Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 23 - CHỈ RA MƯỜI TẬP NHÂN, SÁU ĐƯỜNG GIAO BÁO
04/10/2018 | Lượt xem: 3217
Dịch giả: HT.Thích Phước Hảo
Tác giả: TT.Thích Thông Phương
CHÁNH VĂN:
A-nan! Những điều như thế đều do nghiệp báo, các chúng sanh kia tự chiêu cảm lấy, như gây mười tập nhân thì chịu sáu giao báo là những điều như thế.
GIẢNG GIẢI:
Sở dĩ có những tình tưởng sai biệt cảm khiến đi lên đi xuống như đã nói ở trước, không phải là ai đem đến mà do nghiệp chúng sanh tự tạo rồi chiêu cảm. Nếu chúng sanh gây mười tập nhân thì sẽ chịu sáu giao báo, tức tạo cái nhân thì sẽ có nghiệp báo đáp lại. Đây nói về mười tập nhân.
CHÁNH VĂN:
Thế nào là mười tập nhân?
* A-nan! Một là, tập quán dâm dục cùng giao tiếp nhau phát sanh cọ xát lẫn nhau, cọ xát mãi không thôi; như thế, nên trong ấy có ngọn lửa hồng lớn nổi lên, như người lấy hai bàn tay cọ xát với nhau, thì có cảm giác nóng hiện ra. Hai cái tập khí đốt nhau, nên có những việc giường sắt, trụ đồng. Thế nên, tất cả mười phương các Như Lai, nhận xét dâm dục đồng gọi là lửa dục, Bồ-tát đối với dâm dục tránh xa như tránh hầm lửa.
GIẢNG GIẢI:
Thứ nhất tập quán dâm dục. Do tâm dâm dục chứa thành thói quen nhiều đời gọi là tập quán, từ đó giao tiếp cọ xát lẫn nhau thành có ngọn lửa lớn; rồi hai tập khí dâm dục đó đốt nhau cảm đến có nằm giường sắt, có ôm trụ đồng phải chịu khổ nơi địa ngục. Người dâm dục bị lửa dục thiêu đốt, Bồ-tát thì tránh xa như tránh hầm lửa. Từ đó, nhắc chúng sanh tránh chớ theo tập nhân dâm dục rồi phải chịu khổ báo.
CHÁNH VĂN:
* Hai là, tập quán tham lam so đo hơn thiệt, phát sanh hấp thụ lẫn nhau, hấp thụ ôm ấp mãi không thôi, vì thế nên tích tụ hơi lạnh bên trong thành băng cứng làm cho nứt nẻ; ví như có người hút hơi gió vào sanh ra cảm giác lạnh. Hai tập lấn át nhau, nên có những sự tra tra, ba ba, la la, thanh liên, xích liên, bạch liên, hàn băng v.v... thế nên, mười phương Như Lai nhận xét, tham cầu quá nhiều, đồng gọi là nước tham, Bồ-tát đối với lòng tham, tránh như tránh biển độc.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về tham là so đo tính toán tìm cầu, nên cảm đến có địa ngục Hàn băng. Hàn băng là băng lạnh, tội nhân chịu lạnh rên xiết thành những tiếng “tra tra”, “ba ba”, “la la” v.v... Còn hoa sen xanh, hoa sen đỏ, hoa sen trắng là màu băng lạnh của những địa ngục này. Chư Như Lai gọi nó là nước tham, Bồ-tát thì tránh như tránh biển độc.
CHÁNH VĂN:
* Ba là, tập quán ngã mạn lấn lướt lẫn nhau, phát sanh ỷ thế với nhau, dong ruổi mãi không dừng, vì thế nên có bôn ba, sôi nổi, chứa sóng lại thành nước, ví như có người miệng lưỡi tự chép làm cho nước bọt chảy ra. Hai tập khí chọi nhau, nên có các việc: sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy v.v... Thế nên, tất cả Như Lai ở mười phương nhận xét, lòng ngã mạn gọi là uống nước si mê, Bồ-tát đối với tâm ngã mạn, như tránh vực thẳm.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán ngã mạn, như ỷ thế lấn lướt người, do đó cảm đến các tướng ở địa ngục sông máu, sông tro, cát nóng, biển độc, bắt uống nước đồng chảy. Chư Như Lai thường gọi tập quán ngã mạn đó là uống nước si mê, Bồ-tát tránh như tránh vực thẳm.
CHÁNH VĂN:
* Bốn là, tập quán nóng giận xung đột lẫn nhau, phát sanh chống đối lẫn nhau, chống đối mãi không thôi, tâm nổi nóng phát ra lửa, nên cái khí đúc thành kim thuộc. Vì thế nên có núi đao, đòn sắt, cây gươm, bánh xe gươm, búa, rìu, thương, cưa. Ví như người bị hàm oan thì sát khí nổi lên. Hai tập khí chống chọi nhau, nên có các việc thiến, cắt, chém, chặt, dùi, đâm, đập, đánh. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự nóng giận gọi là dao gươm bén, Bồ-tát đối với lòng nóng giận, tránh như tránh chém giết.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về nóng giận xung đột chống đối lẫn nhau, nên cảm đến địa ngục núi đao, đòn sắt, cây gươm v.v... Có thiến, cắt, chém, chặt v.v... là những việc trong địa ngục. Chư Như Lai gọi đó là dao gươm bén. Bồ-tát tránh như tránh chém giết.
CHÁNH VĂN:
* Năm là, tập quán về giả dối dụ dỗ theo nhau phát sanh lôi kéo lẫn nhau, dẫn dắt mãi không thôi; như vậy, nên có dây, cây, thòng lọng, căng nọc, ví như nước thấm vào ruộng, cỏ cây sanh trưởng. Hai tập khí kéo dài với nhau, nên có các việc gông, cùm, xiềng xích, roi gậy, qua bảng. Vậy nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét giả dối đồng là sàm tặc, Bồ-tát thấy giả dối sợ như beo sói.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về giả dối dụ dỗ lôi kéo lẫn nhau do đó mà cảm đến địa ngục có những thứ như là dây, cây, thòng lọng, căng nọc tội nhân, rồi các việc gông, cùm, xiềng xích v.v... Bởi vậy, chư Như Lai gọi giả dối đó là giặc sàm tặc, Bồ-tát tránh như sợ beo sói.
CHÁNH VĂN:
* Sáu là, tập quán về lừa gạt lừa dối với nhau, phát sanh phỉnh gạt lẫn nhau. Phỉnh gạt mãi không thôi, phóng tâm tạo những điều gian dối như vậy, cho nên có đất bụi, đại tiện, tiểu tiện, các đồ nhơ nhớp không sạch, như bụi theo gió mỗi cái không thấy lẫn nhau. Hai tập khí dìm hại lẫn nhau, nên có các việc chìm đắm, nhảy ném, bay rơi, trôi lăn. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự lừa dối đồng gọi là cướp giết, Bồ-tát đối với sự dối gạt như đạp nhằm rắn rết.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về lừa gạt lẫn nhau, nên cảm đến địa ngục có đất bụi, đại tiện, tiểu tiện, các đồ nhơ và các việc như là chìm đắm, nhảy ném, hoặc bay rơi, hoặc là trôi lăn để hành hạ tội nhân. Chư Như Lai gọi lừa gạt như là cướp giết, Bồ-tát tránh như đạp nhằm rắn rết.
CHÁNH VĂN:
* Bảy là, tập khí thù oán hiềm khích lẫn nhau, phát sanh ôm lòng giận hờn, như thế cho nên có quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, bình đựng, đãy bọc, như người hiểm độc ôm ấp điều dữ. Hai tập khí nuốt nhau nên có những sự ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo ôm. Vậy nên tất cả các Đức Như Lai thập phương nhận xét sự thù oán gọi là quỷ Vi Hại, Bồ-tát đối với sự thù oán như uống rượu độc.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán thù oán hiềm khích cảm đến địa ngục có quăng đá, có ném gạch, có hộp nhốt, hoặc xe cũi, bình đựng, đãy bọc, hoặc những việc ném, quăng, nắm, bắt, đánh, bắn, gieo ôm, hành hạ tội nhân. Chư Như Lai gọi là quỷ Vi Hại hại người, Bồ-tát tránh như tránh uống rượu độc.
CHÁNH VĂN:
* Tám là, tập quán ác kiến tranh cãi với nhau như ngã kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và các nghiệp tà ngộ, phát sanh ra chống trái lẫn nhau, như thế nên có sứ vua chủ lại nắm giữ giấy tờ làm chứng, như người đi đường qua lại gặp nhau. Hai tập khí giao nhau, nên có các việc khám hỏi mưu mẹo, khảo tấn, hạch hỏi, gạn xét cứu tra soi sáng và những đồng tử thiện ác, tay cầm sổ sách biện bạch cãi vã. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét ác kiến đồng gọi là hầm kiến chấp, Bồ-tát đối với các thứ thiên chấp hư dối như đến bên hố độc.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về ác kiến tức những kiến chấp tà thành tranh cãi có chống trái lẫn nhau. Do đó cảm đến địa ngục có sứ vua, có chủ lại, có các việc khám hỏi, mưu mẹo, khảo tấn, hạch hỏi, gạn xét cứu tra soi sáng v.v... Bởi vậy, chư Như Lai gọi tập quán về ác kiến là hầm kiến chấp, Bồ-tát tránh như đến bên hố độc.
CHÁNH VĂN:
* Chín là, là tập quán về vu vạ, làm hại lẫn nhau, phát sanh vu báng. Như thế nên có núi ép, đá ép, cối xay, cối nghiền, cày bừa, ví như kẻ sàm tặc áp bức vu oan cho người lành. Hai tập khí ấy bài xích lẫn nhau, nên có các việc áp giải, đè dập, ép huyết tuốt mình. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét việc vu vạ đồng gọi là sàm hổ, Bồ-tát đối với vu vạ như bị sấm sét.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về vu vạ hay vu báng, cảm đến địa ngục có núi ép, đá ép cối xay, cối nghiền, cày bừa; rồi những việc như áp giải, đè dập, ép huyết tuốt mình. Bởi vậy chư Như Lai gọi là sàm hổ là những con cọp hại người, Bồ-tát tránh như bị sấm sét.
CHÁNH VĂN:
* Mười là, tập quán kiện thưa cãi vã lẫn nhau phát sanh sự che đậy. Như thế nên có gương soi, đuốc chiếu, như ở giữa ban ngày không thể giấu bóng được. Hai tập khí phô bày lẫn nhau, nên có các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa để đối nghiệm. Thế nên tất cả các Đức Như Lai mười phương nhận xét sự che đậy đồng gọi là giặc ngầm, Bồ-tát đối với sự che đậy như đội núi cao, lội trong biển lớn.
GIẢNG GIẢI:
Tập quán về kiện thưa có che đậy nên cảm đến địa ngục có gương soi, có đuốc chiếu, và các việc bạn ác, gương nghiệp, hỏa châu phơi bày nghiệp xưa. Tức đứng trước gương nghiệp đó sẽ lộ ra hết những việc làm của mình từ trước, không còn chối cãi. Chư Như Lai gọi tập quán kiện thưa như giặc ngầm, Bồ-tát tránh như đội núi cao, như lội trong biển lớn, tức là đủ để tự nhàm chán.
Đó là 10 tập nhân, là cái nhân huân tập nơi tâm luôn tương tục, rồi cảm đến các tướng địa ngục hiện mà chịu khổ. Tất cả cũng không phải ngoài tâm riêng có.
Hiểu vậy rồi chúng ta phải khéo chuyển tự tâm thì bên ngoài sẽ chuyển theo. Kế nói đến sáu giao báo.
CHÁNH VĂN:
Thế nào gọi là sáu giao báo? A-nan! Tất cả chúng sanh do sáu thức tạo nghiệp, nên chiêu cảm ác báo, đều từ sáu căn mà ra.
GIẢNG GIẢI:
Sáu thức tạo nghiệp cũng từ sáu căn mà ra. Rồi nó chiêu cảm tới ác báo thì cũng từ sáu căn mà chịu. Một căn tạo nghiệp đồng cảm đến sáu căn cùng thọ báo, cho nên gọi là giao báo. Ở trước, Phật chỉ từ sáu căn chứng viên thông, đây chỉ ra từ sáu căn tạo nghiệp chịu khổ. Mới thấy, nơi sáu căn này là căn bản đi lên đi xuống, cũng chứng minh cho thấy sáu căn là gốc sanh tử luân hồi, cũng chính sáu căn là gốc Bồ-đề Niết-bàn. Mê ngộ cũng ngay đây chia đường khỏi phải tìm đâu xa, cho nên tu là tu ngay sáu căn này đây. Người tu hành nếu không nắm vững đường lối tu, lo tìm xa xôi mà quên mất ngay sáu căn này là đủ hết.
CHÁNH VĂN:
Các báo dữ từ sáu căn như thế nào?
* Một là, giao báo về thấy chiêu cảm quả báo dữ. Khi nghiệp thấy ấy giao báo, thì khi lâm chung, trước hết thấy lửa dữ đầy cả mười phương, thần thức người chết bay rơi theo khói vào địa ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là thấy sáng: khắp thấy các vật dữ sanh ra khiếp sợ không lường; hai là thấy tối: lặng im không thấy gì sanh ra hoảng hốt vô hạn. Lửa thấy như thế, nó đốt cái nghe có thể làm vạc dầu sôi, làm nước đồng chảy. Đốt hơi thở, thì hay làm khói đen, lửa đỏ; đốt cái nếm, thì hay làm viên tròn hung đỏ, làm cơm sắt; đốt cảm xúc, thì hay làm tro nóng, lò than; đốt tâm ý, thì hay sanh ra sao lửa rưới khắp làm rung động cả cõi hư không.
GIẢNG GIẢI:
Khi lâm chung nghiệp thấy giao báo trước thấy lửa dữ đầy cả mười phương, thần thức người chết bay theo khói vào địa ngục vô gián, trong đó phát ra hai tướng: Thấy sáng: khắp thấy các vật dữ ghê rợn cho nên sanh ra khiếp sợ bất an. Còn nếu thấy tối: lặng im không thấy gì cả, thành ra hoảng hốt, cả hai đều khiến khổ sở.
Từ lửa thấy mới đốt đến cái nghe, đốt hơi thở, đốt cái nếm, đốt cái xúc, đốt tâm ý, lúc đó đâu còn nhớ biết gì đến tánh chân, nguy hiểm vậy đó!
CHÁNH VĂN:
* Hai là, giao báo về nghe chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp nghe này giao báo thì khi lâm chung trước là thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức người chết sa xuống theo dòng nước vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là nghe rõ, nghe tất cả các thứ ồn náo, tinh thần rối loạn; hai là lại điếc hẳn lặng lẽ không nghe gì, thần thức chìm lịm. Sóng nghe như thế rót vào cái nghe, thì hay làm trách làm hỏi; rót vào cái thấy, thì hay làm sấm, làm rống, làm hơi độc dữ; rót vào hơi thở, thì hay làm mưa làm mù, rưới các sâu độc đầy khắp cả thân thể; rót vào vị, thì hay làm mủ làm máu, các thứ nhơ bẩn; rót vào cảm xúc, thì hay làm súc sanh, làm quỷ, làm phân, làm nước tiểu; rót vào ý nghĩ, thì hay làm chớp, làm mưa đá đập nát tâm thức.
GIẢNG GIẢI:
Giao báo về cái nghe, cảm đến sóng nghe ngập trời đưa vào địa ngục. Khi lâm chung thấy sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức sa xuống theo dòng nước vào địa ngục, trong đó phát ra hai tướng: một là nghe rõ tất cả các thứ ồn náo, nghe tiếng này tiếng kia làm cho tinh thần rối loạn bất an, khổ sở. Hai là lại điếc hẳn không nghe gì, thành ra thần thức chìm lịm, hai cái đều khổ hết.
Sóng nghe đó mới rót vào cái thấy, rót vào hơi thở, rót vào vị, rót vào xúc, rót vào ý làm cho quên mất cả tánh chân không còn nhớ biết gì. Đó là để chúng ta biết mà chuyển nhớ trở lại tánh nghe, tánh thấy sáng suốt, đừng theo đó mà tạo nghiệp rồi cảm đến những giao báo nguy hiểm!
CHÁNH VĂN:
* Ba là, giao báo về ngửi chiêu cảm quả dữ, nghiệp ngửi ấy giao báo, thì khi lâm chung trước thấy hơi độc đầy dẫy xa gần, thần thức người chết từ dưới đất vọt lên, vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các hơi độc xông tột bực làm cho tâm rối loạn; hai là ngạt mũi, hơi ngạt không thông nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi như thế xông vào hơi thở, thì làm thông làm ngạt; xông vào cái thấy, thì có thể làm lửa làm đuốc; xông vào cái nghe, thì có thể làm chìm ngập làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi; xông vào vị, thì có thể làm đói, làm ngấy; xông vào cảm xúc, thì có thể làm xấu làm nát, làm núi thịt lớn có trăm ngàn con mắt, bị ăn hút không lường; xông vào ý, thì có thể làm tro, làm chướng khí, làm gạch, cát, đá bay lên đánh nát thân thể.
GIẢNG GIẢI:
Về nghiệp ngửi chiêu cảm hơi độc đầy dẫy, rồi thần thức theo đó vào địa ngục cũng phát ra hai tướng: một là ngửi thông, bị các hơi độc xông nên tâm rối loạn; hai là ngạt mũi, không thông cho nên nằm chết giấc dưới đất. Hơi ngửi đó xông vào hơi thở, xông vào cái thấy, xông vào cái nghe, xông vào vị, xông vào xúc, xông vào ý, làm cho quên mất tánh chân.
CHÁNH VĂN:
* Bốn là, giao báo về vị chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp vị đó giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy lưới sắt nung đỏ, che khắp cả thế giới; thần thức của người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo đầu lộn ngược xuống vào ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là ướp hơi vào kết thành giá lạnh, thịt trong thân bị nứt nẻ; hai là phun hơi bay ra làm lửa hồng, đốt cháy rụi xương tủy. Vị nếm như thế qua cái nếm, thì có thể làm nhận làm chịu; qua cái thấy, thì có thể làm các thứ kim thạch đốt cháy; qua cái nghe, thì có thể làm binh khí sắc bén; qua hơi thở, thì có thể làm lồng sắt lớn che trùm cõi nước; qua cái cảm xúc, thì có thể làm cung, làm tên, làm nỏ, làm bắn; qua cái ý, thì có thể làm sắt nóng bay từ trên không rưới xuống.
GIẢNG GIẢI:
Giao báo về vị sẽ chiêu cảm lúc chết thấy lưới sắt nung đỏ, che khắp thế giới, thần thức của người chết từ dưới tung lên, mắc lưới treo đầu lộn ngược xuống mà vào địa ngục chịu khổ, cũng phát ra hai tướng: một là ướp hơi vào kết thành giá lạnh, cho nên thịt trong thân bị nứt nẻ, khổ sở; hai là phun hơi bay ra làm lửa hồng, đốt cháy rụi xương tủy. Rồi vị báo đó mới đi qua cái thấy, đi qua cái nghe, đi qua hơi thở, đi qua cái cảm xúc, đi qua cái ý, cũng làm rối loạn quên mất tánh chân.
CHÁNH VĂN:
* Năm là, giao báo về xúc chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp xúc đó giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy núi lớn bốn mặt đến hợp lại không còn đường ra, thần thức người chết thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, cọp, sói, sư tử, ngục tốt đầu trâu, La-sát đầu ngựa, tay cầm cây thương, xóc, lùa vào cửa thành, hướng về ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là hợp xúc, thì núi ép kẹp mình xương thịt nát ra máu; hai là ly xúc, thì dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc báo như vậy, qua cái xúc, thì có thể làm đạo, làm quán, làm sảnh, làm án; qua cái thấy, thì có thể làm đốt, làm nung; qua cái nghe, thì có thể làm đập, làm đánh, làm đâm, làm bắn; qua hơi thở, thì làm trùm làm đẫy, làm tra làm trói; qua cái nếm vị, thì có thể làm cày, làm kềm, làm chém, làm chặt; qua cái ý, thì có thể làm rơi, làm bay, làm nấu, làm nướng.
GIẢNG GIẢI:
Về xúc thì cảm giao báo khi chết thấy núi lớn bốn mặt hợp lại không còn đường ra, thần thức thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa v.v...; những ngục tốt đầu trâu, La-sát đầu ngựa, tay cầm thương, xóc, lùa vào thành, rơi vào địa ngục, trong đó phát ra hai tướng: khi cái xúc hợp thì thành núi ép kẹp mình xương thịt nát nhừ ra máu; hai là ly xúc, thành ra dao gươm chạm vào mình, tim gan cắt xẻ. Xúc đó nó qua cái thấy, qua cái nghe, qua hơi thở, qua cái vị, qua ý, cũng làm quên mất không còn biết đâu là tánh chân thật nữa.
CHÁNH VĂN:
* Sáu là, giao báo về suy nghĩ chiêu cảm quả dữ. Khi nghiệp ý giao báo, thì lúc lâm chung trước thấy gió dữ thổi tiêu hoại cõi nước, thần thức của người chết bị gió thổi bay trên không, xoay rơi trên gió, sa xuống địa ngục vô gián, phát ra hai tướng: một là không biết mê muội cùng tột, hoang mang bỏ chạy không thôi; hai là không mê, tỉnh biết thì khổ bị thiêu đốt không cùng, đau đớn thống thiết khó nhẫn chịu. Như thế kết vào ý nghĩ, thì có thể làm phương, làm sở; kết vào cái thấy, thì có thể làm gương soi, làm chứng cớ; kết vào cái nghe, thì có thể làm đại hợp thạch, làm giá, làm sương, làm đất, làm mù; kết vào hơi thở, thì có thể làm xe lửa lớn, làm thuyền lửa, làm cũi lửa; kết vào cái nếm vị, thì có thể làm kêu la to, làm hối hận, làm khóc lóc; kết vào xúc, thì có thể làm lớn, nhỏ, làm cho một ngày muôn lần sống, muôn lần chết, làm nghiêng làm ngửa”.
GIẢNG GIẢI:
Giao báo về ý, đến lúc lâm chung cảm đến gió dữ thổi tiêu hoại cõi nước, thần thức của người chết bị gió thổi bay trên không, xoay rơi trên gió, sa xuống địa ngục, phát ra hai tướng: một là mê muội không biết gì, hoang mang bỏ chạy; hai là không mê thì tỉnh biết, do tỉnh biết bị khổ thiêu đốt đau đớn khó chịu không cùng. Giao báo đó kết vào cái thấy, kết vào cái nghe, kết vào hơi thở, kết vào cái nếm vị, kết vào xúc, làm cho quên không còn biết đâu là tánh chân thật nữa.
Đó là những cái khổ của con đường bất giác vô minh. Chúng ta được may mắn học Phật, phải khéo biết để tu tập xoay trở về giác ngộ, ngay sáu căn đó mà trở lại tánh chân thật.
Kết luận về tập nhân giao báo:
CHÁNH VĂN:
Phật bảo: “A-nan! Ấy gọi là mười nhân và sáu quả của địa ngục đều do chúng sanh mê vọng mà tạo ra.
Nếu các chúng sanh sáu căn đồng tạo nghiệp dữ, thì vào ngục A-tỳ chịu khổ không lường, trải qua vô lượng kiếp. Nếu từng mỗi căn tạo ra và nghiệp dữ đã làm, gồm cả cảnh và căn, thì người ấy vào tám địa ngục vô gián.
GIẢNG GIẢI:
Trước là tổng kết mười tập nhân và sáu quả giao báo do mê vọng tạo ra. Chúng sanh lại lầm cho là thật, theo đó tạo nghiệp rồi chịu khổ. Đau đớn là chỗ đó!
Do sáu căn của chúng sanh đồng tạo nghiệp dữ cực ác, đủ cả mười tập nhân thì vào địa ngục A-tỳ, trải qua vô lượng kiếp chịu khổ không lường. Nếu từng mỗi căn tạo nghiệp dữ gồm có căn và cảnh thì vào tám địa ngục vô gián, nhẹ hơn. Địa ngục vô gián là ngục quyến thuộc của ngục A-tỳ. A-tỳ là đại ngục nặng nhất, còn tám ngục vô gián này thì cũng nặng nhưng còn nhẹ hơn ngục A-tỳ.
CHÁNH VĂN:
Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, thì người ấy vào mười tám địa ngục; không đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý, hoặc trong ấy chỉ làm việc sát, hoặc việc đạo (trộm) người ấy vào ba mươi sáu địa ngục. Chỉ có một căn riêng làm một việc, thì người ấy vào một trăm lẻ tám địa ngục.
GIẢNG GIẢI:
Nếu cả thân, khẩu, ý làm việc sát, đạo, dâm, không tạo đủ mười tập nhân nên tội nhẹ hơn phải vào mười tám địa ngục. Nếu chỉ làm việc sát sanh hoặc việc trộm cắp, hoặc không tạo đủ cả ba nghiệp thân, khẩu, ý thì vào ba mươi sáu địa ngục; là những địa ngục ở trên, thuộc nhẹ.
Nếu chỉ có một căn riêng làm một việc, thì vào một trăm lẻ tám địa ngục chịu khổ nhưng nhẹ hơn các địa ngục đã nói trên.
CHÁNH VĂN:
Do những chúng sanh ấy riêng gây ra nghiệp, nên vào chỗ đồng phần ấy, đó đều do vọng tưởng phát sanh chẳng phải bản lai tự có.
GIẢNG GIẢI:
Ngài Hàm Thị giải rõ thêm: “Mỗi chúng sanh riêng tạo nghiệp thì có chỗ thọ khổ riêng tùy theo tội của người tạo, nhưng các cái riêng đó chung lại thành chỗ đồng phần”, là có chỗ để cùng đến. Ở trước nói, chỗ đồng phần có sẵn nhưng rốt ráo cũng không ngoài vọng tưởng phát sanh, như trong mộng thấy rõ hết, còn tỉnh dậy thì đâu có. Thế nên, tuy nói vọng tưởng tạo rồi phát sanh, nhưng do chúng sanh mê lầm thấy cái gì cũng chấp là thật, khổ cũng thật mà vui cũng thật, cho nên địa ngục cũng thật.
Giống như trong mộng, tuy mộng không thật nhưng ngủ mê nên thấy mộng là thật. Như trong mộng gặp việc vui thì cũng vui, gặp khổ cũng khổ, gặp cọp rượt cũng chạy v.v... Đây cũng vậy, còn mê thấy mọi việc đều thật nên mới tạo nghiệp chịu khổ. Mỗi người tạo nghiệp đều có chỗ riêng của người đó ứng với nghiệp mình đã tạo. Do mỗi người tạo nhiều cái riêng đi chung lại thành chỗ đồng phần. Như ở thế gian, người tạo tội ác có chỗ để giam theo nghiệp riêng của người đó, khi nhiều người tạo cùng nghiệp thì có ngục tù cùng vào chung.
Để thấy tất cả việc ấy, rốt ráo cũng không ngoài vọng tưởng phát sanh. Do chúng sanh lầm chấp là thật, rồi tạo nghiệp phải chịu khổ cho nên có địa ngục để chúng sanh ấy thọ lãnh những quả báo của mình đã làm.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, A-nan! Các chúng sanh ấy chê bai phá hoại luật nghi, phạm giới cấm Bồ-tát, hủy báng Niết-bàn của Phật và các nghiệp phức tạp khác, sau khi bị đốt cháy trải qua nhiều kiếp đền tội hết rồi thì chịu các hình quỷ.
GIẢNG GIẢI:
Đây nói dư báo của tội ở địa ngục. Sau khi thọ khổ ở địa ngục xong, liền sanh vào các loài quỷ, gọi là dư báo của địa ngục.
CHÁNH VĂN:
Nếu ở nơi bản nhân do tham vật mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp vật thành hình, tên là Quái quỷ; do tham sắc mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp gió thành hình gọi là Bạt quỷ; tham mê hoặc dối trá mà làm ra tội, người ấy đền tội xong, gặp giống súc thành hình gọi là Mỵ quỷ; do tham nóng giận mà làm ra tội, người ấy chịu tội xong, gặp con sâu thành hình gọi là Cổ độc quỷ; do tham thù oán mà làm ra tội, người ấy đền tội xong gặp vận suy thành hình, gọi là Lệ quỷ; do tham ngã mạn mà làm ra tội, người ấy đền tội xong, gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ; do tham lừa gạt làm ra tội, người ấy chịu tội xong, gặp u ẩn thành hình, gọi là Áp quỷ; do tham ác kiến làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp tinh hoa thành hình gọi là Võng lượng quỷ; do tham vu vạ làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp linh hiển thành hình, gọi là Dịch sử quỷ; do tham bè phái che giấu làm ra tội, người ấy khi đền tội xong, gặp con người thành hình gọi là Truyền tống quỷ.
GIẢNG GIẢI:
Dư báo sanh vào loài quỷ thứ nhất là Quái quỷ. Quái quỷ do gá vào vật khác mà hiện hình để làm yêu quái. Đây gốc do tham vật thành ra tội.
Còn gốc tham sắc làm ra tội thì sanh làm Bạt quỷ, nương theo gió mà thành hình.
Tham mê hoặc dối trá làm ra tội, xong rồi gặp giống súc sanh thành hình gọi là Mỵ quỷ, là loài quỷ gá vào những giống súc sanh làm mê hoặc người, như hồ ly hay hiện hình nam nữ đẹp để mê hoặc người, gọi là Mỵ quỷ.
Gốc do tham nóng giận hại người làm ra tội, xong rồi gặp con sâu độc thành hình gọi là Cổ độc quỷ.
Rồi do thù oán làm ra tội, khi xong thành hình gặp những lúc thời vận suy gá vào đó làm thành những bệnh ôn, bệnh dịch gọi là Lệ quỷ.
Do tham ngã mạn làm ra tội, khi tội xong gặp khí thành hình, gọi là Ngạ quỷ, thường tự đói khát, khổ sở.
Còn tham lừa gạt làm ra tội, tội xong gặp những khi tối tăm, u ẩn thành hình, gọi là Áp quỷ, quỷ này thừa lúc người ta ngủ mê đè người nên gọi là ma đè.
Do tham ác kiến làm ra tội, xong rồi gặp tinh hoa thành hình gọi là Võng lượng quỷ, hay gá vào những tinh hoa của mặt trời, mặt trăng và núi sông rồi thành hình.
Do tham vu vạ tức là vu khống người ta, khi hết tội ở địa ngục, gặp những cái sáng thành hình, gọi là Dịch sử quỷ, loài quỷ bị phù chú gá vào thành hình, nghe theo sự sai sử để làm họa phúc.
Do tham bè phái che giấu làm ra tội, xong rồi gặp con người thành hình gọi là Truyền tống quỷ, hay gá vào người như là đồng bóng thường nói về tốt xấu.
Chúng ta học kinh này nghe Phật dạy rồi mới thấy sợ hãi, chỉ vì một chút bất giác vọng tưởng tạo nghiệp mà thành chịu khổ như vậy.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Những người ấy đều do thuần tình phải đọa lạc, bị lửa nghiệp đốt khô, thì lên làm quỷ. Những loài như thế là từ nghiệp vọng tưởng mà chiêu cảm. Nếu chứng ngộ Bồ-đề, thì tánh Diệu Viên Minh vốn không thật có.
GIẢNG GIẢI:
Kết lại, đây là do sống theo thuần tình nên phải đọa lạc, song tất cả cũng từ nghiệp vọng tưởng chiêu cảm thôi. Khi chứng ngộ Bồ-đề, thì tánh Diệu Viên Minh vốn không có những việc này. Học đây cũng là giúp chúng ta biết rõ nó không có thật thể, vốn là tánh nguyên chân, nên cần phải khéo giác ngộ trở lại đừng theo đó mà càng đi thì càng xa mất gốc.
Kế nói về Súc sanh báo.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa A-nan! Khi nghiệp quỷ đã hết thì tình và tưởng cả hai đều thành không, mới ở thế gian cùng với những người mình đã thiếu nợ cũ oán đối gặp nhau, thân làm súc sanh để trả nợ trước.
GIẢNG GIẢI:
Khi nghiệp quỷ hết thì sao? Nghiệp quỷ hết thì ở thế gian cùng với người mà trước mình đã thiếu nợ lại tìm gặp nhau, làm súc sanh để trả nợ cũ. Đó là còn dư báo để trả cho hết những nợ trước. Là tiếp tục đi vào loài súc sanh.
CHÁNH VĂN:
Quái quỷ theo vật, vật tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài chim kiêu. Quỷ theo gió, gió tiêu báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm các loài kỳ dị (báo điềm xấu). Mỵ quỷ theo súc, súc chết báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm loài chồn. Cổ quỷ theo sâu, sâu diệt báo hết, phần nhiều sanh nơi thế gian làm loài có độc. Lệ quỷ theo vận suy, suy tột báo hết sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài giun. Ngạ quỷ theo khí, khí tiêu báo hết, sanh nơi thế gian làm loài cung cấp thịt ăn. Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu báo đã hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài đồ mặc. Võng lượng quỷ theo tinh hoa, tinh hoa báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm loài cảm ứng. Dịch sử quỷ theo sự linh hiển, linh hiển diệt báo hết, sanh nơi thế gian, phần nhiều làm tất cả loài hưu trưng (báo điềm tốt). Truyền tống quỷ theo người, người chết báo hết, sanh nơi thế gian phần nhiều làm các loài quấn quít bên người.
GIẢNG GIẢI:
Những loài Quái quỷ gá vào vật thành hình, khi vật tiêu báo hết, sanh nơi thế gian làm loại chim kiêu cũng ôm cục đất.
Nghiệp báo của loài Bạt quỷ hết, thường sanh vào loại chim báo điềm xấu. Ngài Hàm Thị giải như chuột, chim sẻ, nó báo những điềm mất mùa, hoặc là chim hạc múa thì nó ứng với điềm hạn hán, đó là những loài báo việc xấu.
Nghiệp báo của loài Mỵ quỷ hết, thường sanh vào loài chồn.
Nghiệp báo của loài Cổ độc quỷ hết, thường sanh vào loài có độc như rắn rết loại độc.
Nghiệp báo của loài Lệ quỷ hết, thường sanh vào loài giun nhỏ nhoi.
Nghiệp báo của loài Ngạ quỷ hết, sanh vào loài cung cấp thức ăn cho người.
Nghiệp báo của loài Áp quỷ theo u ẩn, u ẩn tiêu, báo đã hết, sanh vào loài phần nhiều làm loài đồ mặc.
Nghiệp báo của loài Võng lượng quỷ hết, thường sanh vào loài cảm ứng như những loại chim hồng, chim yến ứng theo thời tiết mà nó đến.
Nghiệp báo của loài Dịch sử quỷ hết, thường sanh vào loài báo điềm tốt, như loài lân, loài phụng.
Nghiệp báo của loài Truyền tống quỷ hết, thường sanh vào những loài quấn quýt bên người như là chó, mèo.
Phật kết luận:
CHÁNH VĂN:
A-nan! Bọn ấy đều do lửa nghiệp đốt khô sanh ra loài súc đền trả nợ trước. Như thế, đều do vọng nghiệp của tự mình chuốc lấy. Nếu ngộ tánh Bồ-đề, thì vọng duyên đó vốn không thật có.
GIẢNG GIẢI:
Kết lại cũng do vọng nghiệp mà tự chuốc lấy quả xấu. Nếu ngộ tánh Bồ-đề thì vọng duyên vốn không thật có. Cho nên, tuy vậy nhưng tất cả không có cái thật ngã. Nhớ kỹ! Đều không có cái thật ngã! Chính vì vậy nên còn có đường trở về.
CHÁNH VĂN:
Như lời ông nói, bọn Bảo Liên Hương, Vua Lưu Ly, Tỳ-kheo Thiện Tinh đều vốn tự tạo nghiệp dữ như thế. Nghiệp ấy không phải từ trên trời rơi xuống, từ dưới đất vọt lên, cũng không phải người khác đưa tới, mà chính do vọng tưởng của tự mình gây ra rồi trở lại tự mình thọ báo, đối với tâm Bồ-đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả dối.
GIẢNG GIẢI:
Đây Phật nói về việc của Tỳ-kheo-ni Bảo Liên Hương v.v... cũng do vọng tưởng tự mình gây ra, rồi tự mình phải thọ lấy quả báo chứ không phải ai đem đến. Nhưng đối với tâm Bồ-đề, đó chỉ là sự kết động của vọng tưởng giả dối, không phải thật, không ngoài tâm riêng có, nếu tu tập ngộ trở lại tự tâm thì mở đường giải thoát trở về.
CHÁNH VĂN:
Lại nữa, A-nan! Từ các súc sanh ấy đã đền trả nợ trước, nếu khi trả nợ mà trả quá nợ cũ, thì các chúng sanh này trở lại làm người đòi lại chỗ thừa kia. Nếu như người ấy có thế lực, lại có cả phước đức, thì ở trong loài người, không xả thân người mà hoàn lại chỗ thừa đó; còn nếu không có phước đức thì phải làm súc sanh để trả nợ đền lại chỗ thừa.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa là trong lúc chúng sanh đó sanh ra làm con trâu, con bò v.v... cày bừa, chuyên chở để trả nợ; nếu người chủ đòi nợ nhiều khi đòi quá số nợ đã thiếu thì người chủ ấy phải thiếu trở lại trâu, bò kia. Như khi đền nợ đủ rồi lại làm thịt trâu bò ăn luôn, đó là trâu bò kia trả dư nợ, nên chủ của nó phải trả lại, nhân quả đâu đó rõ ràng. Có hai trường hợp: Nếu người kia có phước đức thì ngay trong hiện đời trả luôn, còn nếu không có phước đức thì phải sanh trở lại đời sau làm súc mà trả nợ. Cho nên, người giàu có đôi khi trở thành kẻ thiếu nợ là như vậy. Mình là người chủ súc sanh kia, nó đến trả nợ cho mình, nhưng đòi nợ nhiều thành thiếu nợ trở lại nó, trở thành kẻ thiếu nợ.
Bởi người thế gian không hiểu đạo lý, sống mê lầm nhân quả, tạo những nghiệp lầm lẫn như vậy rồi phải chịu khổ, đó cũng đều do vọng tưởng điên đảo mà ra. Khi đã rơi vào trong những cái khổ này rồi mong ra được làm người không phải dễ. Thí dụ vào loài súc sanh như con heo, con chó, con bò v.v... là loài ngu si nên luôn tạo thêm nghiệp, hoặc con mèo thì thường giết chuột v.v... Thấy hiểu rồi chúng ta thấy ghê sợ mà lo tiến tu để giác ngộ trở lại nguồn chân.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Phải biết, nếu dùng tiền của hoặc sai sử sức của chúng, đền đủ thì xong, còn như trong ấy có giết thân mạng hoặc ăn thịt của chúng, như thế cho đến ăn nhau giết nhau trải qua nhiều kiếp như số vi trần cũng như bánh xe xoay vần thay đổi bên cao bên thấp không có dừng nghỉ, trừ người được pháp thiền định, hoặc Phật ra đời, thì không thể dừng được.
GIẢNG GIẢI:
Quả là ghê gớm! Nghĩa là ở trong đó nếu dùng tiền của hoặc sai sử sức của con nợ đền đủ thì xong, còn như trong ấy có giết thêm thân mạng hoặc ăn thịt thì kết thêm cái nợ ăn nhau giết nhau trải qua đời này đời khác, nhiều kiếp thành oan trái. Tức là đời này ăn nhau giết nhau, rồi đời sau trở lại ăn nhau giết nhau nữa cứ vậy mà lẩn quẩn trải qua nhiều kiếp như số vi trần cũng như bánh xe xoay vần thay đổi bên cao bên thấp, hễ bên này trả bên kia nhận thì bên kia cao hơn; rồi trở lại bên kia trả bên này thì bên này cao hơn, cứ xoay vần như thế.
Trong kinh, Phật kể câu chuyện: Có một người con trai nhà nghèo cha chết sống với mẹ. Nhiều lần mẹ định cưới vợ cho nhưng anh không chịu, cuối cùng vì thương mẹ nên anh kia chìu theo. Cưới vợ nhiều năm nhưng người vợ ấy lại không sanh được con, lâu ngày bà mẹ nóng lòng bàn cưới thêm vợ lẽ. Anh không chịu nhưng bà mẹ nói mãi, cô vợ nghe vậy nghĩ là tự mình cưới vợ nhỏ cho chồng thì mình có được quyền hơn.
Cô tìm được một cô gái hiền lành dễ dạy cưới cho chồng. Sau cô này có thai, mới báo cho cô biết. Cô vợ lớn nghe rồi sợ sau này cô ấy có con trai nối dõi gia đình thì cô phải mất phần, nên cô tìm cách bỏ thuốc phá thai cho người vợ nhỏ uống đến ba lần.
Nhưng đến lần thứ ba khi cô vợ nhỏ có thai, những cô bạn hàng xóm nghe biết dặn cô vợ nhỏ kia rằng: “Đừng cho người vợ lớn biết!”. Cô này giấu, nhưng khi cái thai lớn dần, cô vợ cả cũng biết lại tìm cách phá thai tiếp. Do thai đã lớn nên cuối cùng cả mẹ và con cùng chết. Khi sắp chết, cô vợ nhỏ hận mới thề kiếp sau phải trả nợ này. Cô chết đầu thai làm con mèo trong nhà chồng.
Lúc đó, chồng của hai cô biết chuyện mới giận đánh đập cô vợ cả, cô buồn khổ cũng chết theo tiếp tục đầu thai vào nhà chồng làm con gà mái. Mỗi lần gà mái đẻ trứng là bị con mèo đến ăn, lần thứ ba nó ăn luôn gà mẹ.
Khi gà mái chết, nó hận mới sanh làm con beo. Còn con mèo sanh làm con nai cái. Mỗi lần con nai cái sanh đều bị con beo đến ăn con của nó. Lần thứ ba, con beo ăn luôn nai mẹ.
Khi đó, oán hận càng chồng chất, nai mẹ chết sanh làm quỷ Dạ-xoa nữ. Còn con beo chết sanh làm cô gái, lập gia đình tương đối khá giả. Và cứ đến mỗi lần sanh con thì Dạ-xoa này hóa hình thành những người chị em bạn đến thăm hỏi vuốt ve đứa bé, rồi bồng bắt ăn thịt luôn.
Lần thứ nhất, lần thứ hai sang đến lần thứ ba thì cô này mới bàn với chồng là phải đi về nhà cha mẹ, nhờ xa như vậy mới tránh nạn Dạ-xoa bắt con ăn thịt. Bấy giờ, vợ chồng bồng con về đến quê của vợ. Sở dĩ đi được xa như vậy là do trong thời gian đó quỷ Dạ-xoa này chịu quyền sai khiến của một trong Tứ Thiên Vương phải đi công tác chỗ khác, nhưng cũng đâu tránh khỏi, vì nó có thần thông. Khi Dạ-xoa trở về thì không gặp kẻ thù, nên đi tìm.
Bấy giờ, hai vợ chồng kia thấy thời gian qua lâu, đứa con cũng lớn, nghĩ rằng mọi việc xấu cũng qua đi nên bồng đứa con trở về. Trên đường gần đến Tinh xá Kỳ Viên, do trời nóng nực, hai vợ chồng thay phiên giữ con rồi xuống ao tắm. Ngay lúc đó, quỷ Dạ-xoa tìm tới, cô vợ mới bồng đứa con chạy thẳng vào trong Tinh xá gặp lúc Phật đang thuyết pháp. Lúc đó, không biết sao cô mới đặt đứa con xuống xin cúng dường cho Phật, mong Phật cứu cho. Còn quỷ Dạ-xoa đuổi theo đến cổng Tinh xá thì bị chư Thiên, chư thần ngăn không cho vào. Phật biết bảo Ngài A-nan gọi vào. Sau đó, Phật thuyết pháp cho hai bên tỉnh giác, mới giải tỏa được oan trái này.
Phật nói: “Các ngươi nếu không gặp Như Lai thì oan trái này không biết đến bao giờ mới dừng”.
Trong đây Phật cũng nói: “Trừ người được pháp thiền định, hoặc Phật ra đời, thì không thể dừng được oan trái”. Do đó, chúng ta phải cẩn thận tránh không kết thành những việc oan trái từ đời này đến nhiều đời sau. Đời nay sống kết oan trái, đời sau lại gặp nhau trong oan trái.
Kế nói đến dư báo trong nhân đạo.
CHÁNH VĂN:
Nay ông nên biết, loài chim kiêu kia khi đền nợ đủ trở lại hình người, sanh trong nhân đạo, xen hợp với hàng ngoan cố. Giống cửu trưng kia, khi đền nợ đủ, trở lại thân người, sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng quái dị. Những loài hồ kia, khi đền nợ đủ trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng ngu dại. Những loài có độc kia, khi đền nợ đủ, trở lại thân người, sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nham hiểm. Những loài giun kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nhỏ nhoi. Những loài cung cấp thịt ăn kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng nhu nhược. Những loài cung cấp đồ mặc kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng lao lụy. Những loài chim mùa kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng văn hoa. Những loài hưu trưng kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng thông minh. Những loài quấn quít theo người kia, khi đền trả nợ đủ, trở lại thân người sanh trong nhân đạo xen hợp với hạng thông đạt.
GIẢNG GIẢI:
Nghĩa là các loài chim kiêu khi sanh trở lại làm người, do tập khí trước nên thành hạng ngoan cố, khó dạy. Giống cửu trưng tức là loài báo điềm xấu khi sanh trở lại thân người thành ra những hạng quái dị. Những loài chồn kia, khi sanh trở lại thân người do tập khí mà thành hạng ngu dại. Những loài cổ độc khi sanh trở lại thân người thành những hạng nham hiểm ứng với tập khí hiểm độc. Những loài giun khi sanh trở lại thân người thành hạng có tâm nhỏ nhoi. Còn loại cung cấp thịt ăn khi sanh trở lại thân người thành hạng nhu nhược, yếu đuối. Còn loài cung cấp đồ mặc khi sanh trở lại thân người thành hạng lao lụy tức phải bôn ba khổ nhọc thân xác. Những loài cảm ứng khi sanh trở lại thân người thành ra hạng văn hoa tức là thông chữ nghĩa, hiểu âm dương. Còn loại báo điềm tốt khi sanh trở lại thân người thành hạng thông minh gọi là thế trí biện thông. Những loài quấn quít theo người kia, khi sanh trở lại thân người thành ra hạng thông đạt hiểu thấu được nhân tình.
Đây Phật kết luận:
CHÁNH VĂN:
A-nan! Bọn ấy nợ cũ trả xong, trở lại thân người đều do từ vô thủy đến nay điên đảo gây nghiệp mà sanh nhau, sát hại lẫn nhau, nếu không gặp Như Lai, không nghe chánh pháp, thì ở trong trần lao cứ thế xoay vần mãi mãi. Bọn ấy gọi là thật đáng thương xót vậy!
GIẢNG GIẢI:
Thật đáng thương! Kết lại đều do từ vô thủy đến nay điên đảo gây nghiệp mà sanh nhau, sát nhau, xoay vần lẩn quẩn trong luân hồi, sống như vậy có gì đáng vui thích! Chúng ta cũng vậy, sanh ra đây cũng là đáp lại nghiệp cũ đã tạo từ trước. Hoặc là thông minh, hoặc là chậm lụt thì cũng do nghiệp trước đã tạo. Cho nên, ngày nay được duyên tu hành quả là rất hy hữu, nếu không lo tu thì không biết nói sao, nên đây Phật nói là thật đáng thương xót là vậy.
Đây là những điều nhắc cho tất cả, hiện nay phải nhớ mình được làm người, được gặp Phật pháp mà chẳng lo tu tiến trên đường giải thoát thì thật là đáng tiếc! Mỗi người chúng ta cần thức tỉnh lo tu để giải quyết cái mê sanh tử này, gọi là việc lớn sanh tử. Đây mới là việc lớn, mới là việc quan trọng. Còn những việc hơn thua, buồn vui, giận ghét hoặc là tham cầu được cái này được cái kia v.v... đó là chuyện nhỏ. Những người không biết tu hoặc là không biết xét sâu, lại lấy những cái đó cho là quan trọng. Đó là sống trong điên đảo.
* Mười loại tiên
CHÁNH VĂN:
A-nan! Lại có chúng sanh từ loài người không nương theo Chánh Giác tu pháp Tam-ma-địa, lại riêng tu theo vọng niệm để tâm củng cố hình hài vào trong rừng núi, chỗ người ta không đến được, thành mười thứ tiên.
GIẢNG GIẢI:
Đây thuộc về Tiên đạo, tuy được hơn người một chút, nhưng cũng còn lẩn quẩn trong luân hồi. Không nương theo Chánh giác tu Tam-ma-địa để giải thoát, lại theo vọng niệm để tâm củng cố hình hài này. Tức là tu luyện để sống lâu, muốn kéo dài thân xác này, đó cũng là một hình thức chấp ngã. Như ông tiên Lữ Đồng Tân khi gặp Thiền sư Phổ Am cảnh tỉnh: “Dù cho ông được trường sanh thì cũng chỉ là quỷ giữ thây ma”. Giữ cái thây này cho lâu thôi chứ có gì, lời đó để cảnh tỉnh cho tất cả mọi người.
CHÁNH VĂN:
A-nan! Các chúng sanh kia, kiên cố dùng đồ bổ không dừng nghỉ, khi đạo thực được thành tựu, gọi là Địa Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Hạng này là nấu luyện các thứ thuốc thành viên bổ dùng, để cố giữ cho thân này sống lâu. Như nấu luyện những cây cỏ quý trên rừng núi thành cao uống để sống lâu. Lâu ngày, thân được nhẹ nhàng nhanh nhẹn, nhưng chưa bay lên được, nên gọi Địa Hành Tiên.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố dùng cỏ cây không dừng nghỉ, khi đạo thuốc được thành tựu, thì gọi là Phi Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Hạng này dùng những cỏ cây sống lâu năm như rễ sâm, ăn uống thường ngày rồi tu luyện tư tưởng giữ cho thân này kiên cố lâu dài. Khi thành tựu, thân được nhẹ thăng lên gọi là Phi Hành Tiên, nhưng thời gian sau quả báo hết cũng phải chết.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố dùng kim thạch không dừng nghỉ, khi đạo dùng hóa chất được thành tựu, thì gọi là Du Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Các ông tiên đây luyện linh đơn, luyện chu sa dùng uống lâu ngày được thành công thì thành Du Hành Tiên, có thể bay đi.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố làm những động tác không dừng nghỉ, khi khí tinh được thành tựu, thì gọi là Không Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Không Hành Tiên này dùng những động tác luyện để dẫn đường tinh khí trong người. Khi thành tựu có thể nương mây cỡi rồng bay đi.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố luyện nước bọt không dừng nghỉ, khi nhuận đức được thành tựu, thì gọi là Thiên Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Hạng này luyện uống nước bọt, cứ nhép nhép cho nó ra nước bọt rồi nuốt, lâu ngày thành tựu gọi là Thiên Hành Tiên. Cho nên, những người tu bên đạo Tiên rất quý nước bọt.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố hợp thu tinh hoa không dừng nghỉ, khi hấp thụ được thành tựu, thì gọi là Thông Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Hạng này hấp thụ tinh hoa của mặt trời, mặt trăng lâu ngày được thành tựu. Đây tuy nhờ tinh hoa của mặt trời mặt trăng bên ngoài, nhưng cũng có pháp phù hợp với bên trong mới được thành tựu. Nếu không như thế sẽ thành bệnh tà, có khi phát điên.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố làm thuật phù chú không dừng nghỉ, khi thuật pháp được thành tựu, thì gọi là Đạo Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Hạng này dùng thuật luyện phù chú. Luyện lâu ngày thành tựu được thành Đạo Hành Tiên.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố chuyên chú tâm niệm không dừng nghỉ, khi chuyên niệm được thành tựu, thì gọi là Chiếu Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Đây là tu giữ niệm lâu nên gọi là chuyên chú. Có những loài tiên phải chuyên chú giữ cái tưởng ở nơi đảnh này để được mở đảnh xuất thần. Hoặc buộc tâm ở nơi đan điền mà giữ khí, luyện lâu ngày thành tựu là Chiếu Hành Tiên.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố về thủy hỏa giao cấu không dừng nghỉ, khi cảm ứng được thành tựu, thì gọi là Tinh Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Loại này do cái thuật luyện cấu tinh nam nữ mà thành. Thuật này nhiều khi lạm dụng mà thành dâm dục quá độ.
CHÁNH VĂN:
Kiên cố tập luyện biến hóa không dừng nghỉ, khi giác ngộ được thành tựu, thì gọi là Tuyệt Hành Tiên.
GIẢNG GIẢI:
Là dùng thuật tập luyện biến hóa lâu ngày được thành tựu có thể tùy ý biến hóa tự tại, làm những huyễn thuật biến hóa người này người kia, đây gọi là Tuyệt Hành Tiên.
Phật kết lại:
CHÁNH VĂN:
A-nan! Những bọn ấy trong loài người mà luyện tâm, không tu Chánh Giác chỉ riêng được lẽ sống lâu ngàn vạn năm ở ẩn trong núi sâu, hoặc trên đảo giữa biển cả, cách tuyệt chỗ người ở; đó cũng là vọng tưởng luân hồi, lưu chuyển. Nếu không tu pháp Tam-muội, thì khi quả báo hết, trở lại sanh vào trong lục đạo.
GIẢNG GIẢI:
Kết lại, những vị tiên kể trên cũng nằm trong vọng tưởng luân hồi. Những hạng này tu bằng tư tưởng. Tưởng củng cố cái thân hoặc luyện khí để mong thân này được sống lâu có thần thông. Dùng tưởng tu tức là dùng cái sanh diệt nên sẽ được quả sanh diệt. Những người không khéo, ngồi tu mà bị vọng tưởng mãi thành ra ma chen vào thành điên loạn. Hoặc có tu luyện sống lâu được ngàn vạn năm nhưng khi quả báo hết cũng trở lại sanh tử luân hồi, rốt cuộc cũng uổng công vô ích. Dưới đây là câu chuyện ông tiên Lữ Đồng Tân gặp Thiền sư Phổ Am được Ngài cảm hóa.
Một hôm, vào buổi sáng sớm Sư thượng đường, ông Lữ Đồng Tân đến gặp Sư. Trước đó, ông cũng có đến gặp một lần rồi, nhưng ông không lễ bái, lần này lại đến hỏi:
Chớ trách đạo nhân chẳng lễ bái,
Vốn do Thích, Đạo khác gia phong.
Ông nói đừng trách đạo nhân gặp thầy không lễ bái, bởi thầy thuộc đạo Phật, còn tôi về đạo Lão, gia phong khác nhau nên không lễ bái.
Rồi ông hỏi:
- Chưa biết Đạo và Phật là đồng ư, là khác ư?
Thiền sư Phổ Am đáp:
Đầu bịt khăn trùm lìa các tướng
Áo vuông đầu tròn là người nào?
Một vầng tự tại chẳng vật khác
Phật, Đạo như không một Pháp thân.
Tức là Phật hay Đạo cũng đồng một Pháp thân.
Ông Lữ Đồng Tân hỏi tiếp:
Chín chuyển đan sa,
Giúp các bệnh khổ!
Chín năm ngó vách
Phải chăng nói rỗng?
Ông nói chín lần luyện đan sa để giúp người trừ những bệnh khổ là có lợi ích. Còn nhà thiền, Ngài Đạt-ma ngồi chín năm ngó vách có phải nói rỗng chăng?
Thiền sư Phổ Am bảo:
- Ông cũng chưa biết đan sa, luống nhọc chín chuyển, còn tôi chính là ngàn vạn kiếp chuyên ngồi đạo tràng. Ông ra động luyện thuốc nấu đan, rơi ở đạo ngoại không (không thuộc cái chân). Vọng tưởng điên đảo, say rượu, tập dâm, nói càn cái vọng thuật. Rồi tâm chẳng giới thịt, dục nuôi sắc thân, trải nhiều kiếp tập khí trói buộc, không gốc có thể tựa. Coi giữ ra vào, nói là cốc thần. Chỉ biết mang cái thây chết nổi mây bủa sương, dù cho ông ngay ban ngày bay lên trời, rốt ráo thật về chỗ nào?
Ông Lữ Đồng Tân nói:
Năm hồ khách mây nước
Khói sóng là nhà ta.
Vì trên Thiền sư hỏi rốt ráo thật về chỗ nào? Ông mới đáp là như khách mây nước khắp cả năm hồ, đâu đâu cũng là nhà.
Thiền sư Phổ Am bảo:
Mây nước năm hồ ai biết có?
Ở trong khói sóng việc thế nào?
Ngay đó ông im luôn. Thiền sư Phổ Am quát bảo:
- Thế nào là đạo?
Ông Lữ Đồng Tân nói:
- Đạo vốn không lời.
Thiền sư Phổ Am bảo:
- Ông chưa đạt gốc, lại nói không lời. Tôi rõ nhất tâm, đại dụng hiện tiền, đâu nệ gật đầu. Chân thường thuyết giáo, ta theo dòng trọn ngày, nói mà chưa từng nói, chẳng dính nơi ngậm miệng, dọc ngang diệu dụng, há kẹt cơ luân đấy ư!
Ông Lữ Đồng Tân tới đó bèn gõ răng rồi đi.
Thiền sư Phổ Am bảo:
Bước yên đường mây xanh,
Áo du mang ráng chiều.
Áo du tức là áo bằng cây du.
Xong, Thiền sư hỏi trong chúng:
- Biết người này chăng?
Trong chúng thưa:
- Không biết!
Thiền sư Phổ Am mới bảo:
Ngàn năm quỷ bất tử
Bay qua hồ Động Đình.
Đó là quỷ bất tử sống ngàn năm vậy thôi.
Để thấy một ông tiên tu luyện thành tiên, nhưng nếu chưa ngộ được đạo lý chân thật, đối với Thiền sư dù cho ông có nói gì đi nữa, nhưng cũng chỉ là mang cái thây chết kéo dài trong sanh tử thôi, cuối cùng có được gì? Theo thế gian nhìn thấy tu được thành tiên như thế cũng rất hay nên nhiều người cũng thích tu Tiên. Người thấu rõ sẽ thấy tu như thế cũng là còn lầm chấp ngã muốn giữ thân này cho lâu. Do đó dù tu lâu đến đâu nhưng cái ngã vẫn còn, nên đâu được giải thoát.
Điều căn bản Phật dạy là, tu phải sạch cái ngã. Tu mà còn cái ngã là còn luân hồi, dù cho tu đạt đến cõi trời Phi phi tưởng thì cũng còn cái ngã, nên cũng còn trong luân hồi. Cho nên phải biết, thân đây là tạm mượn để tu tiến chứ không phải nắm bắt nó, quý nó rồi bị kẹt vào nó, vì nó mà sanh phiền não. Người nào nhẹ chấp ngã thì nhẹ phiền não, còn nặng chấp ngã thì nhiều phiền não. Lẽ thật là như vậy. Mà nhẹ chấp ngã thì dễ tu tiến và gần với Đạo.
***
Các bài mới
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 22 KHAI THỊ PHẦN TRONG, PHẦN NGOÀI CỦA CHÚNG SANH - 24/09/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 21 - KẾT CHỈ DẠY TÊN KINH - 19/09/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 20- KHAI THỊ VỊ TRÍ TU CHỨNG TRƯỚC VÀ SAU - 10/09/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 19 - PHẬT KHAI THỊ VỀ MẬT GIÁO THẦM GIÚP NHỮNG NGƯỜI TU HÀNH - 07/09/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 18 - CHỈ BÀY BỐN LỜI DẠY BẢO RÕ RÀNG VÀ QUYẾT ĐỊNH - 25/08/2018
Các bài đã đăng
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 17 - CHỈ CHÍNH CHỖ VIÊN TU - 14/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 16 GẠN HỎI ĐẠI CHÚNG VỀ CHỖ VIÊN THÔNG - 06/08/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 15 CHỈ MỞ GÚT TRƯỚC SAU - 30/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 14 - CỘT KHĂN ĐỂ CHỈ ĐẦU GÚT - 19/07/2018
- Kinh Thủ Lăng Nghiêm giảng ký: MỤC 13 NÊU RA CĂN ĐỂ CHỈ CHỖ MÊ - 16/07/2018
Kinh - Luật - Luận
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 90813
- Online: 36