Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 4: Phẩm Trường Thọ
20/04/2024 | Lượt xem: 874
HT Thích Thanh Từ dịch và giảng
PHẨM TRƯỜNG THỌ
Đức Phật lại bảo các vị Tỳ-kheo: “Các thầy ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, cho phép các thầy hỏi. Như Lai sẽ giải thích cho. Tất cả các pháp bản tánh không tịch, Như Lai đã tu học rành rẽ thông đạt. Các thầy chớ nghĩ rằng Như Lai chỉ tu các pháp bản tánh không tịch. Ở nơi giới luật có chỗ nào nghi ngờ, các thầy nên hỏi.”
Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Chúng con không đủ trí huệ để hỏi đức Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri. Vì cảnh giới của Như Lai không thể nghĩ bàn, thiền định của Như Lai không thể nghĩ bàn, lời phán dạy của Như Lai không thể nghĩ bàn. Vì cớ ấy nên chúng con là hạng không đủ trí huệ để hỏi đức Như Lai.
Bạch Thế Tôn! Ví như ông già trên trăm tuổi đang phải bệnh trầm trọng nằm liệt trên giường sẽ chết mất nay mai. Một người giàu kia có duyên sự muốn đến xứ khác, đem trăm cân vàng gởi cho ông già ấy mà giao ước rằng: Hoặc mười năm hoặc hai mươi năm chừng nào tôi trở về thời ông hoàn số vàng này lại cho tôi. Ông già nhận giữ vàng, không bao lâu thời chết, ông già lại không người kế tự, số vàng gởi kia đều thất lạc cả. Lúc người chủ vàng trở về không biết đòi hỏi ai, đành chịu mất vàng. Chủ vàng là kẻ vô trí, khi gởi vàng không biết chọn nơi đáng gởi, nên phải mất vàng.
Cũng vậy, hàng Thanh văn chúng con dầu nghe đức Như Lai ân cần dạy bảo mà chúng con không thể thọ trì khiến chánh pháp được bền lâu, khác nào ông già kia nhận vàng của người gởi, rồi không sống được mà giữ gìn. Chúng con vô trí, ở nơi giới luật sẽ hỏi những gì!”
Đức Phật nói: “Nếu nay các thầy hỏi Như Lai thời có thể đem lại sự lợi ích cho chúng sanh, nên Như Lai mới bảo các thầy có chỗ nào nghi thời cho phép hỏi.”
Phật bảo các thầy Tỳ-kheo, đối với giới luật có chỗ nào nghi ngờ đem ra hỏi, ngài sẽ giải nghi cho.
Các thầy Tỳ-kheo tự cho rằng không có trí tuệ đủ để hỏi Phật, các ngài dùng hai ví dụ để chỉ hàng Thanh văn không có khả năng đảm đang pháp Đại thừa, hàng Bồ-tát mới gánh vác được pháp đó. Ví dụ thứ nhất, người gửi vàng để đi xa, nếu không biết lựa chọn đem gửi cho một ông già sắp chết lại không có thân quyến, ông già chết mất khi về không biết đâu mà tìm. Cũng vậy Phật đem pháp Đại thừa giao cho hàng Thanh văn Duyên giác sau rồi không có ai kế thừa.
Các Tỳ-kheo bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Ví như một người trai trẻ khỏe mạnh lối hai mươi lăm tuổi, nhà giàu có, cha mẹ vợ con quyến thuộc đông đủ. Có người đem vàng bạc đến gởi cho người trai trẻ này mà nói rằng: “Tôi có duyên sự cần phải đi xa. Khi tôi trở về, anh sẽ hoàn số vàng bạc này lại cho tôi.” Người trai trẻ nhận vàng bạc và cất giữ kỹ lưỡng. Ít lúc phải bệnh, người trai trẻ dặn thân quyến rằng số vàng bạc này là của ông già gởi, khi nào ông ấy đến hỏi thời giao đủ cho ông ấy. Thời gian sau, người gởi vàng bạc trở về được thân quyến của người trai trẻ hoàn đủ số đã gởi. Đây là người có trí, biết chọn chỗ đáng gởi nên khỏi mất của.
Cũng vậy, nếu đức Thế Tôn đem pháp bảo giao phó cho A-nan và các Tỳ-kheo ắt chẳng đặng lâu dài, vì tất cả hàng Thanh văn và Ma-ha Ca-diếp đều sẽ vô thường, như ông già trước kia. Đức Như Lai nên đem Phật pháp vô thượng giao phó cho Bồ-tát. Vì hàng Bồ-tát đủ trí huệ có thể hỏi Như Lai, pháp bảo sẽ được lâu dài hưng thạnh lợi ích cho chúng sanh, như người trai trẻ trước kia. Vì những lẽ ấy, nên chỉ có hàng Bồ-tát là có thể hỏi đức Như Lai thôi. Trí huệ của chúng con như mòng muỗi, làm sao hỏi được pháp thâm diệu của Như Lai.”
Bạch xong, các Tỳ-kheo đều ngồi yên lặng.
Đức Phật khen các Tỳ-kheo rằng: “Lành thay! Lành thay! Các thầy khéo được tâm vô lậu, tâm A-la-hán. Như Lai cũng đã suy xét hai duyên cớ mà các thầy vừa trình bày, nên đem pháp Đại thừa giao phó cho hàng Bồ-tát, khiến diệu pháp này được còn lâu nơi đời.”
Đức Phật bảo toàn thể đại chúng: “Thọ mạng của Như Lai không thể tính lường, biện tài cũng chẳng thể cùng tận. Đại chúng phải nên tùy ý bạch hỏi hoặc nơi giới luật, hoặc nơi pháp quy y.”
Đức Phật tuyên bố luôn ba lần như vậy.
Ví dụ thứ hai, người sắp đi xa đem số vàng gửi cho người trai trẻ khỏe mạnh, lại có thân thuộc đông đảo. Khi trở về sẽ được số vàng kia do người trai trẻ đó trả, hoặc là do quyến thuộc của họ trao lại. Cũng vậy pháp Đại thừa đem giao cho hàng Bồ-tát thì sẽ còn mãi mãi, đó là ý nghĩa của đoạn này.
Phật khen các ông xét như vậy thật là có tâm lậu tận của A-la-hán.
Bấy giờ trong đại chúng có một vị đại Bồ-tát tuổi còn trẻ, vốn là người trong tụ lạc Đa-la, họ Đại Ca-diếp giòng Bà-la-môn, do thần lực của Phật, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trịch vai áo bên hữu, cung kính nhiễu Phật, gối hữu chấm đất, chắp tay hướng Phật mà bạch rằng: “Nay con có chút việc muốn bạch hỏi, xin đức Thế Tôn hứa khả cho.”
Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Như Lai Ứng cúng Chánh biến tri cho phép ông hỏi. Như Lai sẽ giải quyết chỗ nghi của ông, cho ông vui mừng.”
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Đức Thế Tôn xót thương đã cho phép, nay con sẽ hỏi. Nhưng trí huệ của con rất kém. Đạo đức của Thế Tôn cao vòi vọi, thân của Như Lai như chân kim cang, màu như ngọc lưu ly. Trong đại hội đây, các vị đại Bồ-tát thảy đều thành tựu vô lượng vô biên thâm diệu công đức. Ở trước một đại hội như thế này, đâu dám bạch hỏi. Nay con nương sức thần thông của Phật và nhân thiện căn oai đức của đại chúng mà bạch hỏi ít điều thôi.”
Bồ-tát Ca-diếp trình bày lý do thưa hỏi. Trước hết do thần lực của Phật, tức là nương sức thần thông của Phật, và oai đức của đại chúng, ngài mới dám bạch hỏi ít nhiều, thật sự thì ngài không có tài, giữa đại chúng đông đảo thế này ngài không đủ sức hỏi. Đó là sự khiêm nhường. Bồ-tát làm gì cũng nương thần lực của Phật và oai đức của đại chúng, không tự ý riêng tư.
Ca-diếp Bồ-tát liền ở trước Phật, nói kệ rằng:
Thế nào được trường thọ
Thân kim cang chẳng hoại?
Lại do nhân duyên gì
Đặng sức kiên cố lớn?
Thế nào nơi kinh này
Rốt ráo đến bờ kia?
Nguyện Phật vì chúng sanh
Giảng bày nghĩa kín nhiệm.
Thế nào đặng rộng lớn
Làm y chỉ cho chúng?
Thật chẳng phải La-hán
Mà đồng hàng La-hán?
Thế nào biết thiên ma
Làm lưu nạn cho chúng?
Lời Phật, lời Ba-tuần
Thế nào phân biệt biết?
Thế nào bậc Điều ngự
Hoan hỷ nói chân đế
Đủ thành tựu chánh thiện
Diễn nói bốn điên đảo?
Làm nghiệp lành thế nào
Xin Thế Tôn dạy bảo.
Thế nào các Bồ-tát
Thấy được tánh khó thấy?
Nghĩa mãn tự, bán tự
Phải hiểu như thế nào?
Thế nào cộng thánh hạnh
Như chim ta-la-ta?
Thế nào chưa phát tâm
Mà gọi là Bồ-tát?
Thế nào giữa đại chúng
Mà đặng không kinh sợ
Như vàng Diêm-phù-đàn,
Không ai chỉ trích được?
Thế nào ở đời trược
Chẳng nhơ như hoa sen?
Thế nào ở phiền não
Phiền não chẳng nhiễm được,
Như y sư trị bệnh
Chẳng bị bệnh truyền lây?
Thế nào làm lái thuyền
Ở giữa biển sanh tử?
Thế nào thoát sanh tử
Như rắn lột da cũ?
Thế nào xem Tam bảo
Dường như cây Thiên ý?
Ba thừa nếu vô tánh
Thế nào mà nói đặng,
Như sự vui chưa có
Sao lại nói thọ vui?
Thế nào các Bồ-tát
Mà đặng chứng bất hoại?
Thế nào vì người mù
Mà làm người chỉ đường?
Thị hiện nhiều đầu kia
Xin Phật giải rõ cớ.
Thế nào người thuyết pháp
Thêm lớn như trăng mọc?
Thế nào lại thị hiện
Rốt ráo nơi Niết-bàn?
Thế nào bậc dũng kiện
Hiện nhân, thiên, ma, đạo?
Thế nào biết pháp tánh
Mà thọ nơi pháp lạc?
Thế nào các Bồ-tát
Xa lìa tất cả bệnh?
Thế nào vì chúng sanh
Diễn thuyết nơi bí mật?
Thế nào nói rốt ráo?
Và cũng chẳng rốt ráo?
Như kia dứt lưới nghi
Tại sao nói bất định?
Thế nào là đặng gần
Đạo tối thắng vô thượng?
Con nay thỉnh Như Lai
Vì các hàng Bồ-tát
Giảng nói pháp thậm thâm
Các hạnh vi diệu thảy
Trong tất cả các pháp
Đều có tánh an lạc,
Cúi xin đấng Thế Tôn
Phân biệt dạy chúng con.
Bậc nương tựa của chúng
Diệu dược Lưỡng túc tôn!
Nay muốn hỏi các ấm
Mà con không trí huệ,
Các Bồ-tát tinh tấn
Cũng lại chẳng biết được,
Cảnh giới của chư Phật
Rất sâu mầu như vậy.
Bài kệ có mấy mươi câu hỏi trùm hết toàn bộ kinh. Trong phẩm này chỉ trả lời câu hỏi đầu, thế nào được trường thọ, được thân kim cang bất hoại. Từ đây về sau đến hết bộ kinh sẽ trả lời từ từ những câu hỏi này. Hỏi xong, ngài khen ngợi tán thán Phật có những hạnh vi diệu, được an lạc như vậy, cho nên xin Phật thương xót chúng con mà làm chỗ nương tựa.
Đức Phật khen Ca-diếp Bồ-tát: “Lành thay! Lành thay! Nay ông chưa được Nhất thiết chủng trí, Như Lai đã được, nhưng bí tạng rất sâu của ông vừa hỏi đồng như chỗ hỏi của bậc Nhất thiết trí.
Này thiện nam tử! Lúc ta mới thành đạo chánh giác nơi cội bồ-đề, có vô lượng Bồ-tát ở mười phương thế giới cũng từng đến hỏi Như Lai những nghĩa thậm thâm ấy. Văn nghĩa công đức đã hỏi ngày trước cùng với của ông hôm nay đồng nhau không khác.
Hỏi như vậy có thể đem sự lợi ích lại cho vô lượng chúng sanh.”
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Con không đủ trí để hỏi Như Lai về những thâm nghĩa ấy.
Ví như muỗi mòng chẳng thể bay qua đến bờ kia của biển cả, cùng lượn khắp hư không. Cũng vậy, con không thể bạch hỏi Như Lai về những nghĩa biển cả trí huệ và hư không pháp tánh rất sâu như vậy.
Ví như quốc vương đem viên minh châu trong búi tóc giao cho quan giữ kho. Quan giữ kho lãnh châu hết lòng cung kính gìn giữ. Cũng vậy, con hết lòng cung kính giữ gìn nghĩa lý Đại thừa rất sâu của Như Lai truyền dạy. Vì nghĩa lý ấy làm cho con được trí huệ sâu rộng.”
Phật khen ngài Ca-diếp tuy chưa được Nhất thiết chủng trí mà đã hỏi được những bí tạng rất sâu của Như Lai, đồng với người được Nhất thiết chủng trí. Bồ-tát Ca-diếp hỏi những văn nghĩa này, đồng với các vị Bồ-tát thuở xưa hỏi khi Phật mới thành đạo,
tức là thời ngài nói kinh Hoa Nghiêm, hai bên văn nghĩa không khác, công đức cũng không khác, hỏi như vậy làm lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Như vậy chúng ta thấy tinh thần của kinh Niết-bàn và kinh Hoa Nghiêm không hai không khác.
Bồ-tát Ca-diếp bạch Phật rằng ngài không đủ trí tuệ để hỏi Phật, vì trí của ngài nhỏ bé như muỗi mòng, không thể bay qua được đến bờ bên kia của biển cả, cũng không thể bay lượn khắp cả hư không. Đó là sự khiêm nhường của ngài. Kế, ngài muốn hỏi những điều về yếu nghĩa Đại thừa nếu Phật dạy thì ngài sẽ cung kính gìn giữ và truyền bá sau này.
Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Lóng nghe! Lóng nghe! Như Lai sẽ vì ông mà nói nghiệp nhân trường thọ của Như Lai đã được. Do nơi nghiệp nhân này mà Bồ-tát được thọ mạng dài lâu. Nếu hạnh nghiệp có thể làm nhân cho quả Bồ-đề thời phải nên thành tâm nghe kỹ và lãnh thọ nghĩa ấy. Đã tự lãnh thọ rồi nói lại cho người khác. Do tu tập hạnh nghiệp ấy mà Như Lai đặng thành Vô thượng Chánh giác. Nay lại vì người mà giảng rộng ý nghĩa ấy.
Ví như vương tử phạm tội bị giam vào ngục, nhà vua rất nhớ thương con, đích thân ngự đến ngục thất. Cũng vậy, muốn được trường thọ, Bồ-tát phải nên hộ niệm tất cả chúng sanh, xem như con ruột, sanh lòng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả, truyền cho giới bất sát, dạy cho tu pháp lành. Cũng nên để tất cả chúng sanh ở nơi ngũ giới thập thiện.
Lại đến địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la v.v... để cứu vớt những kẻ khổ não trong các nơi ấy. Giải thoát kẻ chưa giải thoát, cứu độ người chưa được cứu độ. Người chưa chứng Niết-bàn làm cho chứng Niết-bàn. An ủi tất cả người đang ở trong cảnh kinh sợ. Do các nghiệp nhân trên đây mà Bồ-tát được thọ mạng dài lâu, nơi các trí huệ được tự tại. Sau khi mạng chung sanh lên cõi trên.”
Phật giải thích do nghiệp nhân gì mà Như Lai được trường thọ. Trước hết, Phật ví dụ một thái tử bị phạm tội giam trong ngục, vua cha vì thương con nên phải vào ngục thăm. Vua cha dụ cho Phật, thái tử dụ cho chúng ta. Mình là con vua nhưng vì phạm tội phải vào ngục, nhưng vẫn là vua con. Vua cha vì thương vua con nên phải vào ngục mà thăm. Phật thương Bồ-tát và chúng sanh như con ruột, xem như La-hầu-la. Do lòng đại từ đại bi đại hỷ đại xả nên mới vào đời dạy cho chúng sanh bất sát..., tu các pháp lành. Đây là nguyên nhân mà Phật được trường thọ. Như vậy chúng ta phải tu hạnh đại từ đại bi đại hỷ đại xả và luôn răn nhắc mọi người đừng giết hại nhau, không sát sanh hại vật, làm các việc lành và giữ giới luật, thương xót tất cả chúng sanh như con. Tiếp theo là giải thoát kẻ chưa được giải thoát, cứu độ người chưa cứu độ, người chưa chứng Niết-bàn làm cho chứng Niết-bàn, an ủi tất cả người đang trong cảnh kinh sợ. Do nghiệp nhân trên đây mà Bồ-tát thọ mạng lâu dài, trí tuệ được tự tại, sau khi mạng chung được lên cõi trên.
Phần trước là vì thương tất cả mà dạy, mình có lòng hộ niệm, đầy đủ tâm từ bi đối với mọi người và dạy mọi người gìn giữ giới luật. Phần sau, họ chưa giải thoát mình nỗ lực làm sao cho họ được giải thoát, họ chưa được cứu độ làm cho họ được cứu độ, họ chưa được Niết-bàn làm cho họ được Niết-bàn và cố gắng an ủi mọi người trong cảnh kinh sợ. Đó là nguyên nhân hạnh nghiệp để được thọ mạng lâu dài.
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Bồ-tát Ma-ha-tát bình đẳng xem chúng sanh đồng như con ruột, nghĩa ấy rất sâu, con chưa hiểu được. Đức Thế Tôn chẳng nên nói Bồ-tát đối với chúng sanh tu tâm bình đẳng xem đồng như con, vì trong Phật pháp có người phá giới, có kẻ phạm tội nghịch, có kẻ hủy báng chánh pháp. Sao lại với những hạng ấy mà xem đồng như con?”
Phật dạy: “Phải đấy! Như Lai đối với chúng sanh thật xem đồng là con như La-hầu-la.”
Ngài Ca-diếp chưa hiểu nghĩa Phật xem tất cả chúng sanh đồng như con. Nếu tất cả đều tốt thì xem đồng như nhau, nhưng ngài thấy trong Phật pháp có người giữ giới, có người phá giới, có người phạm tội, có người hủy báng chánh pháp... thì làm sao xem đồng như con?
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Trước kia, ngày rằm lúc chư tăng đang bố-tát, có một đứa trẻ không khéo tu tập ba nghiệp thân khẩu ý, núp ở chỗ kín rình nghe chư Tỳ-kheo tăng thuyết giới. Mật Tích lực sĩ nương thần lực của Phật lấy chày kim cang đập đứa trẻ ấy nát ra như bụi. Bạch Thế Tôn! Vị thần Kim Cang ấy rất là bạo ác mới giết được đứa trẻ. Thế sao Như Lai xem các chúng sanh đồng như con là La-hầu-la?”
Phật dạy: “Ông không nên nói như vậy. Đứa trẻ ấy chính là người biến hóa, chẳng phải người thật. Vì muốn xua đuổi những kẻ phá giới hủy pháp ra ngoài chư tăng nên hiện như vậy. Thần Kim Cang kia cũng là biến hóa thôi. Hạng hủy báng chánh pháp cùng nhất-xiển-đề hoặc có người sát sanh nhẫn đến tà kiến và cố ý phạm giới, Như Lai đối với những hạng ấy đều thương xót như con là La-hầu-la.
Bồ-tát Ca-diếp dẫn câu chuyện trong kinh A-hàm. Một hôm nhằm ngày rằm chư tăng đang thuyết giới, có một đứa bé rình ngoài hè nghe lén. Theo phép, khi nói giới Tỳ-kheo không được cho người chưa thọ giới nghe. Lúc ấy có vị thần Kim Cang Mật Tích hiện ra đập đứa bé tan thành tro bụi. Nếu Phật xem chúng sanh đồng như con, tại sao cho vị thần Kim Cang Mật Tích đập đứa bé nát tan như tro bụi? Phật nói, sở dĩ như vậy vì Phật muốn răn người phá giới, thật ra đứa bé hay vị thần cũng do Phật hóa ra thị hiện để răn chúng, không phải người thật.
Như quốc vương đối với bầy tôi phạm phép thời cứ tội tru lục mà chẳng tha. Như Lai Thế Tôn không phải như vậy; với hạng hủy pháp, làm pháp yết-ma khu khiển, quở trách, cử tội v.v..., sở dĩ Như Lai làm các pháp yết-ma trừng trị những hạng hủy báng chánh pháp như vậy là vì muốn chỉ rõ những người ác hạnh thời có quả báo.
Ông phải biết Như Lai là vị ban bố sự vô úy cho chúng sanh ác. Nếu Như Lai phóng ra một tia sáng, hoặc hai, năm tia sáng, kẻ nào gặp được thời đều xa lìa tất cả các điều ác. Nay Như Lai đầy đủ vô lượng thế lực như vậy.
Pháp chưa được thấy, nếu ông muốn thấy, nay sẽ vì ông nói tướng mạo đó. Sau khi Như Lai nhập Niết-bàn, nơi nào có Tỳ-kheo trì giới đầy đủ oai nghi hộ trì chánh pháp, thấy người hoại pháp bèn có thể khu khiển, quở trách, trừng trị. Phải biết Tỳ-kheo ấy đặng phước vô lượng không thể tính kể.
Quốc vương đối với bầy tôi phạm pháp, thời cứ theo tội tru lục không tha. Trong giáo pháp của Như Lai không như vậy. Người làm sai sẽ có quả báo ác, vì muốn người đó bỏ lỗi lầm trước để tu hạnh tốt nên dùng pháp yết-ma quở trách hoặc cử tội đuổi họ, làm sai sẽ bị chúng loại ra.
Phần sau Phật nói ngài dạy cho tất cả quốc vương và các Tỳ-kheo luôn luôn phải gìn giữ oai nghi, thọ trì chánh pháp, làm sai phải đuổi, phải quở trách, trừng trị. Người quở trách trừng trị đó được phước vô lượng không thể tính kể. Như trụ trì nuôi chúng thật đông mà không tu hành, không gìn giữ giới luật, bị người chỉ trích chê bai, coi thường luôn tăng chúng. Nếu mặc nhiên để cho họ ở thì mình có lỗi. Phật nói tu hành mà không giữ giới luật phải khu khiển, quở trách, trừng trị. Người khu khiển, quở trách, trừng trị đó được phước vô lượng không thể tính kể.
Ví như quốc vương chuyên làm việc bạo ác, rồi mang bệnh nặng. Vua nước láng giềng nghe biết tình hình đem binh đến đánh, trách tội muốn giết. Vua ác bệnh ấy vì không thế lực sợ hãi ăn năn chừa lỗi mà làm lành. Vua láng giềng kia được phước vô lượng. Cũng vậy, Tỳ-kheo giữ phép khu khiển quở trách người phạm giới cho họ chừa lỗi làm lành thời đặng phước vô lượng.
Ví như nhà cửa ruộng vườn của ông trưởng giả, mọc lên những cây gai độc. Trưởng giả biết được bèn chặt đốn sạch cả.
Lại như người trai trẻ đầu có tóc bạc, vì hổ thẹn nên nhổ bỏ chẳng cho ra dài.
Cũng vậy, Tỳ-kheo giữ pháp thấy có người phá giới hủy hoại chánh pháp, bèn nên khu khiển, quở trách, cử tội. Tỳ-kheo này là đệ tử của Như Lai, là chân thật Thanh văn. Nếu thấy mà bỏ qua, thời nên biết Tỳ-kheo này là người hại Phật pháp.”
Ví dụ như quốc vương chuyên làm việc bạo ác rồi mang bệnh nặng, vua nước láng giềng nghe tin đem binh tới đánh, trách tội muốn giết. Vua ác bệnh ấy vì không có thế lực, ăn năn sợ hãi chừa lỗi làm lành,
vua láng giềng kia được phước vô lượng. Cũng vậy, Tỳ-kheo giữ phép khu khiển quở trách để người phạm giới làm lành, được phước vô lượng.
Hoặc như trong vườn ruộng ông trưởng giả, nếu mọc gai độc thì phải chặt bỏ, như vậy mới là biết làm vườn. Hay như người mới hăm hai hăm ba tuổi mà đầu có vài sợi tóc bạc, họ sẽ nhổ đi cho khỏi xấu. Cũng vậy, trong chánh pháp của Phật nếu người nào sai thì nên loại ra cho Phật pháp được tốt.
Ca-diếp Bồ-tát lại bạch Phật rằng: “Bạch Thế Tôn! Cứ như lời Phật dạy, thời là không bình đẳng xem tất cả chúng sanh đồng như con là La-hầu-la. Bạch Thế Tôn! Nếu có một người cầm dao hại Phật, lại có một người đem nước chiên-đàn thoa thân Phật. Như Lai đối với hai người này nếu tâm là bình đẳng, sao lại bảo rằng phải trừng trị kẻ phạm luật. Nếu trừng trị kẻ phạm luật thời lời dạy kia có lỗi.”
Ngài Ca-diếp hỏi lại Phật: Có hai người, một người cầm dao đến hại Phật, một người cầm nước hoa chiên-đàn đến thoa lên thân Phật, đối với hai người đó làm sao bình đẳng được? Nếu Như Lai đối với hai người này bình đẳng vì sao nói người bị tội phải trừng trị?
Phật nói: “Như quốc vương, đại thần, tể tướng có bốn người con trai diện mạo khôi ngô, thông minh sáng suốt, đem giao cho giáo sư dạy dỗ và dặn rằng: Thầy gắng dạy chúng nó cho được toàn vẹn cả tài lẫn đức. Nếu chúng nó ngỗ nghịch, Thầy phải nghiêm trị, dầu ba đứa bị đòn chết, còn một đứa được nên, chúng tôi cũng vui lòng.
Này Ca-diếp! Như vậy thời cha và thầy của các trẻ có phải tội sát sanh chăng?”
Ca-diếp Bồ-tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Không. Vì lòng thương muốn cho các trẻ được nên, chớ chẳng phải ác tâm. Dạy dỗ như thế đặng phước vô lượng.”
Phật nói: “Cũng vậy, Như Lai đối với kẻ phạm pháp xem đồng như con cả. Nay Như Lai đem chánh pháp vô thượng phó chúc các vua, đại thần, tể tướng, Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di. Các vua, quan và bốn bộ chúng phải nên khuyên răn khích lệ các học chúng, khiến đặng tăng thượng giới, định, trí huệ. Nếu người nào không tu học ba phẩm pháp này lười biếng phá giới, hủy hoại chánh pháp, thời vua quan, bốn bộ chúng phải nên nghiêm trị.
Này Ca-diếp! Như vậy các vua, quan, bốn bộ chúng có mắc tội chăng?”
Ca-diếp Bồ-tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Không.”
Phật nói: “Các vua quan và bốn bộ chúng ấy còn không tội, huống là Như Lai.
Phật giải thích, một ông vua có bốn đứa con, vì muốn con nên người, yêu cầu thầy rầy dạy cho nó có đầy đủ đức hạnh, nếu rầy dạy không được thì đập chết cũng được. Như vậy ông vua có lỗi sát sanh hay không?
Vì thương muốn con nên người thì phải răn dạy, ông thầy cũng không phạm tội sát sanh. Phật cũng vậy vì thương muốn đệ tử bỏ ác làm lành, gìn giữ giới luật thanh tịnh, được giải thoát nên mới dạy bá quan vua chúa, bốn bộ chúng nếu vị tăng nào lôi thôi thì phải bị trừng trị, Phật cũng không có lỗi.
Chúng ta phải có trí tuệ giản trạch cho ra cái nào thật, cái nào không thật. Phải khéo lấy kinh luật làm mực thước, nếu tu theo Đại thừa phải đúng tinh thần Đại thừa mà sống.
Này Ca-diếp! Như Lai khéo tu đức bình đẳng như vậy, xem các chúng sanh đồng là con cả. Tu như vậy gọi là Bồ-tát tu tâm bình đẳng, nơi các chúng sanh xem đồng là con. Bồ-tát tu tập hạnh nghiệp bình đẳng này thời được thọ mạng lâu dài, lại cũng khéo biết những việc đời trước.”
Phật xem tất cả chúng sanh như con nghĩa là phải phạt phải đánh, phạt đánh không có nghĩa thù hận hay ghét bỏ mà vì thương, sợ người làm ác mang tội. Nếu cứ để làm gì thì làm là xúi người làm ác, rồi họ phải chịu khổ, đó là mình vô trách nhiệm, không thương. Bồ-tát tu tập hạnh nghiệp bình đẳng này thời được thọ mạng lâu dài, lại cũng khéo biết những việc đời trước.
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Như lời Phật dạy nếu Bồ-tát tu tâm bình đẳng đối với chúng sanh xem như con ruột thời được thọ mạng dài lâu. Đức Như Lai chẳng nên dạy như thế.
Như người biết phép, có thể giảng nói các hạnh hiếu thuận, khi về đến nhà lại lấy ngói đá ném đánh cha mẹ. Mà cha mẹ là ruộng phước lớn có ơn nhiều nên phải cúng dường, trở lại đánh đập, thời người biết phép này lời nói cùng hành động trái ngược nhau.
Lời dạy của Như Lai cũng vậy. Bồ-tát tu tâm từ bình đẳng được thọ mạng dài lâu biết được túc mạng, thường ở nơi đời không có đổi dời. Nay đây do duyên cớ gì mà đức Thế Tôn thọ mạng rất ngắn đồng nhân gian ư? Hay là Như Lai có oán ghét chi chúng sanh? Ngày trước Như Lai làm nghiệp ác gì, giết chết mấy mạng, mà mắc báo đoản thọ sống không đầy trăm tuổi ư?”
Bồ-tát Ca-diếp nạn vấn Phật rất mạnh mẽ. Phật nói do lòng từ bi thương tất cả chúng sanh như con nên được thọ mạng dài lâu. Ngài Ca-diếp đưa ví dụ, như có một vị thầy giảng dạy mọi người phải hiếu thuận với cha mẹ, nhưng khi về nhà ông lại vác cây vác đá chọi đánh cha mẹ thì có được không? Phật nói do tâm bình đẳng nên được thọ mạng dài lâu, nhưng mới tám mươi tuổi đã chết, vậy ngài làm việc ác lúc nào mà đoản mạng như vậy?
Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Nay duyên cớ gì mà ông nói lời thô ở trước Như Lai như thế? Như Lai trường thọ rất hơn hết trong các tuổi thọ. Như Lai chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ.”
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Đức Như Lai được thọ mạng dài lâu thế nào?”
Phật nói: “Như tám con sông lớn: một là sông Hằng, hai là sông Diêm-ma-la, ba là sông Tát-la, bốn là sông A-lợi-la, năm là sông Ma-ha, sáu là sông Tân-đầu, bảy là sông Bác-xoa, tám là sông Tất-đà. Tám con sông này cùng các sông nhỏ đều chảy vào biển lớn.
Cũng vậy, tất cả con sông thọ mạng của người, của trời, của đất, của hư không, đều vào trong biển thọ mạng của Như Lai. Vì vậy nên Như Lai thọ mạng vô lượng.
Ví như ao A-nậu chảy ra thành bốn con sông lớn. Cũng vậy, Như Lai xuất sanh tất cả thọ mạng.
Ví như trong các pháp thường trụ, hư không là đệ nhất. Cũng vậy, ở trong các pháp thường trụ, Như Lai là đệ nhất.
Như trong các vị thuốc, vị đề hồ là đệ nhất. Cũng vậy, trong các chúng sanh, thọ mạng của Như Lai là đệ nhất.”
Phật quở ngài Ca-diếp sao ở trước Phật lại nói lời thô như vậy. Đây cũng là chỗ chính yếu đức Phật chỉ dạy trong phẩm này.
Phật nói Như Lai trường thọ hơn hết trong các tuổi thọ, Như Lai chứng được pháp thường trụ hơn hết trong các pháp thường trụ. Như Lai ở đây chính là pháp thân, là thể của muôn pháp. Pháp thân Như Lai là bất sanh bất diệt nên nói là thường trụ, là thọ mạng dài lâu.
Các vị thiền sư thấy thân này chỉ như bóng như vang, chợt có chợt không chợt hiện chợt mất, pháp thân thì bất sanh bất diệt nên xem chết như mùa hạ cởi áo, sanh như mùa đông đắp mền. Áo mền chỉ là cái tạm, còn thân chính là chỉ cho pháp thân. Vì vậy nên các vị thiền sư khi thấy được pháp thân, nhận được Phật tánh rồi, các ngài xem thân này không là gì cả. Phật chỉ thẳng vào pháp thân nên nói đó là thọ mạng dài lâu bậc nhất, đó là pháp thường trụ bậc nhất.
Tất cả thọ mạng đều từ thọ mạng Như Lai mà ra. Phật dùng ví dụ tám con sông lớn ở Ấn Độ, tất cả đều chảy ra biển. Biển dụ cho thọ mạng của pháp thân, còn tám con sông lớn dụ cho tất cả thọ mạng khác. Như vậy thọ mạng của Như Lai là cao hơn, là bậc nhất.
Như ao A-nậu chảy thành bốn con sông lớn. Cũng vậy, Như Lai xuất sanh tất cả thọ mạng. Trong các pháp thường còn thì hư không là đệ nhất, cũng vậy trong các pháp thường trụ, Như Lai là đệ nhất. Trong các thứ thuốc, đề hồ là đệ nhất, thọ mạng của Như Lai cũng là đệ nhất.
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Nếu thọ mạng của Như Lai dài lâu như vậy, thời Như Lai nên ở nơi đời hoặc một kiếp, hoặc ít hơn để thường tuyên diệu pháp, như tuôn mưa lớn.”
Phật dạy: “Này Ca-diếp! Ông chẳng nên ở nơi Như Lai có quan niệm là diệt tận.
Này Ca-diếp! Nếu có Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di, nhẫn đến ngoại đạo ngũ thông thần tiên, hạng được tự tại, hoặc sống một kiếp hay ít hơn, ở giữa hư không đi đứng nằm ngồi tự tại, nách tả phun lửa, nách hữu vọt nước, thân tuôn khói lửa, nếu muốn sống lâu thời được như ý muốn. Đối với mạng sống hoặc dài hoặc ngắn đều tự tại. Người được ngũ thông còn đặng thần lực tùy ý như vậy, huống là Như Lai đặng sức tự tại đối với tất cả pháp, mà lại không thể ở đời hoặc nửa kiếp, hoặc một hai kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, hoặc vô lượng kiếp sao? Vì những nghĩa ấy, phải biết rằng Như Lai là pháp thường trụ chẳng biến đổi. Thân của Như Lai đây là thân biến hóa chẳng phải thân tạp thực. Vì độ chúng sanh nên thị hiện đồng với chúng. Vì vậy nên thị hiện bỏ thân mà nhập Niết-bàn.
Ông nên biết rằng Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Ở trong đệ nhất nghĩa này, các ông phải nên siêng năng tinh tấn nhất tâm tu tập. Mình đã tu tập và vì người khác mà giảng nói.”
Ngài Ca-diếp lặp lại câu hỏi: Thọ mạng của Như Lai dài lâu như vậy, sao Như Lai không ở đời một kiếp, hai kiếp, hay ba bốn kiếp để giáo hóa chúng con, để nói diệu pháp này mà ngài lại nhập Niết-bàn? Phật giải thích: Ông không nên đối với Như Lai có quan niệm là diệt tận. Diệt tận tức là đã chết, hết. Phật nói những người được ngũ thông có thể kéo dài mạng sống được một kiếp hai kiếp. Huống nữa là Phật đầy đủ oai lực, tự tại trước các pháp, ngài lại không thể tiếp tục thêm nhiều kiếp hay sao. Nhưng ngài sanh là thị hiện, ngài diệt cũng là thị hiện. Hóa thân tạm có rồi không, chuyện đó là thường. Chỉ có pháp thân bất sanh bất diệt là chân thật.
Vì vậy, Phật bảo Ca-diếp rằng: Ông nên biết Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Ở trong đệ nhất nghĩa này các ông nên tinh tấn, nhiếp tâm tu tập. Mình đã tu tập thì vì người khác mà giảng nói. Phải nhận cho ra nghĩa pháp thân, nghĩa Phật tánh, đó chính là đệ nhất nghĩa, cứ y như thế mà tu hành, mới thật là cao tột.
Ca-diếp Bồ-tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Có sự sai khác gì giữa xuất thế pháp cùng thế pháp? Như lời Phật dạy: Phật là pháp thường trụ, là pháp không biến đổi. Người đời cũng nói Phạm thiên là thường, Tự Tại thiên là thường, không biến đổi, họ cũng nói Ngã là thường, Tánh là thường, Vi trần cũng thường.
Nếu nói Như Lai là pháp thường trụ, cớ sao Như Lai chẳng thường hiện nơi đời? Nếu không thường hiện nơi đời thời có khác gì nghĩa thường của thế gian? Vì Phạm thiên nhẫn đến vi trần cũng chẳng hiện.”
Đến đây Bồ-tát Ca-diếp nhờ Phật giản trạch thế nào là thế pháp, thế nào là Phật pháp? Vì trong thế pháp họ cũng nói thường lạc ngã tịnh, trong Phật pháp cũng nói thường lạc ngã tịnh. Hai bên danh từ đồng nhau thì làm sao giản trạch được đâu là Phật pháp, đâu là thế pháp? Trong thế gian, thường lạc ngã tịnh là chỉ cho Phạm thiên, là chỉ cho Tự Tại thiên, là Ngã... còn ở đây thường lạc ngã tịnh là chỉ cho đại Niết-bàn.
Phật bảo Ca-diếp Bồ-tát: “Ví như nhà Trưởng giả kia có nuôi nhiều bò, màu lông khác nhau, đồng chung một bầy. Trưởng giả giao bầy bò cho người chăn thả đi ăn cỏ uống nước, chỉ vì vị đề hồ chứ chẳng cầu sữa bơ. Người chăn ấy vắt sữa rồi tự uống. Trưởng giả chết, bao nhiêu bò đều bị bọn cướp đoạt cả. Bọn cướp tự vắt sữa ra uống, rồi bàn với nhau rằng ông Trưởng giả nuôi bầy bò này chỉ muốn đặng vị đề hồ chứ không cầu sữa bơ. Chúng ta làm cách gì để đặng đề hồ. Đề hồ là phẩm vật quý nhất trong đời. Chúng ta không có gì đựng, dầu vắt được sữa cũng không chỗ chứa. Chúng lại bàn đựng sữa trong túi da. Dầu có đồ đựng nhưng vì không biết cách làm, nên bơ còn không được thành, huống là đề hồ. Vì muốn được đề hồ, bọn cướp đổ thêm nước vào túi sữa, vì quá nhiều nước nên chẳng những không được đề hồ, bơ, mà cả sữa cũng mất.
Một trưởng giả nuôi một bầy bò, màu lông khác nhau. Ông cho chúng ăn uống đúng lúc, lấy sữa nấu thành chất đề hồ. Bầy bò đó màu lông khác nhưng nó ở chung một bầy và sữa chúng có thể nấu thành một chất đề hồ. Dụ cho tất cả chúng sanh tuy hạnh nghiệp có khác nhưng Phật tánh thì không khác, như chất sữa kia hòa lại nấu thành một chất đề hồ.
Khi trưởng giả chết, bầy bò bị bọn cướp đoạt. Bọn cướp không rành cách nuôi, cách lấy sữa làm đề hồ, đựng sữa trong những túi dơ rồi lại thêm nước, vì vậy không có đề hồ, mất cả sữa, mất cả bơ. Đây cũng vậy, ngoại đạo cũng nói thường lạc ngã tịnh, nhưng không phải là thật được đại Niết-bàn, còn thường lạc ngã tịnh của Phật là thường lạc ngã tịnh của đại Niết-bàn.
Phàm phu cũng vậy, dầu có pháp lành nhưng đều là pháp thừa của Như Lai. Sau khi Thế Tôn nhập Niết-bàn, họ trộm pháp lành thừa của Như Lai hoặc giới, định hoặc huệ. Như bọn cướp đoạt bầy bò. Hạng phàm phu dầu lại đặng giới, định, trí huệ, nhưng không có phương tiện nên chẳng giải thuyết được. Vì nghĩa này nên họ không thể đặng thường giới, thường định, thường huệ giải thoát. Như bọn cướp kia chẳng biết phương tiện không được đề hồ, rồi vì đề hồ mà đổ nước vào sữa. Cũng vậy, hạng phàm phu vì giải thoát mà nói Ngã hoặc Phạm thiên, Tự Tại thiên, nhẫn đến Phi tưởng phi phi tưởng thiên chính là Niết-bàn, kỳ thật họ chẳng được giải thoát Niết-bàn. Như bọn cướp kia không được đề hồ.
Hạng phàm phu ấy có chút ít Phạm hạnh, cúng dường cha mẹ, nhờ đây được sanh lên trời hưởng một ít an lạc, như bọn cướp kia được sữa pha với nước. Mà hạng phàm phu ấy thật chẳng biết là do tu ít Phạm hạnh, cúng dường cha mẹ đặng sanh lên cõi trời, họ lại chẳng biết được giới, định, trí huệ, quy y Tam bảo, rồi do chẳng biết mà nói thường lạc ngã tịnh. Dầu lại nói thường lạc ngã tịnh, mà thật ra thời họ chẳng biết. Vì thế nên sau khi ra đời, Như Lai vì chúng sanh mà diễn nói thường lạc ngã tịnh.
Sau khi Phật nhập Niết-bàn có hạng phàm phu trộm pháp Phật, bắt chước câu nói của Phật. Họ nói giới, nói định, nói tuệ... nhưng phương pháp giải thích của họ không khéo léo. Hạng phàm phu đó hoặc là có chút ít hạnh tốt hạnh lành, cúng dường cha mẹ rồi được sanh về cõi trời hưởng phước, cho là được Niết-bàn, nhưng thật ra họ chưa thật được giải thoát, chưa thật được Niết-bàn. Họ còn không được giới định tuệ, không được quy y Tam bảo nữa, huống gì là được tứ đức thường lạc ngã tịnh của Niết-bàn.
Như vua Chuyển luân ra đời, do sức phước đức của vua nên bọn cướp tan vỡ, bầy bò vẫn còn nguyên vẹn. Nhà vua bèn giao bầy bò cho người chăn rành nghề, do đó mà được đề hồ, và nhờ đề hồ mà nhân dân khỏi bệnh khổ.
Lúc đấng Pháp vương ra đời, hạng phàm phu không thể diễn thuyết giới, định, trí huệ kia liền tan rã như bọn cướp. Bấy giờ Như Lai khéo giảng thế pháp và xuất thế pháp. Vì chúng sanh mà khiến các vị Bồ-tát theo đó để diễn thuyết. Chư đại Bồ-tát đã được đề hồ, lại làm cho vô số chúng sanh được pháp vị cam lộ vô thượng, tức là thường lạc ngã tịnh của Như Lai.
Phật nói tiếp, có vua Chuyển luân ra đời, do sức phước đức dẹp được bọn cướp, đem bầy bò trở lại nuôi đúng cách, lấy được chất đề hồ trị được các chứng bệnh khiến mọi người bớt khổ. Cũng vậy khi Phật ra đời, giới định tuệ của tất cả hạng phàm phu đều tan rã, như bọn cướp bị vua đuổi đánh vậy. Bấy giờ đức Như Lai khéo giảng thế pháp và xuất thế pháp, vì chúng sanh mà khiến cho hàng Bồ-tát theo đó để diễn thuyết. Chư đại Bồ-tát đã được đề hồ làm cho vô số chúng sanh được pháp vị cam lộ vô thượng, tức là thường lạc ngã tịnh của Như Lai.
Bà-la-môn chấp rằng Phạm thiên là thường lạc ngã tịnh, nhưng vị Phạm thiên đó họ chỉ tưởng tượng ra, không phải thật chứng thật thấy, chỉ có danh từ mà thôi. Còn Phật nói thường lạc ngã tịnh là do ngài chứng thật được đại Bát-niết-bàn. Như chúng ta có tu chút ít, nhận ra được nơi mình có cái sanh diệt mà cũng có cái bất sanh bất diệt. Khi nhận ra được cái bất sanh bất diệt nơi mình, đó là nhân Phật tánh, kết quả viên mãn thì được nghĩa thường lạc ngã tịnh. Đó là thật, không phải do tưởng tượng. Vì vậy, pháp Phật nói là thật nghĩa, do Phật chứng đạt, không phải muốn mình tin mà thôi.
Này Ca-diếp! Vì những nghĩa ấy nên Như Lai là thường, là pháp không biến đổi. Chẳng đồng hạng người ngu trong đời gọi Phạm thiên v.v... là pháp thường còn. Gọi là pháp thường trụ thời phải là Như Lai, chứ chẳng phải pháp nào khác. Ông phải hiểu biết thân Như Lai là như vậy.
Này Ca-diếp! Mọi người nên thường chuyên lòng tu hai chữ này: Phật là “thường trụ”. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân nào tu hai chữ này, nên biết người ấy đi theo đường Phật đi, đến chỗ Phật đến.
Này Ca-diếp! Nếu người tu tập hai chữ này làm tướng tịch diệt, nên biết Như Lai thời là nhập Niết-bàn đối với người ấy.
Này Ca-diếp! Nghĩa Niết-bàn chính là pháp tánh của chư Phật.”
Phật nói thêm, vì nghĩa ấy nên Như Lai là thường, là pháp không biến đổi, chẳng đồng hạng người ngu trong đời gọi Phạm thiên... là pháp thường còn. Tại sao Phật nói họ ngu? Bởi họ tưởng tượng đặt ra mà không thấy, không chứng nghiệm được.
Gọi pháp thường trụ phải là Như Lai chứ chẳng phải pháp nào khác, ông phải hiểu biết thân Như Lai là như vậy. Phật cho rằng pháp thường trụ chỉ có Phật, ngoài ra nơi khác không có, tưởng đâu ngài chủ quan, nhưng đó là sự thật. Bởi pháp thường trụ phải là pháp chứng được, còn pháp tưởng tượng thì không bao giờ thật. Phật nói mọi người nên thường chuyên lòng tu hai chữ này, Phật là thường trụ. Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhân tu hai chữ này, nên biết người ấy đi đường Phật đi, đến chỗ Phật đến. Biết Phật là thường trụ tức là biết được Phật tánh bất sanh bất diệt. Các vị thiền sư nói mười phương chư Phật thường ở trước mặt mình, đó là các ngài đã thấy Phật thường trụ. Các ngài nói dường như chẳng đúng với kinh điển, mà các ngài đi đường Phật đã đi. Còn chúng ta thấy Phật ở xa quá, ở Niết-bàn hoặc ở đâu đó. Cứ tưởng tượng như vậy, nên mình đi không phải đường của Phật đã đi.
Người nào cho hai chữ thường trụ là tướng tịch diệt thì Như Lai nhập Niết-bàn đối với người ấy. Tu được nghĩa Niết-bàn tức là thấy được pháp tánh của chư Phật, cũng chính là pháp tánh của chúng ta.
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Pháp tánh của chư Phật nghĩa thế nào? Nay con muốn biết nghĩa của pháp tánh. Cúi mong đức Như Lai xót thương giải rộng cho.
Vả pháp tánh tức là xả thân, xả thân gọi là vô sở hữu, nếu vô sở hữu thời thân làm sao còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh? Thân có pháp tánh sao thân lại còn?
Nay con phải hiểu như thế nào về nghĩa ấy?”
Bồ-tát Ca-diếp hỏi Phật, nghĩa Niết-bàn là pháp tánh của chư Phật, con không biết pháp tánh của chư Phật là thế nào? Vả pháp tánh tức là xả thân, xả thân gọi là vô sở hữu, bỏ thân này tức là không còn gì hết, nếu không có gì hết thì thân làm sao còn. Thân nếu còn tại sao lại nói thân có pháp tánh? Thân có pháp tánh sao thân lại còn? Pháp tánh nghĩa là không thân, còn có thân nghĩa là không có pháp tánh. Tại sao lại nói thân có mà pháp tánh lại có? Hai cái không thể có đồng thời.
Phật dạy: “Này Ca-diếp! Nay ông chẳng nên nói diệt là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt.
Ví như Vô tưởng thiên thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng. Chẳng nên hỏi rằng các ông trời ấy sung sướng hưởng vui thế nào? Nghĩ tưởng những gì? Thấy nghe thế nào?
Phật giải thích và dạy, chẳng nên nói diệt là pháp tánh, tức không nên nói chỗ không có gì hết là pháp tánh. Pháp tánh không có diệt vì pháp tánh không phải là hết. Như Vô tưởng thiên, tức là những vị trời ở cõi Vô tưởng, thành tựu sắc ấm mà không có sắc tưởng. Chẳng nên hỏi rằng các ông trời ấy sung sướng hưởng vui thế nào? Không tưởng thì làm sao có hưởng vui sung sướng. Không tưởng mà hỏi nghĩ tưởng gì thấy nghe gì là sai lầm.
Này Ca-diếp! Cảnh giới của Như Lai chẳng phải là chỗ biết của Thanh văn Duyên giác. Chẳng nên nói rằng thân của Như Lai là pháp diệt.
Này Ca-diếp! Pháp diệt như thế là cảnh giới của Phật, chẳng phải hàng Thanh văn Duyên giác biết được.
Nay ông không nên nghĩ lường Như Lai ở chỗ nào, đi chỗ nào, thấy chỗ nào, vui chỗ nào? Những nghĩa ấy, cũng chẳng phải các ông biết được. Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Nếu chúng ta thấy Phật đi đâu, thấy chỗ nào, vui chỗ nào là nghĩ lường sai lạc. Vì sao? Vì nếu nói Phật ở chỗ nào thì như vậy pháp thân không khắp mới có chỗ ở, hỏi đi chỗ nào thì pháp thân là có hình tướng, thấy chỗ nào nghĩa là pháp thân có tình thức, có tâm ý. Hiểu như vậy là không được. Những nghĩa ấy cũng chẳng phải các ông biết được. Pháp thân của Phật, các thứ phương tiện chẳng thể nghĩ bàn.
Này Ca-diếp! Nên phải tu tập Phật, Pháp và Tăng mà quán tưởng là thường. Ba pháp ấy không có dị tưởng. Không vô thường tưởng, không biến dị tưởng. Nếu ở nơi ba pháp tu dị tưởng, phải biết rằng tam quy thanh tịnh của những người này thời không chỗ y nương, cấm giới của họ đều chẳng đầy đủ. Trọn chẳng chứng được quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-đề. Nếu có thể ở nơi bất khả tư nghị này tu thường tưởng thời có chỗ quy y.
Nên phải tu tập Phật, Pháp và Tăng mà quán tưởng là thường. Đây là chỗ chúng ta nên chịu khó nhận xét.
Ba pháp ấy không nghĩ tưởng riêng khác, cách biệt. Ba là một, một là ba. Đó là đồng thể Tam bảo. Bởi ba pháp ấy là thường nên đừng tưởng vô thường, đừng tưởng biến dị. Nếu ba pháp này mà thấy dị tưởng, nghĩa là thấy Phật riêng Pháp riêng Tăng riêng, thì việc quy y này không thanh tịnh, hay không có chỗ nương. Tại sao? Vì cho Phật Pháp Tăng là khác nghĩa là có hình tướng riêng biệt, tức bị vô thường. Phật tịch rồi mình nương vào đâu, kinh sách hết thì nương vào đâu, tăng tịch rồi nương vào đâu? Nên mới nói tam quy không chỗ nương, cấm giới của mình không tròn đủ.
Các vị thiền sư giảng về đồng thể Tam bảo: Tâm giác là Phật, tâm thanh tịnh là Pháp, Phật pháp không hai là Tăng, là nghĩa hòa hợp. Từ thể giác ngộ là Phật, thể giác ngộ thanh tịnh là Pháp, giác và tịnh không hai gọi đó là Tăng, như vậy không rời tâm mà có. Tam bảo đó mới vĩnh cửu trường tồn ở mọi nơi mọi chốn. Chúng ta phải thấy Tam bảo ở tự tâm mình có đủ. Ngài Hoàng Bá trong Truyền Tâm Pháp Yếu giảng: Nếu ngoài tâm có Tam bảo thì Tam bảo đó không phải là chỗ nương cậy. Nhà thiền chỉ hướng về Tam bảo đồng thể, chỉ thẳng vào tự tâm. Bởi tự tâm chúng ta có Tam bảo như vậy, nhận ra được thì lúc nào cũng an ổn, lúc nào cũng có chỗ tựa nương. Đó mới thật là quy y. Mình y nơi tự tánh Tam bảo mà khởi tu, gìn giữ giới thì giới luật đó mới tròn đầy. Y theo lời dạy về tướng mà giữ là tướng giới. Nếu mình y theo tự tánh khởi tu là tánh giới, mà tánh giới mới viên mãn.
Trọn chẳng chứng được quả Thanh văn, Duyên giác, Bồ-đề. Nếu có thể ở nơi bất khả tư nghị này tu thường tưởng thời có chỗ quy y. Bởi vì Tam bảo này không bao giờ mất nên mình có chỗ quy y.
Này Ca-diếp! Ví như nhân nơi cây thời có bóng cây. Cũng vậy, vì Như Lai có pháp thường trụ thời có chỗ quy y, chứ chẳng phải là vô thường. Nếu cho rằng Như Lai là vô thường thời Như Lai không phải là chỗ quy y của người và của trời.”
Chúng ta thấy cây thì sẽ có bóng cây. Cũng vậy mình thấy hóa thân của Phật, rồi hóa thân thuyết pháp, dạy chúng sanh tu hành, ví dụ cũng như cây. Bóng cây chỉ cho pháp thân của chư Phật, hóa thân có thì biết có pháp thân.
Nếu cho rằng Như Lai là vô thường, thời Như Lai không phải là chỗ quy y của người và của trời. Nếu Như Lai là vô thường thì chỉ một thời gian ngắn đã tịch rồi, đâu còn chỗ quy y, lấy đâu làm chỗ nương tựa cho chúng sanh. Nên phải thấy Như Lai là thường còn, là pháp thân chúng ta cũng sẵn có, không chỉ đức Phật mới có. Vì thế chúng ta trở về với pháp thân của mình đó là quy y Phật chân chánh đời đời kiếp kiếp.
Ca-diếp Bồ-tát bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Ví như trong tối có cây mà không có bóng.”
Phật nói: “Này Ca-diếp! Ông không nên nói có cây mà không có bóng, chỉ vì nhục nhãn không thấy đó thôi. Cũng vậy, tánh Như Lai là thường trụ, là không biến đổi. Người không có con mắt trí huệ thời không thấy được. Như trong tối không thấy bóng cây. Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, hạng phàm phu nói Như Lai là vô thường.
Nếu cho rằng Phật khác với Pháp và Tăng thời chẳng thành chỗ của ba pháp quy y. Như cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thường.”
Bồ-tát Ca-diếp vấn nạn lại Phật, cây trong tối làm gì có bóng? Phật nói, ông không nên nói là có cây mà không có bóng, chỉ vì nhục nhãn không thấy đó thôi. Tại mắt chúng ta thô quá nên không thấy chứ không phải không có. Cũng vậy, tánh Như Lai là thường trụ không biến đổi. Tánh Như Lai ở đây chỉ pháp thân. Người không có con mắt trí tuệ không thấy được, như trong tối không thấy bóng cây. Bóng cây là dụ cho pháp thân, mà cây là chỉ cho thân ngũ uẩn hiện tại. Thấy thân ngũ uẩn hiện tại thì biết có pháp thân. Tại vì chúng ta mù mịt mê muội, chưa có trí tuệ cho nên chưa thấy, không phải là không có.
Cũng vậy, sau khi Phật nhập diệt, hạng phàm phu nói Như Lai là vô thường. Phàm phu thấy Phật nhập diệt liền nói, tu hành thành Phật rồi cũng chết. Nhưng với Phật Bồ-tát chỉ thấy đó là một hóa thân đổi thay, còn pháp thân thì bất diệt. Nói trường thọ là chỉ thẳng pháp thân bất diệt.
Nếu cho rằng Phật khác với Pháp và Tăng thời chẳng thành chỗ của ba pháp quy y. Như cha mẹ của ông mỗi mỗi sai khác, nên thành vô thường. Nếu thấy Phật, Pháp, Tăng có sai biệt thì Phật Pháp Tăng có hình tướng, tức là phải bị vô thường, thì không phải là chỗ nương tựa vĩnh cửu. Cũng như nói cha mẹ là khác, sanh ra con khác thì cha mẹ đó là vô thường. Bởi cha mẹ vô thường cho nên không phải là chỗ nương tựa vĩnh cửu.
Ca-diếp Bồ-tát lại bạch Phật: “Bạch Thế Tôn! Bắt đầu từ nay, con sẽ đem ba pháp thường trụ Phật, Pháp và Tăng để khai ngộ cho cha mẹ, nhẫn đến cha mẹ trong bảy đời đều khiến phụng trì.
Nghe nói vậy Bồ-tát Ca-diếp tin được pháp Tam bảo thường trụ, Tam bảo bất nhị. Cho nên ngài sẽ tự phụng trì và khuyên cha mẹ trong bảy đời cũng nên phụng trì.
Bạch Thế Tôn! Nay con phải học Phật, Pháp, Tăng bất khả tư nghì. Tự mình học rồi lại sẽ vì người mà giảng giải những nghĩa ấy. Nếu người nào không tin không nhận, thời người đó là kẻ tu pháp vô thường đã lâu. Con sẽ làm sương móc, làm mưa giá cho hạng người này.”
Tức là ngài sẽ làm trợ duyên cho người này được tỉnh được ngộ. Các thiền sư đều nhắm vào Tam bảo đồng thể này, cho nên nếu hiểu Thiền tông rồi thì hiểu Đại thừa không khó. Bởi vì Thiền tông là nhận ra pháp thân, lấy pháp thân làm chỗ cứu cánh của Phật. Pháp thân là thể thanh tịnh không hai không khác, hòa hợp là Tăng. Tam bảo là chỉ ngay tự thể chúng ta sẵn có. Tin hiểu được như vậy mới thấy Phật pháp trường cửu không bao giờ mất. Có người là có Phật pháp, có chúng sanh là có Phật pháp. Dù không còn kinh điển, chùa chiền, tượng Phật mà Phật pháp vẫn còn, cái đó mới là chỗ quy y cứu cánh không bao giờ mất. Nếu chúng ta chỉ thấy Phật ngồi trên bàn thờ, Pháp là những kinh điển có chữ nghĩa, Tăng là quý thầy giữ giới, thì như vậy sẽ ra sao? Ngày nào người ta không cho thờ Phật thì lúc đó hết Phật, ngày nào kinh điển bị thiêu hủy hết thì lúc đó hết Pháp, ngày nào không còn thầy tu nữa thì hết Tăng, như vậy Phật Pháp Tăng có khi còn, có khi hết. Chúng ta hiểu ngay nơi pháp thân thường trụ đầy đủ ba đức Phật Pháp Tăng thì pháp thân không bao giờ mất. Đó mới thật là chỗ vĩnh cửu để chúng ta nương tựa.
Phật khen Ca-diếp Bồ-tát: “Lành thay! Lành thay! Nay ông khéo có thể hộ trì chánh pháp. Hộ pháp như vậy thời là không khinh khi người. Do nơi nghiệp nhân không khinh khi người mà được quả báo trường thọ, biết rành những đời đã qua.”
Hộ pháp như vậy thời là không khinh khi người. Người nhận hiểu như vậy mới thật là hộ trì chánh pháp, là không khinh khi người. Tại sao? Nếu cho là Phật ở trong chùa, chư tăng là người tu, thì ai không biết Phật không biết pháp, chúng ta khi người đó không biết đạo lý. Còn mình hộ pháp vì biết pháp thân chư Phật và pháp thân của chúng sanh là chỗ cứu cánh, chúng ta chỉ cho mọi người biết được Phật tánh sẵn có, ai cũng có thì ai dám khi ai. Do nơi nghiệp nhân không khinh khi người mà được quả báo trường thọ, biết rành những đời đã qua. Sự thật nếu chúng ta biết được pháp thân thường trụ ai cũng có, thì đâu có ai chết yểu, ai cũng trường thọ. Giả sử thân này chết xem như cởi áo trở về pháp thân, chứ không mất đi đâu, cho nên được trường thọ, được bằng tuổi Phật A-di-đà. Như vậy khi nhận được pháp thân nơi mình thì tuổi thọ không còn ngằn mé, là vô lượng thọ, tuổi thọ của Phật A-di-đà. Phật A-di-đà là ai? Là pháp thân. Cho nên Phật tức là tâm, mà tâm tức là Phật.
Các bài mới
- Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 3: Phẩm Ai Thán - 09/04/2024
- Bồ tát Quán Thế Âm và Pháp Tu Nhĩ Căn Viên Thông - 28/03/2024
- Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 2: Phẩm Thuần Đà - 22/03/2024
- Kinh Đại Bát-Niết-Bàn Trích Giảng - Phần 1: Đại Cương Kinh Đại Bát-Niết-Bàn - 21/03/2024
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - PHẦN LƯU THÔNG VÀ TÓM KẾT - 22/08/2022
Các bài đã đăng
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN (tt2) - 06/07/2022
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN (tt1) - 21/03/2022
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN (tt) - 03/01/2022
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - CHƯƠNG V: NGHIỆP QUẢ - CÁC CẢNH GIỚI - CHƯỚNG NẠN - 20/12/2021
- Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - Chương IV: Các địa vị tu chứng - 05/11/2021
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 05365
- Online: 28