Kinh Lăng Nghiêm giảng giải - Chương II: Tu đạo (tt)

26/05/2021 | Lượt xem: 1889

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng giải

II. SÁU CĂN LÀ ĐẦU GÚT SANH TỬ VÀ BỒ-ĐỀ

A-nan bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, Như Lai tuy nói nghĩa quyết định thứ hai, nay xem trong thế gian, người mở gút nếu không biết chỗ đầu gút kia thì con tin rằng người ấy cuối cùng không thể mở được. Bạch Thế Tôn, con và hàng Thanh văn hữu học trong hội cũng lại như thế, từ vô thủy đến nay cũng với các vô minh đồng sanh đồng diệt. Tuy được căn lành nghe hiểu Phật pháp như thế, gọi là hàng xuất gia, mà giống như người bị bệnh sốt rét cách ngày.


Như người mở gút trước hết phải biết đầu gút ở chỗ nào, nếu không biết thì không tài nào mở được. Ngài A-nan thưa rất thành thật: tuy học nhiều, được xuất gia chứng Tu-đà-hoàn, nhưng vẫn giống như bệnh sốt rét cách ngày, một ngày nóng lạnh một ngày mạnh. Dù đã ngộ đạo vẫn còn bị cái mê lấn áp, nên một giờ tỉnh một giờ mê, chứ chưa hoàn toàn tỉnh hẳn.

Nửa tỉnh nửa mê là Tu-đà-hoàn, dần dần tỉnh nhiều mê ít tiến lên A-la-hán hay Bồ-tát, đến khi tỉnh gần trăm phần là Đẳng giác, hoàn toàn hết sạch mê là Diệu giác tức thành Phật. Ngài A-nan chứng Tu-đà-hoàn còn than như người bị bệnh rét cách nhật, còn chúng ta có lẽ mười ngày sốt rét một ngày mạnh, vậy mà trong khi tu hành được chút ít cứ tưởng mình là thánh rồi. Cho nên khi tu chúng ta cố gắng tỉnh, tuy tỉnh rồi lại mê nhưng dù sao vẫn hơn mê luôn.

Tổ sư thường nói "niệm khởi tức giác". Niệm khởi là mê, giác đó là tỉnh. Như vậy một ngày trăm lần mê là chúng sanh, thì có trăm lần tỉnh là trăm ông Phật. Chúng sanh và Phật đồng nhau, lần lần chúng sanh ngày một bớt chỉ còn Phật. Đó là sự tu của chúng ta có tiến bộ tốt.

Cúi mong đấng Đại từ thương xót kẻ chìm đắm! Ngày nay chỉ ra nơi thân tâm con thế nào là gút? Từ chỗ nào mở ra? Cũng khiến cho những chúng sanh khổ nạn ở đời vị lai được khỏi luân hồi, không rơi vào ba cõi.

Thưa lời ấy rồi, khắp cả đại chúng năm vóc gieo xuống đất, nước mắt rơi như mưa, thành kính chờ mong đức Như Lai chỉ bày pháp môn vô thượng.

Ngài A-nan không còn nghi về lẽ sanh diệt nữa, lại nghi nơi thân tâm thế nào là gút và làm sao biết chỗ để mở gút đó. Thưa hỏi rồi tự tủi thân buồn khóc, đây là ngộ rồi cũng khóc.

Khi ấy đức Thế Tôn thương xót A-nan và hàng hữu học hội chúng, cũng vì tất cả chúng sanh đời vị lai muốn tu nhân xuất thế, làm con mắt cho đời sau, Phật duỗi cánh tay sáng chói như vàng Diêm-phù-đàn xoa đảnh A-nan. Liền khi ấy khắp cả thế giới chư Phật trong mười phương, sáu thứ chấn động. Các đức Như Lai số như vi trần, ở thế giới đó, mỗi vị có hào quang báu từ nơi đảnh phát ra. Hào quang ấy từ thế giới kia đồng thời phóng đến rừng Kỳ-đà, chiếu trên đảnh đức Như Lai. Các đại chúng đây được điều chưa từng có.

Khi ấy A-nan và các đại chúng đều nghe chư Phật mười phương như số vi trần, tuy khác miệng nhưng đồng lời bảo A-nan rằng:

- Lành thay, A-nan! Ông muốn biết rõ câu sanh vô minh, cái gốc cột trói khiến ông luân chuyển sanh tử, chỉ là sáu căn của ông chứ không phải vật gì khác. Ông lại muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ông chóng chứng an lạc giải thoát, tịch tịnh diệu thường cũng là sáu căn của ông, lại không vật gì khác.

Tại sao đức Phật xoa đầu ngài A-nan thì sáu thứ chấn động, chư Phật mười phương đồng soi ánh sáng lên đảnh đức Phật là ý nghĩa gì?

Hào quang tượng trưng cho trí tuệ. Trí tuệ của đức Phật Thích-ca và trí tuệ của chư Phật mười phương đồng nhau, nên đến chỗ chỉ thẳng điều này, không phải riêng đức Phật Thích-ca mà chư Phật mười phương nhiều như số vi trần đồng thấy như vậy, đồng nói như vậy. Lời nói này của đức Phật là chân lý tuyệt đối. Chân lý đó có giá trị ngàn đời chứ không riêng một đời, của khắp tất cả cõi Phật chứ không riêng một cõi nào. Thế nên chấn động cả tam thiên đại thiên thế giới, cùng khắp cõi nước chư Phật mười phương cũng đều chấn động.

Cội gốc luân hồi là từ sáu căn, mà cội gốc Bồ-đề cũng từ sáu căn. Các kinh A-hàm nói điều này: Từ sáu căn sanh cảm xúc, do cảm xúc mà nhiễm vị. Nếu lìa cấu nhiễm thì được giải thoát Niết-bàn. Như vậy lời chư Phật dạy không hai, từ thấp lên cao đều chỉ rõ gốc từ sáu căn. Nếu sáu căn chạy giong ruổi theo trần cảnh bên ngoài thì đó là gốc phiền não, trầm luân muôn kiếp. Cũng với sáu căn, nếu không bị kẹt vào tiền trần, xoay trở về bản tánh viên trạm thì đó là gốc Bồ-đề tịch tĩnh, giải thoát Niết-bàn.

Lâu nay chúng ta tu thường chỉ lo tụng niệm hoặc trông mong về cõi Phật xa xôi nào, mà không biết gốc Bồ-đề ở đâu, gốc phiền não ở đâu. Bây giờ đã thấy rõ, ngay nơi gốc phiền não là gốc Bồ-đề, không đâu xa xôi. Đoạn này rất thâm trầm, chỉ ra rõ ràng để cho chúng ta biết cội gốc của sự tu.

Trong phần Quyết Nghi ở trước Phật dạy, cội gốc sanh tử là do mê bỏ quên chân tánh chạy theo vọng trần, còn cội gốc Bồ-đề là do bỏ vọng trở về chân. Đến đoạn này Phật lại dạy, cội gốc sanh tử là sáu căn mà cội gốc Bồ-đề Niết-bàn cũng là sáu căn. Có mâu thuẫn không?

Phần trước đức Phật chỉ gốc mê từ vô thủy, do quên chân mà khởi vọng, là căn bản vô minh. Phần này thuộc câu sanh vô minh, tức vô minh có mặt cùng lúc với con người khi mới sanh ra, và nhuận sanh vô minh, nghĩa là thấm ướt hạt giống của quá khứ khiến tiếp tục sanh ra hiện hành. Như vậy sáu căn là cội gốc phiền não sanh tử đang tiếp tục trong hiện đời, còn cái gốc mê mờ chân tánh tức vô minh từ vô thủy là thuộc về quá khứ. Hiện nay chúng ta tu không thể đoạn ngay căn bản vô minh từ vô thủy, mà chỉ có thể dứt trừ từ câu sanh vô minh. Khi sáu căn tiếp xúc sáu trần không chạy theo vọng tưởng phân biệt, đó là trở về thể tánh tinh minh bất sanh bất diệt.

Thiền sư thường dùng hình ảnh uống trà để chỉ dạy điều này. "Uống trà khen ngon chê dở là phàm phu, còn uống trà mà không biết trà thì như cây đá." Phải uống thế nào? Chỉ là uống trà. Đó là chỗ tế nhị, vừa có dấy niệm phân biệt là sai rồi. Tai nghe tiếng cũng vậy, nếu nghe tiếng mà không biết gì thì như trâu đá, người gỗ; còn nghe mà phân biệt tiếng khen chê tức là phàm phu. Con mắt thấy sắc, khởi phân biệt đẹp xấu là chạy theo trần, nhưng nhắm mắt lại cho khỏi thấy cũng chẳng đúng. Không phải nghe nói sáu căn là lục tặc rồi chúng ta đóng các căn lại gọi đó là tu, mà chính ngay khi sáu căn tiếp xúc sáu trần khéo biết thì luôn luôn ở trong Bồ-đề Niết-bàn.

Chúng sanh đau khổ vì đi theo chiều của nghiệp, chạy theo các phân biệt đẹp xấu, ngon dở v.v... rồi khởi yêu ghét, phải quấy, hơn thua, bị quay cuồng theo nghiệp. Ngay nơi sáu căn nếu chúng ta chuyển được nghiệp, khi thấy nghe... dừng ngang chỗ không đẹp không xấu, không hay không dở... đó là chuyển lục tặc thành lục thông, tâm liền được tịch tĩnh thanh tịnh, là Niết-bàn hiện tại. Đây là cái vui tự tại trong bình thản lặng lẽ, là cái vui vô sanh chân thật giải thoát.

A-nan tuy nghe pháp âm như thế mà tâm vẫn chưa sáng, cúi đầu bạch Phật:

- Tại sao khiến con luân hồi sanh tử hay an lạc diệu thường đều là sáu căn, không phải vật gì khác?

Phật bảo A-nan:

- Căn và trần đồng một nguồn, trói buộc hay cởi mở không hai. Thức tánh hư dối giống như hoa đốm ở hư không.

Trong ba thứ căn trần thức thì thức là gốc cột trói. Nhưng thức vốn không thật, chỉ do chúng ta chạy theo nó nên thấy bị cột trói. Ngài Đạo Tín lúc ấy là một chú sa-di mười bốn tuổi, đến lễ Tam tổ Tăng Xán, thưa: Xin Hòa thượng từ bi ban cho con pháp môn giải thoát. Tổ hỏi: Ai trói buộc ngươi? Ngài thưa: Không ai trói buộc. Tổ bảo: Đã không trói buộc, đâu cần cầu giải thoát. Ngay đó ngài Đạo Tín liền đại ngộ.

Câu chuyện nghe lạ lùng tưởng như có thuật gì kỳ đặc, nhưng sự thật đó là chỉ thẳng. Sáu căn nếu cứ giong ruổi theo sáu trần là trói buộc, trầm luân. Cũng ngay nơi sáu căn nếu thức tỉnh biết không có gì trói buộc mình thì liền giải thoát. Giải thoát và sanh tử không hai nguồn. Cho nên ngài Đạo Tín một phen sửng sốt tìm lại, thấy không có ai trói buộc thì ngay đó được giải thoát. Chư Tổ tùy căn cơ, lời các ngài như nhát búa đập cho tan nát chỗ lầm chấp, chứ không như Phật vỗ vê khuyên lơn an ủi.

Này A-nan, do trần mà phát ra cái biết, nhân căn mà có tướng. Tướng và kiến (cái thấy) không có tánh, giống như bó lau. Thế nên nay ông thấy biết mà lập thấy biết là gốc vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Tại sao trong ấy lại còn có vật nào khác!

Lẽ ra do trần có tướng, nhân căn phát ra cái biết. Nhưng sao Phật nói ngược lại, do trần mà phát ra cái biết, nhân căn mà có tướng? Chúng ta biết là biết ngoại cảnh, mắt nhìn thấy vật, tai nghe tiếng v.v... Như vậy thấy vật nghe tiếng là do trần mà phát ra cái biết. Tướng bên ngoài phản ảnh vào căn nên mới nhận ra tướng ấy, biết được tướng ấy. Đó là nhân căn mà có tướng.

Tướng là các trần, kiến là cái thấy, cả hai không có tánh nhất định, giống như lau sậy cột lại thành bó. Khi mở dây ra nó rã rời không có gì cố định. Nếu chia ra từng cây, có còn cái gọi là bó lau không? Không có bó lau thật, chỉ là do duyên hợp tạm có, tạm gọi. Cũng vậy, căn trần không thật, thức như hoa đốm trong không lại càng không thật.

Thấy biết mà lập thấy biết là gốc vô minh, thấy biết mà không lập thấy biết, đây tức là Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Nguyên văn chữ Hán là "Tri kiến lập tri, tức vô minh bản. Tri kiến vô kiến, tư tức Niết-bàn."

Tri kiến lập tri là thấy biết mà lập thấy biết. Nghĩa là từ thấy biết của sáu căn, thức liền theo đó để phân biệt lập thêm nhiều hiểu biết. Lập thấy biết là gốc vô minh, là cột trói. Còn thấy biết mà không khởi vọng thức phân biệt, đó là không lập thấy biết, tức là Bồ-đề Niết-bàn vô lậu chân thật thanh tịnh. Cũng ngay thấy biết đó mà một bên là vô minh, một bên là Niết-bàn.

Niết-bàn không ở đâu xa, chỉ thấy biết mà không lập thấy biết thì Niết-bàn ngay đó. Niết-bàn là trở về tánh không sanh diệt của mình, đang bị dính khắn ở mắt tai mũi lưỡi thân ý. Chúng ta không phải đi kiếm tìm cái gì xa vời, mà chính ngay nơi cuộc sống này, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần đừng cho vọng thức dẫn đi, sống với cái thanh tịnh sẵn có đó là trở về Niết-bàn, còn nếu chạy theo thức tình phân biệt là đi trong sanh tử. Hết sức đơn giản!

Như vậy trong sáu cái gút đó thì thức là đầu gút, mở được thức rồi thì căn và trần không có lõi thật. Tri kiến lập tri, tri đó chính là thức. Lập tri là gốc vô minh, không lập tri là Bồ-đề, Niết-bàn. Không lập tri là không khởi phân biệt, chứ không phải bỏ cái thấy biết. Vẫn thấy vẫn biết nhưng không thành vô minh mà thành Niết-bàn. Như vậy, làm sao trong đó có vật nào khác nữa. Không cần tìm cái gì thêm. Bồ-đề Niết-bàn luôn hiện hữu không lúc nào vắng, chỉ tại chúng ta đang mê, chạy theo các trần nên quên nó thôi. Niết-bàn ở ngay đây, khi sáu căn không dính với sáu trần; còn sáu căn dính với sáu trần đó là phiền não.

Khi ấy đức Thế Tôn muốn lặp lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Chân tánh hữu vi không,

Duyên sanh nên như huyễn.

Vô vi không khởi diệt,

Chẳng thật, như không hoa.

Đứng về mặt chân tánh thì các pháp hữu vi là không, duyên sanh nên có, tuy có mà như huyễn như hóa. Pháp vô vi là đối với các pháp hữu vi, mà hữu vi đã không thật thì vô vi cũng không thật. Pháp vô vi không có khởi diệt, chỉ có tên gọi. Vì vậy mà nó không thật, giống như hoa đốm ở hư không.

Điều này có trái với những gì lâu nay chúng ta học không? Thông thường nói pháp hữu vi là sanh diệt còn pháp vô vi là không sanh diệt. Cái gì sanh diệt là hư dối, cái gì không sanh diệt là chân thật. Pháp vô vi không sanh diệt lẽ ra nó chân thật, tại sao đây nói không chân thật như hoa đốm ở hư không? Như đoạn trên nói: "Sáu mất thì một cũng không còn". Ví dụ để sáu món đồ vuông tròn dài ngắn khác nhau chúng ta thấy hư không nơi sáu món đồ có tướng trạng khác nhau. Nếu dẹp hết sáu món đồ thì sáu phần hư không đó là một. Nhưng thật ra một cũng không có, vì có sáu nên mất sáu gọi là một. Hư không không phải sáu cũng không phải một, sáu và một chỉ là giả danh không có thật. Hư không trước sau vẫn nguyên vẹn không hề mất, chỉ mất ngôn ngữ lập sáu lập một mà thôi.

Ở đây cũng vậy, do đối với pháp hữu vi sanh diệt mà lập pháp vô vi, chứ thật ra vô vi cũng là giả danh không thật, như hoa đốm trong không. Như vậy pháp hữu vi pháp vô vi đều không thật, do đối đãi giả lập; còn chân tánh là thể trùm khắp, không đối đãi nên không thuộc vô vi hay hữu vi.

Nói vọng để bày chân, 

Vọng, chân đều là vọng.

Bởi có vọng nên mới nói chân, hiển bày chân, nhưng thật ra chân là do đối với vọng mà nói, vọng hết thì chân cũng không còn. Vì vậy cả vọng lẫn chân đều hư dối không thật.

Còn không chân, phi chân,

Sao có kiến, sở kiến?

Chân đối với vọng không thành, mà chân tự lập chân cũng không có thì làm sao còn có cái đối đãi đây là năng kiến, tức người hay thấy, và kia là sở kiến, tức đối tượng bị thấy. Cái hay thấy không thật thì cái bị thấy cũng không thật, ngược lại cái bị thấy không thật thì cái hay thấy cũng không thật.

Khoảng giữa không tánh thật

Thế nên như bó lau,

Lau sậy cột lại thành bó, nếu cắt dây ra thì các cây lau nghiêng ngả rã rời, không có cái gì thật ở bên trong. Như vậy bó lau chỉ là giả tướng tạm hợp, chứ nó không có tướng thật.

Cột mở đồng một nhân,

Thánh phàm không hai lối.

Cái gì gọi là sở nhân? Cột là từ một sợi dây hay từ cái khăn mà cột gút lại, muốn mở cái gút đó ra thì cũng y cứ trên đó mà mở chứ không phải hai. Nói cột hay mở là đứng trên phương diện cái gút, nếu trên sợi dây hay cái khăn thì cột mở cũng đồng một sở nhân. 

Sợi dây hay khăn là dụ cho sáu căn. Sáu căn nếu bị cột bị niêm dính khắn thì đi trong luân hồi sanh tử, gọi đó là gốc phiền não. Mở được sáu căn thì gọi là Bồ-đề, giải thoát. Như vậy cột hay mở đều y cứ trên sáu căn.

Do cột và mở đồng một sở nhân nên thánh phàm không hai đường, bởi nơi phàm có sáu căn, nơi thánh cũng có sáu căn. Nếu sáu căn bị cột thì gọi phàm, sáu căn được mở gọi là thánh, chẳng có đường nào riêng khác. Chúng sanh y sáu căn mà cột nên làm kẻ phàm ngu, chư thánh ngay sáu căn mà mở nên giải thoát. Vậy chúng ta muốn thành Phật hay làm chúng sanh? Nếu muốn làm chúng sanh thì cứ cột chặt rồi tha hồ mà đi trong sanh tử.

Ông xem tánh bó lau,

Không cả hai không có.

Tánh của bó lau là không thật. Cột lại thấy có bó lau trước mắt, nhưng nếu cắt bỏ dây ra, lau ngã rã ra từng cây thì tướng bó lau không còn. Vì vậy nói có nói không đều sai, chỉ là tướng duyên hợp hư dối, không có tánh cố định.

Thân chúng ta cũng vậy, thấy hiện có đây tưởng như thật, nhưng khi hơi thở bị cắt đứt thì thân liền tan rã. Chúng ta luôn nhìn sự vật với con mắt phàm phu mê muội, cái không thật mà tưởng là thật. Cho nên phải quán thật kỹ tánh chất của bó lau, chẳng thể nói là có cũng chẳng thể nói là không. Có và không cả hai đều chẳng phải.

Mê tối là vô minh

Phát sáng liền giải thoát.

Mê lầm thì gọi vô minh, nếu phát sáng liền là giải thoát. Giải thoát và vô minh kế cận nhau không xa. Như nơi sáu căn, nếu chấp cảnh thấy nghe là thật rồi chạy theo cảnh thì mê tối. Khi sáu căn duyên với cảnh liền biết cảnh bên ngoài không thật, xoay trở về tánh thấy nghe của chính mình, gọi là phát minh, dần dần được giải thoát.

Cột mở nhân thứ lớp,

Sáu mở, một cũng mất.

Mở gút phải theo thứ lớp, gút thứ nhất đến gút thứ hai, thứ ba... Sáu cái mở thì một cũng không còn. Sáu gút dụ cho sáu căn. Sáu căn mở được rồi, nếu thấy còn một chân tâm, Phật tánh, Bồ-đề, Niết-bàn thì đó là cái thấy giả dối không thật, gọi là còn chấp pháp. Vì vậy cần phải thấy thật rõ, nhận cho đúng.

Chọn lựa căn viên thông

Vào dòng thành Chánh giác.

Phật dạy trong sáu căn đó, lựa chọn một căn viên thông, đi thẳng vào dòng, tức là đi sâu trở về nguồn cội chân thật của nó thì liền thành Phật. Như chúng ta hiện nay đang tu về ý căn, biết vọng tưởng là giả thì cái biết vọng đó không phải giả. Buông hết tất cả vọng tưởng, sống với cái không giả đó tức là nhập lưu. Cái không giả khi đã thuần thục, tức không còn cái giả nào chen lẫn nữa là thành chánh giác.

Thức đà-na vi tế,

Tập khí như dòng thác,

Sợ lầm chân, phi chân,

Ta thường không diễn nói.

Duy thức học gọi thức thứ tám là a-lại-da, cũng có khi gọi là a-đà-na. A-đà-na Trung Hoa dịch là Chấp trì, tức nắm giữ. Gọi a-đà-na hay tàng thức là tùy theo nghĩa. Tàng thức mang nghĩa chứa đựng, còn a-đà-na chỉ cho thức có một phần chân và một phần không phải chân. Thức a-đà-na rất vi tế, những tập khí tức là những chủng tử thiện ác chúng ta đã huân vào trong đó rất nhiều, chảy như dòng thác đổ, sanh diệt liên miên. Nhiều thói quen chừng nào thì dòng thác a-đà-na đổ mạnh chừng nấy, muốn dừng cũng khó.

Thể của thức a-đà-na là chân thật, nhưng nó có hàm chứa những tập khí trôi chảy liên miên trong đó, những tập khí này không phải chân. Như vậy cái chân thật và cái phi chân gần kề với nhau, e người ta hiểu lầm cho nên Phật thường không nói tới.

Tự tâm chấp tự tâm

Chẳng huyễn thành pháp huyễn.

Như đoạn trước nói, do giác minh khởi ra minh giác, tức là khởi soi lại tánh giác. Cũng như chúng ta nghe nói mình có chân tâm, rồi dấy niệm tìm xem chân tâm ra làm sao. Khi tìm như vậy thì chân tâm tự trở thành đối tượng bị tìm kiếm, chẳng khác nào chính tâm mình trở lại tìm và chấp giữ tâm mình. Do đó pháp không phải huyễn trở thành huyễn.

Theo Duy thức thì thức thứ bảy mạt-na chấp kiến phần của thức thứ tám a-lại-da làm ngã, đó cũng là tự tâm giữ tự tâm. Cho nên pháp không phải huyễn mà thành ra pháp huyễn.

Không chấp không phi huyễn,

Phi huyễn còn chẳng sanh,

Pháp huyễn làm sao lập?

Nếu không khởi chấp thì không có cái phi huyễn, phi huyễn còn không thì huyễn làm sao lập? Nếu chúng ta không khởi chấp thủ, không móng tâm vọng tìm kiếm thì pháp phi huyễn không thành. Do có chấp, có khởi niệm mới nói cái này cái kia không, cho nên mới thành huyễn và phi huyễn. Nếu không chấp, không khởi niệm thì có gì là huyễn và phi huyễn. Huyễn và phi huyễn đều không thì pháp huyễn làm sao thành lập được?

Ấy gọi Diệu liên hoa

Bảo giác Kim cang vương

Như huyễn tam-ma-đề,

Búng tay vượt Vô học.

Nếu không khởi chấp như vậy thì gọi là Diệu liên hoa, tức Tri kiến Phật, hay Bảo giác Kim cang vương, đó cũng chính là chánh định Như huyễn, chỉ cần một búng tay liền vượt khỏi bậc Vô học.

Trong Tứ quả Thanh văn thì ba quả đầu thuộc hàng hữu học, quả A-la-hán là hàng vô học. Nếu không khởi chấp thì chỉ trong khoảng khảy móng tay vượt khỏi cả hữu học và vô học, tức lên bậc Bồ-tát.

Đây là pháp vô tỷ,

Một đường đến Niết-bàn

Của chư Phật mười phương.

Phật, tiếng Phạn là Bạc-già-phạm (Bhagavat). Vô tỷ pháp hay đối pháp, tiếng Phạn là A-tỳ-đạt-ma (Abhidharma) là tạng Luận. Hợp chung với tạng Kinh (Sutra) và tạng Luật (Vinaya) thành ra Tam tạng.

Trí chân thật thấy được chân lý là cửa của con đường đi thẳng tới Niết-bàn của chư Phật mười phương. Đó ngầm ý chỉ, ngài A-nan muốn biết rõ vô minh căn bản, cái gốc cột trói khiến ngài luân chuyển sanh tử chỉ là sáu căn của ngài, lại không có vật gì khác. Ngài lại muốn biết Bồ-đề vô thượng khiến ngài chóng chứng an lạc giải thoát tịch tịnh diệu thường, cũng là sáu căn của ngài, lại không vật khác.

Người tu Phật nếu quyết chí cầu giác ngộ giải thoát như Phật thì phải đi thẳng con đường của chư Phật mười phương đã đi, không có con đường nào khác. Như có vị tăng hỏi thiền sư Càn Phong: Chư Phật mười phương chỉ một con đường thẳng tới Niết-bàn, chưa rõ đầu đường ở chỗ nào? Thiền sư cầm gậy vạch một đường, bảo: Đây! Chỗ này.

Chỗ này là chỗ nào? Ngay cửa sáu căn mà vào, đó là con đường duy nhất chứ không có con đường nào khác. Nhưng đặc biệt của thiền sư là không cần nói, không cần giải. Các ngài không nói bằng lời, vì e chúng ta không tin. Đầu đường Niết-bàn ngay chỗ này sao? Vô lý quá, nhưng đó là thật chỉ đầu đường Niết-bàn.

III. CỘT KHĂN CHỈ GÚT

Khi ấy A-nan và đại chúng nghe lời chỉ dạy từ bi Vô thượng của Phật Như Lai, kệ tụng đều thông suốt, diệu lý thấu triệt, tâm mắt được mở sáng, khen ngợi là pháp chưa từng có.

A-nan chắp tay đảnh lễ bạch Phật:

- Nay con nghe Phật vì lòng đại bi vô ngại dạy câu pháp chân thật, chỉ ra tánh tịnh diệu thường, nhưng tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp mở cột. Vậy cúi mong đấng Đại từ lại thương xót chúng con trong hội này và những chúng sanh đời sau, bố thí pháp âm để rửa sạch những cấu nhiễm sâu nặng.

Kỳ-dạ (Geya) là tiếng Phạn, Trung Hoa dịch là trùng tụng. Sau khi Phật nói một đoạn kinh, ngài kết thúc bằng bài tụng lặp lại ý trước. Già-đa dịch là kệ, Phật thấy những lý gì hay, ngài chỉ nói vài câu kệ để diễn đạt riêng lý đó, không phải lặp lại một ý nào trước.

Đức Phật từ bi nói bài kệ trùng tụng tóm lại ý chính và những lời giảng rộng ở trước, làm cho nghĩa lý được rõ ràng sáng sủa. Do đó, tâm mắt ngài A-nan và đại chúng mở sáng, thông hiểu diệu lý, được việc chưa từng có. Tuy nhiên trong tâm vẫn còn chưa thấu suốt được nghĩa sáu mở thì một cũng mất và thứ lớp mở cột, nên xin Phật từ bi chỉ dạy thêm.

1. Cột gút

Liền khi đó Như Lai ngồi trên tòa sư tử, sửa Niết-bàn-tăng, vén y tăng-già-lê, vịn bàn bảy báu, đưa tay lên bàn lấy khăn hoa do trời Dạ-ma (Kiếp-ba-la) dâng cúng. Trước đại chúng, ngài cột thành một gút, đưa lên cho A-nan xem và hỏi:

- Đây gọi là gì?

A-nan và đại chúng đều bạch Phật rằng:

- Đây gọi là gút.

Đây diễn tả lúc đức Phật đang nói pháp, ngài lấy chiếc khăn trên bàn cột lại thành gút. Phật khéo léo sử dụng những hình ảnh cụ thể thực tế để giảng dạy chứ không lý thuyết suông.

Khi ấy đức Như Lai ở trên khăn hoa lại cột chồng thêm một gút nữa, rồi hỏi A-nan:

- Đây gọi là gì?

A-nan và đại chúng lại bạch Phật:

- Đây cũng gọi là gút.

Như thế thứ lớp Phật cột chồng lên khăn hoa, tổng số thành sáu gút. Mỗi khi cột xong một gút, Phật đều cầm cái gút đã cột trong tay đưa lên hỏi A-nan: Đây gọi là gì? A-nan và đại chúng cũng lại thứ lớp đáp lời Phật như vầy: Đây gọi là gút.

Phật bảo A-nan:

- Khi ta mới cột khăn, ông gọi là gút. Khăn hoa này trước thật chỉ có một tấm vải, cột đến lần thứ hai thứ ba, tại sao ông cũng gọi là gút?

Chiếc khăn trước chỉ có một tấm vải, cột một gút thì gọi là gút, cột lần thứ hai, thứ ba... tại sao cũng đều gọi là gút?

A-nan bạch Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn! Cái khăn hoa báu do đan dệt mà thành này, tuy vốn là một thể, nhưng theo con suy nghĩ, Như Lai cột một lần được gọi là một gút, nếu cột tới trăm lần thị trọn gọi là trăm gút. Huống chi khăn này chỉ có sáu gút, không đến bảy mà cũng chẳng dừng ở năm. Tại sao Như Lai chỉ nhận cái ban đầu là gút, còn cái thứ hai thứ ba... chẳng gọi là gút?

Phật bảo A-nan:

- Ông biết khăn hoa báu này vốn chỉ là một cái, khi ta cột sáu lần gọi là sáu gút. Ông xem xét kỹ, thể của khăn là đồng, nhân cột các gút mà có khác. Ý ông nghĩ sao? Cái gút ban đầu khi cột thành gọi là gút thứ nhất, như thế cột đến gút thứ sáu, nay ta muốn gọi gút thứ sáu là gút thứ nhất được chăng?

- Thưa không, bạch Thế Tôn! Nếu còn sáu gút thì cái gọi là thứ sáu này trọn không phải là cái thứ nhất. Dù cho con trọn đời biện minh lẽ này, làm sao khiến cho sáu gút này đổi tên được?

Phật bảo: - Đứng thế! Sáu gút chẳng đồng nhau, tuy tìm xét nhân ban đầu là từ một cái khăn tạo ra, nhưng khiến cho các gút lẫn lộn thì trọn không thể được. Sáu căn của ông cũng lại như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác.

Đức Phật khéo dùng ví dụ, cái khăn trước vốn là một, cột thành sáu gút. Sáu gút khi đã thành thì gút một là gút một, gút hai là gút hai, có thứ tự nhất định không thể đảo lộn được. Khi những gút đó mở hết rồi thì không còn sáu gút mà chỉ còn lại một chiếc khăn. Chiếc khăn gọi là một, vậy một đó là đối với cái gì? Như sáu gút, nếu mở hết năm gút thì còn một gút, đó là một đối với năm. Sáu gút mở hết rồi, đâu còn gì để đối mà gọi là một hay sáu? Chiếc khăn chỉ là khăn, không nói là một nữa.

Sáu gút dụ cho sáu căn bị cột, cái khăn dụ cho tánh diệu minh viên trạm. Tánh giác diệu minh nguyên trước không phải một không phải sáu, do bị dính khắn mà thành ra sáu. Lúc thành sáu rồi thì mắt chỉ thấy, tai chỉ nghe... không thể lộn xộn được. Khi chúng ta giải được sáu căn bèn nói là một, nhưng thật ra một cũng không có, chỉ là tánh giác mà thôi.

Sáu căn cũng lại như thế, trong thể rốt ráo đồng sanh ra rốt ráo khác. Rốt ráo đồng, dụ chiếc khăn là một, là đồng. Khi thành sáu gút rồi thì gút một, gút hai, gút ba... khác nhau, gọi là rốt ráo. Tánh giác là đồng nhưng khi bị dính khắn ở sáu căn bèn thành khác. Nếu gỡ sáu cái khác đó thì trở lại thể đồng.

2. Mở gút

Phật bảo A-nan:

- Chắc hẳn ông không muốn sáu gút này thành, nhưng lại mong thành một thể, làm sao có thể được?

Khi sáu hết rồi thì một cũng không còn, nhưng chúng ta quen cho rằng hết sáu gút còn chiếc khăn là còn một. Sáu gút đó là giả tướng cột lại từ chiếc khăn, nếu mở hết sáu gút đó rồi thì khăn nguyên là khăn, không nói một cũng không nói sáu. Ngài A-nan muốn hết sáu mà vẫn nghĩ còn một, đó là chưa thông suốt.

A-nan thưa: - Những gút này nếu còn thì phải quấy đua nhau khởi. Ở trong ấy tự sanh gút này không phải gút kia, gút kia không phải là gút này. Ngày nay Như Lai mở hết các gút, gút nếu chẳng sanh thì không còn kia đây nữa. Còn chẳng gọi là một, sáu làm sao thành?

Khi còn gút thì chia gút một, gút hai, gút ba... mỗi cái có phần vị riêng không thể nào lẫn lộn được, thành ra phải quấy đua nhau khởi. Cũng như nói con mắt không phải lỗ tai, lỗ tai không phải là con mắt. Ví dụ lúc chúng ta đang nhắm mắt, chợt có người ở trước mặt nói chuyện, nghe tiếng biết người đó quen, mình nói: Tôi thấy biết anh quen. Người ấy liền bảo: Anh nhắm mắt đâu thấy gì! Chỉ nghe tiếng, làm sao nói là thấy biết quen. Như vậy người ta cho rằng hình tướng là phải thấy chứ không thể nghe được, nhưng thật ra cái thấy cái nghe đâu có hạn cuộc.

Phật bảo: - Nghĩa mở sáu gút, một mất cũng lại như thế. Do ông từ vô thủy tâm tánh cuồng loạn, vọng phát sanh thấy biết. Bởi phát vọng không dừng nên cái thấy lao nhọc phát ra các trần cảnh, như con mắt mỏi mệt ắt thấy có hoa đốm lăng xăng. Trong chỗ lặng lẽ trong sáng kia, không nhân gì mà dấy khởi lộn xộn, tất cả tướng thế gian nào núi sông đất đai, sanh tử Niết-bàn đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc điên đảo mà sanh.

Tại sao Niết-bàn cũng từ cuồng nhọc phát ra? Bởi khăn thật không phải một, nói một chỉ là chấp suông. Hết sanh tử nên nói Niết-bàn, Niết-bàn đó cũng chỉ là giả danh không thật. Nên nói sanh tử Niết-bàn cũng đều giả danh không thật. Nên nói sanh tử Niết-bàn cũng đều là tướng hoa đốm, do cuồng nhọc điên đảo phát ra thôi.

A-nan thưa:

- Lao nhọc này giống như cái gút, làm sao cởi bỏ?

Đức Như Lai đưa tay cầm cái khăn có gút, kéo mối bên trái, hỏi A-nan rằng:

- Thế này mở được chăng?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Phật lại lấy tay kéo đầu mối bên phải rồi hỏi A-nan: - Thế này mở được chăng?

- Thưa không, bạch Thế Tôn.

Hai hình ảnh này thật hay! Kéo mối gút qua bên này hay bên kia chỉ làm gút chặt thêm chứ không thể mở. Phật đâu phải không biết mở gút, nhưng ngài kéo qua bên trái hỏi, kéo lại bên phải hỏi, để chỉ cho thấy nếu nghiêng qua bên này, hay bên kia là gút càng chặt, chẳng thể mở được. Cũng vậy, chúng ta còn chấp bên này, chấp bên kia, có không, phải quấy v.v... càng chấp thì gút càng chặt, không thể nào mở được.

Phật bảo A-nan: - Nay ta lấy tay kéo mối bên trái, bên phải trọn không thể mở gút, ông thử dùng cách nào để mở được?

A-nan bạch Phật rằng: - Bạch Thế Tôn, phải ngay giữa gút mà mở thì bung ra ngay.

Phật bảo A-nan: - Đúng vậy! Đúng vậy! Nếu muốn mở gút phải mở ngay giữa lòng gút.

Chẳng phải Phật không biết mở, nhưng Phật hỏi ngài A-nan để A-nan xác định rõ ràng cách mở gút. Khi căn tiếp xúc với trần, nghiêng bên cảnh hoặc nghiêng bên căn đều không dẹp được. Như mắt thấy cảnh, muốn dẹp hết cảnh để chúng ta đừng chấp, không được; muốn con mắt đừng thấy cũng không được. Phải ở ngay giữa mà mở, tức dẹp thức, đừng phân biệt theo cảnh. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi... cũng vậy.

Này A-nan, ta nói Phật pháp từ nhân duyên sanh, không phải lấy những tướng thô phù hòa hợp của thế gian mà nói. Như Lai phát minh các pháp thế gian và xuất thế gian, biết rõ nhân gốc kia theo duyên gì mà phát ra. Như thế cho đến một hạt mưa ở ngoài thế giới hằng sa cũng có thể biết rõ số mục. Hiện tiền các thứ, cây tùng thì thẳng, cây gai thì cong, cò thì trắng, quạ thì đen, đều rõ nguyên do của nó.

Đoạn này đức Phật đi sâu hơn nữa, không nói những nhân duyên thô của thế gian, như đất nước gió lửa hòa hợp lại thành thân người, cây cối, các loài... Mà Phật nói đến bản nhân, tức là gốc của nhân duyên.

Nhân duyên là căn cứ trên các pháp thế gian và xuất thế gian mà lập, còn chân tánh không thuộc nhân duyên. Như những gút cột trên khăn, cột là nhân duyên, mở cũng là nhân duyên, nhưng thể của chiếc khăn thì không thuộc nhân duyên, đó là tạm mượn ví dụ để hiểu. Khi mê vọng nên sanh ra tất cả, đó là nhân duyên. Từ sanh ra tất cả, bây giờ muốn trở về không cũng là nhân duyên, nhưng khi thể nhập được vô sanh rồi thì vượt ngoài nhân duyên. Đây là chỗ đức Phật muốn nói.

Bản nhân là nhân gốc của pháp, tức tánh giác tròn đủ. Sáu căn là sở duyên, là phương tiện để quay về tánh giác. Phật chỉ cho chúng ta từ nơi sáu căn biết quay về tánh giác, đó là trở về bản nhân. Trở về bản nhân đó rồi thì diệu dụng không thể lường, thế giới như hằng sa có từng hạt mưa chúng ta cũng biết, tất cả những gì có hình tướng ở thế gian này chúng ta đều biết nguyên do manh mối sanh khởi, không còn nghi ngờ.

Muôn pháp từ Như Lai tạng khởi xuất, cũng trở về Như Lai tạng. Trở về được thể Như Lai tạng trùm khắp thì có gì trong đó mà không biết. Như chủ nhà biết rõ các vật trong nhà của mình, nên nói hạt mưa rơi ngoài hằng sa thế giới cũng rõ sổ mục.

Thế nên A-nan, tùy trong tâm ông chọn lựa sáu căn. Gút căn nếu mở được thì trần tướng tự diệt, các vọng đều tiêu mất, còn đợi gì mà chẳng phải chân!

Rõ ràng khi mở hết các gút, không còn dính cảnh bên ngoài thì các vọng đều diệt mất. Chính lúc đó là chân, không còn tìm cái chân thật nào khác nữa.

Này A-nan, nay ta hỏi ông, cái khăn kiếp-ba-la này hiện có sáu gút, nếu đồng thời mở ra có thể đồng thời trừ dẹp được chăng?

- Thưa không, bạch Thế Tôn! Những gút này trước do thứ lớp mà cột, nay cần phải theo thứ lớp để mở. Sáu gút tuy đồng thể nhưng khi cột không cùng lúc thì khi mở gút làm sao đồng trừ dẹp được!

Phật hỏi A-nan thêm về thứ tự mở gút. Khăn đã cột thành sáu gút rồi, có thể mở hết sáu gút một lượt được không? Ngài A-nan trả lời, khi đã cột thành sáu gút rồi, muốn mở phải theo thứ tự mà mở. Cột từng gút, từng gút thì khi mở cũng phải từng gút từng gút.

Phật bảo: - Cởi mở sáu căn này cũng lại như vậy. Căn này khi bắt đầu mở, trước được nhân không, tánh không tròn sáng thì giải thoát được pháp chấp. Giải thoát pháp chấp rồi, cả hai nhân pháp đều không, tức chẳng sanh. Đó gọi là Bồ-tát từ tam-ma-địa chứng được vô sanh nhẫn.

Đức Phật nói rõ thứ lớp tu tập. Tu hành là khéo từ nơi chỗ gút mà mở, mở được một gút thì các gút kia cũng theo đó hết, tức được Nhân không. Nhân không là quả vị A-la-hán. Tánh không tròn sáng thì được Pháp không. Nhân không, pháp không là quả vị Bồ-tát. Bồ-tát từ nơi chánh định mà được vô sanh nhẫn, tiến lên Phật quả.

Đã rõ ý nghĩa sáu hết thì một cũng không còn, đến đây ngài A-nan cầu xin Phật vấn đề khác.

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 05509
  • Online: 34