Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 19 - PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO THẦM GIÚP NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH
07/09/2018 | Lượt xem: 3876
Dịch giả: HT.Thích Phước Hảo
Tác giả: TT.Thích Thông Phương
CHÁNH VĂN:
A-nan! Ông hỏi phương pháp nhiếp giữ tâm niệm. Như Tôi đã nói: “Người muốn vào Tam-ma-địa tu học pháp môn nhiệm mầu cầu đạo Bồ-tát, trước hết cần phải giữ gìn bốn món luật nghi đó cho trong sạch như băng tuyết, tự không thể sanh ra tất cả cành lá; ba nghiệp ác của ý, bốn nghiệp ác của khẩu ắt không còn nhân mà sanh được”. A-nan! Nếu giữ bốn việc như vậy không thiếu sót, tâm còn không duyên sắc, thanh, hương, vị, xúc thì tất cả việc ma làm sao phát sanh.
GIẢNG GIẢI:
Muốn nhiếp giữ tâm niệm, an lập đạo tràng để tu chánh định, trừ các ma sự, trước phải giữ gìn bốn giới căn bản này trong sạch như băng tuyết. Giới căn bản đã thanh tịnh, những giới phụ thuộc không có chỗ sanh, chúng ta có thể an tâm vào định. Song muốn giữ giới thật trong sạch thì giữ thân, khẩu không chưa đủ, phải trừ sạch tận trong tâm. Nếu tâm còn mầm mống, khi gặp cơ hội nó sẽ phát. Thế nên Phật dạy đoạn đến cái tánh biết đoạn cũng không còn mới là rốt ráo.
Lại tâm không duyên theo khách trần là sắc, thanh, hương, vị, xúc, thì ma sự bám vào đâu để sanh? Sở dĩ ma sự sanh được là do tâm phóng ra ngoài, trong có nội ứng, giặc ngoài mới vào được. Hay nói cách khác, có tâm ma thì ma sự mới vào. Như khi nhập thất tu hành, nếu không giữ tâm chân chánh, khởi vọng tưởng lăng xăng là dễ bị ma sự. Khi tu mà trông mong mau đắc đạo, vọng tưởng được thần thông, hoặc nghĩ về danh lợi v.v…, chính những thứ đó là chỗ cho ma vào, tức ma thấy tâm mà vào. Thế nên, chúng ta phải biết mà cẩn thận khi tu hành.
CHÁNH VĂN:
Nhưng nếu có những tập khí đời trước không thể dứt trừ, ông dạy người ấy nhất tâm tụng thần chú “Vô Thượng Phật Đảnh Quang Minh Ma-ha Tát-đát-đa Bát-đát-ra” của Tôi. Đó là tâm chú của tâm Phật vô vi, tướng đảnh Như Lai vô kiến, từ nơi đảnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.
GIẢNG GIẢI:
Để dứt trừ những tập khí đời trước khó trừ, Phật dạy tụng tâm chú. Đây là tâm chú của tâm Phật vô vi, không phải chú thường theo chữ nghĩa, là bặt con đường tâm nghĩ ngợi, vì chỗ tâm Phật vô vi, làm sao nghĩ ngợi được? Chỗ đó là bặt đường tâm, bặt nghĩ ngợi, thông đến tâm Phật vô vi. Nó vượt ngoài những tâm niệm sanh diệt, đâu còn dấu vết cho tập khí bám vào. Thế nên Phật nói đây là tâm chú trừ những tập khí nhiều đời trước là vậy. Tụng tâm chú này là phải tụng thấu đến đó, vì là tâm chú, thì không phải tụng trên chữ nghĩa suông, không phải dừng trên câu chữ mà tụng, tụng được vậy mới bảo đảm kết quả.
Tên chú là Vô Thượng Phật Đảnh Quang Minh, tức là chỗ Phật đảnh sáng rỡ Vô thượng, không gì trên nữa, đó là chỗ vượt qua tất cả, không gì hơn. Chỗ đó mắt người không sao thấu được. Bởi nó phát xuất từ tâm Phật vô vi, chúng ta tụng thấu được chỗ đó bảo đảm sẽ chuyển hóa những tập khí.
Ma-ha Tát-đát-đa Bát-đát-ra dịch là Đại Bạch Tán Cái, tức là Tàn Lọng Trắng To Lớn. Chỉ cho tâm Phật sáng suốt, không ô nhiễm như tàn lọng trắng, nó che khắp thế gian không sót một ai, nên gọi là đại.
Chú này do hóa Phật hiện nơi tướng đảnh Vô kiến của Như Lai nói ra. Đảnh Vô kiến là chỉ Nhục kế trên đỉnh đầu Đức Phật, chỗ đó mắt người không thấy được, ngầm chỉ cho Pháp thân. Pháp thân thì không nói, nên hiện ra hóa Phật nói. Tức là từ chỗ không lời, phương tiện nói ra lời. Tuy nói mà lìa tướng nói, tức ngay cái nói đó cũng vốn lặng lẽ. Khi tụng chú, chúng ta phải thấu được ý đó, lặng lòng thầm thông trở lại chỗ không lời, chỗ bặt lời mới thông với tâm Phật vô vi. Tụng như thế thì kết quả không thể nghĩ bàn, thầm khế hợp trở lại Pháp thân, vượt qua những tâm niệm lăng xăng sanh diệt. Tụng như vậy thì sẽ chuyển hóa được tập khí nhiều đời không nghi ngờ.
CHÁNH VĂN:
Vả lại đời trước ông cùng nàng Ma-đăng-già có nhân duyên trải qua nhiều kiếp, thành tập khí ân ái không phải một đời hay một kiếp. Song một phen Tôi tuyên dương thần chú thì nàng Ma-đăng-già thoát hẳn dâm ái thành quả A-la-hán. Nàng kia là kẻ dâm nữ không có tâm tu hành, do nhờ sức thần chú của Tôi thầm giúp mà còn mau chứng bậc Vô học. Thế thì các ông những hàng Thanh Văn trong hội này cầu Tối thượng thừa quyết định thành Phật, ví như bụi bay gặp gió thuận, vậy có gì là khó khăn?
GIẢNG GIẢI:
Đoạn này Phật khuyến khích tu. Việc Ngài A-nan gặp Ma-đăng-già là có nhân duyên ân ái nhiều đời chớ không phải mới. Lại Ma-đăng-già là dâm nữ, không phải người tu hành, không có tâm thật tu, mà nghe Phật giáo hóa, nghe được thần chú của Phật cũng chứng được quả Vô học. Còn chúng ta là người phát tâm xuất gia, có chí tu hành đàng hoàng, gặp duyên thuận lợi hơn nàng Ma-đăng-già nhiều, tại sao còn nghi ngờ không quyết tâm tiến tu để thành tựu đạo giác ngộ? Phật nói người tu chúng ta giống như bụi bay thuận gió, sao lại không đủ niềm tin để tiến tu. Chúng ta đã có gieo chủng duyên nhiều đời mới được duyên tốt như ngày hôm nay, tại sao còn chần chừ không chịu tiến tới? Đó là lời Phật cảnh tỉnh tất cả chúng ta!
CHÁNH VĂN:
Nếu có người trong đời mạt pháp muốn ngồi đạo tràng tu hành, trước cần giữ gìn giới cấm thanh tịnh của Tỳ-kheo. Cốt phải lựa một vị Sa-môn giữ giới thanh tịnh bậc nhất, để làm thầy mình. Nếu tìm không gặp được Tăng chúng thật thanh tịnh, thì giới thể luật nghi của người ấy chắc không được thành tựu. Sau khi giới thành tựu, người đó đắp y mới sạch sẽ, đốt hương ở một mình tụng thần chú do tâm Phật nói đây một trăm linh tám biến, sau đó mới kiết giới, dựng lập đạo tràng cầu mười phương các Đức Vô thượng Như Lai, hiện ở trong các cõi nước mười phương phóng hào quang đại bi đến rọi nơi đảnh đầu mình.
A-nan! Như thế, trong đời mạt pháp có hàng Tỳ-kheo thanh tịnh, hoặc Tỳ-kheo-ni, bạch y, đàn-việt dứt tâm tham, giữ gìn giới cấm thanh tịnh của Phật, ở nơi đạo tràng phát nguyện Bồ-tát, khi ra vào, tắm gội, cả trong sáu thời hành đạo như vậy, chẳng ngủ nghỉ, trải qua hai mươi mốt ngày, Tôi tự hiện thân đến trước người ấy, xoa đảnh an ủi, khiến họ khai ngộ.
GIẢNG GIẢI:
Phật dạy vào đạo tràng phải giữ giới trang nghiêm thanh tịnh, cầu thầy thanh tịnh, trang nghiêm đạo tràng, nhiếp tâm tụng chú cầu cảm thông được với mười phương Như Lai. Như vậy thì tạp niệm không xen vào được, không có tạp niệm mới thành tựu được chánh định. Chúng ta học phải hiểu kỹ, không một bề ỷ lại vào thần chú, vào tha lực, cho rằng chỉ nhờ đọc thần chú mà được mười phương chư Phật gia bị rồi được khai ngộ. Đọc chú suông thì khai ngộ nỗi gì? Phải hiểu đúng ý Phật, nhờ tha lực gia bị, nhờ giữ giới trang nghiêm thanh tịnh, đàn tràng thanh tịnh, nhất là phải nhiếp tâm tụng chú. Tức là nhờ tha lực gia bị, mà cũng phải tự lực, là nhất tâm thanh tịnh, trừ các tạp niệm không để ma sự xen vào, đó mới là quan trọng. Do nhiếp tâm thanh tịnh, không có tạp niệm, ma không xen vào được, nhờ vậy mới sớm được khai ngộ.
Đây nói thêm, ở trong đạo tràng chuyên tâm tu hành, phát nguyện Bồ-tát, mở rộng tâm mình hướng về Phật đạo. Trải qua 21 ngày thì Phật hiện thân ở trước. Số 21 chỉ là thời gian phương tiện ước định, quan trọng là tâm khai ngộ. Không phải ước định đúng 21 ngày tâm phải khai ngộ, đặt trước thời gian mong cho sớm thành, làm như vậy là động niệm, mà động niệm là ma sự xen vào. Thế nên phải cẩn thận! Ý Phật là phải trải qua thời gian chuyên tâm hành đạo thanh tịnh, tạp niệm không xen vào cho đến tâm chuyên nhất. Khi ấy tâm mình khế hợp tâm Phật thì tự nhiên thấy Phật ở trước mắt, tâm được khai ngộ sáng tỏ, đó là lẽ thật. Vậy trọng yếu là nhất tâm không xen tạp, có nhờ tha lực gia bị, nhưng tự lực mới là chính. Chúng ta tu phải thấy, phải hiểu được ý đó.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan bạch Phật rằng: “Thưa Thế Tôn, con nhờ lời từ bi dạy bảo vô thượng của Đức Như Lai, mà tâm đã khai ngộ, tự biết con đường tu chứng thành quả Vô học. Song đối với những người tu hành trong đời mạt pháp muốn kiến lập đạo tràng phải kiết giới thế nào để phù hợp với quy tắc thanh tịnh của chư Phật Thế Tôn?”.
Phật bảo ông A-nan: “Nếu ở trong đời mạt pháp, người muốn lập đạo tràng, trước phải dùng phân con bạch ngưu có sức mạnh ở núi Tuyết. Con trâu trắng này ăn cỏ thơm ngon tốt ở trong núi Tuyết và chỉ uống nước trong ở Tuyết sơn, nên phân nó rất mịn nhuyễn, nên lấy phân bạch ngưu hòa hợp với hương chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu không phải bạch ngưu ở núi Tuyết thì phân nó hôi nhơ không thể tô quét trên đất được. Phải riêng ở nơi bình nguyên đào bỏ các lớp đất trên mặt, đào lấy thứ đất màu vàng từ năm thước trở xuống. Rồi lấy mười thứ hương là chiên-đàn, trầm thủy, tô diệp, huân lục, uất kim, bạch giao, thanh mộc, linh lăng, cam tùng và kê thiệt nghiền nhỏ thành bột trộn với đất ấy thành bùn, dùng để tô lên trên mặt đất nơi đạo tràng, mỗi bề một trượng sáu thành cái đàn bát giác.
Chính giữa đàn tràng nên đặt một cái hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, gỗ. Giữa hoa sen để cái bát, trong bát trước đựng đầy nước mù sương tháng tám và trong nước ấy tùy ý cắm hoa lá hiện có. Rồi lấy tám mặt gương tròn, mỗi cái để một phía xung quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy để mười sáu hoa sen và giữa các hoa sen để mười sáu lư hương cho trang nghiêm. Trong lư hương đốt thuần hương trầm thủy không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch ngưu để trong mười sáu cái chén; lấy sữa làm bánh nướng các thứ với đường cát, bánh rán bột sữa, tô hiệp, mật gừng, bơ tốt, mật tốt mỗi thứ mười sáu cái chén đặt ở ngoài vòng quanh hoa sen để cúng dường chư Phật và chư vị Đại Bồ-tát.
Trong mỗi thời ăn cơm và lúc giữa đêm, lấy nửa thăng mật và ba cáp bơ, trước đàn để riêng một lò lửa nhỏ, dùng hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước thơm rửa than cho sạch rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật, bơ vào đốt đến hết khói để cúng dường chư Phật, Bồ-tát.
Bốn phía bên ngoài treo khắp phan và hoa, trong phòng đàn tràng an trí hình tượng hiện có của mười phương Như Lai và chư Bồ-tát nơi bốn phía vách. Giữa đàn để hình tượng Phật Lô Xá Na, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, Phật A Súc, Phật Di Đà và hình tượng đại biến hóa của Đức Quán Thế Âm, lại thêm các vị Bồ-tát Kim Cang Tạng để hai bên; những tượng của Đế-thích, Phạm Vương, Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lợi, Tỳ-cu-chi và Tứ Thiên Vương, Tần-na, Dạ-ca v.v... treo ở hai bên cửa. Lại lấy tám tấm gương treo úp trên hư không. Mặt gương đối chiếu với tám gương trước đã đặt trong đàn, làm cho các hình ảnh lớp lớp lồng nhau.
GIẢNG GIẢI:
Có ai lập đàn tràng như vậy chưa? Thật tình ít ai làm được. Vì không dễ tìm đủ các vật theo nhu cầu đã nói. Như làm sao kiếm cho đủ mười thứ hương chiên-đàn, trầm thủy ở xứ Ấn Độ; và làm sao treo hết hình tượng của Phật, chư Bồ-tát, các vị Đế-thích, thần Kim Cang, Phạm Vương, Ô-sô-sắt-ma v.v... cho đến Tứ Thiên Vương, rồi Tần-na, Dạ-ca v.v... tức những Quỷ vương. Cho nên, người không khá giả thì không thể kiến lập đàn tràng để tu.
Đây nói có sự có lý. Là người thiết lập đó phải hết sức thành tâm trang nghiêm đạo tràng, mượn cảnh giúp cho tâm được tương ứng. Đạo tràng trang nghiêm, nhờ vậy, khi bước vào trong đạo tràng, không có chỗ để tạp niệm xen vào.
Về lý, là mỗi thứ đều xoay về tự tâm. Như Ngài Hàm Thị giải thích: “Kinh này dạy an trí đạo tràng, trước hết dùng phân bạch ngưu ở núi Tuyết, nó ăn thì dùng cỏ thơm ngon tốt, uống thì nước suối trong sạch, phân nó tiết ra dùng hòa chung với các thứ hương để trang trí đàn tràng. Là dụ dùng nước cỏ lý trí hay nuôi dưỡng Pháp thân bạch ngưu, dùng trí sai biệt đào đất năm uẩn, xuất sanh đất bản giác hòa với diệu hương Thập độ, cộng thành một đàn tràng Tịch diệt Vô thượng”. Như vậy, mỗi thứ chúng ta làm đều xoay trở về nơi tự tâm bản tánh của mình, nên nhìn qua ngó lại chỗ nào cũng là biểu hiện của tâm tánh sáng suốt không thể nghĩ bàn, nên tạp niệm đâu có chỗ nào xen vào.
Cho đến nhìn chung quanh, đâu đâu cũng thấy Phật, thấy thần Kim Cang v.v..., mà nhìn thấy chư vị thần thì đâu dám khởi niệm xấu. Chính chỗ không có tạp niệm xen vào là chỗ thành tựu. Ngay đó nhiếp tâm chuyên chú, bất chợt niệm lặng, thì hiện tiền thấy nghe là cái gì? Liền đó tâm sáng tỏ khai ngộ, thầm hợp ý Phật không thể nghĩ bàn chứ gì!
Chúng ta hiểu được ý nghĩa việc thành lập đàn tràng là như vậy. Còn hiểu theo chữ nghĩa thì dễ mắc kẹt trên hình tướng cũng thành có ngại.
CHÁNH VĂN:
Trong bảy ngày đầu chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai, chư vị Đại Bồ-tát và A-la-hán, thường trong sáu thời tụng chú đi quanh đàn, chí tâm hành đạo, mỗi thời thường tụng một trăm linh tám biến. Trong bảy ngày thứ hai, một bề chuyên tâm phát nguyện Bồ-tát, tâm không gián đoạn, Tôi khi trước ở Tỳ-nại-da có dạy phát nguyện. Trong bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời một bề trì chú Bát-đát-ra của Phật, đến ngày thứ bảy thì mười phương Như Lai đồng thời xuất hiện trong chỗ ánh sáng các mặt gương giao xen và được Phật xoa đảnh.
GIẢNG GIẢI:
Tuần trai đầu chí thành đảnh lễ danh hiệu mười phương Như Lai và chư vị Bồ-tát, A-la-hán, rồi tụng chú đi nhiễu quanh đàn, chí tâm hành đạo.
Bảy ngày thứ hai, một bề chuyên tâm phát nguyện trước Bồ-tát, tâm không gián đoạn. Bảy ngày thứ ba, trong cả mười hai thời trì chú Bát-đát-ra của Phật, tức là trì tâm chú này. Đến ngày thứ bảy cuối tức là 21 ngày thì mười phương Như Lai đồng thời xuất hiện, trong chỗ ánh sáng các mặt gương giao xen và được Phật xoa đảnh.
Đây là nói 21 ngày, nếu đơn giản thì bảy ngày tâm chuyên nhất không gián đoạn, không có tạp niệm nào xen vào thì bảo đảm có tin tức tốt. Nếu chỉ chừng mười lăm phút chuyên nhất không niệm gì xen vào cũng khó rồi. Đây bảy ngày như vậy là quá hay, còn đến 21 ngày thì chư Phật Như Lai xuất hiện trong ánh sáng các mặt gương, được Phật xoa đảnh, là thầm cảm thông với Phật.
CHÁNH VĂN:
Liền ở nơi đạo tràng đó tu pháp Tam-ma-địa, có thể khiến cho người tu học như vậy trong đời mạt pháp, thân tâm được sáng suốt, trong sạch như ngọc lưu ly.
A-nan! Nếu trong các thầy truyền giới cho vị Tỳ-kheo đó hay trong mười vị Tỳ-kheo đồng hội, trong ấy có một người giới hạnh không được thanh tịnh, thì những đạo tràng như thế phần nhiều là không thành tựu.
GIẢNG GIẢI:
Được ở nơi đạo tràng như vậy mà tu tập đúng là trợ duyên lớn, giúp thân tâm sáng suốt trong sạch, thì dễ thành tựu thiền định. Nhưng đây Phật lại ngăn ngừa, nếu có thầy truyền giới không thanh tịnh thì phần nhiều là không thành tựu. Cho nên, về giới pháp cũng phải kỹ lưỡng.
CHÁNH VĂN:
Từ hai mươi mốt ngày về sau ngồi nghiêm trang an cư trải qua một trăm ngày, nếu người lợi căn không rời khỏi chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn. Mặc dù thân tâm người ấy đối với quả Thánh chưa được thành tựu, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai chạy.
Ông hỏi phương pháp kiến lập đạo tràng là như vậy”.
GIẢNG GIẢI:
Được đạo tràng trang nghiêm, tu hành miên mật, rồi nhất tâm xuyên suốt thì kết quả vào đạo thành tựu không nghi. Đây gọi là từ 21 ngày về sau được ngồi nghiêm trang an cư trong đó, trãi qua 100 ngày tu tập miên mật nhất tâm, nhờ vậy, người lợi căn không rời chỗ ngồi liền được quả Tu-đà-hoàn. Ngài Hàm Thị có giải về quả Tu-đà-hoàn: “Tu-đà-hoàn là Sơ quả của Tiểu thừa, đồng với Sơ địa của Biệt giáo, và Sơ trụ của Viên giáo thuộc Đại thừa”.
Đây nói thêm, mặc dù thân tâm người ấy chưa được thành tựu quả Thánh, nhưng đã quyết định tự biết sẽ thành Phật không sai. Tức được lòng tin không còn thoái chuyển, thẳng đó tiến tu đến viên mãn công đức thành Phật.
Chỗ quan trọng ở đây là chuyên tâm nhất ý không gián đoạn. Chúng ta tu tập thiền định, giữ chánh niệm, tâm luôn chuyên nhất, không có tạp niệm xen vào, thì đó là chỗ thành tựu.
CHÁNH VĂN:
Ông A-nan đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Đức Phật rằng: “Từ khi xuất gia con ỷ lại lòng thương yêu của Phật, chỉ lo học nhiều nên không chứng được pháp vô vi mới gặp tà thuật của Phạm Thiên kia bắt giữ. Tâm con tuy sáng suốt rõ ràng, nhưng đạo lực chưa được tự do, nhờ Ngài Văn-thù khiến con được giải thoát. Tuy con thầm nhờ sức thần chú Phật Đảnh của Như Lai, nhưng chính mình chưa được nghe, cúi mong Phật mở lòng đại từ, nói lại thần chú ấy, để cứu giúp những người tu hành trong hội này và đời mạt pháp ở trong tương lai còn trong luân hồi, nhờ mật âm của Phật mà thân ý được giải thoát”. Khi ấy tất cả đại chúng trong hội thảy đều làm lễ chờ nghe những câu chú bí mật của Như Lai.
GIẢNG GIẢI:
Ngài A-nan thuật lại là thời gian trước Ngài luôn ỷ lại lòng thương yêu của Phật cho nên lo học nhiều, không chứng được pháp vô vi, tức pháp A-la-hán giải thoát. Đến khi bị tà thuật bắt giữ, gặp nạn Ma-đăng-già, lúc đó tâm tuy sáng suốt, nhưng đạo lực không mạnh, phải nhờ thần chú của Ngài Văn-thù đến giải cứu. Vì chưa trực tiếp được nghe, nên giờ thỉnh Phật nói lại cho Ngài và tất cả được nghe. Đó là Ngài vì chúng sanh hiện tại và đời sau mà thưa thỉnh Phật nói chú.
CHÁNH VĂN:
Khi ấy, từ trên nhục kế của Đức Thế Tôn phóng ra hào quang trăm báu, trong hào quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh có hóa thân Đức Như Lai ngồi trong hoa sen báu, trên đảnh phóng ra mười đạo hào quang trăm báu, mỗi mỗi đạo hào quang đều hiện ra những vị Kim Cang mật tích, số lượng bằng mười số cát sông Hằng, bưng núi, cầm chày khắp cả hư không. Đại chúng ngước lên xem trong lòng vừa mừng vừa sợ, cầu xin Phật thương xót che chở, một lòng lắng nghe Đức phóng quang Như Lai nơi Vô kiến đảnh tướng của Phật tuyên nói thần chú.
GIẢNG GIẢI:
Bấy giờ, từ trên nhục kế của Phật phóng hào quang, trong hào quang có hoa sen báu, rồi có hóa thân Đức Như Lai ngồi trên hoa sen đó, trên đảnh của Phật cũng lại phóng hào quang, trên mỗi mỗi hào quang lại hiện những vị thần Kim Cang, số lượng người bằng mười số cát sông Hằng.
Trên nhục kế tức là trên đảnh tướng của Như Lai. Đó là chỉ cho Pháp thân, là chỗ mắt không thể thấy, tâm không thể quán.
Đây là từ Pháp thân mà hiện ra hóa Phật, hóa Phật nói chú chứ Pháp thân đâu có nói. Nhưng hóa Phật cũng từ đảnh tướng của Phật hiện ra tức từ thể mà khởi dụng. Pháp thân là thể, hóa Phật là dụng. Do từ thể khởi dụng nên dụng cũng chẳng rời thể, tức là hóa Phật cũng không rời Pháp thân Phật. Ý là từ chỗ không nói mà nói, và nói cũng không rời chỗ không nói. Do đó, người nghe cũng phải hết lòng nhiếp niệm để khi nghe được thầm hợp trở về với Pháp thân.
Đúng là hội chúng lúc ấy không còn dám nghĩ ngợi lung tung, bởi vì nhìn lên là các thần Kim Cang mật tích cầm chày đứng khắp hư không, phát sợ rồi! Cho nên đây nói là vừa mừng vừa sợ, không dám khởi niệm. Chúng ta mà ở trong cảnh đó thì tâm cũng phải thanh tịnh không dám khởi niệm, nên tất cả chúng hội khi ấy đều một lòng lắng nghe.
Kế, mới tuyên đọc thần chú. Đây là nói ra năm hội của chú Lăng Nghiêm, vì là chú nên không dịch và cũng không giảng. Nghe chú là phải bặt nghĩ ngợi, suy tư, chỉ thầm cảm ứng trong chỗ không thể nghĩ bàn, chính tâm tập trung, không lăng xăng đó mới có hiệu lực, có sức cảm ứng với chú, mới có những thần lực gia trì không thể nghĩ bàn. Khi đọc chú xong, Phật mới bảo:
CHÁNH VĂN:
“A-nan! Những câu nhiệm mầu, những kệ bí mật “Tát Đát Đa, Bát Đát Ra” của hóa thân nơi hào quang trên đảnh Phật đó, vốn sanh ra tất cả mười phương chư Phật. Mười phương Như Lai nhân chú tâm này được thành Vô thượng Chánh Biến Tri Giác. Mười phương Như Lai trì chú tâm này uốn dẹp các ma, chế phục ngoại đạo. Mười phương Như Lai vận chú tâm này ngồi hoa sen báu ứng hiện trong cõi nước như số vi trần. Mười phương Như Lai ngậm chú tâm này ở trong các cõi nước như số vi trần chuyển đại pháp luân. Mười phương Như Lai trì chú tâm này hay ở trong mười phương xoa đảnh thọ ký, tự mình chưa thành quả vị cũng có thể nơi mười phương nhờ Phật thọ ký. Mười phương Như Lai nương chú tâm này, có thể ở trong mười phương cứu vớt các khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, đui, điếc, câm, ngọng, các khổ về oán hờn gặp gỡ, các khổ về yêu thích chia lìa, các khổ về cầu không được toại nguyện, khổ về năm ấm xí thạnh; những tai nạn hoặc lớn hoặc nhỏ đồng thời giải thoát. Nạn giặc, nạn bệnh, nạn vua, nạn tù giam, nạn gió, lửa, nước, cho đến đói, khát, nghèo thiếu liền được tiêu tan. Mười phương Như Lai tùy theo chú tâm này, có thể ở trong mười phương phụng sự thiện tri thức, trong bốn oai nghi cúng dường đều được như ý. Ở trong pháp hội hằng sa Như Lai được suy tôn làm vị Đại Pháp Vương tử. Mười phương Như Lai thực hành chú tâm này, hay ở trong mười phương nhiếp thọ các thân nhân khiến cho các Tiểu thừa nghe tạng bí mật không sanh kinh sợ. Mười phương Như Lai tụng chú tâm này thành đạo Vô thượng Giác ngồi dưới cây Bồ-đề vào đại Niết-bàn. Mười phương Như Lai truyền chú tâm này, sau khi diệt độ rồi phó chúc Pháp sự của Phật được trụ trì rốt ráo, giới luật nghiêm tịnh thảy đều trong sạch.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật nói rõ những câu kệ bí mật khó hiểu của chú tâm này rất nhiệm mầu, khó nghĩ bàn. Từ đó mà xuất sanh ra chư Như Lai, rồi làm Phật sự, hàng ma, gia bị cho người tu hành Bồ-đề, diệu dụng không thể nghĩ bàn.
Quan trọng là ở “chú tâm này”, và cái gì là chú tâm này? Chính từ chú tâm này mà xuất sanh ra mười phương Như Lai, mới đầy đủ những công đức diệu dụng, nên điều cần thiết là phải thấy được, rõ được chú tâm này mới thấu được chỗ dụng kia, chỗ dụng kia thuộc về phần ngọn, còn chú tâm này mới là gốc.
Rồi làm sao nghe được chú tâm này mới là chỗ thiết yếu. Bình thường ai cũng hiểu chú tâm này tức là năm hội trong chú Lăng Nghiêm. Nếu vậy, chẳng lẽ từ những câu, những chữ đó mà xuất sanh ra cả mười phương chư Như Lai sao? Nếu không phải chỗ đó vậy là chỗ nào? Đây mới là chỗ sâu xa, không thể hiểu hời hợt trên chữ nghĩa được.
“Chú tâm này” ngầm chỉ cho Như Lai Tạng, hay ở trước gọi là tâm Phật vô vi, tức từ tâm Phật vô vi nói ra. Chính tâm Như Lai Tạng hay tâm Phật vô vi mới xuất sanh mười phương chư Như Lai, nên tâm này sâu xa, khó thấy, khó hiểu, bí mật, thức tình không thể hiểu được, suy nghĩ không tới, do đó phải bặt niệm thầm chứng biết. Vậy mới đúng nghĩa là “chú”. Tâm này, cũng là chỗ chư Phật và chúng sanh đều đủ, nhưng chúng sanh không biết mới làm chúng sanh do đó phải nhờ chư Phật thầm gia bị.
Cho nên, nếu mà bặt niệm là thầm hợp trở lại tâm này, liền rõ mười phương chư Như Lai đều từ đó lưu xuất không có nghi ngờ. Chỗ đó là chỗ chúng ta cần phải hiểu kỹ đừng mắc kẹt trên những câu, những chữ. Đây Phật mới nói thêm:
CHÁNH VĂN:
Nếu Tôi nói chú “Phật Đảnh Quang Tụ Bát Đát Ra” từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng lặp, trải qua kiếp số như cát sông Hằng trọn không thể hết, chú này gọi tên là Như Lai Đảnh.
GIẢNG GIẢI:
Chỗ này nếu căn cứ theo chữ nghĩa là khó hiểu. Phật nói rằng Ngài nói chú này từ sáng đến chiều, trải qua kiếp số như cát sông Hằng, nói hoài cũng không trùng lặp, cũng không thể hết. Còn chúng ta nếu căn cứ trên những câu chữ trong năm hội này, như các chùa tụng công phu khuya chỉ một tiếng đồng hồ là xong. Vậy mà ở đây Phật nói là đọc tụng suốt ngày từ kiếp này qua kiếp khác cũng không hết, phải hiểu thế nào đây?
Rõ ràng ý nghĩa trọng yếu không phải nằm trên những câu chữ đó. Chúng ta không thể nghe hiểu trên những câu chữ đó, mà phải nghe thấu đến chỗ không nghe kia, chỗ tâm Phật vô vi, chỗ bặt niệm không lời mà từ đó phát ra lời, nghe đến chỗ đó mới hiểu được chỗ này.
Chỗ đó chỉ thầm hợp chứ đâu nói ra được. Khi đến được chỗ thầm hợp rồi thì sao? Thì lúc nào cũng thấy hiện tiền không thiếu vắng, từ kiếp này qua kiếp khác không còn mất nữa. Hiểu vậy, mới thầm hiểu được ý sâu của Phật nói trong đây, cho nên chú này gọi là Như Lai Đảnh. Như Lai Đảnh không phải là chỗ hai con mắt này có thể thấy đến được, mà phải thấy bằng mắt trí tuệ. Thấy như vậy thì mới không ngăn ngại, còn nhằm trên câu chữ mà hiểu thì sẽ thấy có chỗ ngăn ngại.
CHÁNH VĂN:
Các ông là hàng hữu học, chưa hết luân hồi mà phát tâm chí thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì chú tâm này, khi ngồi đạo tràng khiến cho thân tâm xa rời các ma sự, thì không thể được.
GIẢNG GIẢI:
Người muốn tu hành để dứt hết lậu hoặc, cần trì tâm chú này mới tránh khỏi các ma sự. Trì tâm chú này là khéo giữ tâm không nghĩ ngợi lăng xăng, trì đến chỗ bặt nghĩ ngợi thì ma làm sao thấy được! Là tránh được ma sự thôi. Sở dĩ có ma sự là do chúng ta loạn tâm, tâm có kẽ hở, nên ma mới thấy mà xen vào thành có ma sự, ý là chỗ đó. Học kinh này rồi thì chúng ta biết để cẩn thận giữ gìn tâm niệm của mình, giữ tâm chú của mình. Không phải đọc năm hội Lăng Nghiêm đó là giữ tâm chú, mà giữ tâm chú như đã nói là giữ tâm Phật vô vi, tâm Như Lai Tạng, tức luôn giữ tâm thanh tịnh, bặt nghĩ ngợi suy tư, không cho những tà niệm sanh khởi khiến ma thấy được.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nếu các thế giới có những chúng sanh tùy chỗ những cõi nước mình sanh ra có các thứ như cỏ cây, hoa lá, cây bối, giấy trắng, bạch điệp dùng để chép viết chú này đựng trong đãy thơm. Nếu người ấy tối tăm chưa thể nhớ tụng được, thì hoặc đeo trên thân, hoặc viết trong nhà ở, phải biết người ấy trọn đời tất cả các thứ độc không thể hại được.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói về sức oai lực của chú hay trừ các thứ độc, độc không thể hại được tâm chú kia. Độc chỉ hại thân này, chứ làm sao hại được chỗ tâm chú đó. Chỗ nghĩ ngợi không tới thì độc đâu thể hại, người học phải thấu được chỗ này.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nay Tôi vì ông tuyên lại chú này để cứu giúp trong thế gian, được đại vô úy và thành tựu trí tuệ xuất thế gian cho chúng sanh.
GIẢNG GIẢI:
Sức chú này trừ hết các sợ hãi, được đại vô úy và thành tựu trí tuệ xuất thế gian. Khi vọng niệm bặt thì trí tuệ xuất thế gian hiện; nếu vọng niệm không bặt, làm sao thành tựu trí tuệ xuất thế gian?
CHÁNH VĂN:
Nếu sau khi Tôi diệt độ, chúng sanh đời mạt pháp, có người hay tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng chú này, phải biết những chúng sanh trì tụng chú như vậy, lửa không thể đốt cháy, nước không thể nhận chìm, các thứ độc lớn, độc nhỏ đều không thể hại được. Như thế cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh kỳ, ma mị, có những thú dữ đều không thể nhập. Nếu tâm người ấy được chính thọ thì tất cả thần chú nguyền rủa, yếm cổ, thuốc độc, kim độc, ngân độc và độc khí muôn vật, như cỏ cây sâu rắn khi vào miệng người đó đều thành vị cam lồ, tất cả sao dữ và các quỷ thần lòng dữ hại người đối với người ấy cũng không thể khởi tâm ác được. Tần-na, Dạ-ca các Quỷ vương dữ khác cùng với quyến thuộc đều nhận lãnh ân sâu thường giữ gìn ủng hộ.
GIẢNG GIẢI:
Người trì chỗ tâm chú này là vượt qua những thứ tà mị, độc hại, nhưng trong đây cần chú ý thêm câu: “Nếu tâm người ấy được chánh thọ (chánh định) thì những thứ thần chú nguyền rủa, thuốc độc hại, v.v… cho đến quỷ, thần, sao dữ ác tâm... đối với người đó đều không có khởi tâm ác được”. Quan trọng là chỗ “tâm được chánh định”, tâm mà được chánh định là vượt qua tất cả.
Chữ “tinh kỳ” là chỉ cho những loài tinh linh. Những loài được sức linh của trời thì gọi là tinh, còn được sức linh của đất gọi là kỳ. Đây nói những loài đó cũng không thể hại được.
Từ Tần-na, Dạ-ca là tên của hai vị sứ giả Đại quỷ vương. Hai vị Quỷ vương này đối với người được chánh thọ cũng không khởi tâm ác, lại thường theo giữ gìn, ủng hộ.
CHÁNH VĂN:
A-nan nên biết, chú này thường có 84.000 na-do-tha hằng sa câu-chi chủng tộc Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát. Mỗi mỗi đều có những chúng Kim Cang làm quyến thuộc ngày đêm theo hầu. Giả sử có chúng sanh với tâm tán loạn chưa được vào Tam-ma-đề, tâm ghi nhớ, miệng trì tụng chú này, thì Kim Cang Vương đó thường tùy theo bên thiện nam tử kia, huống nữa là người có tâm Bồ-đề quyết định thì đối với những người này Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát đó dùng tịnh tâm thầm xúc tiến, phát huy thần thức họ, người ấy liền khi đó tâm nhớ lại được 84.000 hằng hà sa kiếp, rõ biết cùng khắp không nghi lầm.
GIẢNG GIẢI:
Người trì chú này sẽ được Kim Cang Tạng Vương gia bị và được túc mạng. Nhưng nhớ là tâm người này phải thường ghi nhớ, miệng trì tụng chú chuyên nhất không để tạp niệm xen vào, thêm được tâm Bồ-đề quyết định, kết quả mới được sâu xa.
CHÁNH VĂN:
Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối cùng, trong mỗi đời người ấy không sanh trong loài Dược-xoa, La-sát và Phú-đơn-na, Ca-trá-phú-đơn-na, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-giá v.v…và các loại ngạ quỷ có hình, không hình, có tưởng, không tưởng, cả thảy những chỗ dữ như thế, thiện nam tử hoặc tụng, hoặc đọc, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng dường nhiều cách chú này thì kiếp kiếp không sanh vào những nơi bần cùng hạ tiện, chỗ không thể ưa thích.
GIẢNG GIẢI:
Lại được không sanh vào các đường dữ, những chỗ thấp kém không như ý. Như vậy, người khéo trì chú tâm này được khế hợp, kết quả được nhiều lợi ích lớn lao.
CHÁNH VĂN:
Các chúng sanh này dẫu tự thân không tạo phước nghiệp, mười phương Như Lai có các công đức thảy đều cho họ hết. Do đó họ được ở trong những kiếp hằng hà sa số không thể nói, không thể nói hết, thường cùng với chư Phật đồng sanh một chỗ, không lường công đức nhóm lại như trái ác xoa, đồng chỗ huân tu, hằng không phân tán.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói lên sức mạnh của việc trì chú khiến đồng sanh một chỗ với chư Phật, các thứ công đức cùng nhóm họp.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên, có thể khiến người phá giới, giới căn được thanh tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh tấn khiến cho tinh tấn; người không trí tuệ khiến được trí tuệ; người không thanh tịnh khiến mau thanh tịnh; người không trì trai giới, tự thành có trai giới.
A-nan! Thiện nam tử ấy, khi trì chú này giả sử có phạm cấm giới đối với lúc chưa thọ giới, khi trì chú về sau các tội phá giới không luận nhẹ hay nặng một thời đều tiêu diệt. Dù đã uống rượu, ăn năm thứ cay hôi các thứ không sạch, tất cả chư Phật, Bồ-tát, Kim Cang, thiên tiên, quỷ thần không cho là có lỗi. Dù mặc y phục rách nát không sạch, thì một cái đi một cái đứng thảy đồng như thanh tịnh. Dẫu không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành đạo, thì tụng chú này lại đồng như vào đạo tràng hành đạo, công đức không khác. Dù tạo những tội trọng ngũ nghịch vô gián và tội “tứ khí”, “bát khí” của Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, tụng chú này rồi cũng như gió mạnh thổi tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy đều diệt trừ không còn sót một mảy may.
A-nan! Nếu có chúng sanh, từ vô lượng vô số kiếp đến nay, có tất cả các tội chướng hoặc nặng hoặc nhẹ từ đời trước đến giờ chưa kịp sám hối, nếu hay đọc tụng biên chép chú này đeo trên thân, hoặc để chỗ ở như trang trại nhà vườn, quán thì những nghiệp chứa nhóm từ trước, cũng như nước nóng tiêu băng không bao lâu đều được ngộ Vô sanh pháp nhẫn.
GIẢNG GIẢI:
Nhờ chú này gia trì thành tựu được giới tuệ, tinh tấn, tiêu trừ được những nghiệp chướng cho đến ngộ Vô sanh pháp nhẫn. Rõ ràng như vậy. Nếu chúng ta tụng đến chỗ bặt niệm, thấu đến chỗ tâm chú sâu kín không thể nghĩ bàn, thì thành tựu được những công đức không thể nghĩ bàn, đó là ý nghĩa chân thật.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, A-nan! Như có người nữ chưa sanh con trai con gái, muốn cầu mang thai, nếu hay chí tâm nhớ niệm hoặc đeo chú Tát Đát Đa Bát Đát Ra này trên thân, thì liền sanh những con trai con gái có phước đức trí tuệ; hoặc cầu sống lâu thì được sống lâu; cầu quả báo mau viên mãn, thì được mau viên mãn, cho đến thân mạng sắc lực cũng lại như thế, sau khi mạng chung tùy nguyện vãng sanh trong mười phương quốc độ, chắc chắn không sanh nơi biên địa hạ tiện, huống nữa là các tạp hình.
GIẢNG GIẢI:
Cũng lại được thành tựu sự mong cầu như ý, cho đến sanh nơi tốt lành, chỗ như ý. Đó là những ý nghĩa công đức thù thắng của tâm chú này.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Nếu các quốc độ như các châu, huyện, làng, xóm có những tai nạn như đói khát, dịch lệ, hoặc ở những nơi có nạn giặc cướp đao binh, đấu tranh cùng tất cả những chỗ có ách nạn khác, nên viết thần chú này để nơi bốn cửa thành và các tháp hoặc trên các Thoát-xà (đài cao) để cho các chúng sanh hiện có trong cõi nước kính thờ chú này lễ bái, cung kính nhất tâm cúng dường, lại khiến trong nhân dân mỗi người đều đeo chú trên thân, hoặc mỗi người đều để nơi chỗ mình ở, thì tất cả những tai ách thảy đều tiêu diệt.
A-nan! Chúng sanh trong nước, tùy chỗ nào có thần chú này, thì thiên, long hoan hỷ, mưa gió thuận thời tiết, ngũ cốc trúng mùa, dân chúng đều an vui. Lại cũng hay trấn giữ tất cả các thứ ác tinh nó tùy nơi biến ra những điều kỳ lạ, tai chướng không khởi lên, người không hoạnh tử. Gông cùm, xiềng xích không dính vào thân được, ngày đêm ngủ yên, được thường không có mộng dữ.
A-nan! Cõi Ta-bà này có 84000 tai biến ác tinh, hai mươi tám đại ác tinh làm thượng thủ, lại có tám đại ác tinh làm chủ, khi hiện ra trong đời với nhiều hình trạng có thể sanh ra các thứ tai nạn khác lạ cho chúng sanh. Nếu chỗ nào có thần chú này, thì tất cả đều tiêu diệt. Lấy mười hai do-tuần làm vòng kiết giới, các tai biến hung dữ hẳn không thể vào được.
GIẢNG GIẢI:
Sức chú này hay trừ các tai ách, nạn dữ và thường được an lành. Như đã nói, chúng ta phải nhớ đến tâm chú, nhất tâm chuyên chú không tạp niệm mới được những kết quả, lợi ích lớn.
CHÁNH VĂN:
Vậy nên, Như Lai tuyên dạy chú này, vì để bảo hộ hàng sơ học tu hành đời vị lai được vào Tam-ma-địa. Thân tâm thơ thới, được rất an ổn, lại không bị tất cả các ma, quỷ thần và những oan khiên đời trước, nghiệp cũ nợ xưa từ vô thủy tới nay đến khuấy hại nhau. Ông và các người hữu học trong chúng cùng các người tu hành đời vị lai y như lời dạy của Tôi mà lập đàn tràng đúng theo pháp trì giới, gặp được tăng thanh tịnh chủ trì trong việc thọ giới, đối với chú tâm này không sanh lòng nghi hối, thì những thiện nam tử ấy, chính nơi thân cha mẹ sanh ra đây, không được tâm thông thì mười phương Như Lai bèn là nói vọng.
GIẢNG GIẢI:
Cuối cùng, Phật mới lộ ra ý chính, trước Phật nói về sức thần chú trừ những tai ách, hoạn nạn v.v… nhưng đó chưa phải là ý chính, đây mới là ý chính. Cho nên đây mới kết lại: “Vậy nên, Như Lai tuyên dạy chú này vì để bảo hộ hàng sơ học tu hành đời vị lai được vào Tam-ma-địa”. Tức là chú này giúp người sơ học tu hành được tâm thông, vào được Tam-ma-địa và để trừ các ma sự. Vì người nhất tâm thanh tịnh trì tâm chú này thì bặt niệm kia đây lăng xăng, không để những niệm khác xen vào, lại thêm sức thầm gia bị của Như Lai, thì vào chánh định, được tâm thông là dễ tin thôi! Điểm quan trọng là phải biết chỗ “trì”, trì chú đến chỗ nhất tâm thanh tịnh.
CHÁNH VĂN:
Phật dạy lời nói ấy rồi, vô lượng trăm ngàn Kim Cang trong hội, một lúc đứng trước Phật chắp tay đảnh lễ mà bạch Phật rằng: “Như lời Phật dạy, chúng con sẽ thành tâm bảo hộ người tu đạo Bồ-đề như vậy”.
Lúc bấy giờ, Trời Phạm Vương và Trời Đế-thích, Tứ Thiên Vương cũng đối trước Phật đồng thời đảnh lễ mà bạch Phật rằng: “Xét có người lành tu học như vậy, chúng con phải hết lòng chí thành bảo hộ, khiến cho trong một đời tu hành được như nguyện”.
GIẢNG GIẢI:
Đến đây, các vị Trời Phạm Vương, Đế-thích, Tứ Thiên Vương đồng phát nguyện hộ trì người tu hành.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng đại tướng Dược-xoa, các Vua La-sát, Vua Phú-đơn-na, Vua Cưu-bàn-trà, Vua Tỳ-xá-giá, các Đại quỷ vương như Tần-na, Dạ-ca và các quỷ soái cũng đối trước Phật chắp tay đảnh lễ mà bạch Phật: “Chúng con cũng thệ nguyện hộ trì người ấy, khiến cho tâm Bồ-đề mau được viên mãn”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị Đại quỷ vương cũng phát nguyện hộ trì cho người trì chú.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng nhật nguyệt thiên tử, phong sư, vũ sư, vân sư, lôi sư, điện bá và các viên tuế tuần quan, chư tinh cùng quyến thuộc v.v…. cùng ở trong hội chắp tay đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Chúng con nguyện bảo hộ người tu hành ấy an lập đạo tràng, đều không sợ sệt”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị thần nhật nguyệt, phong sư, vũ sư, v.v… cũng phát nguyện hộ trì người tu hành trì chú.
CHÁNH VĂN:
Lại có vô lượng sơn thần, hải thần, tất cả tinh kỳ đất đai muôn vật, thủy, lục, không, hành, với phong thần vương và chư Thiên Vô sắc giới ở trước Đức Như Lai đồng thời cúi đầu mà bạch Phật rằng: “Chúng con nguyện bảo hộ người tu hành ấy được thành tựu Bồ-đề, hằng không có ma sự”.
GIẢNG GIẢI:
Các vị sơn thần, hải thần v.v… cùng chư Thiên Vô sắc giới cũng phát nguyện hộ trì những người tu hành.
CHÁNH VĂN:
Lúc bấy giờ, tám vạn bốn ngàn na-do-tha, hằng hà sa câu-chi Kim Cang Tạng Vương Bồ-tát, ở trong đại hội liền từ chỗ ngồi đứng dậy đảnh lễ dưới chân Phật mà bạch Phật rằng: “Bạch Đức Thế Tôn! Như bọn chúng con công đức và sự nghiệp tu hành thành đạo Bồ-đề đã lâu, mà không nhận lấy Niết-bàn, thường theo chú này để cứu hộ người chân chánh tu hành pháp Tam-ma-đề trong đời mạt pháp. Bạch Thế Tôn! Những người tu tâm cầu vào chánh định như thế; nếu ở tại trong đạo tràng hay những lúc đi kinh hành cho đến tâm tán loạn dạo chơi nơi xóm làng, chúng con và đồ chúng sẽ thường đi theo để hộ vệ người ấy. Dẫu cho Ma vương Đại Tự Tại Thiên muốn có phương tiện khuấy phá trọn không thể được. Các quỷ thần nhỏ đi cách xa người ấy mười do-tuần, trừ khi họ phát tâm thích người tu thiền. Bạch Thế Tôn! Những ác quỷ như thế, hoặc các quyến thuộc muốn đến xâm phạm và nhiễu hại người lành ấy, thì con dùng bảo xử đập nát đầu như bụi nhỏ, thường khiến cho người tu hành ấy được như nguyện”.
GIẢNG GIẢI:
Đây, các vị thần Kim Cang mật tích cũng phát nguyện hộ trì người tu hành. Như đây đã nói, các vị này đáng lẽ là tu hành đã thành đạo Bồ-đề rồi, nhưng do nguyện hộ trì người tu hành, cho nên không nhận lấy Niết-bàn, là thực hành hạnh Bồ-tát chớ không phải tầm thường.
***
Các bài mới
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 18 - CHỈ BÀY BỐN LỜI DẠY BẢO RÕ RÀNG VÀ QUYẾT ĐỊNH - 25/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 17 - CHỈ CHÍNH CHỖ VIÊN TU - 14/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 16 GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG - 06/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 15 CHỈ MỞ GÚT TRƯỚC SAU - 30/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 14 - CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU GÚT - 19/07/2018
Các bài đã đăng
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 13 NÊU RA CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ - 16/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 12 - ĐÁNH CHUÔNG NGHIỆM TÁNH THƯỜNG - 12/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 11 CHỈ NGHĨA QUYẾT ĐỊNH - 06/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 10 LẠI BÁC NGHĨA NHÂN DUYÊN TỰ NHIÊN - 28/06/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 09- CHỈ MÊ VỌNG KHÔNG CÓ NHÂN - 21/06/2018
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 07931
- Online: 77