Khéo Dụng Tâm (Phần 03):Tri Vọng Có Phải Như Vớt Bọt Lấy Nước

20/08/2025 | Lượt xem: 22

TT.Thích Tâm Hạnh

 1.  DẪN NHẬP

Tất cả chúng sanh ai cũng có những niệm tưởng trong đầu, gọi là vọng tưởng. Đang có và lúc nào cũng đang đối diện với nhiều vọng tưởng, nếu không nhận biết để hàng phục sẽ bị vọng tưởng chi phối, khiến căng thẳng, trí tuệ mờ tối, đồng thời tạo nghiệp phải vào sanh tử chịu các khổ đau. Dù là hành giả có công phu, nhưng không khéo dụng công thì tuy là tu hành, nhưng vẫn chưa thể rời vọng để tu, khiến nhọc nhằn, kết quả không được như nguyện.

Thực chất tu hành tựu trung chỉ nằm vỏn vẹn một trong hai việc chính: Hàng phục vọng tưởng phiền não, hoặc giác ngộ bản tâm (đốn ngộ). Hành giả ngay đây đốn ngộ bản tâm thì vọng tưởng phiền não tự dứt bặt. Chưa ngộ thì phải đối diện với vọng tưởng, phải hàng phục nó.

Hơn nữa, chúng sanh do nghiệp dẫn vào luân hồi chịu các khổ đau. Người tu muốn thoát ly sanh tử, phải biết dừng và chuyển nghiệp. Muốn dừng, chuyển nghiệp, hàng phục vọng tưởng phiền não thì không tìm đâu xa, chỉ ngay hiện tướng của vọng tưởng tạo nghiệp để hàng phục, dừng và chuyển.

Cho thấy, vọng tưởng ai cũng có, là biểu trưng cho tất cả chúng sanh, ai tu cũng phải hàng phục vọng tưởng. Do đó, một trong những phương pháp hành trì mà Hòa thượng Tông chủ Thiền phái Trúc Lâm hướng dẫn Thiền sinh ứng dụng công phu là Tri Vọng.

2. TRI VỌNG CÓ PHẢI NHƯ VỚT BỌT LẤY NƯỚC?

a) Thế nào là Tri vọng?

Theo lời Hòa thượng Tông chủ dạy, chúng ta có thể hiểu một cách vắn tắt về Pháp Tri Vọng:

Khi tọa thiền, hành giả ngồi yên, tỉnh giác. Nếu có niệm khởi thì biết nó là huyễn hóa, không theo chứ không đuổi dẹp gì cả. Khi thuần thục, tâm lắng lặng, không khởi nhưng tự sáng biết rõ ràng. Lúc này hành giả sẽ thấy rõ chơn và vọng đều từ một thể của tự tánh, như sóng và nước tuy khác, nhưng đồng một tánh ướt.

Qua lời ngài dạy, chúng ta có thể nhận ra các điểm nổi bật căn bản để áp dụng pháp Tri vọng vào công phu tu tập như sau:

-   Không đối trị

Không phải chỉ, cũng không phải quán. Bởi chỉ là có làm gì đó cho vọng tưởng dừng lại; quán là quán chiếu để vọng tan biến hết đi. Hai cách này chỉ là phương pháp bổ trợ cho những hành giả còn nặng về một tập nghiệp nào đó, cần áp dụng để đối trị. Do vậy, chưa khế với yếu diệu trong lời dạy về pháp Tri vọng, bởi cả hai còn can thiệp trên vọng. Hành giả đã sẵn sàng cho việc tu tập thiền, dụng công pháp Tri vọng thì không dụng tâm trong tạo tác như vậy, sẽ không khế hợp tự tánh vô sanh, khó tiến đạo.

-   Không tạo tác

Không cần khởi “cái biết” để biết. Không biết về, biết theo như đếm vọng tưởng. Không cần dứt trừ vọng tưởng.

-  Chỉ dùng trí tuệ thấu suốt vọng niệm không thật.

-  Không theo vọng tưởng.

Sống bằng bản tâm chân thật lặng mà sáng biết.

Thực hành được như vậy là đang dụng công pháp Tri vọng một cách đúng đắn, không sai lệch. Và như thế, pháp Tri vọng không phải trừ dẹp vọng tưởng. Chỉ là ngay đây khéo thầm nhận tự tánh; hoặc là hướng tự tánh để hàng phục vọng tưởng, nhận lại tánh chân.

b)  Quyết nghi

Có suy nghĩ cho rằng, pháp Tri vọng (Biết vọng không theo) giống như vớt bọt để lấy nước. Bọt do nước biến hiện, nếu vớt hết bọt thì lấy nước ở đâu?

Như phần khái quát đã nêu ở trên, pháp Tri vọng không phải dẹp trừ hay xua đuổi vọng tưởng. Do đó, hành giả thực hành pháp này một cách đúng đắn, sẽ không giống với việc vớt bọt lấy nước.

c)   Nên học hiểu thông suốt để dụng công tu tập

Chưa học kỹ, chưa dụng công, chắc chắn sẽ chưa có kinh nghiệm, chưa cảm nhận được kết quả. Như vậy có nghĩa là chưa suốt thông pháp Tri vọng. Bởi dù có học hiểu mà chưa có thời gian dài để dụng công thì cũng không thể hiểu thông được. Nếu chưa biết hoặc biết chưa tới mà nhận định thì pháp Tri vọng kia cũng chỉ là do bản thân tự quy ước và đặt ra theo tư duy cá nhân rồi tự suy luận theo cách của mình, để tự mình làm cho mình lầm; chứ không đúng với pháp Tri vọng mà Hòa thượng Tông chủ đã dạy. Bằng một thái độ nghiêm túc, bằng một tâm sáng suốt, quyết chí thiết tha tu học, từ đó học kỹ và thông suốt để dụng công, mới mang lại nhiều lợi lạc.

d)  Không nhầm lẫn giữa bọt và nước – Vọng và chân.

Sóng do nước biến thành. Tương tự, vọng tưởng từ tự tâm biến hiện. Tuy nhiên, nước thì hay chở thuyền; còn sóng thì lật úp thuyền. Cũng vậy, chân tâm thì đưa chúng ta đến an lạc, giải thoát. Vọng tâm thì đẩy chúng sanh vào sanh tử khổ đau. Do vậy, không nên lầm nhận bọt làm nước. Cũng vậy, không lầm nhận vọng làm chân.

3.  KHÉO DỤNG CÔNG

a)   Khéo nhận tánh chân

Nếu khéo nhận, sẽ thấy ra rất rõ, đang khi vọng tưởng, tánh này không thiếu vắng. Vì tánh này luôn sẵn đủ cho nên mới biết đang có vọng tưởng hoặc không vọng tưởng. Ai cũng sẵn đủ tâm tánh bất động và rạng ngời ấy, nhưng hiện tại chúng ta còn bị các vọng chi phối, bởi chưa khéo nhận lại. Nếu hành giả tu hành, khéo thầm nhận lại bản tâm thì vọng còn hay hết, đều không can hệ, mà chỉ sống bằng tánh giác sáng chính mình. Khi công phu thuần thục, đắc lực, vọng tưởng tự mất lực chi phối, chúng ta sẽ thấy mọi thứ trở nên trong lặng, bình thường, trong tâm vui nhẹ nhưng sâu lắng. Thời tiết nhân duyên chín muồi, tánh này bùng vỡ, vọng tưởng tự dứt bặt.

b)  Nghỉ ngơi ngay tánh chân

Giữa trường đời xuôi ngược dọc ngang, có lúc khiến mệt nhoài, bất lực, chúng ta đã đối diện như thế nào?

Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: “Mệt thì ngủ chút chừ nơi chẳng quê hương”. Là quê hương, nhưng không phải có nơi chốn mà bàng bạc, trùm khắp, tức chỉ cho chân tâm Phật tánh nơi mỗi người. Ở đây, Thượng Sĩ nói, trên đường đời, trong cuộc đời, những lúc nhọc nhằn quá mức, nên trở lại tự tánh chính mình thì tất cả tự tan biến, an lạc. Cụ thể, hành giả khéo lặng xuống, mất hút các tướng mà không mê thì liền đó tâm thể sáng rỡ, lạc an. Không cần hết mệt (nhọc nhằn); cũng chẳng phải muốn còn mệt. Chẳng khởi tâm mong qua nhanh; cũng chẳng phải muốn nỗi đau còn mãi. Chỉ là ngay đó lặng xuống, liền an, liền đó được ngơi nghỉ tuyệt đối.

Sơ Tổ Trúc Lâm nói:

Gìn tính sáng tính mới hầu an,

Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác”.

Tổ dạy, luôn gìn giữ công phu, luôn sống bằng tự tánh chân thật chính mình thì chúng ta mới được an ổn thực sự. Buông vọng niệm thì niệm sẽ có lúc dừng, tự tánh hiện tiền, các vọng dứt bặt. Cho thấy, chỉ có tánh này mới cho chúng ta an ổn tuyệt đối. Ngoài ra, khác đi, chỉ mang tính tạm thời, vì tất cả đều còn trong tạo tác sanh diệt. Và sự thật, cái sanh diệt không thể điều trị, tiêu dung được cái sanh diệt, mà chỉ trở lại tâm tánh vô sanh thì các thứ sanh diệt tự thanh tịnh, lặng trong.

c)   Không còn ngán ngại sanh tử

Vịnh Vân Yên Tự Phú, Tam Tổ Huyền Quang nói:

Cốc được tính ta nên Bụt thực,

Ngại chi non nước cảnh đường xa”.

Một khi đã nhận lại tánh Phật chính mình rồi, tâm hành giả vô cùng lạc an. Dù vô lượng kiếp trôi lăn, tất cả ngang đây đều không còn giá trị. Và vòng luân hồi cho dù có bao nhiêu, cũng không còn thấy là xa xôi diệu vợi nữa. Bởi lúc này, sống là tu, tu là nhẹ nhàng hoan hỷ, sống là vui, không còn mong ngóng một điều gì đó ở đâu xa để phải cảm thấy nhọc nhằn, mệt mỏi.

4.   KẾT LUẬN

Công phu tu tập chỉ nằm trong yếu diệu chuyển vọng về chân. Với hành giả chưa ngộ, việc hạ thủ công phu chỉ vỏn vẹn trong mấy ý chính: Không khởi cái biết để biết về hay biết theo vọng tưởng. Không can thiệp trên vọng tưởng và các tướng. Chỉ là khéo mất hút các tướng mà không mê thì lúc này, muốn không biết cũng không được; liền đó, tánh mình tự sáng biết. Hằng ngày, trên mọi sinh hoạt, khéo nhận thẳng tánh sáng biết ấy thì tự khế hợp thể tánh vô sanh. Theo thời gian, công phu sẽ đắc lực, chín muồi, tâm tánh tự bùng vỡ, các vọng tự dứt bặt. Khéo dụng tâm, mới hay ra Phật pháp là chân thật, đã sẵn trước mắt lâu rồi.

 

Pháp Thoại

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 92199
  • Online: 14