Năm pháp che lấp Tự Tánh Bát Nhã ( Phần 2)
10/10/2012 | Lượt xem: 4174
ĐĐ.Thích Khế Định thuyết giảng
3. XẢ THÙY MIÊN (ngủ nghỉ)
Phóng túng buông thả tứ chi, nằm lăn ngủ vùi gọi là miên. Ý thức mê mờ gọi là thùy, tức là năm căn bị che tối. Do nhân duyên đó gọi là thùy miên.
Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Ngủ nhiều là một pháp bất tịnh khiến cho tâm thức mờ tối, khiến cho không thể tiến tới pháp lành, trầm luân trong ba cõi không có kỳ hạn xuất ly. Do đó, người hành giả tham thiền phải luôn luôn khắc kỹ, chớ nên ngủ nhiều”.
Nếu sáng mình dậy sớm ngồi thiền thì tăng trưởng công đức, còn ngủ vùi thì sanh ra mộng mị đủ thứ chuyện. Là người tu, chúng ta phải chịu khó xả bỏ bớt giờ ngủ nghỉ để có thời giờ tạo thêm công đức.
Kinh Pháp Cú thí dụ có kể tại thành Xá Vệ, tinh xá Kỳ Thọ, có một vị Tỳ kheo chuyên ăn no rồi ngủ, không chịu lo tu. Phật biết ông này sau bảy ngày nữa sẽ chết nên thương xót, đến đọc bài kệ:
Quên kiếp mối mọt ư?
Sống tối tăm chẳng sạch
Mê hoặc chấp lầm thân
Khác nào bị ung thư
Mà tâm như trẻ bệnh
Gặp biết bao nguy nan
Thay vì ngủ ngon giấc
Suy ngẫm không buông lung
Vì nhân học người xưa
Từ đây không còn khổ
Thường nhớ diệt ý xằng
Chánh kiến sức học thêm
ở đời sáng được thế
phước đức tăng ngàn lần
Chết không sa nẻo ác”.
Những thứ nhơ nhớp gọi là người
Như bệnh nặng tên cắm vào thân
Đầy rẫy đau đớn đâu yên ngủ
Như người bị trói sắp đem giết
Tai hại kề bên đâu thể ngủ”.
Trong Kinh Di giáo, Phật dạy: “Các Thầy Tỳ kheo ban ngày siêng năng tu tập thiện pháp không để thời giờ qua suông, đầu đêm cuối đêm cũng chớ phí bỏ, nửa đêm tụng kinh để tự tiêu diệt và đình chỉ các nghiệp chướng”.
Quý vị nhớ, phải nhờ tu tập (sám hối, tụng kinh, ngồi thiền…) quý vị mới chuyển hóa được nghiệp xấu của mình, còn bố thí cúng dường chỉ là thiện pháp để trợ duyên cho mình tu tập được tốt hơn.
“Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để một đời luống qua không một chút lợi ích”.
Quý vị thử nghiệm lại, chúng ta sanh ra làm một con người đầy đủ sáu căn mà không có một chút tư lương cho ngày ra đi thì Phật nói uổng một kiếp người.
Trong Kinh Pháp Cú, Phật dạy:
“Ai sống một trăm năm
Ác giới không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Trì giới tu thiền định”.
“Ai sống một trăm năm
Ác tuệ không thiền định
Tốt hơn sống một ngày
Có tuệ tu thiền định”.
Hiểu pháp rồi thì mỗi sáng, mỗi tối chịu khó một chút thôi. Quý vị thích làm việc mà có tiền không? Đương nhiên ai mà không thích? Nhưng tiền đó là tiền vô thường, ảo vọng, sanh diệt. Còn tư lương là công đức từ nơi tự thân của mình, sao mình không ham tạo? Phật nói người nào ham pháp thù thắng của Như Lai như tham tài tham sắc thì chỉ một đêm là chứng đạo. Nếu hiểu được ích lợi và giá trị của sự tu tập rồi thì bảo đảm dù hoàn cảnh có khó khổ đến mấy quý vị cũng sẽ cố gắng để tu tập, ngồi thiền. Công đức ngồi thiền này không thể tính được vì từ nơi bất động, vô nhiễm, thanh tịnh, từ đó chúng ta đi trên con đường giác ngộ giải thoát. Cho nên chúng ta nghiệm kỹ, bớt tạo tiền sanh diệt mà dành thời gian tạo thêm tư lương cho mình, loại tiền này không có mất.
“Nên nhớ ngọn lửa vô thường thiêu đốt thế gian mà phải tự độ”.
Quý vị thấy bây giờ đầy những thiên tai, tai nạn xảy ra ở bất kỳ nơi nào, với bất kỳ ai. Không ai có thể độ mình hết, chỉ có chính mình tự độ mình. Cho nên, hiểu pháp rồi thì phải hành.
“Đừng ham ngủ nghỉ, giặc phiền não thường hay rình giết người, dữ hơn kẻ thù, sao có thể ngủ nghỉ mà không tự giác. Rắn độc phiền não ngủ trong tâm ví như rắn hổ mang màu đen ngủ trong nhà. Các Thầy nên dùng móc sắt giữ giới mà sớm kéo móc nó ra. Rắn ra rồi mới yên ngủ, không ra mà ngủ là không biết hổ thẹn”.
Do đó, Đại sư Trí Khải dạy: “Còn lắm việc như thế để quở trách mê ngủ. Lấy vô thường cảnh giác sự ngủ nghỉ khiến giảm bớt, không che mờ tâm tánh. Nếu tâm mê ngủ quá nặng phải dùng thiền trượng đuổi nó”.
Cho nên, chúng ta phải tranh thủ trong lúc còn đang bình thường, khỏe mạnh, sáng suốt, ý thức được thì cố gắng tu tập, tạo các thiện pháp và chuyển hóa tâm của mình.
4. XẢ TRẠO CỬ, HỐI HẬN
XẢ TRẠO CỬ
Đại sư Trí Khải dạy: Trạo cử có ba: thân trạo cử, khẩu trạo cử, ý trạo cử.
a.Thân trạo cử: Thân ưa thích chạy rong, đùa giỡn lăng xăng, ít khi ngồi yên.
Trong bốn oai nghi đi, đứng, nằm, ngồi, nếu luôn luôn chánh niệm, thu thúc lục căn của mình thì trong lúc ngồi thiền rất là yên định. Còn ngồi chỗ này lại muốn ngồi chỗ kia, lăng xăng, lộn xộn, thân trạo cử trong lúc đi đứng thì khi ngồi thiền rất khó ngồi yên, muốn buông chân ra cựa quậy. Có khi nào quý vị ngồi thiền thấy như có kiến bò trên mặt không? Lúc đó phải làm gì? Gãi hay chịu trận? Nếu gãi thì thân trạo cử. Trong Thiền căn bản gọi đó là ma chướng nhiều đời, nếu mình chịu đựng và vượt qua thì nó hết.
Như quý vị đang ngồi thiền mà bị muỗi đốt, nếu mình chịu đựng và vượt qua được thì lúc đó quý vị đang đi trên con đường Bồ Tát đạo, hành lục độ. Đáng lẽ đập con muỗi nhưng chúng ta khởi lòng từ không giết hại nó, tức là mình đang bố thí thân, cũng là trì giới. Rồi cố gắng ngồi chịu đựng là có cả nhẫn nhục và tinh tấn, thiền định và trí tuệ cũng theo sau đó luôn.
b.Khẩu trạo cử: miệng ưa ca hát, tranh cãi phải quấy, luận bàn những việc vô ích, nói các việc thế tục trong lúc hạ thủ công phu.
Quý vị bỏ ra một tháng hay nửa tháng một lần đến đây tu tập, có khi nào chịu đi hay ngồi một mình không?
Thiền sư Huyền Giác dạy:
Đạt giả hành du Niết Bàn lộ”.
Chúng ta thấy trong cuộc sống, kể cả những người có chồng, có vợ, tuy rằng sống với nhau nhưng suy nghĩ không đồng, thì cũng “thường độc hành, thường độc bộ”, rồi ngày cuối cùng ra đi, dù người thân nhất cũng không thể theo mình được mà mình cũng phải “thường độc hành, thường độc bộ”. Vậy thì tại sao ngay bây giờ, chúng ta không chịu tập “thường độc hành, thường độc bộ”? Đi chùa gặp nhau, mới đầu thì còn nói Kinh Kim Cang, Kinh Pháp Hoa, … rồi hết kinh thì nói chuyện này, chuyện nọ. Đó là khẩu trạo cử.
Trong Thiền thoại có kể lại: Thiền sư Vô Tướng ngồi nhập định thấy hai ông Tăng đang ngồi nói chuyện, có hai con quỷ chắp tay lắng nghe rất thành kính. Một lúc sau, lại thấy hai con quỷ nhổ nước miếng vào mặt hai ông Thầy, chà dấu chân, giận dữ bỏ đi. Thiền sư Vô Tướng sau khi xả thiền, gọi hai ông Tăng đến hỏi: “Hai ông nói chuyện gì mà lúc đầu ta thấy hai con quỷ chắp tay rất là thành kính, sau đó lại thấy hai con quỷ đó nhổ nước miếng, chà dấu chân bỏ đi?”. Hai ông Tăng thú nhận lúc đầu nói chuyện với nhau về pháp, sau đó nói chuyện thế tục, chuyện thị phi.
Trong Kinh Hoa Thủ, Phật nói bài kệ:
“Ác khẩu và lưỡng thiệt
Thích nói lỗi người khác
Đó là người không tốt
Việc ác nào cũng làm”.
Trong Luận Đại Trí độ:
Miệng thường phun lửa dữ
Kêu gào vang khắp nơi
Là nghiệp báo của miệng.
Tuy học rộng hiểu nhiều
Ở trong chúng nói pháp
Do gieo nghiệp bất tín
Nên mọi người không tin.
Muốn học rộng nghe nhiều
Được mọi người tin tưởng
Thì phải nên thành thật
Không nói lời thêu dệt”.
Đều từ lưỡi mà ra
Cam lồ là lời thật
Độc dược là lời gian
Nếu người cầu cam lồ
Thì nên nói lời thật
Nếu ai muốn độc dược
Thì cứ nói chua ngoa.
Thuốc độc không giết người
Lời ác ắt sẽ chết
Nhưng người luôn nói dối
Thì giống như người chết
Nói dối không lợi mình
Lại càng không lợi người
Mình và người không vui
Cớ sao phải gian dối?”
c.Tâm trạo cử:
Tâm tính phóng túng, ý nghĩ lăng xăng, suy nghĩ văn chương kỹ nghệ thế gian, xét nghĩ những điều xấu ác gọi là tâm trạo cử. Tâm trạo cử này hay phá hoại tâm của người xuất gia và người tại gia. Người cố nhiếp tâm vẫn không được định, huống chi kẻ tán loạn. Người tâm tán loạn như con voi say mà không có móc sắt, con lạc đà không dây mũi không thể kềm giữ được.
Quý vị có khi thân ngồi đây nghe pháp mà tâm nghĩ tận đâu đâu, chạy rong ruổi. Mình mà không dừng được tâm trạo cử, để tâm luôn tán loạn thì lúc chết dễ đi bậy (khi chết thần thức rất nhanh, khởi nghĩ đến đâu là đi đến đấy). Vì vậy trong lúc sống chúng ta phải tập chánh niệm, dừng tâm tán loạn, bớt rong ruổi.
Thiền sư Khuê Phong dạy: “Làm việc nghĩa là tâm tỉnh ngộ, làm việc vô nghĩa là tâm cuồng loạn”. Làm việc có nghĩa là chánh niệm, làm việc gì biết việc đó, dừng bớt tâm vọng tưởng, điên đảo của mình. Làm việc vô nghĩa là ngồi đây suy nghĩ đủ chuyện, mà “cuồng loạn theo tình niệm thì lâm chung bị nghiệp lôi, tỉnh ngộ không theo tình thì lâm chung chuyển được nghiệp”.
Trong Kinh Di giáo, Phật dạy: “Tỳ kheo các ông đã có thể an trụ trong giới rồi phải kiềm chế ngũ căn chớ để buông lung vào ngũ dục, thí như người chăn trâu cầm roi nhìn nó chẳng cho nó buông tuồng phạm nhầm lúa mạ của người”.
Quý vị chăn trâu làm sao? Xưa các Ngài chăn trâu, khi trâu chuẩn bị vào lúa mạ, các Ngài kéo ra liền, còn mình thì cho ăn thoải mái.
Trong Ngũ đăng hội nguyên có ghi:
Thiền sư Thạch Củng đang nấu cơm, Mã Tổ hỏi: Làm gì?
Ngài đáp: Đang chăn trâu.
“Chăn thế nào?”
“Một phen vào lúa mạ liền nắm mũi kéo lại”.
Mã Tổ nói: “Con thực là một người chăn trâu giỏi”.
Thiền sư Thạch Sương ẩn trong xóm lò gốm vùng Lưu Dương, một hôm có một vị tăng từ Động Sơn đến.
Sư hỏi: “Hòa thượng có ngôn cú gì dạy chúng?”.
Vị tăng thưa: “Ngày giải hạ, Hòa thượng thượng đường bảo ‘Đầu thu cuối hạ, huynh đệ hoặc đi Đông hoặc đi Tây, nên nhắm thẳng chỗ muôn dặm không một tấc cỏ mà đi’. Im lặng giây lâu, Ngài nói: ‘Chỉ như chỗ muôn dặm không một tấc cỏ thì làm sao đi?’.”
Sư hỏi: “Có người nói được chăng?”
Tăng đáp: “Không”.
Sư nói: “Sao chẳng nói ra khỏi cửa liền là cỏ?”
Tăng về thuật lại cho Thiền sư Động Sơn, Thiền sư nói: “Đây là lời của bậc thiện tri thức 1500 chúng. Không ngờ ở Lưu Dương mà có cổ Phật ra đời”.
Chăn trâu đến mức “ra khỏi cửa liền là cỏ” thì quả là chăn trâu kỹ. Vừa chuẩn bị ra khỏi cửa mắt, nhích một cái là phạm. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, sáu cửa chỉ cần nhích một niệm nhỏ là biết trâu ăn lúa mạ. Hàng ngày nếu chúng ta chịu khó chăn trâu kỹ thì được giải thoát, còn buông tuồng để trâu ăn lúa mạ thì tự trói mình. Thấy sắc bị nhiễm, tức là đã bị trói buộc, cũng thấy sắc mà không đắm nhiễm thì được giải thoát. Phật, Tổ, thiện tri thức đã dạy hết cho mình rồi.
Thiền sư Đại An Ban Sơ đến Ngài Bá Trượng hỏi: Con muốn cầu biết Phật thế nào là phải?
Bá Trượng bảo: Thật là người cưỡi trâu tìm trâu.
- Sau khi biết thì như thế nào?
- Như người cưỡi trâu về nhà.
- Sau giữ gìn thế nào?
- Như người chăn trâu cầm roi dòm chừng không cho nó ăn lúa mạ của người.
Sư nhân đây lãnh hội ý chỉ, chẳng đi tìm đâu nữa.
Cho nên, pháp của Phật rất nhiều nhưng chính yếu chỉ bấy nhiêu đó thôi. Nếu mình nhận được yếu chỉ rồi thì không phải tìm cầu đâu hết, cứ y đó mà tu, thẳng đó mà phát nguyện đời này không xong thì đời sau tiếp tục. Thiền sư Lâm Tế nói: “Chưa khởi vọng tưởng đừng cho nó khởi, đã khởi vọng tưởng thì đừng có theo, còn hơn ông đi hành cước 10 năm”. Phương pháp thiền đốn ngộ rất đơn giản, ý niệm vừa dấy khởi liền dừng. Vì đơn giản quá nên có khi mình coi thường, mà chỉ thích những cái gì cầu kỳ, bóng bẩy, có văn tự, có triết lý.
Sau này nhận chúng, Sư khai thị: “Các ngươi muốn làm Phật chỉ cần không có những tâm điên đảo, vọng tưởng, nghĩ ác, cấu dục chẳng sạch của chúng sanh, tức các ngươi là Phật. Chánh giác mới phát tâm, lại đến chỗ riêng nào luận bàn? Sở dĩ Đại An này ở núi Qui ba mươi năm, ăn cơm núi Qui, đại tiện núi Qui mà không học thiền ở núi Qui, chỉ coi chừng con trâu, nếu nó lạc đường hay vào trong cỏ liền nắm mũi kéo nó lại. Nếu nó ăn lúa mạ của người liền đánh đập, điều phục nó. Đáng thương đã lâu, chịu người rầy mắng. Hiện giờ nó đổi thành con trâu trắng, đứng trước mặt sờ sờ, trọn ngày hiện rõ, đuổi cũng chẳng đi”.
Trong Kinh Di giáo Phật dạy: “Năm căn này tâm là chủ thẻ, thế nên các ông phải khéo chế phục tâm mình. Tâm rất đáng sợ, còn hơn cả độc xà, ác thú, giặc cướp, lửa dữ. Ngoài những thí dụ trên chưa đủ, lấy gì để so sánh, như voi điên không móc sắt, khỉ vượn gặp được cây nhảy chuyền, khó mà cấm cản. Phải mau kiềm nó không cho nó rong ruổi, nếu buông thả tâm này sẽ làm mất việc lành của người. Kiềm nó một chỗ thì không việc nào không làm được”.
Cổ đức nói:
“Việc đời không gì khó
Chỉ do tâm không chuyên
Đục núi xuyên biển cả
Vén mây thấu trời xanh”.
Chúng ta bị luân hồi trong ba nẻo sáu đường cũng là do tâm dắt đi. Vừa khởi niệm ác, nó dắt mình xuống địa ngục. Một ngày quý vị dạo trong sáu đường mấy lần? Nếu không lo tu, không dừng được tâm thì nó dẫn dắt mình đi vào trong sanh tử luân hồi. Chẳng hạn như có người đưa ra điều kiện bảo quý vị dời một hòn núi thật lớn hay lấp biển thì mới dừng được tâm thì chắc là khó mà làm được. Còn đằng này là ngay nơi chính mình, dừng hay rong ruổi là do mình có toàn quyền chủ động, không phải là không làm được. Cho nên quý vị phải ráng cố gắng.
XẢ HỐI HẬN
Nếu trạo cử mà không có hối hận thì chưa thành che đậy. Vì cớ sao? Vì khi trạo cử còn ở bên ngoài, trong khi nhập định mới hối hận việc làm trước, khiến lo buồn che đậy tâm tánh của mình.
Hối hận có hai thứ: (1) Không nên làm mà làm; (2) Nên làm mà chẳng làm.
Trong thiền thoại có kể, một học tăng đến hỏi Thiền sư Vân Cư: “Đệ tử mỗi khi làm việc gì xong đều rất hối hận. Xin hỏi Thầy vì sao con có nhiều hối hận như vậy?”
Thiền sư Vân Cư nói: “Trước hết ông hãy nghe ta nói mười điều hối hận của ông:
1. Gặp Thầy không học
2. Gặp người hiền không kết giao
3. Thờ cha mẹ không có hiếu
4. Đối với chủ không trung thành
5. Thấy việc nghĩa không làm
6. Có của cải không bố thí
7. Thấy nguy hiểm không cứu
8. Ái quốc không trong sạch
9. Nhân quả không tin
10. Phật đạo không tu.
Ông Tăng nghe xong nói: “Đây đúng là mười thứ hối hận của con. Như vậy con phải làm sao?”
Thiền sư Vân Cư: “Trong mười điều trên, ông chỉ cần đổi chữ Không thành chữ Phải. Một chữ Phải này là thuốc, ông hãy khéo uống thì hết bệnh.
1. Gặp Thầy phải học
2. Gặp người hiền phải kết giao
3. Thờ cha mẹ phải có hiếu
4. Đối với chủ phải trung thành
5. Thấy việc nghĩa phải làm
6. Có của cải phải bố thí
7. Thấy nguy hiểm phải cứu
8. Ái quốc phải trong sạch
9. Nhân quả phải tin
10. Phật đạo phải tu.
Mình chính là kiến trúc sư tạo ra thân ngũ uẩn, tạo ra quốc độ của mình. Quốc độ thanh tịnh hay không là do nghiệp hàng ngày chúng ta tạo. Quý vị cứ yên tâm là nghiệp không bao giờ chơi xấu mình cả. Tạo thiện pháp là cho mình chứ không phải cho ai hết, có điều kiện thì quý vị cứ làm, sau này khỏi hối hận.
Đại sư Trí Khải dạy: “Do trạo cử rồi mới sanh hối hận, như người gây tội nặng thường ôm lòng lo sợ, mũi tên hối hận cắm sâu vào tim, khó mà nhổ ra được”.
Do đó, có bài kệ:
“Không nên làm mà làm,
Nên làm mà không làm,
Lửa hối hận thiêu cháy,
Đời sau đọa ác đạo.
Nếu phạm tội nên hối,
Hối rồi chớ lo phiền,
Như thế tâm an vui,
Không nên thường nhớ mãi”.
Đời này ai cũng có lỗi hết, nếu mình đã sám hối rồi thì không nhớ lại nữa, nếu nhớ lại thì tự làm che lấp tự tánh Bát Nhã của chính mình.
Lục Tổ dạy: “Sám là sám những lỗi về trước, từ trước có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuốn, tật đố, các tội thảy đều sám hết, hằng không khởi lại, gọi đó là sám. Hối là hối những lỗi về sau, từ đây về sau, có những nghiệp ác ngu mê, kiêu cuốn, tật đố, các tội nay đã giác ngộ thảy đều hằng đoạn, lại không có tạo nữa. Đã sám hối rồi không nghĩ trở lại nữa”.
Trong Chỉ nghiệp lục có ghi: Trên hội Linh Sơn có 500 Tỳ kheo đắc định tứ thiền, đủ năm thần thông mà chưa đắc con mắt pháp. Mỗi vị dùng thần thông túc mạng đều tự thấy trong đời quá khứ đã từng giết cha, giết mẹ, phạm những tội nặng cho nên chưa đắc được pháp nhãn. Do đó, mỗi người trong tâm tự trạo hối thành ra đối với pháp môn thâm sâu chẳng có thể chứng nhập được. Lúc bấy giờ Bồ Tát Văn Thù nương oai thần lực của Phật, tay cầm kiếm bén đến bức bách Như Lai. Phật nói: “Ngưng, ngưng, chớ nên hại ta mà tạo tội ngũ nghịch, nhưng nhất quyết muốn hại ta thì phải khéo hại cái ngã chấp của ta. Văn Thù Sư Lợi, người từ xưa nay chẳng có ngã, nhân, chỉ vì nội tâm thấy có ngã, nhân. Khi nội tâm chẳng khởi thì ngã, nhân ắt phải diệt, tức gọi là hại ngã chấp của ta”. Do đó 500 Tỳ kheo tự ngộ bản tâm như mộng, như huyễn. Ở trong mộng, huyễn chẳng có ngã, chẳng có nhân, cho đến năng sanh sở sanh, cha mẹ đều như mộng huyễn, chẳng có ngã, chẳng có nhân, chứng được pháp nhãn. 500 vị Tỳ kheo liền dùng kệ tán thán:
Thấu đạt nguồn đáy pháp
Tự tay cầm kiếm bén
Bức bách thân Như Lai
Kiếm vậy, Phật cũng vậy
Một tướng chẳng có hai
Vô tướng, vô sở sanh
Đâu thể nói giết hại
Ngã nhân đã không có
Thì còn ai tạo tội?
Sở dĩ có ta có người, có chủ có khách, có năng có sở là do mình khởi niệm, nhưng cái gì thấy được ngã nhân, cái gì thấy được thế giới này, cái gì thấy được từng niệm này? Sống với cái biết đó thì ngã nhân hết, chủ khách tan, các pháp như mộng huyễn không có thật.
5. XẢ NGHI NGỜ
Do nghi ngờ che đậy tâm, đối với trong chánh pháp chẳng có lòng tin, vì lòng tin không có nên ở trong Phật pháp chẳng được lợi ích gì cả, ví như người vào núi đầy của báu, vì không có tay nên chẳng lấy được. Tâm nghi ngăn chướng thiền định gồm có ba:
a. Nghi mình: Như có người nghĩ rằng ta là kẻ ngu, tội chướng nặng nề không như các bậc thánh. Tự khởi nghi như thế thì thiền định không thể phát sinh. Hành giả muốn tu thiền định chớ có khinh mình, vì căn lành đời trước đâu có thể lường được.
Mình cứ nghĩ chỉ có Hòa thượng Trúc Lâm, Hòa thượng Thường Chiếu hay Thầy Trụ trì Trúc Lâm tu mới được, còn mình chắc tu không được, thôi bố thí cúng dường gieo duyên đời sau tu tiếp. Còn một số người nữ thì chỉ muốn tu để kiếp sau làm thân nam là đủ. Như vậy là còn nghi mình, mà nghi mình thì chánh định không phát khởi.
Tổ Quy Sơn dạy: “Kia trượng phu, ta cũng trượng phu, chẳng tự khinh mình mà thối chuyển. Nếu không như thế thì ở cửa thiền lê lết một đời không có điều lợi ích”.
Nhiều khi mình tự khinh mình, nói mình tội chướng nặng, tu không được. Chuyện kể có một ông Thầy tu trong núi, tụng một bài kinh chú trong gần 30 năm mà vẫn không có kết quả. Một hôm, chú thị giả sa di đọc câu chú trong đó thì có 4 vị hộ pháp hiện ra. Sở dĩ như vậy là do chú sa di này đã tu 500 kiếp rồi trở lại. Sao mình biết được ngày xưa mình không có căn duyên? Nếu quý vị chịu khó tu tập một thời gian, chứng nghiệm được mới hay ra mình có căn duyên tu theo con đường thiền đốn ngộ này. Nếu không có lòng tin thì không bao giờ mình nghe được pháp này.
Trong Ngũ đăng hội nguyên có ghi, một hôm Thiền sư Tử Hồ ở trong phòng kêu to: “Bắt được trộm, bắt được trộm”. Trong lúc đêm tối mù mịt, có một ông tăng chạy tới. Sư chụp vào ngực kêu to: “Bắt được rồi, bắt được rồi”. Ông Tăng thưa: “Bạch Hòa thượng, chẳng phải. Là con chứ chẳng phải trộm”. Thiền sư bảo: “Phải thì phải, chỉ chẳng chịu thừa nhận”. Ngay giờ phút đó, nếu nhận mình là đúng, là đủ rồi. Còn đây không dám nhận, không dám tin.
Hòa thượng Trúc Lâm dạy: “Thiền dạy người tu một cách thực tế tìm lại bản lai diện mục của chính mình. Bởi quá thực tế nên người ta không hiểu nổi. Con người là hướng ngoại, con người là cầu xin, con người là ỷ lại. Thiền đập tan ba tánh ươn hèn ấy, ba tánh đã chôn vùi chúng ta từ vô lượng kiếp, là chủ nhân của chúng ta từ vô lượng kiếp. Chúng ta phải khôi phục lại quyền năng của ông chủ bản hữu nơi chính mình, đó là chúng ta tu thiền”.
Chúng ta tu phải có đại tín căn, phát nguyện lực lớn để tu, dù cho đời này chưa xong, đời sau tu tiếp, đời sau chưa xong, tiếp tục nữa. Vì trong ý niệm không chứa đựng không gian, thời gian 1 kiếp, 2 kiếp hay 3 kiếp, nói kiếp này kiếp kia là trên bình diện vọng tưởng, vô niệm không có cái đó. Trong Kinh Pháp Hoa, Ngài Mục Kiền Liên, Xá Lợi Phất sau khi được Phật thọ ký, các Ngài rất vui vì biết chắc sẽ thành Phật. Tin chắc được như thế, chúng ta không còn sợ.
Trong Thiền sư Trung Hoa tập 1 có ghi, Sa di Cao đến chỗ Thiền sư Dược Sơn.
Thiền sư hỏi: “Ta nghe Trường An rất là náo loạn, ông có biết chăng?”
Sa di Cao nói: “Nước con an ổn”.
Thiền sư hỏi: “Ngươi do xem kinh được hay thưa hỏi được?”
Sa di Cao: “Chẳng do xem kinh, cũng chẳng do thưa hỏi”.
Thiền sư lại hỏi: “Có lắm người chẳng xem kinh, chẳng thưa hỏi, sao chẳng được?”
Sư đáp: “Chẳng nói họ không được, chỉ vì không dám nhận”.
Cho nên cần phải tin chắc tâm mình có Phật, đó là đại tín căn. Trong tâm có Phật nên không sợ cát đá trùng trùng, không sợ sương mù giăng lối, bởi vì tâm của ta và người dung thông, tánh của ta và tánh của người hợp nhất.
b.Nghi Thầy: Nghi Thầy tướng mạo và oai nghi như thế, bản thân ông Thầy không có đạo đức làm sao dạy mình được. Khởi nghi mạn như thế tức là chướng ngại thiền định. Muốn trừ được bệnh này, như trong các luận Ma-ha-diễn dạy: “Ví như trong đãy da thúi mà có đựng vàng, vì ham vàng ta không thể bỏ cái đãy thúi. Người tu cũng như thế, thầy tuy chưa hoàn toàn thanh tịnh, vẫn tưởng như Phật.”
Trong Kinh Đại Tập, Phật dạy: “Tất cả chúng sanh đời này và đời vị lai phải nên tin sâu Phật, Pháp, Tăng. Những chúng sanh đó thường được hưởng quả tốt đẹp trong cõi trời, người, sẽ sớm được vào thành vô ý, chứng nhập được Niết Bàn”.
“Nếu có chúng sanh nào vì ta xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa mà không giữ giới cấm, những người đó đều đã được ấn chứng bằng con ấn Niết Bàn. Nếu có người quấy rối, mắng chửi, chê bai hoặc dùng tay, dao đánh đập, trói chặt các người xuất gia không giữ giới thì đó là kẻ hủy hoại pháp thân và báo thân của chư Phật ba đời, là kẻ chọc vào mắt của tất cả trời người, muốn phá hoại chánh pháp của chư Phật và làm hủy diệt hạt giống Tam Bảo, khiến trời và người không còn hưởng lợi ích, giúp ba đường ác lớn mạnh khắp nơi. Do đó kẻ ấy đọa địa ngục”.
Chỗ này, quý vị phải cẩn thận. Nếu như phát hiện một ông thầy nào đó không giữ giới, tu hành không thanh tịnh, mình im lặng, không đến gặp vị đó nữa là được, còn nếu mình rao nói lỗi của ông thầy đó thì vô tình làm cho nhiều người bị mất niềm tin với Tam Bảo, làm phá kiến người, khiến cho họ không tu nữa mà đọa vào ba đường ác đạo.
Bấy giờ vua Đại Phạm Vương hỏi Phật: “Nếu có người theo Phật cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa mà không thọ giới cấm, hoặc thọ giới vi phạm, bị vua dòng Sát đế lợi quấy rối mắng chửi, đánh đập bắt trói thì vị vua ấy bị tội thế nào?”.
Phật bảo: “Này Đại Phạm Vương, nay ta sẽ nói sơ qua cho ông nghe. Nếu có người làm cho thân vạn ức Phật chảy máu, người ấy bị tội có nhiều không?”
Đại Phạm Vương nói: “Nếu chỉ làm một thân Phật chảy máu thì cũng mắc vô lượng tội vô gián, không thể tính được, sẽ đọa đại địa ngục A Tỳ, huống gì kẻ làm thân vạn ức Đức Phật chảy máu. Trừ Đức Thế Tôn ra, không ai nói hết được quả báo của nghiệp tội này”.
Phật dạy: “Này Đại Phạm Vương, nếu có người quấy rối, mắng chửi, đánh đập người đã vì ta mà cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa không thọ giới cấm hoặc thọ giới rồi vi phạm, kẻ ấy bị mắc tội còn nhiều hơn kẻ kia. Vì cớ sao? Vì người xuất gia ấy còn có thể chỉ dạy con đường Niết Bàn cho trời và người. Người ấy đã ở trong lòng Tam Bảo, trong hàng Tam tôn nên lòng kính tin sâu chắc hơn tất cả 95 phái ngoại đạo. Người ấy chắc hẳn vào Niết Bàn hơn tất cả mọi người tại gia, trừ người tại gia chứng được pháp nhẫn nhục. Vì thế, trời và người phải nên cúng dường người ấy, huống gì người thường giữ giới cấm, ba nghiệp phù hợp với chánh pháp. Tất cả các quốc vương, các quan đại thần và thần dân, nếu thấy người xuất gia theo giáo pháp của ta mà phạm tội nặng như sát sanh, trộm cướp, dâm dục, nói dối thì trục xuất ra khỏi nước, chớ nên đánh đập”.
Bấy giờ Đức Phật nói bài kệ:
Vẫn quý hơn hoa khác
Các Tỳ kheo phá giới
Còn tốt hơn ngoại đạo.
Cạo đầu mặc cà sa
Giữ giới và phá giới
Trời người nên cúng dường
Thường giúp không thiếu thốn
Cúng dường người như vậy
Chính là cúng dường ta.
Nếu vì cung kính pháp
Nên cạo đầu quy y
Thân đắp y cà sa
Ấy chính là con ta
Giả sử phá giới cấm
Vẫn trụ địa bất thối
Nếu ai đánh đập người
Tức là đánh đập ta
Nếu ai chửi mắng người
Tức là chửi mắng ta.
Tâm người kia muốn hủy
Ngọn đèn lớn chánh pháp
Đánh nhau giành của cải
Vua chúa cùng nổi giận”.
Nghi ngờ không biết lối,
Trong các pháp thật tướng,
Nghi cũng lại như vậy.
Tin chắc, thọ nhận pháp rồi tu, đi thẳng con đường này thì thành tựu.
Trong Kinh Tương Ưng bộ có con quỷ Dạ xoa tên là La pha thi kha đến hỏi Phật: “Cái gì đối với người là tài sản tối thượng? Cái gì khéo hành trì đem lại chơn an ổn? cái gì giữa các vị là vị ngọt tối thượng? phải sống như thế nào được gọi là sống tối thượng?”
Phật đáp: “Lòng tin đối với người là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì đem lại chơn an ổn. Chân lý giữa các vị là vị ngọt tối thượng. Phải sống với trí tuệ được gọi là sống tối thượng”.
Tin mình, tin Thầy, tin pháp chính là tài sản tối thượng. Chánh pháp khéo hành trì đem lại sự an ổn, sự hạnh phúc lâu dài. Chân lý từ ngàn xưa ba thời đều đúng, không phải do Đức Phật phát minh ra, dù Phật chưa ra đời thì các chân lý vẫn vậy, sau khi Phật nhập Niết bàn chân lý cũng là như vậy. Đạo Phật rất trí tuệ, trả lại sự tự do cho mỗi chúng ta, tùy chúng ta tự quyết định trên con đường cầu đạo giác ngộ giải thoát. Muốn trở về với chủ nhân ông của chính mình, chúng ta phải tu thiền để thấy được bản chất thật sự của các pháp.
Các câu trả lời tham vấn.
1.Tu thiền, có lúc dùng chỉ, dừng hết các niệm, có lúc dùng quán. Như Thiền quán Nguyên thủy: gặp bất cứ loại sắc nào thì quán chiếu đây là vị ngọt, đây là nguy hiểm, đây là con đường thoát ly. Còn thiền đốn ngộ là nhìn thẳng vào tâm, thấy các pháp như nó đang là, nó như thế mà không trụ vào các pháp nên thoát ly.
Trong Kinh Kim Cang có câu: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai”. Có người hỏi “phi tướng là gì?”. Có phải là dẹp cái ly đi không, hay quán cái lý này do các duyên hợp thành, không có tự tánh? Quán chiếu như vậy thì đúng với tinh thần Giáo, nhưng chưa phải tinh thần của Thiền tông. “Phi tướng” tức là thấy tất cả các tướng nhưng không trụ các tướng mà xuyên suốt qua hết. Ngay chỗ “phi tướng” mà giảng duyên khởi thì đó là giáo môn chứ không phải thiền đốn ngộ. Thiền đốn ngộ là không trụ các pháp, tuy không trụ các pháp mà tâm đầy đủ từ bi, hỷ xả, bình đẳng…, đó là diệu dụng của tự tánh, “ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”. Còn trụ các pháp thì sanh tâm ta người, chủ khách, thương ghét, có không, phải quấy…
Tuy nhiên, do mình còn yếu nên có lúc phải quán chiếu như quán chiếu về nhân duyên, duyên khởi, quán chiếu nguồn gốc do nhân gì, duyên gì mà người đó hạnh phúc còn mình thì đau khổ.
Một người sau khi đốn ngộ thì nghịch duyên đến nhưng đến thì mất. Các Ngài nói “không sợ vọng tưởng”, vì ngay đó, vọng tưởng biến thành đề hồ, không làm cho mình đau khổ nữa mà còn làm cho cái giác của mình càng mạnh, cái biết càng sung mãn, bao nhiêu niệm nhìn là mất vì đang sống trong tự tánh.
2. Trong Kinh Hạnh phúc có câu “Phải lánh xa kẻ ác”. Còn trong Tứ hoằng thệ nguyện thì “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”. Vậy nếu phát tứ hoằng thệ nguyện thì có lánh xa kẻ ác không?
Trả lời: Nếu quý vị gặp một người như Ương Quật Ma La, quý vị có dám độ không? Tứ hoằng thệ nguyện là tinh thần của Bồ Tát đạo. Giống như một người biết bơi lội, thấy có người sắp chết đuối liền nhảy xuống cứu, còn mình không biết bơi mà nhảy xuống thì không những không cứu được ai mà còn chết chìm luôn.
Cho nên, ban đầu mình mới tu phải lánh xa kẻ ác, thân cận người thiện để mình thấm, hấp thụ được thiện pháp. “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”, cúng dường những bậc đáng kính, có giới hạnh, có tu tập để tăng trưởng ruộng phước.
Còn tinh thần Bồ tát đạo là độ hết tất cả chúng sanh, kể cả những chúng sanh cang cường, gai góc. Nhưng ngoài ra, còn cả những chúng sanh tâm của mình như tâm tật đố, ích kỷ…. độ tất cả những chúng sanh này vào vô dư Niết Bàn.
Còn “Pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, quý vị hiểu như thế nào? Có phải là học tất cả các pháp môn không? Ở đây, lý thiền rất sâu.
Có bao nhiêu phiền não thì có bấy nhiêu pháp môn để đối trị, một niệm san tham khởi, quý vị dùng một mũi tên bố thí để bắn, một niệm tất đố khởi, dùng một mũi tên tùy hỷ để bắn. Nhưng chỉ cần BIẾT thì các pháp lìa hết, như một mũi tên bắn được một bầy. Bao nhiêu niệm khởi lên mặc kệ, vì biết niệm đó không có tự tánh, không có thực thể, chỉ cần BIẾT thôi thì thành tựu pháp môn vô lượng.
Các bài mới
- Năm pháp che lấp Tự Tánh Bát Nhã ( Phần 1) - 07/10/2012
- Tâm là chủ muôn pháp - 20/07/2012
- Tại sao chúng ta phải phát Bồ Đề Tâm - 05/06/2012
- Pháp là con đường đưa chúng ta thoát khổ - 28/05/2012
- Con đường tự thắng mình - 16/05/2012
Các bài đã đăng
- Công đức nghe pháp - 16/04/2012
- Ý nghĩa lễ Phật - 27/01/2012
- Diệu chỉ Phật tâm tông (Phần 2) - 23/05/2011
- Diệu chỉ Phật tâm tông (Phần 1) - 19/05/2011
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 84353
- Online: 39