại trí tuệ liền kiến lập đạo tràng, khai mở đạo pháp, lập bày tông yếu đúng theo chí nguyện nhân duyên xả mạng ba đầu, để làm lợi lạc cho quần sanh và truyền thừa mạng mạch Phật pháp như trường hợp Tài Tòng đạo giả tái lai làm Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn chẳng hạn.
“Một hôm Tổ Đạo Tín đi viếng núi Long Phong gặp một vị sư già trồng tòng – thời nhân gọi là Tài Tòng đạo giả. Vị Sư ấy hỏi Tổ rằng:
- Đạo pháp của Như Lai có thể cho tôi nghe được chăng?
Tổ đáp:
- Tuổi ông đã già, dù có nghe được cũng không hoằng pháp kịp. Nếu có tái sanh được thì ta cũng nán chờ.
Đạo giả nghe dạy rồi từ tạ đi xuống núi. Đến huyện Huỳnh Mai, thấy một cô gái đang giặt áo ở bờ sông, ông chào và hỏi:
- Nhà cô ở gần xa, cô vui lòng cho tôi nghỉ nhờ được chăng?
Cô đáp:
- Tôi còn cha mẹ không dám tự quyền. Mời Sư vào nhà hỏi cha mẹ tôi là hơn.
Ông bảo:
- Vậy cô có bằng lòng không cho tôi biết?
Cô đáp:
- Riêng tôi bằng lòng.
Đạo giả nghe cô hứa chịu, bèn trở về núi ngồi ngay thẳng viên tịch
Cô gái kia là con út của nhà họ Châu, sau khi hứa lời với Đạo giả rồi, không bao lâu có thai. Cha mẹ cô thấy chưa chồng mà có thai, là làm ô nhục gia phong quyết định đuổi cô đi.
Cô đang tuổi trẻ mà mang phải cái nợ giữa đường, sống bơ vơ không chỗ nương đỡ, phải đi kéo chỉ mướn nuôi miệng qua ngày.
Đến ngày, cô sanh ra một đứ con trai xinh xắn nhưng vì sự kỳ dị không chồng mà có con nên cô đành đem thả xuống sông. Sáng ngày, cô thấy đứa bé ngồi xếp bằng trên mặt nước, khí sắc tươi tỉnh lạ thường. Cô vừa lấy làm lạ vừa xót thương nên bồng về nuôi dưỡng. Đến bảy tuổi, đứa bé gặp Tổ Đạo Tín đối đáp một cách phi thường, được Tổ xin về cho xuất gia đặt tên là Hoằng Nhẫn.
Hoằng Nhẫn có nghĩa là mẹ nhẫn nhục nuôi con, cũng có nghĩa là Tổ Đạo Tín nhẫn chờ đứa bé khôn lớn truyền pháp.
Theo truyện này, Tổ Hoằng Nhẫn là thân sau của Tài Tòng đạo giả”.
Do đó, thiền sư Viên Ngộ dạy rằng:
“Hàng nạp tử đang lúc đau bệnh, phải lấy sanh tử làm việc lớn, siêng năng lo tiêu trừ tri kiến, cởi mở sự chướng ngại, thấu triệt và chứng ngộ nhân duyên lớn của Phật Tổ truyền trao. Chớ ham ưa danh tiếng, phải lưu bước đến chỗ chưa chắc thật. Càng lặng lẽ ẩn dấu mà càng thêm ẩn dấu chỗ kín đáo mới được. Các bậc Thánh nhân và hàng Thiên long có lúc đưa ông lên ngôi vị Thánh nhân để mở mang đạo cả”.
Đây là ngài Viên Ngộ dạy rất rõ trước phải thẩm thấu sanh tử là việc lớn hun đúc tâm cơ hướng thượng ban đầu. Vì sao? Vì kinh nói:
Sanh tử sự đại
Vô thường tấn tốc
Dịch:
Sống chết là việc lớn
Vô thường thật nhanh chóng.
Thật vậy! Chúng ta gẫm lại cuộc đời của mình thật là nhanh chóng, mới hồi nào còn tiếng khóc oe oe mà nay thì tóc đã pha màu tuyết. Ngày tháng trôi nhanh như nước chảy qua cầu, do đó một hôm Khổng Tử đứng trên cầu nhìn dòng nước chảy, ông cảm khái thốt lên:
Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ
Tạm dịch:
Chảy mãi! Chảy mãi ư! Ngày đêm không dừng nghỉ.
Do đó, vua Trần Thái Tông trong bài “Rộng khuyên phát tâm Bồ đề” cũng nói:
“Rõ ràng thời gian trăm năm, toàn ở trong sát na, thân huyễn tứ đại đâu thể lâu dài. Mỗi ngày chìm đắm trong trần lao, mỗi lúc nghiệp thức càng mênh môn, vô tận. Chẳng biết một tánh viên minh, luống theo sáu căn tham dục. Công danh cái thế cũng chỉ là trường đại mộng, phú quý kinh nhân khó khỏi vô thường hai chữ. Tranh nhân tranh ngã rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay cứu kính chẳng thật.
Gió lửa khi tan không già trẻ
Núi sông bại hoại mấy anh hùng.
Đầu xanh chưa mấy lúc tóc bạc đã sớm điểm sương, ngày vui vừa đến thì ngày điếu cũng đi theo. Một bao máu mủ nhiều năm khổ luyến ân tình, bảy thước hài buông lòng tham tài bảo. Thở ra khó mong được hít vào, ngày nay không bảo đảm ngày mai”.
Kế là ngài Viên Ngộ dạy phải siêng năng tinh tấn lo tiêu trừ và giải thoát tri kiến phân biệt phải quấy, tốt xấu, thương ghét… và thấu tột nhân duyên lớn của Phật Tổ, chớ ham cầu danh lợi ở đời mà chuốc lấy quả khổ về sau.
Hãy thận trọng! Hãy thận trọng!
Hạt tuyết ơi!
Bạn có biết
Bạn chỉ là
Giọt nước thôi.
Hạt tuyết ơi!
Bạn có biết
Bạn chỉ là
Giọt nước thôi.
Lại như Quốc sư Huệ Trung từ khi được tâm ấn nơi Tào Khê, Sư về cốc Đảng Tử trên núi Bạch Nhai, Nam Dương, nơi đây Ngài tu hành hơn bốn mươi năm chưa từng xuống núi. Công phu miên mật không có gián đoạn, đạo hạnh của Ngài được người đương thời đồn đại đến đế đô.
Thiền sư Nam Tuyền trụ tích nơi đất Trì Dương tự kiến lập thiền trại, hình bóng chẳng ra ngoài hơn ba mươi dặm.
Lại như thiền sư Độc Phong Thiện bế quan ở Dục Khê. Trong thất, Ngài không kê giường, chỉ để một cái ghế ngồi. Ngài tự nguyện: “Nếu chẳng tỏ ngộ, ta không rời khỏi chỗ này”. Một đêm, hành đạo quá mỏi mệt, Ngài vừa lại ghế ngồi, bất giác ngủ quên đến canh ba. Tự trách mình, Ngài chỉ đi đứng chớ không ngồi nữa, nhưng một hôm Ngài lại dựa vách ngủ quên. Sau khi thức giấc, rất hối hận, Thiền sư lập thệ không nương tựa vách. Chừng ấy thân thể nặng nề mệt mỏi, mí mắt chỉ muốn sụp xuống. Ngài khóc lóc lễ Phật sám hối, tìm đủ cách để đánh đuổi ma ngủ đi. Nhờ thế, công phu của Ngài càng lúc càng tăng tiến thêm. Một đêm nghe tiếng chuông, Ngài bỗng cảm thấy thân tâm vắng lặng không còn chỗ nương tựa, liền đắc ý bài kệ:
Lại như thiền sư Độc Phong Thiện bế quan ở Dục Khê. Trong thất, Ngài không kê giường, chỉ để một cái ghế ngồi. Ngài tự nguyện: “Nếu chẳng tỏ ngộ, ta không rời khỏi chỗ này”. Một đêm, hành đạo quá mỏi mệt, Ngài vừa lại ghế ngồi, bất giác ngủ quên đến canh ba. Tự trách mình, Ngài chỉ đi đứng chớ không ngồi nữa, nhưng một hôm Ngài lại dựa vách ngủ quên. Sau khi thức giấc, rất hối hận, Thiền sư lập thệ không nương tựa vách. Chừng ấy thân thể nặng nề mệt mỏi, mí mắt chỉ muốn sụp xuống. Ngài khóc lóc lễ Phật sám hối, tìm đủ cách để đánh đuổi ma ngủ đi. Nhờ thế, công phu của Ngài càng lúc càng tăng tiến thêm. Một đêm nghe tiếng chuông, Ngài bỗng cảm thấy thân tâm vắng lặng không còn chỗ nương tựa, liền đắc ý bài kệ:
Trầm trầm tịch tịch tuyệt thi vi
Xúc trước vô đoan, hầu tợ lôi
Động địa nhất thinh tiêu tức tận
Độc lâu phấn túy mộng sơ hồi.
Xúc trước vô đoan, hầu tợ lôi
Động địa nhất thinh tiêu tức tận
Độc lâu phấn túy mộng sơ hồi.
Dịch:
Thầm thầm lặng lặng bặt duyên ngàn
Một tiếng chày kình tợ sấm vang
Manh mối khôn tìm, tin tức vắng
Đầu xương sọ nát, mộng vừa tan.
Một tiếng chày kình tợ sấm vang
Manh mối khôn tìm, tin tức vắng
Đầu xương sọ nát, mộng vừa tan.
Đây đều là những phương pháp quên mình vì đạo, xả bỏ thân tâm. Từ xưa, các bậc Tông sư, mỗi người khi muốn đào luyện thân tâm hay trưởng dưỡng thai thánh, không ai là không buông xả thân tâm nhồi thành một phiến. Nhưng tựu trung trong đó mỗi người làm một cách không đồng nhất. Có những bậc tông sư đi sâu vào chốn núi rừng, lánh xa trần tục, chỉ thuần ăn hạt dẻ uống nước suối để nuôi dưỡng dấu tích của đạo như Thiền sư Pháp Thường ở núi Đại Mai, thảng hoặc có người ẩn nơi thành thị như ông cư sĩ Bàng Long Uẩn ở Nhượng Châu hoặc có người trụ trong chốn tòng lâm như Thiền sư Triệu Châu, hoặc có người ở yên trong tịnh thất hai ba mươi năm mà chưa từng xuống núi như ngài Trí Hoàng, ban đầu tham học nơi Ngũ Tổ, tự cho đã được chánh thọ, mới cất am thiền mãi trải qua hai mươi năm mà chưa từng xuống núi. Nói chung Phật pháp là bất định pháp, chỉ tùy bệnh mà cho thuốc, bệnh hết thì thuốc chẳng dùng.
Cho nên muốn đến với người xưa để biết rõ cảnh giới chứng đạo, điều cần thiết phải cho chín chắn, phải thông đạt yếu chỉ tông thừa, đề cương Phật Tổ. Một pháp cũng không, đây mới đúng là trưởng dưỡng thánh thai vậy. Còn nếu thấy có mình trưởng dưỡng, có pháp sở đắc, vọng cầu chấp trước ấy là trưởng dưỡng thai phàm. Như Mã đại sư ở Giang Tây nói: “Nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua đời”. Đây vốn là lời nói hay, bởi vì bậc học về tâm, sau khi đã rõ biết đại đạo, chẳng phải phế bỏ tu chứng, mà cũng chẳng nhiễm nơi tu chứng. Song lời này đã biểu hiện thai thánh, tức biết chẳng phải thai phàm. Lại bảo là nuôi lớn tức chẳng phải là một sớm một chiều vậy. Do đó, cần phải khế hội với ý chỉ lời này, nên trước biện rõ duyên do ngộ này thuộc về Đại thừa hay Tiểu thừa, thuộc Thiên hay Viên giáo, rồi sau mới biết được là thích đáng hay không. Tại sao? Bởi ngộ là ngộ chỗ của mình nuôi dưỡng, dưỡng là dưỡng chỗ mình đã ngộ. Chỗ ngộ và chỗ dưỡng chẳng thể nguyên bỏ một bên, do nơi liên kết nhau. Vậy thì sao lại bảo ngộ “đại” mà lại “viên”? Tức là thiên trước đã thuật lấy vô minh trụ phiền não làm trí bất động của tất cả chư Phật (không phải bỏ cái này lấy cái kia). Lại nói tâm Phật, chúng sanh, Bồ đề, phiền não, tên khác mà thể chỉ một. Đoạn phiền não mà được trí tuệ đó là cái học của Tiểu thừa. Tức ngay phiền não mà được trí tuệ, đó là cái học của Đại thừa. Bởi vì phiền não của chúng sanh chẳng phải từ bên trong mà ra, chẳng từ bên ngoài mà vào, cũng chẳng ở tại khoảng giữa. Đã ở ba chỗ tìm cầu chẳng thể được, thì đâu có đoạn. Nếu ngộ lý này ngay nơi sát na vô minh chóng dứt thành Phật đã xong. Về sau đó, trong khoảng ứng dụng hằng ngày mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, còn chẳng thấy có chư Phật, chúng sanh, Bồ đề phiền não, huống nữa là có chứng thay! Đó là nghĩa nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua thời vậy. Như riêng khởi tâm, hoặc cầu thiền định giải thoát thì giả sử đạo đức rất to lớn, tiếng tăm vang cả một đời đi nữa, thì e là dưỡng thai phàm, chẳng phải là dưỡng thai thánh.
Cho nên muốn đến với người xưa để biết rõ cảnh giới chứng đạo, điều cần thiết phải cho chín chắn, phải thông đạt yếu chỉ tông thừa, đề cương Phật Tổ. Một pháp cũng không, đây mới đúng là trưởng dưỡng thánh thai vậy. Còn nếu thấy có mình trưởng dưỡng, có pháp sở đắc, vọng cầu chấp trước ấy là trưởng dưỡng thai phàm. Như Mã đại sư ở Giang Tây nói: “Nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua đời”. Đây vốn là lời nói hay, bởi vì bậc học về tâm, sau khi đã rõ biết đại đạo, chẳng phải phế bỏ tu chứng, mà cũng chẳng nhiễm nơi tu chứng. Song lời này đã biểu hiện thai thánh, tức biết chẳng phải thai phàm. Lại bảo là nuôi lớn tức chẳng phải là một sớm một chiều vậy. Do đó, cần phải khế hội với ý chỉ lời này, nên trước biện rõ duyên do ngộ này thuộc về Đại thừa hay Tiểu thừa, thuộc Thiên hay Viên giáo, rồi sau mới biết được là thích đáng hay không. Tại sao? Bởi ngộ là ngộ chỗ của mình nuôi dưỡng, dưỡng là dưỡng chỗ mình đã ngộ. Chỗ ngộ và chỗ dưỡng chẳng thể nguyên bỏ một bên, do nơi liên kết nhau. Vậy thì sao lại bảo ngộ “đại” mà lại “viên”? Tức là thiên trước đã thuật lấy vô minh trụ phiền não làm trí bất động của tất cả chư Phật (không phải bỏ cái này lấy cái kia). Lại nói tâm Phật, chúng sanh, Bồ đề, phiền não, tên khác mà thể chỉ một. Đoạn phiền não mà được trí tuệ đó là cái học của Tiểu thừa. Tức ngay phiền não mà được trí tuệ, đó là cái học của Đại thừa. Bởi vì phiền não của chúng sanh chẳng phải từ bên trong mà ra, chẳng từ bên ngoài mà vào, cũng chẳng ở tại khoảng giữa. Đã ở ba chỗ tìm cầu chẳng thể được, thì đâu có đoạn. Nếu ngộ lý này ngay nơi sát na vô minh chóng dứt thành Phật đã xong. Về sau đó, trong khoảng ứng dụng hằng ngày mặc tánh tiêu dao, tùy duyên phóng khoáng, còn chẳng thấy có chư Phật, chúng sanh, Bồ đề phiền não, huống nữa là có chứng thay! Đó là nghĩa nuôi lớn thai thánh, tùy duyên qua thời vậy. Như riêng khởi tâm, hoặc cầu thiền định giải thoát thì giả sử đạo đức rất to lớn, tiếng tăm vang cả một đời đi nữa, thì e là dưỡng thai phàm, chẳng phải là dưỡng thai thánh.
Bởi vậy, chúng ta nếu muốn trưởng dưỡng thai thánh cho được thành hình thì danh lợi chẳng nên để vào lòng, của cải vật báu chẳng nên nhớ nghĩ đến, tâm tâm thuần nhất, niệm niệm chuyên tâm, thì không cầu quả vị Bồ đề mà tự khắc ứng hiện. Giống như phiền não hết thì Bồ đề có mặt, vọng tâm dứt thì Chân như hiện tiền. Thử còn nhọc tìm kiếm cái gì bên ngoài vô ích? Nếu kiếm được thì cũng là mộng tưởng không hoa nhọc lòng nắm bắt, đến đây rồi thì thử hỏi trưởng dưỡng cái gì? Nuôi lớn cái gì?
Nên Thiền sư Viên Ngộ dạy:
“Bậc cổ nhân khi đến đạo rồi, dấn mình vào trong am tranh hang đá, lượm những chiếc nồi mẻ để nấu cơm ăn, hái những gốc rau đồng ăn cho qua buổi. Suốt đời không cầu danh lợi, buông thả thân mình, tùy duyên phóng khoáng. Chỉ một lời chuyển ngữ làm một ý tu hành. Điều cần yếu là truyền Phật tâm ấn để báo đền ân sâu của Phật Tổ. Những bậc Nạp tăng, việc nhà đại sự khi sắp đặt xong rồi, từ đó về sau, suốt đời chỉ lo một pháp dưỡng đạo mà thôi. Chớ nên làm mất phí thì giờ tốt đẹp, đừng lo tu tạo, cũng chớ gắng gượng mong mỏi có nhiều học chúng. Người xưa, khi đến kiến lập chùa chiền, nhóm họp người tu, chẳng phải tự cầu riêng cho mình. Đạo nghiệp khi đã đến lúc thuần thục rồi, dù cho có chống cự mà hàng thiên nhân, họ cũng tìm đến lần lần một ngày một đông, chẳng cần phải kiến lập tinh xá mà hàng thiền giả một ngày một đến nhiều”.
Bởi vậy người xưa chẳng mến chuộng cửa danh nên đạo tâm kiên cố. Lời nói và hành động luôn luôn khế hợp Phật tâm, do đó trên từ chư Phật dưới đến các bậc Tổ sư đều khuyên nhắc các hàng nạp tử rũ bỏ danh lợi âm thanh sắc tướng, vào chốn rừng sâu núi thẳm để trưởng dưỡng đạo tâm ngày càng thuần thục. Có vậy mới nâng đỡ chân phong của Phật Tổ, phát huy tông giáo, dựng lập pháp tràng, tiếp dẫn hậu lai, không để sa rớt vào cảnh tà ngụy. Người như thế mới đáng được trời người qui kính, ai dám bảo là Tăng cơm cháo!
Như Quốc sư Đại Đăng có làm bài tâm yếu:
“Lão tăng sau khi đi hành khước, hoặc ở chỗ chùa chiền được hưng thạnh, Phật các kinh quyển đều khắc chữ bằng vàng bạc chói ngời, mà nơi đây chúng lý đông đảo ồn ào, hoặc tụng kinh trì chú ngồi chẳng nằm. Ngày ăn một bữa ngọ trai, sáu thời đều hành đạo. Dầu cho có những việc gì cũng vẫn đủ điều quy chẳng hề bỏ sót. Song vì chẳng thấm nhuần diệu đạo của Phật Tổ nên những ý chỉ nhiệm mầu chẳng để vào lòng. Do đó họ mờ mịt lý nhân quả. Vì vậy chân phong của Phật pháp từ dó bị rơi lìa. Đây đều là những bọn tà ma xen vào cửa Phật phá hoại chánh pháp của Phật, bởi Lão tăng qua đời đã lâu, nên con cháu mới gây ra nhiều sự tệ hại trong chốn thiền môn. Thảng như có một người nào lánh mình vào chốn núi non, ẩn thân vào nơi hang thẳm, lấy nồi mẻ nấu cơm, ăn hái rau đồng làm vật thực, sống lây lất qua ngày, chuyên tâm nhất ý, cứu minh công việc của mình, cùng Lão tăng mỗi ngày thấy mặt nhau, phải nên báo ân cho người này vậy. Đâu có dám khinh thường những người tu chân chánh hành đạo như thế?”
Như vậy đã gắng gổ càng thêm gắng gổ. Nay xin làm bài văn này dùng lời cảnh ngữ trong tinh thần trưởng dưỡng Thánh tâm vậy.
Cuối cùng, “Diệu chỉ Phật tâm tông là gì? – Hãy nhìn thẳng dưới gót chân bạn!”.
Tụng rằng:
Nên Thiền sư Viên Ngộ dạy:
“Bậc cổ nhân khi đến đạo rồi, dấn mình vào trong am tranh hang đá, lượm những chiếc nồi mẻ để nấu cơm ăn, hái những gốc rau đồng ăn cho qua buổi. Suốt đời không cầu danh lợi, buông thả thân mình, tùy duyên phóng khoáng. Chỉ một lời chuyển ngữ làm một ý tu hành. Điều cần yếu là truyền Phật tâm ấn để báo đền ân sâu của Phật Tổ. Những bậc Nạp tăng, việc nhà đại sự khi sắp đặt xong rồi, từ đó về sau, suốt đời chỉ lo một pháp dưỡng đạo mà thôi. Chớ nên làm mất phí thì giờ tốt đẹp, đừng lo tu tạo, cũng chớ gắng gượng mong mỏi có nhiều học chúng. Người xưa, khi đến kiến lập chùa chiền, nhóm họp người tu, chẳng phải tự cầu riêng cho mình. Đạo nghiệp khi đã đến lúc thuần thục rồi, dù cho có chống cự mà hàng thiên nhân, họ cũng tìm đến lần lần một ngày một đông, chẳng cần phải kiến lập tinh xá mà hàng thiền giả một ngày một đến nhiều”.
Bởi vậy người xưa chẳng mến chuộng cửa danh nên đạo tâm kiên cố. Lời nói và hành động luôn luôn khế hợp Phật tâm, do đó trên từ chư Phật dưới đến các bậc Tổ sư đều khuyên nhắc các hàng nạp tử rũ bỏ danh lợi âm thanh sắc tướng, vào chốn rừng sâu núi thẳm để trưởng dưỡng đạo tâm ngày càng thuần thục. Có vậy mới nâng đỡ chân phong của Phật Tổ, phát huy tông giáo, dựng lập pháp tràng, tiếp dẫn hậu lai, không để sa rớt vào cảnh tà ngụy. Người như thế mới đáng được trời người qui kính, ai dám bảo là Tăng cơm cháo!
Như Quốc sư Đại Đăng có làm bài tâm yếu:
“Lão tăng sau khi đi hành khước, hoặc ở chỗ chùa chiền được hưng thạnh, Phật các kinh quyển đều khắc chữ bằng vàng bạc chói ngời, mà nơi đây chúng lý đông đảo ồn ào, hoặc tụng kinh trì chú ngồi chẳng nằm. Ngày ăn một bữa ngọ trai, sáu thời đều hành đạo. Dầu cho có những việc gì cũng vẫn đủ điều quy chẳng hề bỏ sót. Song vì chẳng thấm nhuần diệu đạo của Phật Tổ nên những ý chỉ nhiệm mầu chẳng để vào lòng. Do đó họ mờ mịt lý nhân quả. Vì vậy chân phong của Phật pháp từ dó bị rơi lìa. Đây đều là những bọn tà ma xen vào cửa Phật phá hoại chánh pháp của Phật, bởi Lão tăng qua đời đã lâu, nên con cháu mới gây ra nhiều sự tệ hại trong chốn thiền môn. Thảng như có một người nào lánh mình vào chốn núi non, ẩn thân vào nơi hang thẳm, lấy nồi mẻ nấu cơm, ăn hái rau đồng làm vật thực, sống lây lất qua ngày, chuyên tâm nhất ý, cứu minh công việc của mình, cùng Lão tăng mỗi ngày thấy mặt nhau, phải nên báo ân cho người này vậy. Đâu có dám khinh thường những người tu chân chánh hành đạo như thế?”
Như vậy đã gắng gổ càng thêm gắng gổ. Nay xin làm bài văn này dùng lời cảnh ngữ trong tinh thần trưởng dưỡng Thánh tâm vậy.
Cuối cùng, “Diệu chỉ Phật tâm tông là gì? – Hãy nhìn thẳng dưới gót chân bạn!”.
Tụng rằng:
Gió lặng trăng tà soi bóng trúc
Đường về quê cũ vốn không xa
Chỉ cần dừng lại niềm mong ước
Pháp giới vô sanh thảy thảy đồng.
Đường về quê cũ vốn không xa
Chỉ cần dừng lại niềm mong ước
Pháp giới vô sanh thảy thảy đồng.
XII. THIỀN ĐỊNH VÀ PHẬT TÂM TÔNG:
Thiền là gì?
Danh từ “Thiền được chuyển âm từ Phạn ngữ “Dhyàna”, nói đủ là “Thiền na”, tựu trung là “Thiền định”. Thiền định bao gồm cả Thiền quán, Chỉ quán và Cửu thứ đệ định.
Thiền định nói thẳng là pháp chung của cả phàm phu, ngoại đạo, thế gian và xuất thế gian. Ngoại đạo tu thiền định nhằm mục đích sinh lên cõi trời Sắc giới hay Vô sắc giới. Hàng đệ tử của Phật tu Thiền định là nhằm khai phá trí huệ vô lậu tự có sẵn của chính mình.
Bởi vậy Thiền định là phương tiện cho các hành giả tu tập từ địa vị phàm phu vào đất Phật. Do đó hàng Tiểu thừa muốn vào Thánh vị đều phải đoạn hoặc chứng chơn, cũng thuộc về con đường Thiền định. Bậc Bồ tát tu tập Lục độ vạn hạnh cũng phải từ con đường Thiền định để thể nhập vào biển lớn trí huệ Bát nhã. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng Thiền định là công cụ để siêu Phật tác Tổ.
Song, nếu muốn thành tựu Thiền định, điều kiện thù thắng thâm diệu nhất là phải siêu thoát tán tâm vọng niệm hư ảo trong tâm thức. Hàng Tiểu thừa và bậc Đại Bồ tát cùng một điểm xuất phát như nhau, song kết quả thì khác hẳn nhau. Vì sao thế? Đó là vì Phật pháp tuy không chối bỏ Thiền định nhưng không chấp vào con đường Thiền định, mà pháp đích thực của mười phương chư Phật là nhận ra tánh tri kiến như thật. Bởi vậy, duyên khởi đầu tiên phát huy ra nguồn thiền chính thống đều lấy điểm xuất phát từ Tổ Ma Ha Ca Diếp trên hội Linh Sơn, khi Ngài nhìn hoa sen của đức Thế Tôn, hốt nhiên ngộ nhập tánh tri kiến như thật có sẵn tự bao giờ. Vì thế, Thiền tông không chủ trương con đường Thiền định làm cực tắt.
Như vậy, trong Giáo tuy có nói về Thiền quán, Chỉ quán, song Thiền tông không chủ xướng hoặc chú trọng vào các Thiền định kể trên; mà điểm cốt yếu của Thiền tông là Tâm pháp của chư Phật, là ánh sáng trí huệ của chư Phật, là pháp thân thường trụ của chư Phật; và điểm cuối cùng của Phật tâm tông là thâm nhập đến chỗ uyên áo cùng cực Niết bàn tự tâm, chứ không lấy kết quả của con đường tu tập Thiền định làm chỗ cứu cánh viên mãn. Điển hình như pháp sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ Huệ Năng:
“- Huỳnh Mai phó chúc việc chỉ dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
- Chỉ dạy thì không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận thiền định và giải thoát!
Ấn Tông thưa:
- Sao chẳng luận thiền định giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai!
Ấn Tông lại hỏi:
- Thế nào là Phật pháp là pháp chẳng hai!
Huệ Năng bảo:
- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn rõ được Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai”.
Vì thế, từ Đại sư Lục Tổ về sau có rất nhiều vị Thiền sư chẳng chủ xướng con đường tu tập Thiền định làm chỗ cực tắc. Các Ngài cho rằng Thiền định không phải là tông chỉ rốt cùng của Thiền tông. Như Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng khi thấy Mã Tổ Đạo Nhất chuyên cần tọa thiền suốt ngày liền hỏi:
“- Đại đức tọa thiền để làm gì?
Đạo Nhất đáp:
- Để làm Phật.
Sư bèn lấy một miếng ngói đến mài ở trước am Đạo Nhất.
Đạo Nhất hỏi:
- Mài ngói để làm gì?
Sư đáp:
- Làm gương.
- Mài ngói sao thành gương được?
- Mài ngói đã không thành gương thì tọa thiền có thể thành Phật được sao?
- Vậy như thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe; nếu xe không đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Đạo Nhất không đáp được!
Sư nói tiếp:
- Người học tọa thiền hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng thuộc ngồi nằm; nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải tướng nhất định, đối với pháp vô trụ không thủ xả. Ngươi nếu tọa Phật tức là giết Phật; nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt ý kia”.
Do đó chúng ta thấy pháp môn Thiền tông không dựa hẳn hoàn toàn vào Thiền định. Các vị Tông sư thuở xưa căn tánh rất bén nhạy, chỉ cần ngay trong một cơ một cảnh đối đáp qua lại hốt nhiên trực nhận bản tâm, nhận ra tánh tri kiến như thật của chính mình, lập tức liền thôi. Như Hòa thượng Đức Sơn nói : “Từ đây về sau chẳng còn bị đầu lưỡi lão Hòa thượng trong thiên hạ lừa nữa”.
Thế nhưng, đâu ai biết rằng trước khi trực ngộ bản tâm xuyên suốt vạn pháp, các Ngài đều đã trải qua một thời gian lâu dài khổ công tu tập Thiền định. Chẳng hạn, nếu ta chín chắn xem xét kỹ cơ duyên ngộ đạo của hai vị Thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung và Mã Tổ Đạo Nhất thì sẽ thấy những lời khai thị sấm sét của hai vị Tổ sư Tứ Tổ Đạo Tín và Nam Nhạc Hoài Nhượng, đều chỉ là một cái động chuyển cuối cùng cho những bậc pháp khí đã từng dày công tu tập thiền định; như trái chín cây ắt phải rụng, như giọt nước cuối cùng ắt phải tràn. Nhà thiền gọi cảnh giới này là Đột biến thân tâm, phá sạch cơ nghiệp. Đến cảnh giới này thì các Ngài mới hoàn toàn thôi nghỉ: mặc áo, ăn cơm, rửa chén,… đều là ở trong cảnh giới Thường Tịch Quang của chư Phật.
Song cũng có bậc thượng căn túc trí, tuy chưa tu một ngày Thiền định mà ngay một lời liền đốn siêu Phật Tổ, trực nhận bản tâm, như trường hợp Ngài Huệ Năng chẳng hạn. Đó là do túc căn sâu dày huân tu nhiều kiếp, đến lúc nhân duyên chín muồi thì tâm cơ được phá vỡ, ngay đó liền đốn siêu phương tiện.
Như vậy, giữa con đường Thiền định và Phật tâm tông, ta phải chín chắn xem xét cho kỹ. Ta là bậc căn cơ hạng nào hãy tự xem lấy! Sao chẳng thấy các bậc Tông sư thưở xưa như ngài Trường Khánh Huệ Lăng, Sư qua lại thưa hỏi suốt hai mươi năm, ngồi rách bảy cái bồ đoàn mới sáng được việc này. Như Ngài Tuyết Phong Nghĩa Tồn ba lần lặn lội lên Đầu Tử, chín lần lao nhọc đến Động Sơn mới sáng được việc lớn. Thế thì ai dám bảo rằng Thiền tông không chú trọng vào việc tu tập Thiền định?
Dẫu biết rằng, hành giả một khi đã đại triệt đại ngộ rồi thì Thiền định hay không Thiền định chỉ là lời nói dư thừa. Song chúng ta hễ còn dụng công tức là tâm còn tẩu tác thì chưa thể bỏ qua con đường Thiền định. Như Thiền sư Dũng Tuyền Hân nói: “Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng thức tình nếu chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu chưa hết! Ông chỉ cần sạch hết thức lậu thì lúc bấy giờ mới thành tự lập”.
Vậy thì Thiền định phải chăng là Thiền tông? Xin nói thẳng là không phải. Vì sao? Vì nếu nói Thiền tông lấy con đường Thiền định làm chỗ cực tắt thì đâu được gọi là “Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng”. Bởi vậy, các bậc Tông sư chẳng cho Thiền định là chỗ cực tắt, đó cũng chỉ vì muốn tháo đinh mở chốt cho những hành giả nào còn chấp vào con đường Thiền định cho đó là chỗ cứu cánh viên mãn.
Như vậy, thiền định của Thiền tông là “chẳng lìa thiền định, chẳng chấp thiền định”. Như trong Luận Vĩnh Gia Tập, Đại sư Huyền Giác tụng:
Danh từ “Thiền được chuyển âm từ Phạn ngữ “Dhyàna”, nói đủ là “Thiền na”, tựu trung là “Thiền định”. Thiền định bao gồm cả Thiền quán, Chỉ quán và Cửu thứ đệ định.
Thiền định nói thẳng là pháp chung của cả phàm phu, ngoại đạo, thế gian và xuất thế gian. Ngoại đạo tu thiền định nhằm mục đích sinh lên cõi trời Sắc giới hay Vô sắc giới. Hàng đệ tử của Phật tu Thiền định là nhằm khai phá trí huệ vô lậu tự có sẵn của chính mình.
Bởi vậy Thiền định là phương tiện cho các hành giả tu tập từ địa vị phàm phu vào đất Phật. Do đó hàng Tiểu thừa muốn vào Thánh vị đều phải đoạn hoặc chứng chơn, cũng thuộc về con đường Thiền định. Bậc Bồ tát tu tập Lục độ vạn hạnh cũng phải từ con đường Thiền định để thể nhập vào biển lớn trí huệ Bát nhã. Do đó, chúng ta có thể khẳng định rằng Thiền định là công cụ để siêu Phật tác Tổ.
Song, nếu muốn thành tựu Thiền định, điều kiện thù thắng thâm diệu nhất là phải siêu thoát tán tâm vọng niệm hư ảo trong tâm thức. Hàng Tiểu thừa và bậc Đại Bồ tát cùng một điểm xuất phát như nhau, song kết quả thì khác hẳn nhau. Vì sao thế? Đó là vì Phật pháp tuy không chối bỏ Thiền định nhưng không chấp vào con đường Thiền định, mà pháp đích thực của mười phương chư Phật là nhận ra tánh tri kiến như thật. Bởi vậy, duyên khởi đầu tiên phát huy ra nguồn thiền chính thống đều lấy điểm xuất phát từ Tổ Ma Ha Ca Diếp trên hội Linh Sơn, khi Ngài nhìn hoa sen của đức Thế Tôn, hốt nhiên ngộ nhập tánh tri kiến như thật có sẵn tự bao giờ. Vì thế, Thiền tông không chủ trương con đường Thiền định làm cực tắt.
Như vậy, trong Giáo tuy có nói về Thiền quán, Chỉ quán, song Thiền tông không chủ xướng hoặc chú trọng vào các Thiền định kể trên; mà điểm cốt yếu của Thiền tông là Tâm pháp của chư Phật, là ánh sáng trí huệ của chư Phật, là pháp thân thường trụ của chư Phật; và điểm cuối cùng của Phật tâm tông là thâm nhập đến chỗ uyên áo cùng cực Niết bàn tự tâm, chứ không lấy kết quả của con đường tu tập Thiền định làm chỗ cứu cánh viên mãn. Điển hình như pháp sư Ấn Tông hỏi Lục Tổ Huệ Năng:
“- Huỳnh Mai phó chúc việc chỉ dạy như thế nào?
Huệ Năng bảo:
- Chỉ dạy thì không, chỉ luận về kiến tánh, chẳng luận thiền định và giải thoát!
Ấn Tông thưa:
- Sao chẳng luận thiền định giải thoát?
Huệ Năng bảo:
- Vì ấy là hai pháp, không phải là Phật pháp. Phật pháp là pháp chẳng hai!
Ấn Tông lại hỏi:
- Thế nào là Phật pháp là pháp chẳng hai!
Huệ Năng bảo:
- Pháp sư giảng kinh Niết Bàn rõ được Phật tánh, ấy là Phật pháp là pháp chẳng hai”.
Vì thế, từ Đại sư Lục Tổ về sau có rất nhiều vị Thiền sư chẳng chủ xướng con đường tu tập Thiền định làm chỗ cực tắc. Các Ngài cho rằng Thiền định không phải là tông chỉ rốt cùng của Thiền tông. Như Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng khi thấy Mã Tổ Đạo Nhất chuyên cần tọa thiền suốt ngày liền hỏi:
“- Đại đức tọa thiền để làm gì?
Đạo Nhất đáp:
- Để làm Phật.
Sư bèn lấy một miếng ngói đến mài ở trước am Đạo Nhất.
Đạo Nhất hỏi:
- Mài ngói để làm gì?
Sư đáp:
- Làm gương.
- Mài ngói sao thành gương được?
- Mài ngói đã không thành gương thì tọa thiền có thể thành Phật được sao?
- Vậy như thế nào mới phải?
- Như trâu kéo xe; nếu xe không đi thì đánh xe là phải hay đánh trâu là phải?
Đạo Nhất không đáp được!
Sư nói tiếp:
- Người học tọa thiền hay học tọa Phật? Nếu học tọa thiền thì thiền chẳng thuộc ngồi nằm; nếu học tọa Phật thì Phật chẳng phải tướng nhất định, đối với pháp vô trụ không thủ xả. Ngươi nếu tọa Phật tức là giết Phật; nếu chấp tướng ngồi thì chẳng đạt ý kia”.
Do đó chúng ta thấy pháp môn Thiền tông không dựa hẳn hoàn toàn vào Thiền định. Các vị Tông sư thuở xưa căn tánh rất bén nhạy, chỉ cần ngay trong một cơ một cảnh đối đáp qua lại hốt nhiên trực nhận bản tâm, nhận ra tánh tri kiến như thật của chính mình, lập tức liền thôi. Như Hòa thượng Đức Sơn nói : “Từ đây về sau chẳng còn bị đầu lưỡi lão Hòa thượng trong thiên hạ lừa nữa”.
Thế nhưng, đâu ai biết rằng trước khi trực ngộ bản tâm xuyên suốt vạn pháp, các Ngài đều đã trải qua một thời gian lâu dài khổ công tu tập Thiền định. Chẳng hạn, nếu ta chín chắn xem xét kỹ cơ duyên ngộ đạo của hai vị Thiền sư Ngưu Đầu Pháp Dung và Mã Tổ Đạo Nhất thì sẽ thấy những lời khai thị sấm sét của hai vị Tổ sư Tứ Tổ Đạo Tín và Nam Nhạc Hoài Nhượng, đều chỉ là một cái động chuyển cuối cùng cho những bậc pháp khí đã từng dày công tu tập thiền định; như trái chín cây ắt phải rụng, như giọt nước cuối cùng ắt phải tràn. Nhà thiền gọi cảnh giới này là Đột biến thân tâm, phá sạch cơ nghiệp. Đến cảnh giới này thì các Ngài mới hoàn toàn thôi nghỉ: mặc áo, ăn cơm, rửa chén,… đều là ở trong cảnh giới Thường Tịch Quang của chư Phật.
Song cũng có bậc thượng căn túc trí, tuy chưa tu một ngày Thiền định mà ngay một lời liền đốn siêu Phật Tổ, trực nhận bản tâm, như trường hợp Ngài Huệ Năng chẳng hạn. Đó là do túc căn sâu dày huân tu nhiều kiếp, đến lúc nhân duyên chín muồi thì tâm cơ được phá vỡ, ngay đó liền đốn siêu phương tiện.
Như vậy, giữa con đường Thiền định và Phật tâm tông, ta phải chín chắn xem xét cho kỹ. Ta là bậc căn cơ hạng nào hãy tự xem lấy! Sao chẳng thấy các bậc Tông sư thưở xưa như ngài Trường Khánh Huệ Lăng, Sư qua lại thưa hỏi suốt hai mươi năm, ngồi rách bảy cái bồ đoàn mới sáng được việc này. Như Ngài Tuyết Phong Nghĩa Tồn ba lần lặn lội lên Đầu Tử, chín lần lao nhọc đến Động Sơn mới sáng được việc lớn. Thế thì ai dám bảo rằng Thiền tông không chú trọng vào việc tu tập Thiền định?
Dẫu biết rằng, hành giả một khi đã đại triệt đại ngộ rồi thì Thiền định hay không Thiền định chỉ là lời nói dư thừa. Song chúng ta hễ còn dụng công tức là tâm còn tẩu tác thì chưa thể bỏ qua con đường Thiền định. Như Thiền sư Dũng Tuyền Hân nói: “Ta bốn mươi chín năm tại chỗ này còn có tẩu tác, bọn các ông chớ mở miệng to. Kẻ kiến giải thì nhiều, còn người hạnh giải thì trong muôn người mới có một. Kiến giải, ngôn ngữ thảy cần phải cho thấu triệt, nhưng thức tình nếu chẳng hết thì tôi dám nói là hãy còn luân hồi. Sao vậy? Bởi vì thức lậu chưa hết! Ông chỉ cần sạch hết thức lậu thì lúc bấy giờ mới thành tự lập”.
Vậy thì Thiền định phải chăng là Thiền tông? Xin nói thẳng là không phải. Vì sao? Vì nếu nói Thiền tông lấy con đường Thiền định làm chỗ cực tắt thì đâu được gọi là “Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, Thật tướng vô tướng”. Bởi vậy, các bậc Tông sư chẳng cho Thiền định là chỗ cực tắt, đó cũng chỉ vì muốn tháo đinh mở chốt cho những hành giả nào còn chấp vào con đường Thiền định cho đó là chỗ cứu cánh viên mãn.
Như vậy, thiền định của Thiền tông là “chẳng lìa thiền định, chẳng chấp thiền định”. Như trong Luận Vĩnh Gia Tập, Đại sư Huyền Giác tụng:
Khéo khéo lúc dụng tâm,
Khéo khéo không tâm dụng,
Không tâm khéo khéo dụng,
Thường dụng khéo khéo không.
Khéo khéo không tâm dụng,
Không tâm khéo khéo dụng,
Thường dụng khéo khéo không.
Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy: “Này thiện tri thức, sao gọi là thiền định? Ngoài lìa tướng là thiền; trong chẳng loạn là định. Ngoài nếu chấp tướng, trong tâm tức loạn; ngoài nếu lìa tướng tâm tức chẳng loạn. Bản tánh tự tịnh tự định. Chỉ vì thấy cảnh tức loạn; nếu thấy cảnh mà tâm chẳng loạn ấy là chơn định”. Thế nên người xưa nói: “Chỗ có Phật cũng đừng lưu luyến, chỗ không Phật phải mau chạy qua”, tham đi tham lại lời này tự khắc ngộ được yếu chỉ cương tông của Thiền là gì. Bằng không thì tự cứu cũng chẳng được, huống nữa là làm bậc Đại sĩ trong thiên hạ!
Tóm lại, Thiền định chỉ là phương tiện đưa hành giả đến quả vị giác ngộ tối thượng; Thiền tông mới là chỗ cực tắt viên chứng tâm pháp nhứt như. Do đó nên ta không thể nói Thiền định là Phật tâm tông. Song, nhờ Thiền định mà chúng ta mới gạt bỏ được những cù cặn của dòng tâm thức. Do đó, trên từ chư Phật, dưới đến các bậc Tổ sư, các Ngài chưa từng ly khai Thiền định ra ngoài dấu ấn Phật tâm tông được.
XIII. CỘI NGUỒN LÀ ĐÂY:
Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm “Tín Giải” đều lấy làm xót hương cho chàng cùng tử. Từ địa vị con một ông trưởng giả giàu có, gia tài của báu vô lượng không thể tính kể, đó là kho tàng quý báu vô lượng mà sau này chính mình thừa hưởng chứ không ai khác. Nhưng bất thần gã bỏ cha mẹ đi lang thang từ nơi này đến nơi khác, làm kẻ ăn mày khốn đốn. Rồi trong phút giây nào đó, trên bước đường tha phương cầu thực, gã cùng tử trở về bổn quốc đúng vào ngôi nhà xưa của chính mình, gã gặp lại người cha năm xưa nhưng nào dám nhận, vì gã quên mất cội gốc từ lâu và mặc cảm cho mình là kẻ cơ bần đói rách.
Xét cho thấu đáo chúng ta đâu khác gì chàng cùng tử, bởi vì trong chúng ta ai ai cũng có một kho tàng vô giá “bảo châu như ý”, một nguồn cội bản thể vô biên cùng với chư Phật và đại Bồ tát không khác. Song do một niệm bất giác chợt dấy lên làm nhân tướng hư vọng tiền trần cho là thật tâm mình, nên sanh ra hai thứ thương và ghét.
Vì sao? Vì chúng ta lầm giả cho là chơn, nên mãi trầm luân trong biển khổ sanh tử và chịu vô lượng cảnh khổ đau. Chỉ vì mỗi người và mỗi loài không biết rằng mình đang cùng chung một thể tánh sáng suốt cùng với chư Phật và đại Bồ Tát. Từ sự nhận thức sai lầm đó đã làm phát sinh bao nhiêu thứ phiền não, nào là tham dục, sân hận và si mê.
Vì quá vô minh điên đảo lầm nhận các tướng hư ảo cho là thật. Con người mải theo cảnh vật bên ngoài không lúc nào dừng nghỉ. Mãi rong ruổi theo ngoại cảnh, người ta vô tình hay cố ý đã lạc vào chốn rừng hoang đầy thú dữ. Càng đi! Càng đi xa mãi! Càng quanh quẩn nhiều, càng lạc rối thêm, giống như chàng cùng tử bỏ cha đi không khác. Vì thế, đức Phật thương xót cho tất cả chúng sanh, Ngài thị hiện ra đời, để đánh thức chúng ta trở về nguồn cội ban sơ của chính mình. Rồi lần lượt chư Tổ ra đời tiếp nối ánh nhiên đăng của Phật, các Ngài cũng dùng đủ mọi phương tiện để khơi dậy chỗ này.
Vậy chúng ta phải làm sao để trở về lại nguồn cội? đó là điều trăn trở ưu tư của hành giả khi bước vào con đường độc lộ.
Người xưa nói: “Nhân nơi đất té, nhân nơi đất mà đứng dậy”, chính từ chỗ mê cuồng, cũng chính là chỗ trở về nguồn cội. Bằng chứng kinh Lăng Nghiêm: Khi A Nan hỏi Phật về nghĩa con đường sanh tử và con đường trở về nguồn cội, thì chẳng phải một đức Phật Thích Ca, mà cả mười phương chư Phật đều phóng quang đến thế giới này, đồng bảo ngài A Nan: “Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không có vật gì khác. Ông muốn biết tánh vô thượng Bồ đề khiến ông mau chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông”.
Vì sao? Vì chính lâu nay chúng ta từ nơi sáu căn rong ruổi theo sáu trần bên ngoài, tạo nghiệp đi trong sanh tử. Giờ đây, cũng ngay sáu căn mình biết xoay lại không chạy theo sáu trần, tức là con đường trở về nguồn cội.
Cảm thông sâu sắc ý này, Sơ tổ Trúc Lâm sau khi thấu triệt được muôn pháp, thấy rõ con người chân thật nên xuân nay có khác:
XIII. CỘI NGUỒN LÀ ĐÂY:
Ai đã từng đọc kinh Pháp Hoa đến phẩm “Tín Giải” đều lấy làm xót hương cho chàng cùng tử. Từ địa vị con một ông trưởng giả giàu có, gia tài của báu vô lượng không thể tính kể, đó là kho tàng quý báu vô lượng mà sau này chính mình thừa hưởng chứ không ai khác. Nhưng bất thần gã bỏ cha mẹ đi lang thang từ nơi này đến nơi khác, làm kẻ ăn mày khốn đốn. Rồi trong phút giây nào đó, trên bước đường tha phương cầu thực, gã cùng tử trở về bổn quốc đúng vào ngôi nhà xưa của chính mình, gã gặp lại người cha năm xưa nhưng nào dám nhận, vì gã quên mất cội gốc từ lâu và mặc cảm cho mình là kẻ cơ bần đói rách.
Xét cho thấu đáo chúng ta đâu khác gì chàng cùng tử, bởi vì trong chúng ta ai ai cũng có một kho tàng vô giá “bảo châu như ý”, một nguồn cội bản thể vô biên cùng với chư Phật và đại Bồ tát không khác. Song do một niệm bất giác chợt dấy lên làm nhân tướng hư vọng tiền trần cho là thật tâm mình, nên sanh ra hai thứ thương và ghét.
Vì sao? Vì chúng ta lầm giả cho là chơn, nên mãi trầm luân trong biển khổ sanh tử và chịu vô lượng cảnh khổ đau. Chỉ vì mỗi người và mỗi loài không biết rằng mình đang cùng chung một thể tánh sáng suốt cùng với chư Phật và đại Bồ Tát. Từ sự nhận thức sai lầm đó đã làm phát sinh bao nhiêu thứ phiền não, nào là tham dục, sân hận và si mê.
Vì quá vô minh điên đảo lầm nhận các tướng hư ảo cho là thật. Con người mải theo cảnh vật bên ngoài không lúc nào dừng nghỉ. Mãi rong ruổi theo ngoại cảnh, người ta vô tình hay cố ý đã lạc vào chốn rừng hoang đầy thú dữ. Càng đi! Càng đi xa mãi! Càng quanh quẩn nhiều, càng lạc rối thêm, giống như chàng cùng tử bỏ cha đi không khác. Vì thế, đức Phật thương xót cho tất cả chúng sanh, Ngài thị hiện ra đời, để đánh thức chúng ta trở về nguồn cội ban sơ của chính mình. Rồi lần lượt chư Tổ ra đời tiếp nối ánh nhiên đăng của Phật, các Ngài cũng dùng đủ mọi phương tiện để khơi dậy chỗ này.
Vậy chúng ta phải làm sao để trở về lại nguồn cội? đó là điều trăn trở ưu tư của hành giả khi bước vào con đường độc lộ.
Người xưa nói: “Nhân nơi đất té, nhân nơi đất mà đứng dậy”, chính từ chỗ mê cuồng, cũng chính là chỗ trở về nguồn cội. Bằng chứng kinh Lăng Nghiêm: Khi A Nan hỏi Phật về nghĩa con đường sanh tử và con đường trở về nguồn cội, thì chẳng phải một đức Phật Thích Ca, mà cả mười phương chư Phật đều phóng quang đến thế giới này, đồng bảo ngài A Nan: “Ông muốn biết cội gốc vô minh là đầu gút khiến cho ông luân hồi sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không có vật gì khác. Ông muốn biết tánh vô thượng Bồ đề khiến ông mau chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông”.
Vì sao? Vì chính lâu nay chúng ta từ nơi sáu căn rong ruổi theo sáu trần bên ngoài, tạo nghiệp đi trong sanh tử. Giờ đây, cũng ngay sáu căn mình biết xoay lại không chạy theo sáu trần, tức là con đường trở về nguồn cội.
Cảm thông sâu sắc ý này, Sơ tổ Trúc Lâm sau khi thấu triệt được muôn pháp, thấy rõ con người chân thật nên xuân nay có khác:
Thuở bé chưa từng rõ sắc không
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Nên cỏ giường Thiền ngắm cánh hồng.
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diệm,
Thiền bảng bồ đoàn khán trụy hồng.)
Xuân về hoa nở rộn trong lòng
Chúa xuân nay bị ta khám phá
Nên cỏ giường Thiền ngắm cánh hồng.
(Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diệm,
Thiền bảng bồ đoàn khán trụy hồng.)
Thật vậy, lúc còn niên thiếu ở trong ngôi vị quyền quý của một ông Hoàng chưa thấm nhuần lý đạo, mỗi độ xuân về khoe sắc thắm. Sắc hương hoa là hình ảnh xao xuyến quyến rũ tâm hồn trẻ dại của Ngài khi mỗi độ xuân về.
Nhưng khi khôn lớn tìm thấy được đạo, Ngài quyết cởi bỏ những sợi dây ái ân xiềng xích, nào là: Danh vọng, tài sắc, địa vị, quyền uy, cung vàng điện ngọc, đắm mình vào cửa Thiền. Qua bao năm tháng gia công tu tập, Ngài đã khám phá ra chân lý của vũ trụ, thấy rõ bản lai diện mục của chính mình. Đến đây Ngài không bị sắc hương quyến rũ, tâm hồn luôn lắng đọng trong niềm cô tịch, từ đây đâu còn đuổi bướm hái hoa nữa, ngồi lặng lẽ trên nệm cỏ nhìn hoa nở, tàn một cách an nhiên tự tại. Trước mắt Ngài, mỗi sự vật cứ trôi đi mãi, chuyển dịch đổi dời không phút giây dừng nghỉ, sự sinh diệt nơi các hiện tượng như một dòng sông trôi chảy đến vô tận.
Bởi vậy, dưới con mắt của người đã đạt đạo vẫn thấy có cái gì luôn luôn hiện hữu, thoát ngoài sự sinh diệt không gian và thời gian muôn thuở.
Thế nên, người tu hành theo tinh thần Thiền tông là không hủy hoại đến các pháp, mà trả các pháp trở về nguyên thể của nó. Hoa vẫn nở, chim vẫn hót, suối vẫn reo, gió vẫn đùa trên tùng thông ngàn cội; hoa và chim, suối và gió, tùng và thông là một thực tại nhiệm mầu bất biến. Chúng vốn có mặt từ vô thủy đến vô chung, mà vô thủy và vô chung chỉ có mặt trong sát na hiện tiền bất động.
Vì vậy, Thiền không thể lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn pháp, mà riêng tìm thực thể chân không, nhờ “không” mà muôn pháp hiện bày, nhờ “không” mà muôn pháp được hoạt dụng. Vì sao? Vì “không” vốn là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn loài, là cội nguồn của chủng tánh hàm linh, là sự hiện sinh tất cả, ba đời chư Phật cũng từ “không” mà lưu xuất. Nhưng “không” lại không hình, không tướng, không phải quấy, hơn thua, lành dữ, tốt xấu… nên không sờ mó và nắm bắt được.
Nét độc đáo của “Thiền” là: phát minh đại sự. Vì vậy người tu thiền khi nào ánh sáng giác ngộ bùng lên từ vùng sâu thẳm của tâm thức, khi một nguồn sống tâm linh được tuôn trào, thì lúc ấy chúa xuân liền vén nở những ẩn mật của kiếp người. Muốn khám phá ra được chúa xuân, muốn trở về nguồn cội tâm linh, thì mỗi người phải tự thể nhập vào vạn vật. Chúa xuân ấy chỉ nằm trong sự đổi thay của muôn pháp, trong cái chuyển vô thường ảo vọng, hoa nở, hoa tàn của vạn vật, còn có cái gì ẩn mật thầm kính trường tồn miên viễn. Đó là hình ảnh:
Bởi vậy, dưới con mắt của người đã đạt đạo vẫn thấy có cái gì luôn luôn hiện hữu, thoát ngoài sự sinh diệt không gian và thời gian muôn thuở.
Thế nên, người tu hành theo tinh thần Thiền tông là không hủy hoại đến các pháp, mà trả các pháp trở về nguyên thể của nó. Hoa vẫn nở, chim vẫn hót, suối vẫn reo, gió vẫn đùa trên tùng thông ngàn cội; hoa và chim, suối và gió, tùng và thông là một thực tại nhiệm mầu bất biến. Chúng vốn có mặt từ vô thủy đến vô chung, mà vô thủy và vô chung chỉ có mặt trong sát na hiện tiền bất động.
Vì vậy, Thiền không thể lìa ngoài ảo ảnh đổi thay của muôn pháp, mà riêng tìm thực thể chân không, nhờ “không” mà muôn pháp hiện bày, nhờ “không” mà muôn pháp được hoạt dụng. Vì sao? Vì “không” vốn là tự thể của muôn pháp, là mẹ đẻ của muôn loài, là cội nguồn của chủng tánh hàm linh, là sự hiện sinh tất cả, ba đời chư Phật cũng từ “không” mà lưu xuất. Nhưng “không” lại không hình, không tướng, không phải quấy, hơn thua, lành dữ, tốt xấu… nên không sờ mó và nắm bắt được.
Nét độc đáo của “Thiền” là: phát minh đại sự. Vì vậy người tu thiền khi nào ánh sáng giác ngộ bùng lên từ vùng sâu thẳm của tâm thức, khi một nguồn sống tâm linh được tuôn trào, thì lúc ấy chúa xuân liền vén nở những ẩn mật của kiếp người. Muốn khám phá ra được chúa xuân, muốn trở về nguồn cội tâm linh, thì mỗi người phải tự thể nhập vào vạn vật. Chúa xuân ấy chỉ nằm trong sự đổi thay của muôn pháp, trong cái chuyển vô thường ảo vọng, hoa nở, hoa tàn của vạn vật, còn có cái gì ẩn mật thầm kính trường tồn miên viễn. Đó là hình ảnh:
Linh Sơn thiếu thất Tào Khê ấy,
Một điểm linh quang sạch pháp trần,
Đêm nay trăng sáng soi đỉnh núi,
Dáng núi cô liêu tiếng vượn trầm.
Một điểm linh quang sạch pháp trần,
Đêm nay trăng sáng soi đỉnh núi,
Dáng núi cô liêu tiếng vượn trầm.
Cuối cùng, chỗ dụng công đắc lực của người tu thiền là : “Phản quang tự kỷ bổn phận sự”, việc làm này là việc của chính mình đâu tìm cầu bên ngoài. Nên nói là: “Bổn phận sự, bất tùng tha đắc”. Vì thế, người tu thiền luôn luôn lúc nào cũng tỉnh thức và hằng xét soi lại chính mình, đừng để sáu căn theo đuổi theo sáu trần. Đến khi nào công phu chín muồi, thời tiết nhân duyên đến hoa lòng bỗng nhiên bừng nở, một tiếng nổ vang, mười phương thấu suốt, mới hay ra rằng: “Chúng sanh nay vốn đã là Phật, sanh tử Niết bàn như giấc mộng đêm qua”.
Trúc Lâm, ngày 22 tháng 7 Nhâm Ngọ
Đạt Ma Khế Định.
Đạt Ma Khế Định.
Các bài mới
- Diệu chỉ Phật tâm tông (Phần 1) - 19/05/2011
Các bài đã đăng
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 84468
- Online: 28