Tam giải thoát môn
16/11/2015 | Lượt xem: 5521
HT Thích Thông Huệ
Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán để đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủy là Vô Thường-Khổ-Vô ngã, hay trong luận tạng là Vô thường-Vô ngã-Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa sâu xa hơn.
Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nên nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.
Tam giải thoát môn gồm :
- Không môn.
- Vô tướng môn.
- Vô tác môn.
1. KHÔNG MÔN
Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là Không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ Luận tiểu thừa và đại thừa cũng nhằm làm sáng tỏ lý Không. Nhưng tại sao không nói CÓ mà lại nói KHÔNG? Trong cuộc đời thường chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc Tham hoặc Sân. Từ chỗ chấp có mà chúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinh mà con người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.
Giờ đây, nói đến Không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý Không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.
Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là Không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái "KHÔNG" vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều Không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, còn chia chẻ mới thấy các pháp là Không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của "Tích không quán" chứ chưa thấy được "Đương thể tức không". Khi nhìn đóa hoa đã thấy ngay là Không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ "KHÔNG" chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, Không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả..., đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là Không, đang nở cũng là Không, mà lúc tàn rụng cũng là Không. Cả ba giai đoạn : đã, đang và sẽ, đều là Không. "KHÔNG" này không phải là đối với "CÓ", nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là Không. Đây là hành vi của Bát Nhã, cái thấy của trí tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.
Lúc tọa thiền chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, để tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn chiếu soi tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là "KHÔNG". Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái "Không" ở nơi cái "Hoa", đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm cái "Không" trong cái "Hoa" thì ở đây sẽ có hai cái: Cái không và cái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh ở ngoài thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.
Có câu chuyện "Vua Sở mất gươm": một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: "Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm". Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của đức Khổng Tử hỏi Ngài : "Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao?", Đức Khổng Tử trả lời: "Khổng Khâu sẽ bảo là, người mất gươm, người được gươm". Chúng ta ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào ? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái ngã của Ngài bao trùm tất cả loài người.
Đối với những vị đã nhận được lý "không", sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác Bát Nhã, thấy toàn bộ là "KHÔNG", thì cái thấy đó đã thuộc về Pháp Giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp Giới Tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị Bồ Tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái "KHÔNG", lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.
Một điểm cần lưu ý, là chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái Không ở đây là các Không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là Không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng ánh trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.
2. VÔ TƯỚNG MÔN:
Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành nó. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.
Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ : nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tùy duyên mà có hình khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng Oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tùy duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với cái Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ Tát lập phương tiện giáo hoá chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ ? Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ Tát Quan Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tuỳ duyên hoá độ chúng sanh.
Chúng ta đã biết, đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu ai bảo rằng pháp tu của mình là đệ nhất, thì người ấy chưa hiểu gì về Phật pháp. Trong Phật pháp, khi còn ở cửa ngõ phương tiện thì còn có sai khác, nhưng đến cứu cánh thì tất cả chỉ là một. Đức Phật đã từng nói : “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, trong đạo của Như Lai cũng chỉ có một vị. Đó là vị giải thoát”. Người có trí không bao giờ cố chấp, đem một khuôn khổ áp đặt mọi người phải theo mình. Chính vì không cố chấp, không hành xử một chiều nên đối với họ thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là thắng duyên. Đối với người chưa biết tu, thuận cảnh làm cho họ mê mờ, nghịch cảnh làm cho họ sân hận, nên cả hai dều là chướng ngại. Còn đối với người biết tu, thuận hay nghịch đều tốt, cho nên đối với Đức Thế Tôn, chính Đề Bà Đạt Đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Ngài đã đối xử với Đề Bà Đạt Đa cũng như Ngài A Nan là thị giả, hoàn toàn bình đẳng, không hơn không kém.
Từ Cái thấy vô tướng này, chúng ta soi rọi được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vô tướng ở đây không có nghĩa là vô tướng, mà là nơi tướng lìa tướng. Đối với các pháp, không thực sự có hiện hữu, mà chỉ là hiện hữu một cách giả tạm. Thấy một cách thấu suốt như vậy chúng ta sẽ được bình an. Cái gọi là chết chỉ là ảo tưởng do ý thức bày đặt ra, chứ không có cái chết thật. Một đợt sóng trồi lên mặt đại dương ta cho đó là sống, khi nó chìm xuống thì cho là chết, thật ra đợt sóng ấy chưa từng sống mà cũng chưa từng chết, nếu sóng nhận ra nó chính là nước. Đợt sóng năm uẩn trên biển Chơn Như này cũng vậy, nếu thấy được cái vô tướng của thân, ta sẽ thấy cái sống hay cái chết cũng chỉ đều trên giả danh giả tướng.
Tóm lại, một pháp không có tự thể riêng biệt, không thể đứng riêng biệt mà tồn tại nên nó là Không. Vì không nên nó vô tướng.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy : “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, mới thấy được Như Lai). Khi ta thấy được sự thay hình đổi dạng liên tục, trong từng sát na của các pháp, ta mới thấy được chỗ phi tướng. Các pháp này là do duyên hợp giả có nên phi, các pháp chẳng phải thật là nó nên phi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Như Lai là ông Phật xi măng ngồi trên bệ. Cố nhiên, chúng ta phải quý kính Ngài, xem Ngài như đang hiện tiền trước mặt để ta đảnh lễ, để tu theo Ngài. Nhưng nếu có một ai trong chúng ta nghĩ Như Lai với một ý nghĩ không thận trọng như vậy là lầm. Khi ta nhìn đoá hoa, cái thấy đã đến tác động trên hoa, đó là LAI; nhưng thấy mà không sanh tâm phân biệt đẹp xấu, ưa ghét… thì đo là NHƯ. Nghe tiếng chim hót, cái nghe tác động đến tiếng chim nên LAI, nhưng không sanh tâm phân biệt nên NHƯ. Các căn tiếp xúc với các trần khác cũng vậy. Do đó, LAI là dụng của NHƯ, NHƯ là thể của LAI. Chúng ta từ NHƯ mà đế LAI, nhưng quên NHƯ, nên cứ mãi lăn lộn, tạo nghiệp mãi trong ba cõi sáu đường, còn Đức Thế Tôn đã triệt chứng chỗ này nên gọi Ngài là NHƯ LAI.
3. VÔ TÁC MÔN.
Khi hiểu sâu xa về Không, về Vô tướng, chúng ta sẽ càng dễ hiểu về Vô tác. Vô tác môn là cửa không tạo tác nếu thấy bằng tâm Vô tác, liền tức khắc được giải thoát. Đây là cửa giải thoát thứ ba.
Vô tác còn gọi là Vô nguyện, nghĩa là không mong cầu, không ham muốn. Tâm hoàn toàn vắng lặng đối với cuộc đời này, tùy duyên mà sống, tuỳ duyên mà thọ dụng các pháp. Không chấp thiện ác, đúng sai, không chấp nhị biên phân biệt. Sống nhưng không có thức khởi trong đó, nên tuy thấy biết rõ các pháp mà không tạo tác thêm nghiệp gì nữa. Như vậy, Vô tác là do thấy các pháp là Không, là Vô tướng nên tâm không dính mắc, không tạo tác, dù cũng làm tất cả mọi việc. Các vị A la hán, Bồ tát cũng làm lợi ích cho chúng sanh, cũng hoạt động sinh hoạt như chúng sanh, nhưng không tạo nghiệp, vì tâm các Ngài là Vô tác. Đã không tạo nghiệp thì không có kiết sử. Mà không có kiết sử thì lấy gì dẫn mình đi luân hồi ? Bị dẫn đi luân hồi là khi còn kiết sử, còn nghiệp. Nếu nghiệp thiện thì sanh nơi cõi lành, nghiệp ác phải đọa ba đường khổ là địa ngục-ngạ quỷ-súc sanh. Ở đây không vướng các nghiệp dù thiện hay ác, nên giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
Một khía cạnh khác của Vô tác đối với trường hợp của các vị Bồ tát. Các Ngài không tác tạo nghiệp nên không còn động cơ tái sanh ở kiếp sau. Nhưng vì bản nguyện độ sanh, nên các Ngài đi theo nguyện lực của mình, thị hiện nơi các cõi để tuỳ duyên hoá độ.
Khi tu nghĩa là phải tập. Khi có cảnh thuận hay nghịch đến với ta, ta phải để tâm xem thử động tĩnh thế nào. Đó là quán tâm như tâm, các vận hành của tâm ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Ta phải thấy một cách quán triệt là toàn bộ những vọng niệm chỉ là những đợt sóng trên mặt tâm, cũng như sóng trên mặt đại dương, không cần diệt vọng mà chỉ cần liễu vọng, vì có tâm diệt vọng cũng như muốn lấy nước để trừ sóng, đó là cái thấy của nhị thừa chứ không phải của Phật, Bồ tát.
Một vấn đề khác nữa, khi tâm đã vô tác thì không còn động cơ tái sinh. Mà khi không còn động cơ tái sinh thì không còn đặt một đối tượng sở chứng sở đắc nào. Các pháp hữu vi đã là Không, là Vô tướng, thì cái gọi Niết bàn cũng không có tướng mạo. Niết bàn không phải là một cảnh giới để mình bơi lội trong đó. Nói theo nghĩa thông thường, khi ta cầm một vật gì thì vật ấy không phải là ta. Tương tự như vậy, nếu ta chứng được cảnh Niết bàn, thì Niết bàn ấy đã ở ngoài ta rồi. Niết bàn ở đây không phải là cái bị biết, mà là viên dung cả cái hay biết và cái bị biết, không phân ranh được. Khi ta thấy đoá hoa là đã biết mắt ta sáng, không còn tìm con mắt của ta nữa. Khi ta biết những đợt sóng đều là nước, thì thân năm uẩn này đã là Niết bàn, không cần tìm Niết bàn ở đâu nữa. Đó là tinh thần vô tác.
Chúng ta đã từng nghe bài kệ của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn trình cho Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch :
"Khứ niên bần vị thị bần,
Kim niên bần thủy thị bần.
Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,
Kim niên bần chùy dã vô".
Tạm dịch :
"Năm xưa nghèo chưa thật nghèo,
Năm nay nghèo mới thật nghèo.
Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
Năm nay nghèo cả cái dùi cũng không".
Đây là một thông điệp về sự nghèo. Cái nghèo của Ngài Hương Nghiêm chỉ có ở các vị A la hán trở lên, các vị đã đạt đến Vô sanh, tức là Vô tác.
Cái nghèo ở đây ám chỉ điều gì? Thế nào là dùi? Thế nào là đất? - Đất là chỉ cho sáu trần cảnh bên ngoài. Dùi tượng trưng cho cái tâm phân biệt hay biết. Năm xưa tuy nghèo, nhưng đối duyên xúc cảnh vẫn còn phân tâm trên cảnh, nên còn có đất cắm dùi. Năm nay, tâm năng biết đã biến thành trực giác, khi thấy cảnh không còn bị gá trên cảnh để sanh tâm, nên nghèo không còn đất cắm dùi. Nói cách khác, năm xưa thấy cảnh vẫn còn có tâm sở hữu, chấp trước, còn dính mắc, dù là dính mắc với cái thiện hay với trình độ tri thức của mình về Phật pháp, nên dù nghèo nhưng vẫn chưa thật nghèo. Năm nay nghèo mới thật nghèo nghĩa là Vô tác, làm tất cả mà không kể công, làm mà không có cái ngã xen vào. Đây là việc làm của các vị Bồ tát, là hành động không công đức, tức đạo đức vô hành. Bồ tát luôn luôn làm mọi việc vì người, luôn quên mình vì lợi ích của người khác. Mà trong khi quên mình để phục vụ, thì lúc đó các Ngài đã sống viên mãn với cái thật. Còn chúng ta thì thường chỉ có ý thức về mình làm, ít nghĩ đến người khác, nên chúng ta là những con người đau khổ. Cho nên, người nào tập quên mình bao nhiêu thì người đó sẽ có sự bù đắp vô tận vô biên. Cũng vì thế, tu không phải là sự mất mát như nhiều người lầm tưởng, bởi vì khi buông tất cả, ta sẽ được tất cả.
Tóm lại: Không - Vô tướng - Vô tác là ba cửa giải thoát, nhưng không nhất thiết phải đi cả ba cửa, chúng ta chỉ chọn một cửa thích hợp cũng vào được trong nhà. Thật ra, đây là ba khía cạnh của một vấn đề, nên nếu thâm nhập được một cửa, thì có thể thâm nhập luôn hai cửa kia./.
Thích Thông Huệ
Bài đọc thêm
CỔNG TAM QUAN
Phật Giáo du nhập đến Việt nam vào những thế kỷ đầu Tây Lịch. Từ đó cho đến bây giờ tinh thần đạo Phật được luân lưu trong nhân gian một cách sâu rộng. Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt Nam, Ðạo Phật chỉ mới phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt, và dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Ðạo Phật trong phương diện thờ cúng lễ bái. Về sau Phật Giáo Thiền học được truyền vào, nhưng những kinh điển trong giai đọan nầy có khuynh hướng Tiểu Thừa nhiều hơn. Ngài Khương Tăng Hội là người có công đốt lên ngọn đuốc Ðại Thừa Thiền Học. Sau Ngài Khương Tăng Hội thì có các ngài Cảm Thành Thiền Sư, ngài Thiện Hội Thiền Sư..v..v..đó là thời kỳ đầu. Thời kỳ thứ hai chúng ta thấy có ngài Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và thời kỳ thứ ba thì có Thiền Phái Vô Ngôn Thông. Phật Giáo đến Nhà Ðinh và Tiền Lê thì phát triển rất mạnh, có thể nói Ðaọ Phật trong giai đoạn này đã chiếm một địa vị độc tôn, vì vậy tất cả các phương diện Văn Hóa, chính trị trong nước phần lớn đều do Tăng Sĩ phụ trách. Ðạo Phật đã được phổ cập trong quần chúng một cách sâu rộng, cho nên các Chùa, Viện cũng xuất hiện khắp nơi trên những nẻo đường Việt nam. Từ những miền núi rừng thâm u, hay cạnh dòng sông hiền hòa của đồng quê, cho đến những nơi huyên náo của phố xá thị thành, hình ảnh ngôi Chùa với Cổng Tam Quan trở nên quen thuộc với mọi người. Cổng Tam Quan tức là Cổng Chùa có ba cửa đi: Một cửa giữa lớn và cao, hai cửa nhỏ ở hai bên và hơi thấp hơn cửa giữa. Vì ảnh hưởng sâu đậm bởi tinh thần Thiền Học cho nên khi nói đến Chùa người ta thường nói là Thiền Môn có nghĩa là cửa Thiền, hay còn gọi là Không Môn có nghĩa là Cửa Không, nơi đó có những người tu, hiền lương, giải thoát. Còn về Cổng Tam Quan cũng gọi là Tam Giải Thoát môn, tức là Ba Cánh Cửa Giải Thoát, ba cánh cửa đó là:
- Cửa Không
- Cửa Vô Tướng
- Cửa Vô Tác, hay cũng gọi là Vô Nguyện.
Tất cả những từ ngữ đó là tiếng nói trong nhân gian, và nguồn gốc xuất xứ những danh từ nầy là phải nói bắt nguồn từ Ba Pháp Ấn trong Ðạo Phật. Trước khi dẫn tới Ý nghĩa của Cửa Không hay Ba Cánh Cửa Giải Thoát, chúng tôi muốn giới thiệu đến quý vị Ba Dấu Ấn trong Ðạo Phật.
Ấn là dấu in, Pháp là chân lý không thay đổi. Như vậy Ba Pháp Ấn có nghĩa là Ba Chân Lý. Vì là chân lý nên không bao giờ thay đổi, cho dù ở đâu, quốc độ nào, và bất cứ lúc nào cũng đúng và phù hợp trong nhân gian, cho nên cũng thường gọi là Ba Ðặc Tính trong cuộc đời. Ba Pháp Ấn đó là:
1- Vô Thường:
Nói về Vô Thường thì chúng ta phải nói từ thân tâm cho đến vũ trụ vạn hữu, muôn vật đều biến đổi từng niệm, từng giây, từng phút. Niệm, giây, phút là chỉ cho thời gian hết sức ngắn ngủi, tuy nhiên mọi sự vật thay đổi còn mau hơn tâm niệm. Niệm sau sanh, niệm trước diệt. Không những chỉ có trên phương diện tâm lý, mà cả trên hiện tượng vật lý cũng đều như thế. Hữu tình thế giới thì có Sanh, Trụ, Dị, Diệt, mỗi tích tắc thay đổi không thường. Hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết, cho đến trái đất nơi chúng ta đang cư trú cũng rung chuyển vận hành, thay đổi. Ðây là Vô Thường của hiện tượng giới. Trạng thái vui, buồn từ trẻ đến lớn, từ lớn đến già, từ già đến chết, sự thay đổi nầy là Vô Thường tâm sinh lý của nhân sinh. Mọi sự, mọi vật tạo tác, biến chuyển không ngừng vật lý, tâm lý cũng như thế, nghĩa là bị nhân duyên phát động, tất cả đều là sự vật không cố định, cho nên gọi là Vô Thường.
2- Vô Ngã
Nói về Vô Ngã thì có hai sự phân biệt: Nhân Vô Ngã, và Pháp Vô Ngã.
a- Nhân Vô Ngã:
Con người do năm uẩn: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức do nhân duyên kết hợp với nhau mà có, nương theo sự giả hợp đó mà gọi là con người. Sự thật khi phân tích kỹ thì chúng ta thấy không có chi là con người hết. Do đó mà gọi là Nhân Vô Ngã.
b- Pháp Vô Ngã:
Muôn vật ở đời do Sắc Pháp và Tâm Pháp tạo duyên kết hợp với nhau mà có. Cái nầy nương cái kia mà sanh, vật nầy nương vào vật nọ mà có. Nghĩa là tất cả mọi sự vật tương đối mà có, tuyệt đối không có vật chi có thể tồn tại được. Nói một cách khác, không luận là sự vật có tạo tác hay không tạo tác đều không có thật thể tồn tại cho nên nói là các Pháp Vô Ngã.
3- Khổ hay Niết Bàn Tịch Tịnh
Nói về tất cả những cảnh khổ trong thế gian thì không bao giờ cùng, tuy nhiên Ðức Phật dạy là có Ba Thứ Khổ, hoặc là Tám Thứ Khổ được trình bày như sau:
a- Khổ Khổ
Tự bản thân của chúng ta đã là nạn nhân của bao nhiêu cái khổ và không bao giờ làm chủ được, cũng không sao tránh khỏi như: Bệnh tật, đói khát, bão lụt, hỏa hoạn, chiến tranh tàn phá, bị áp bức, sưu cao thuế nặng..v..v..Có nghĩa là cái khổ nầy chồng chất lên cái khổ kia cho nên gọi là Khổ Khổ.
b- Họai Khổ
Trong Kinh Ðức Phật ngài có dạy: Tất cả những cái gì có hình tướng đều bị hoại diệt. Thật như vậy, vạn vật trong vũ trụ đều bị Vô Thường chi phối, không tồn tại mãi được. Cứng rắn như sắt đá cũng có ngày họai diệt, những vật lớn như trái đất lâu ngày cũng có lúc tan rã. Yếu ớt nhỏ nhắn như thân con người, thì mạng sống lại càng ngắn ngủi hơn. Cái búa thời gian nó đập nát tất cả, mỗi giây, mỗi phút ta đang sống cũng là mỗi phút mỗi giây ta đang bị hoai diệt mà không nể vị bất cứ một ai. Cho dù ta có quyền lực bao nhiêu đi nữa cũng không tránh khỏi dòng thời gian tiêu diệt đời ta, nên gọi đó là Hoại Khổ.
c- Hành Khổ
Về phương diện vật chất thì chúng ta bị ngoại cảnh, thời gian chi phối, phá hoại. Còn về phương diện tinh thần chính ta cũng không tự chủ, tự do được. Tâm hồn ta thường bị dục vọng dằn vật, lôi kéo thúc đẩy từng phút từng giây, tư tưởng của chúng ta cũng biến chuyển nhảy vọt từ chuyện nầy sanh chuyện khác như vượn chuyền cây không bao giờ ngừng nghỉ. Ði sâu vào trạng thái tâm hồn là phần tiềm thức chi phối, sai sử một cách mãnh liệt trong mỗi ý nghĩ, cử chỉ và hành động của chúng ta. Ta giận, ta thương, ta ghét...tất cả đều bị kềm chế. Nói tóm lại, ta không được tự do mà trái lại bị chi phối bởi những ý tưởng đam mê dục vọng, và luôn luôn chịu mệnh lệnh nô lệ bởi đam mê tham dục, nên gọi đó là hành khổ.
Ngoài ra, có tính cách tỷ mỉ hơn, còn có tám lọai khổ khác như: Sanh Khổ, Lão Khổ, Bệnh Khổ, Tử Khổ, Ái Biệt Ly Khổ, Cầu Không Ðược Khổ, Thường Gặp Người Mình Không Thích Khổ, Năm Ấm Thạnh Khổ. Tám thứ khổ nầy tựu trung cũng không ngoài ba cái khổ như đã trình bày ở trên.
Như trên chúng ta thấy, tất cả mọi sự mọi vật đều bị định luật Vô thường chi phối thay đổi, cho nên nó không còn nguyên vẹn như thưở ban đầu. Như một con người từ khi lọt lòng mẹ sinh ra đời, theo thời gian lớn lên để trở thành một cậu thanh niên, hay một cô thiếu nữ, rồi cũng theo thời gian biến đổi để trở thành một ông già hay bà cụ. Như vậy cũng một con người có lúc chúng ta gọi là em bé, có lúc chúng ta gọi là cô cậu thanh niên, thiếu nữ, có lúc chúng ta gọi ông già, bà cụ..v..v..Vì thế chúng ta nói: Tất cả đều tuân theo định luật Vô Thường mà thay đổi cho nên mọi sự mọi vật đều Vô Tướng, hay nói một cách ngắn gọn hơn: Vì Vô Thường nên Vô tướng. Vậy Vô Tướng là tên khác của Vô Thường.
Vì là Vô Tướng nên không có cái gì là của tôi, như nói: Tôi là một em bé mới sinh ra, hay là một cô, cậu thanh niên, hay một ông già bà cụ. Tất cả những tên nầy cùng là một con người, nhưng khi mới sanh thì gọi là em bé, khi lớn lên thì gọi là thanh niên, thiếu nữ, khi già thì gọi là ông già bà cụ, tất cả những cái tên nầy là giả danh, không có cái gì là thiệt của tôi. Ðể rõ ràng vấn đề nầy chúng ta hãy nghe cuộc đối thoại giữa Ðức Phật và Ngài Tu Bồ Ðề về phá Tướng Ngã trong Kinh Kim Cang như sau:
- Này Tu Bồ Ðề, ý ông nghĩ thế nào! Có thể do nơi thân tướng mà được thấy Như Lai không?
- Bạch Thế Tôn! Không, không thể do nơi thân tướng mà thấy được Như Lai. Bởi vì sao? Như Lai nói thân tướng tức là không phải thân tướng.
Ðó là nói về Pháp Thân của Ðức Phật, tuy không phải là tướng, nhưng cũng không phải ly hẳn tướng, tất nhiên phải ngộ đúng lý mới thấy thật được, chớ không thể chấp trước 32 tướng kia là Pháp Thân của Ðức Phật. Ngài Tu Bồ Ðề đã lãnh hội về hình tướng Phật, Bồ Tát, Chúng Sanh đều là ảnh tượng của tự tâm phân biệt vọng tưởng, chớ không phải thật có. Nên một khi ông nghe Phật hỏi: có thể do thân tướng mà thấy được Như Lai không? Ông liền đáp: Không, bởi vì thân tướng của Như Lai nói đó tức là giả tướng của bốn đại, năm ấm hòa hợp tương tục, chớ không phải do thân tướng chân thật. Câu trả lời của ngài Tu Bồ Ðề được Ðức Phật xác định như sau:
- Tu Bồ Ðề: Phàm cái gì có thân tướng đều là hư dối. Nếu thấy rõ các tướng chẳng phải tướng, tức là thấy Như Lai.
Ở đây chúng ta thấy Ðức Phật ngài dạy rất rõ ràng: Không riêng gì sắc thân, mà phàm tất cả các tướng của căn thân thế giới, hình hình sắc sắc, cái chi cũng đều hư vọng, giả dối, như hoa trong gương, trăng dưới nước, tất cả đều không có tướng nào là chân thật. Nếu hiểu rõ các tướng đều là hư dối như thế tức là thấu rõ được thật tướng của các pháp là Không. Không là tên gọi khác của Vô Ngã.
Kiếp người do vì Vô Thường, Vô Ngã bức bách cho nên chúng ta đau khổ. Ý thức sự đau khổ thâm trầm, thiên thu vạn đại đó thì đâu còn muốn làm gì nữa. Bởi vì làm một em bé cũng khổ, làm một người ăn xin ở đầu đường xó chợ cũng khổ, mà làm một ông Thủ Tướng hoặc Tổng Thống cũng khổ, trong địa vị nào cũng có cái khổ của nó. Ngộ được chân lý nầy rồi thì không còn nguyện ước làm cái gì hết. Do đó nói là Vô Nguyện, hay Vô Tác là tên khác của Khổ.
Trên bước đường tu học, nếu muốn hiểu được cảnh đời là Vô Thường thì hành giả cần phải có Ðức Tin rất là kiên cố mới có thể thấu triệt được cảnh đời Vô thường. Khi thấu triệt cảnh đời Vô Thường thì đắc được Vô Thường Quán tức là được Vô Tướng Giải Thoát Môn. Muốn hiểu thấu Lý Vô Ngã thì hành giả cần phải sử dụng đến Trí Tuệ, để phân tích tất cả mọi sự vật đều không có thực chất chính nó. Thâm nhập được lý Vô Ngã thì được Không giải thoát Môn. Muốn hiểu thấu những cảnh đời đau khổ thì cần sử dụng đến định lực. Thấu triệt được những đau khổ của kiếp người rồi thì hành giả đạt được Vô Nguyện Giải Thoát Môn, hay cũng gọi là Vô Tác Giải Thoát Môn.
Như trên chúng tôi đứng trên lập trường của Nam truyền trình bày khái lược về Ba Pháp Ấn để dẫn tới ý nghĩa và điểm xuất xứ của Tam Giải Thoát Môn. Tuy nhiên đứng trên lập trường của Bát Nhã thì chúng ta lại có cái nhìn sâu sắc hơn. Cái nhìn toàn bích của Trí Bát Nhã, là không phải trải qua một quá trình Vô Thường, Vô Ngã để dẫn tới ý thức cuộc đời đau khổ, để chuyển hóa từ đó trở thành Không, Vô Tướng, và Vô Tác mà có thể thấy được liền tất cả đều là Không. Bởi vì nếu chúng ta phân tích thì chúng ta sẽ thấy:
Vô Thường tức là mọi sự vật đặt trong tình trạng bất ổn nên là Không.
Vô Ngã, là tự tánh, thật chất không có nên nói là Không.
Hay nói một cách khác Chữ Không của Ðại Thừa Bát Nhã có nghĩa là Không Thật. Không Thật đồng nghĩa với Vô Ngã; cũng có nghĩa là Không Bền, Không Bền đồng nghĩa với Vô Thường. Theo lập trường của Ðại Thừa Bát Nhã thì chữ Không nầy giống như tia Quang Tuyến X, nghĩa là khi chiếu vào cơ thể của con người, mặc dầu con người còn hiện hữu, nhưng dưới tia sáng của quang tuyến X thì chỉ thấy là bộ xương khô mà thôi. Vì thế mà cái Không của Bát Nhã không làm chướng ngại cho cái có, cũng như khi nhìn vào cái có chúng ta có thể thấy được những cái Không, như chúng ta nhìn vào tờ giấy bằng con mắt quán chiếu thì ta sẽ thấy có mây, có mưa, có ánh nắng của mặt trời để cho cây rừng, và tất cả những thực vật khác sinh trưởng. Ta sẽ thấy cây rừng xanh mướt, những chiếc lá rụng, cũng có những chiếc lá mục để nuôi dưỡng cho cây rừng thêm tươi tốt, ta còn thấy những khoáng chất trong lòng đất được rễ cây hút lên để nuôi thân. Khi cây to lớn thì người tiều phu đốn đem về làm bột giấy. Ta còn thấy bố, mẹ, tổ tiên của ông ta nữa, vì nếu không có bố, mẹ tổ tiên thì không có ông ta. Như vậy, khi nói đến giấy, ta có thể thấy được một chuổi dài nhân duyên liên hệ để có được tờ giấy như đã thấy, mà tự thể của những yếu tố đó không có tự tánh riêng biệt, nhưng nó lại hàm chứa cả vũ trụ vạn hữu trong đó. Nhìn chung thì chúng ta thấy từ vật vô tri cho đến vạn loài hữu tình như con người tự tánh không có, trống rỗng mà trong đó lại có tất cả, cho nên theo Bát Nhã không đợi Vô Thường biến đổi hoặc hoại diệt mới gọi là không, mà ngay cả mọi sự mọi vật còn hiện hữu vẫn nói là Không. Hiểu được điều nầy chúng ta không lạ gì khi nghe ngài Quán Thế Âm trong Chú Bát Nhã Tâm Kinh đã nói:
Quán Tự Tại Bồ Tát, khi thực hành bát nhã Ba La Mật Ða sâu xa, thì soi thấy năm uẩn đều không, vượt qua mọi khổ ách.
Xá Lợi Tử, Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc; Sắc tức là không, Không tức là Sắc. Thọ Tưởng, Hành, Thức cũng đều như vậy.
Xá Lợi Tử, Không ấy của các Pháp, Không Sanh, Không Diệt, Không Nhớp, Không Sạch, Không Thêm, Không Bớt. Nên trong không, không Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức, không Nhãn, Nhĩ, Tỷ, Thiệt, Thân, Ý, không Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Không Nhãn Giới cho đến không Ý Thức Giới. Không Vô Minh và sự diệt tận của Vô Minh, cho đến không Lão Tử và sự diệt tận của Lão Tử. Không Khổ, Tập, Diệt, Ðạo, không Trí, không được, và không bị được.
Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật nên không vướng mắc, không vướng mắc nên không khiếp sợ, siêu thóat mộng tưởng điên đảo, cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật cả ba thời gian y theo Bát Nhã Ba La Mật nên được Vô Thượng Bồ Ðề. Do đó nên biết Bát Nhã Ba La Mật là bài chú rất sáng chói, bài chú tối thượng, bài chú tuyệt bực mà đồng bực, trừ được hết thảy khổ não, chắc thực, không hư ngụy.
Nói Tóm lại Cổng Tam Quan là tiêu biểu cho Ba Pháp Ấn trong Ðạo Phật. Khi chưa tu, chưa biết tu thì Ba Pháp Ấn đó là Vô Thường, Vô Ngã và Khổ. Nhưng khi tu rồi đắc pháp thì thấy Vô Thường là Thường, Vô Ngã là Thường và Khổ là Thường trở thành Ba Cửa Giải Thoát đó là Cửa Không, Vô Tướng và Vô Tác. Vì muốn chỉ cho chúng ta biết cảnh giới của Hữu Tình Không, nên Ðức Phật phải dùng Vô Thường, Vô Ngã để dẫn đến Niết Bàn Tịch Tịnh. Theo quan điểm của Ðại Thừa Ðức Phật ngài khuyến khích chúng ta phải tiến thêm một bậc nữa bởi vì Ba Pháp Ấn đó chỉ là phương tiện, để cuối cùng dẫn đến Nhất Thật Tướng Ấn chính là Pháp Không nghĩa là tất cả mọi sự vật đều Không.
Ý nghĩa thâm thúy của Cổng Tam Quan mà người đời thường gọi cửa Chùa là Cửa Không là như thế. Thật sự trong cuộc đời nầy nếu chúng ta hiểu được phần nào của Ba Pháp Ấn nầy thì cuộc sống của chúng ta sẽ vượt thoát được những đau khổ, ràng buộc, kiến chấp sai lầm..v..v..như thế cuộc sống của chúng ta chắc chắn sẽ an lạc. Nguồn: Thiền viện Đại Đăng Nguyễn Mộng Khôi
Các bài mới
- Tưởng niệm nhân ngày vía Phật Thích Ca nhập niết bàn - 05/11/2015
- Bài phát nguyện của Đạo tràng Trúc Lâm Sùng Phúc trong Đại Lễ Vu Lan báo hiếu - 08/12/2011
- Phát nguyện thọ Bồ tát giới-Thập thiện giới nguyện lực sẽ được vô cùng - 03/11/2011
- Phật tử muốn cầu bình an, phải tu tập như thế nào để đạt được kết quả - 14/10/2011
- Đức từ bi và nhẫn nhục - 08/09/2011
Các bài đã đăng
- Ba điều căn bản của người tu Phật1 - 04/07/2011
- Những hành trình cuối cùng của Đức Thế Tôn - 19/03/2011
- Khổ vui qua mắt kẻ mê người tỉnh - 27/02/2011
- Vẻ đẹp tuyệt trần - 29/01/2011
- Những chướng nạn của Đức Phật - 23/01/2011
Tu học
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 89017
- Online: 47