Tham Thiền Yếu Chỉ Giảng Giải - Phần 2: Thiền Đường Chỉ Dạy

03/06/2025 | Lượt xem: 38

HT.Hư Vân

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng

PHẦN II: THIỀN ĐƯỜNG CHỈ DẠY

Chánh văn:

A. DẪN LỜI DẠY

Chư vị hằng ngày đến thỉnh tôi chỉ dạy khiến tôi rất hổ thẹn. Chư vị ngày ngày nhọc nhằn cuốc đất, bửa củi, gánh gạch, làm việc quên cả sớm chiều, mà vẫn không quên tâm niệm cầu giải thoát. Hạt giống thiết tha vì đạo ấy khiến mọi người đều cảm động. Hư Vân này hổ thẹn không đạo không đức, nói không đến đâu lấy gì chỉ dạy, chỉ lượm lặt những lời dạy của cổ nhân để đáp lại lời khẩn cầu của chư vị mà thôi.

B. PHƯƠNG PHÁP NHẬP MÔN DỤNG CÔNG

Phương pháp dụng công tu hành rất nhiều, hiện tại chỉ tóm lược chỉ bày:

I- ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI TU TẬP

1. Tin sâu nhân quả

Không luận người nào, nếu muốn dụng công tu tập trước cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không tin nhân quả, thực hành càn bướng, không những tu hành chẳng thành công mà tam đồ cũng khó tránh. Cổ đức nói: “Muốn biết nhân đời trước hãy xem sự lãnh thọ của đời này, muốn biết quả đời sau hãy nhìn sự gây tạo hiện tại.” Lại nói: “Giả sử đã tạo nghiệp trăm ngàn kiếp vẫn không mất, khi nhân duyên hội ngộ quả báo trở lại tự chịu.” Kinh Lăng-nghiêm nói: “Nhân địa không ngay, quả báo cong vạy.” Cho nên gieo nhân lành kết quả lành, gieo nhân ác gặt quả ác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu là đạo lý tất nhiên vậy.

Nói đến nhân quả tôi xin thuật hai câu chuyện xưa để chứng minh:

a. Chuyện vua Lưu-ly giết dòng họ Thích

Trước đức Phật Thích-ca ra đời, trong thành Ca-tỳ-la-vệ có một làng chài lưới, trong làng có cái hồ to. Khi ấy, trời hạn nước cạn, bao nhiêu cá trong ao bị người làng bắt ăn hết, sau cùng còn lại một con cá thật to cũng bị người làm thịt luôn. Trong làng chỉ có một đứa bé lâu nay không ăn thịt cá, hôm ấy đến thấy con cá to lấy cây gõ trên đầu nó ba cái rồi đi. Sau này khi đức Thích-ca ra đời, vua Ba-tư-nặc rất kính tin Phật pháp, cưới con gái dòng họ Thích làm vợ, sanh được một thái tử đặt tên Lưu-ly. Lúc thơ ấu, Lưu-ly ở bên ngoại tại thành Ca-tỳ-la-vệ học, một hôm nhân giỡn chơi trèo lên tòa của Phật ngồi, bị người họ Thích rầy mắng kéo lôi xuống, nên ôm lòng uất hận. Đến khi Lưu-ly lên làm vua, xuất đại binh đánh thành Ca-tỳ-la-vệ, bắt hết dân cư trong thành giết sạch, chính khi ấy đức Thích-ca nhức đầu ba ngày. Các vị đệ tử lớn của Phật cầu xin Phật tìm cách giải cứu dòng họ Thích. Phật nói: “Định nghiệp khó chuyển.” Tôn giả Mục-liên dùng sức thần thông lấy bình bát đến thâu năm trăm người dòng Thích-ca đem để trên không trung; khi giặc qua, ngài đem xuống thả ra, không ngờ khi trút bát thấy tất cả đều biến thành máu. Các đệ tử lớn đến thưa hỏi Phật, Phật đem việc xưa dân trong làng ăn cá thuật lại: Con cá lớn ngày xưa là vua Lưu-ly hiện nay, quân đội của vua Lưu-ly đều là những con cá nhỏ trong hồ. Dân cư trong thành Ca-tỳ-la-vệ bị giết đều là người ăn cá ngày xưa. Thân Phật chính là đứa bé gõ đầu cá ba cái ngày xưa, nên hiện tại bị quả báo nhức đầu ba ngày. Vì định nghiệp khó tránh nên năm trăm người dòng họ Thích tuy được tôn giả Mục-liên cứu thoát, cũng không bảo tồn được tánh mạng. Sau này vua Lưu-ly bị đọa địa ngục. Oan oan tương báo không biết bao giờ hết được. Nhân quả thật đáng sợ vậy.

b. Chuyện ngài Bá Trượng độ hồ ly

Lão nhân Bá Trượng một hôm vào nhà giảng, giảng xong các thính giả ra hết, chỉ còn lại một ông già không lui đi. Ngài Bá Trượng hỏi: “Ông còn muốn hỏi gì?” Ông ấy thưa: “Con là Dã hồ tinh không phải là người, đời trước con vốn làm Đường đầu (Trụ trì) ở đây, nhân có người học, hỏi con: “Bậc đại tu hành lại rơi vào luật nhân quả chăng?” Con đáp: “Không rơi nhân quả.” Do đó con bị đọa lạc làm Dã hồ tinh đã năm trăm năm, không có cách nào thoát thân, mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho!” Ngài Bá Trượng bảo: “Ngươi hỏi lại ta.” Ông ấy bèn hỏi: “Bạch Hòa thượng! Bậc đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng?” Tổ Bá Trượng đáp: “Không lầm nhân quả.” Ông già nghe câu này liền đại ngộ. Ông lễ tạ thưa: “Nay nương lời đáp thay của Hòa thượng khiến con siêu thoát thân dã hồ, con ở hang sau núi, mong Hòa thượng lấy lễ tống táng theo nhà sư cho con.” Hôm sau, tổ Bá Trượng lại hang sau núi, lấy gậy bới ra có xác con hồ tinh, bèn dùng lễ theo nhà sư mà an táng.

Chúng ta nghe hai câu chuyện xưa này càng biết rõ nhân quả đáng sợ, tuy thành Phật vẫn khó khỏi quả báo nhức đầu. Sự báo ứng một mảy may không sai lạc, định nghiệp thật khó trốn tránh. Chúng ta gắng cẩn thận, gắng dè dặt chớ có gây nhân.

2. Nghiêm trì giới luật

Dụng công tu hành trước nhất phải trì giới. Giới là cội gốc quả vô thượng Bồ-đề, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, nếu không trì giới mà tu hành thì không thể được. Trong kinh Lăng-nghiêm dạy rõ bốn món thanh tịnh, dạy chúng ta rằng: “Không trì giới mà tu chánh định không thể thoát khỏi trần lao, dù hiện tiền có nhiều trí tuệ, nhiều thiền định cũng rơi vào tà ma ngoại đạo.” Đó nên biết, trì giới là trọng yếu, người trì giới long thiên ủng hộ, ma ngoại kính sợ. Người phá giới, bọn quỷ gọi là giặc lớn, nó quét dấu chân của người ấy. Ngày xưa tại nước Kế-tân, gần bên đất già-lam có một con độc long thường khi ra nhiễu hại dân chúng địa phương. Có năm trăm vị A-la-hán nhóm họp một chỗ dùng sức thiền định đuổi nó đi, rốt cuộc không hiệu quả gì cả. Sau có một vị tăng, không cần nhập thiền định chỉ đến gần con độc long nói một câu: “Hiền thiện! Hãy tránh xa chỗ này đi.” Con độc long liền đi mất. Các vị A-la-hán hỏi vị tăng ấy: “Ông dùng thần thông gì đuổi được con độc long?” Vị tăng đáp: “Tôi không dùng sức thiền định, chỉ do cẩn thận đối với giới, gìn giữ giới khinh cũng như giới trọng.” Chúng ta tưởng tượng sức thiền định của năm trăm vị La-hán mà không bằng một vị tăng nghiêm trì giới luật.

Hoặc có người bảo: “Lục Tổ nói tâm bình đâu cần trì giới, hạnh thẳng nào dụng tham thiền.” Tôi xin hỏi ông: Tâm ông đã bình, hạnh ông đã thẳng chưa? Giả sử có người con gái đẹp lõa thể đến ôm ông, ông có thể không động tâm chăng? Có người vô lý mạ nhục đánh đập ông, ông có thể không sanh tâm sân hận chăng? Ông đã đạt được chỗ không phân biệt oán thân, thương ghét, nhân ngã, phải quấy chưa? Cẩn thận khi làm được mới nói những lời to ấy, nếu làm không được mà nói chỉ là nói suông.

3. Tín tâm kiên cố

Có ý dụng công tu tập trước cần phải có lòng tin bền chặt. Lòng tin là đầu của đạo, là mẹ các công đức. Bất luận làm việc gì không có lòng tin thì làm không xong. Chúng ta cốt liễu thoát sanh tử, điều cần thiết phải có lòng tin bền chặt. Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước không thể chứng được.” Phật lại dạy các thứ pháp môn để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng ta nên tin lời Phật nói không hư dối, tin chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Sở dĩ chúng ta chưa được thành Phật, đều do chưa triệt để dụng công đúng như pháp mà thôi. Ví như chúng ta tin đậu nành làm đậu hũ được, nếu ta không ra công nấu đậu hũ thì đậu nành tự nó không thể biến thành đậu hũ. Nếu chúng ta đi nấu đậu hũ mà để thạch cao không đúng lượng, đậu hũ cũng không thể thành. Nếu ta nấu đúng pháp, để thạch cao đúng lượng quyết định sẽ thành đậu hũ. Người tu hành cũng như thế, không dụng công tu tập cố nhiên không thành Phật, dụng công không đúng pháp Phật cũng không thể thành. Nếu người tu tập đúng pháp, không lui không hối, quyết định người này sẽ thành Phật. Cho nên, chúng ta phải tin sâu chính mình xưa nay là Phật; lại tin sâu y giáo pháp Phật dạy tu hành quyết định thành Phật.

Thiền sư Vĩnh Gia nói: “Chứng thật tướng không nhân pháp, sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ, nếu dùng lời vọng dối chúng sanh, tự chuốc địa ngục (Bạt Thiệt) trần sa kiếp.” Ngài Vĩnh Gia vì lòng từ bi, cốt định chắc lòng tin cho người đời sau, nên phát lời thệ rộng lớn như vậy.

4. Quyết định pháp môn tu hành

Lòng tin đã đủ, lại nên chọn một pháp môn để tu trì, cần phải không được sớm Tần chiều Sở. Bất luận niệm Phật cũng tốt, trì chú cũng tốt, tham thiền cũng tốt, điều cần thiết là nhận định một pháp môn thẳng đó tiến tu hằng không lui sụt. Ngày nay chưa thành công, ngày mai vẫn tiến hành như thế; năm nay chưa thành công, năm tới vẫn tiến hành như thế; đời này chưa thành công, đời sau vẫn tiến hành như thế. Quy Sơn lão nhân nói: “Đời đời nếu không lui sụt, quả Phật quyết định có ngày.” Có một số người làm mà không chú ý quyết định, ngày nay nghe vị thiện tri thức này nói niệm Phật hay, liền niệm Phật được vài ngày; ngày mai nghe vị thiện tri thức kia nói tham thiền hay, lại tham thiền vài ngày, sang đông tìm tây, một đời kiếm tìm đến chết mà không được một chút kết quả, rất uổng thay!

II- PHƯƠNG PHÁP THAM THIỀN

Pháp môn dụng công tuy nhiều mà chư Phật, Tổ sư đều cho tham thiền là vô thượng diệu môn. Trên hội Lăng-nghiêm Phật dạy Bồ-tát Văn-thù chọn môn viên thông, ngài Văn-thù chọn môn nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm là bậc nhất hơn cả. Chúng ta cần “Phản văn văn tự tánh” (xoay cái nghe nghe tự tánh) chính là tham thiền. Trong thiền đường này cũng nên giảng một pháp tham thiền.

1. Tọa thiền nên biết

Bình thường nhật dụng đều là hành đạo, như vậy chỗ nào không phải là đạo tràng, cần gì thiết lập thiền đường, cũng không phải tọa thiền mới là thiền. Nói thiền đường, nói tọa thiền chẳng qua vì chúng ta là chúng sanh trong thời mạt pháp chướng sâu tuệ cạn mà tạm thiết lập.

Tọa thiền cần hiểu rõ cách điều dưỡng thân tâm. Nếu không khéo điều, hại nhỏ là sanh bệnh, hại to là bị ma, thật đáng tiếc vậy. Trong thiền đường đi kinh hành hoặc tọa thiền, chỗ dụng ý chính là điều thân tâm. Phương pháp điều thân tâm rất nhiều, nay chọn lọc những điều cần yếu lược nói:

Khi ngồi kiết già phải theo thứ tự, giữ tự nhiên và ngồi ngay thẳng. Không được để ý ễnh lưng thẳng lên, nếu ễnh thẳng lưng hơi nóng xông lên tụ lại lâu ngày, con mắt sanh nhiều ghèn, miệng hôi, đầu nóng, không muốn ăn uống, quá lắm đến thổ huyết. Lại không được để lưng cong đầu cúi nhiều, nếu vậy dễ sanh hôn trầm. Như biết khi hôn trầm tới, mở mắt to ra, ễnh lưng một cái và động nhẹ nhẹ hai bên hông, hôn trầm tự nhiên tiêu diệt.

Nếu dụng công cấp bách quá, khi nghe trong lòng bứt rứt nên bỏ hết mọi việc và xả luôn cả dụng công, dừng nghỉ độ năm mười phút, dần dần thư thái, nhiên hậu đề khởi dụng công. Nếu không như vậy, dồn chứa lâu ngày biến thành tánh nóng nảy dễ sân, thậm chí phát cuồng bị ma.

Tọa thiền khi có chút thọ dụng (thấy cảnh giới lạ) cảnh giới phát hiện rất nhiều nói không thể hết, chỉ ta không chấp trước cảnh giới ấy thì nó không làm ngại ta được. Thông thường nói: “Thấy quái ta không quái, quái tự mất.” Trông thấy yêu ma quỷ quái đến nhiễu hại ta, ta không cần quan tâm đến nó, cũng không sợ nó hại. Chính thấy đức Phật Thích-ca đến rờ đầu thọ ký, ta cũng không quan tâm đến, chẳng nên sanh vui mừng. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Không khởi tâm cho mình chứng thánh, là cảnh giới lành, khởi tâm cho mình chứng thánh, tức lạc quần tà.”

2. Hạ thủ công phu - biết chủ khách

Hạ thủ công phu thế nào ư? Trên hội Lăngnghiêm ngài Kiều-trần-như nói hai chữ “Khách trần”, chính là chỗ sơ tâm chúng ta hạ thủ công phu vậy. Ngài nói: “Ví như người hành khách dừng nghỉ nơi quán trọ, hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong gói hành lý ra đi, đi không trở về nghỉ lại. Nếu thật người chủ thì không đi đâu. Như thế suy xét, không ở lại gọi là Khách, ở lại gọi là Chủ. Bởi không ở lại nên nghĩa là khách. Lại như buổi sáng trời tạnh, mặt trời vượt lên, ánh sáng soi qua các kẽ hở, soi rõ các vi trần trong hư không, vi trần dao động, hư không yên lặng. Yên lặng là Không, dao động là nghĩa Trần.” Khách và trần dụ vọng tưởng, chủ và hư không dụ tự tánh. Người chủ thì thường ở, không phải như khách hoặc đi hoặc đến, đó là dụ tự tánh thường trụ vốn không theo vọng tưởng chợt sanh chợt diệt. Nên nói: “Chỉ tự vô tâm với vạn vật, ngại gì vạn vật thường nhiễu loạn.” Tính chất vi trần tự dao động vẫn không làm ngại được cái yên lặng của hư không. Dụ vọng tưởng tánh nó sanh diệt vẫn không làm ngại được tự tánh như như bất động. Nên nói: “Một tâm không sanh, muôn pháp chẳng lỗi lầm.”

Trong đây chữ Khách so phần thô, chữ Trần so phần tế. Người mới phát tâm trước nhận rõ Chủ và Khách, tự không bị nó kéo lôi; tiến lên nhận rõ ràng Không và Trần, vọng tưởng không thể làm chướng ngại. Nên nói: “Biết được, không phải oán.” Người hay xét kỹ lãnh hội được chỗ này, sự dụng công tu hành rất chóng tiến.

3. Thoại đầu cùng nghi tình

Thời xưa Tổ sư chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Như cách an tâm của tổ Đạt-ma, lối bàn kiến tánh của Lục Tổ, chỉ cần thẳng đó thừa nhận là xong, không có khán thoại đầu. Đến các tổ sư sau này thấy tâm người không bằng cổ nhân, không thể tử tâm như khối đất, mà luôn tráo trở lăng xăng, mọi người chỉ đếm của báu cho kẻ khác mà lầm nhận là của mình. Bởi thế nên các ngài riêng lập môn đình (cảnh riêng) và mỗi vị chỉ ra một phương pháp, do đó mới dạy người học khán thoại đầu.

Thoại đầu rất nhiều, như: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” hay “Trước khi cha mẹ chưa sanh, thế nào là mặt thật của ta?” v.v... nhưng phổ thông hơn cả là câu “Niệm Phật là gì?”

Thế nào là thoại đầu? Thoại là lời nói, trước lời nói là đầu. Như niệm A-di-đà Phật là thoại, trước khi chưa niệm là thoại đầu. Nên nói thoại đầu là cái mé chưa sanh một niệm. Một niệm vừa sanh đã thành thoại vĩ (đuôi lời nói). Cái mé chưa sanh một niệm đó gọi là “không sanh”; không loạn động, không mê muội, không đắm nơi tịnh, không rơi vào không, gọi là “không diệt”. Luôn luôn chăm chú trở lại chiếu soi cái “không sanh không diệt” ấy, gọi là “khán thoại đầu” hoặc “chiếu cố thoại đầu”.

Khán thoại đầu trước cần phải khởi nghi tình, đó là chỗ nương nhờ của pháp khán thoại đầu. Sao gọi là nghi tình? Như hỏi niệm Phật là gì? Người người đều biết chính mình niệm, nhưng là miệng niệm hay tâm niệm? Nếu thật miệng niệm, khi ngủ mê vẫn có miệng sao không niệm? Nếu thật tâm niệm, tâm hình dáng thế nào, lại không có chỗ nơi sờ mó? Nhân chỗ không rõ này, trên chữ “gì” phát khởi niệm nghi nhẹ nhàng tế nhị, không cho thô, càng tế càng tốt. Tùy thời tùy chỗ chăm chú chiếu cố quyết chí nơi niệm nghi này, giống như dòng nước không có chỗ đoạn, không sanh hai niệm. Nếu niệm nghi còn thì không cần để ý đến nó, niệm nghi nếu mất lại nhẹ nhàng đề khởi lên. Khi mới dụng tâm thì trong tịnh, trong động so sánh rất đắc lực. Nhưng cốt không sanh tâm phân biệt, không quan tâm đến đắc lực hay không đắc lực, không chú ý trong động hay trong tịnh, ta chỉ nhất tâm, nhất ý dụng công là tốt.

Bốn chữ Niệm Phật là gì, rất quan trọng tại chữ “gì”, ngoài ra ba chữ kia chẳng qua là để nói cho to mà thôi. Như “mặc áo, ăn cơm là gì?”, “đại tiểu tiện là gì?”, “phá vô minh là gì?”, “hay hiểu biết là gì?”, bất luận đi đứng ngồi nằm một khi đề chữ “gì” lên là dễ phát niệm nghi, không cần suy nghĩ xét nét để ý mới có. Cho nên chữ “gì” trong câu thoại đầu thực tại là một diệu pháp của tham thiền. Nhưng không phải đem một chữ “gì”, hoặc bốn chữ “niệm Phật là gì?” coi như danh hiệu Phật mà niệm; cũng không phải suy nghĩ xét nét câu “niệm Phật là gì?” mà cho là nghi tình. Có một số người đem bốn chữ “niệm Phật là gì?” ra niệm suốt ngày không dừng miệng, như thế chi bằng niệm A-di-đà Phật công đức còn hơn. Có một số người nghĩ quanh tính quẩn, tìm đông kiếm tây cho đó là nghi tình, đâu biết rằng càng nghĩ càng tính vọng tưởng càng nhiều, giống như người muốn lên lại bị rơi xuống, cần phải biết vậy.

Người sơ tâm phát niệm nghi rất thô, chợt dứt chợt nối, chợt chín chợt sống, đều không được nghi tình, chỉ gọi là Tưởng. Lần lần thu nhiếp được tâm cuồng loạn, niệm đầu cũng kìm giữ được chút ít, mới gọi là Tham. Lại tiến dần dần công phu thuần thục không nghi mà tự nghi, không biết mình đang ngồi ở chỗ nào, cũng không biết có thân tâm thế giới, chỉ riêng niệm nghi hiện tiền không gián đoạn, đó gọi là nghi tình. Thực tế mà nói, lúc đầu chưa kể là dụng công chỉ đả phá vọng tưởng, đến khi chân nghi hiện tiền mới là giai đoạn chân chánh dụng công. Giai đoạn này như qua cửa ải lớn rất dễ vào đường tẽ.

Giai đoạn này rất thanh tịnh và vô hạn khinh an, nếu mất một ít giác chiếu bèn rơi vào trạng thái mê muội nhẹ nhàng. Nếu khi ấy có bậc sáng suốt ở bên, một phen nhìn qua liền biết người ấy đang mắc tại cảnh giới này, lấy một hương bản đập xuống, lập tức đầy trời mây mù tan hết, rất nhiều người nhân đây được ngộ đạo.

Chính khi rất thanh tịnh rỗng rang ấy, nếu nghi tình không còn bèn rơi vào vô ký, ngồi như cây như đá, hoặc gọi hòn đá ngâm nước lạnh. Đến khi đó cần phải đề khởi, đề khởi tức là giác chiếu (giác là không mê, tức là tuệ; chiếu là không loạn, tức là định). Chăm chú một niệm ấy, lặng lẽ chiếu soi, như như không động, sáng sủa không mê, rành rõ thường biết, như lạnh nóng rút hơi, một mạch liên tục không dứt.

Dụng công đến chỗ này cần có con mắt Kim cang không đề khởi thêm, nếu đề khởi thì đã đầu lại thêm đầu. Xưa có vị tăng hỏi Triệu Châu lão nhân rằng: “Một vật khi không đem đến làm thế nào?” Triệu Châu đáp: “Buông hết đi!” Tăng thưa: “Một vật không đem đến, buông hết cái gì?” Triệu Châu bảo: “Buông không xuống thì gánh lên!” Chính là nói giai đoạn này vậy. Trong cảnh sáng sủa mát mẻ này như người uống nước lạnh nóng tự biết, không phải nói năng có thể đến được. Người đến chỗ này tự nhiên sáng suốt, người chưa đến được có nói cũng vô ích. Nên nói: “Trên đường gặp kiếm khách nên trình kiếm, không phải nhà thơ chớ tặng thơ.”

4. Chiếu cố thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh

Hoặc có người hỏi: “Câu phản văn văn tự tánh của Bồ-tát Quán Thế Âm sao được gọi là tham thiền?” - Tôi mới nói chiếu cố thoại đầu chính là dạy ông luôn luôn chăm chú một niệm hồi quang phản chiếu cái “không sanh không diệt” (thoại đầu). Phản văn văn tự tánh cũng là dạy ông luôn luôn chăm chú một niệm phản văn văn tự tánh. Hồi chính là Phản, “không sanh không diệt” là Tự tánh. Văn và Chiếu, tuy lúc xuôi dòng theo thanh theo sắc, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, phân biệt rõ ràng; nhưng khi ngược dòng trở lại quán tự tánh không chạy theo thanh sắc, chính là một cái tinh minh, Văn và Chiếu đâu phải hai thứ. Chúng ta cần biết, nói rằng “Chiếu cố thoại đầu”, “Phản văn tự tánh” tuyệt đối không phải dùng mắt xem, dùng tai nghe. Nếu dùng mắt xem, hoặc dùng tai nghe, ấy là đã chạy theo thanh sắc, bị vật chuyển gọi là xuôi dòng. Nếu chăm chú trong một niệm “không sanh không diệt”, không đuổi theo thanh sắc, gọi là ngược dòng. Ấy là “Chiếu cố thoại đầu”, cũng là “Phản văn tự tánh”.

5.  Tâm thiết tha vì sanh tử cùng phát tâm lâu dài

Tham thiền rất cần tâm thiết tha vì sanh tử và phát tâm lâu dài. Nếu đối với sự sanh tử không thiết tha thì nghi tình không phát, công phu khó đạt. Nếu không phát tâm lâu dài, một nóng mười lạnh thì công phu cũng không thành phiến. Chỉ cần có tâm thiết tha lâu dài thì chân nghi mới phát. Khi chân nghi phát thì trần lao phiền não không dứt cũng tự dứt. Khi thời tiết nhân duyên đến tự nhiên nước tụ thành ngòi.

Tôi xin thuật lại một việc cũ chính mắt tôi thấy cho các ông nghe. Lúc trước, đời Thanh khoảng năm Canh Tý (1900), Liên quân tám nước vào kinh đô, tôi theo chân vua Quang Tự và Từ Hy thái hậu chạy giặc. Giữa đường gặp một đoạn phải chạy bộ về Thiểm Tây, mỗi ngày chạy mấy mươi cây số, luôn mấy ngày không có cơm. Trên đường gặp một ông già đem dâng vua Quang Tự một miếng khoai rừng, ăn xong vua hỏi người ấy: “Thứ gì ăn ngon lắm vậy?” Các ông thử tưởng, Hoàng đế ngày thường rất kiểu cách, rất oai phong, đâu từng đi bộ hơn mấy bước, chưa từng đói quá nửa bụng, chưa từng ăn hết một miếng khoai rừng. Đến lúc này, kiểu cách chẳng có, oai phong không còn, lội bộ cũng được, bụng đói cũng chịu, ăn rễ rau cũng ngon. Vì sao mà ông bỏ hết được? Vì Liên quân đuổi bắt ông, ông nhất tâm chạy chết. Đến sau được nghị hòa, ông ngự giá về kinh, kiểu cách lại khởi, oai phong lại hiện, đi bộ không nổi, bụng đói không được, cái gì không ngon thì nuốt không trôi. Sở dĩ thế, tại khi này ông buông không hết, vì Liên quân không còn đuổi bắt ông, ông không có tâm chạy chết. Giả sử ông thường đem cái tâm chạy chết ấy mà tu hành thì thế nào không thành công; đáng tiếc ông không có tâm lâu dài, gặp thuận cảnh thái độ cũ lại bộc khởi.

Các vị đồng tham thiền! Bọn quỷ vô thường luôn luôn theo đuổi sanh mạng chúng ta, không bao giờ chúng chịu “nghị hòa”. Chúng ta cần phải phát tâm thiết tha lâu dài để giải thoát vòng sanh tử. Tổ Cao Phong Diệu nói: “Người tham thiền cần yếu khắc định ngày thành công, giống như người rơi xuống giếng sâu ngàn trượng từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng muôn ngàn tư tưởng chỉ chăm chăm một việc mong ra khỏi giếng, trọn không có niệm thứ hai. Người thực hành được như vậy, hoặc ba ngày, năm ngày, bảy ngày, nếu không triệt ngộ, Cao Phong ngày nay phạm tội đại vọng ngữ hằng đọa trong địa ngục Bạt Thiệt.” Lão nhân Cao Phong vì lòng đại bi thiết tha sợ e chúng ta không phát tâm tha thiết lâu dài, nên phát lời thề nặng này để bảo chứng cho chúng ta.

6. Dụng công có hai thứ khó và dễ

Người dụng công có hai thứ khó và dễ:

1- Sơ dụng tâm khó dễ

2- Lão dụng tâm khó dễ

a. Sơ dụng tâm khó dễ

+ Sơ dụng tâm khó - Tâm trộm không chết

Cái thông bệnh của người sơ dụng tâm là vọng tưởng, tập khí buông không hết, vô minh, cao mạn, tật đố, chướng ngại, tham, sân, si, ái, lười biếng, ăn ngon, phải quấy, nhân ngã đầy dẫy trong bụng, làm sao tương ưng với đạo? Hoặc có người là công tử hay ca sĩ xuất gia tập khí không quên, một chút khổ nhọc chịu không nổi, một miếng không ngon nuốt chẳng vô, làm sao dụng công tu hành? Người này không chịu tưởng nhớ đức Bổn sư Thích-ca là hạng nào đi xuất gia mà chịu khó khổ được như vậy? Hoặc có người biết chút ít văn tự bèn tầm chương trích cú đem những lời nói của cổ nhân ra phân tích, rồi cho mình là hiểu hoàn toàn sanh đại ngã mạn; nhưng đến khi bệnh nặng thì rên xiết suốt ngày, hoặc đến lúc sắp lâm chung thì tay co chân rút, bình sanh chỗ hiểu biết không thực hành được một điểm, đến khi hấp hối ăn năn sao kịp?

Hoặc người có chút đạo tâm lại không hiểu rõ chỗ hạ thủ công phu. Có người sợ vọng tưởng cố trừ mà trừ không được, trọn ngày buồn rầu bực tức tự hận nghiệp chướng nặng nề, nhân đó thối thất đạo tâm. Hoặc có người quyết cùng vọng tưởng chiến đấu, chăm bẳm chống tay tức khí, ưỡn ngực trừng mắt giống vẻ mặt hầm hầm của tên giám sát, quyết cùng vọng tưởng một còn một mất; họ đâu biết như vậy, vọng tưởng đã đuổi không được, trở lại mang bệnh thổ huyết, phát cuồng. Hoặc có người sợ rơi vào không, đâu ngờ trước đã sanh ra quỷ; không vẫn là không chẳng động, ngộ lại ngộ chẳng đến. Hoặc có người khởi tâm cầu ngộ, ngờ đâu cầu ngộ đạo mong thành Phật đều là đại vọng tưởng; cát không phải là cơm, cầu đến bao nhiêu năm quyết định cũng không ngộ. Hoặc có người chợt được yên tịnh một vài cây hương bèn sanh vui mừng, ấy chỉ là con rùa đen mù tìm bộng cây, ngẫu nhiên đụng nhằm chẳng phải là công phu thật, ma vui mừng sớm đã nhập vào tâm vậy. Hoặc có người trong chỗ yên tịnh biết được thanh tịnh rất thích, trong chỗ động thì mất thanh tịnh, nhân đó tránh chỗ ồn náo tìm chỗ yên tịnh, ấy là đã sớm làm quyến thuộc của hai thứ ma vương động tịnh. Các người như vậy thật rất là nhiều. Kẻ sơ dụng tâm không thấu rõ đường lối tu tập thật là khó. Có giác mà không chiếu thì tán loạn không thể “đến nhà”. Có chiếu mà không giác lại “ngồi chết chìm trong nước chết”.

+ Sơ dụng tâm dễ - Buông xuống chỉ để một niệm

Dụng công tuy nói khó, nhưng hiểu rõ đường lối lại rất dễ. Tại sao sơ dụng tâm là dễ? Không có gì khéo, buông hết liền được. Buông hết cái gì? Buông hết tất cả vô minh phiền não. Làm sao buông hết được? Chúng ta coi thân này như chết vậy. Ông thử chửi thây chết bao nhiêu câu, nó cũng không phát giận, đánh mấy gậy nó cũng không chống cự, lúc sống ưa phá vô minh bây giờ cũng không phá, lúc sống ưa danh lợi khi này cũng không màng, lúc sống nhiều thứ tập nhiễm khi này không có, cái gì cũng không phân biệt, cái gì cũng bỏ hết. Chư vị đồng tham thiền! Chúng ta mang xác thân này một phen hơi thở ra không trở lại bèn thành thây chết. Chúng ta sở dĩ buông không hết, chỉ do xem thân này là trọng, sanh nhân ngã phải quấy thương ghét thủ xả. Nếu nhận định thân này như thây chết, không quý trọng nó, không chấp nó là ngã thì có cái gì buông không hết? Chỉ cần buông được hết, trong hai mươi bốn giờ đi đứng ngồi nằm, động tịnh rảnh rang bận rộn, toàn thân trong ngoài chỉ là một niệm nghi, bình thản không dứt niệm nghi, không chen niệm nào khác. Một câu thoại đầu như nương Ỷ Thiên trường kiếm, ma đến ma chết, Phật đến Phật chết, không sợ vọng tưởng thì có cái gì phá hại ta được? Có cái gì phân động phân tịnh, có cái gì chấp hữu chấp không? Như quả thật sợ vọng tưởng, ấy là chồng thêm một lớp vọng tưởng. Biết mình thanh tịnh, thế là đã không thanh tịnh. Sợ rơi vào không, chính đã rớt trong có. Tưởng thành Phật, đã vào đường ma. Nên nói: “Bửa củi gánh nước đâu không phải diệu đạo, cày ruộng cuốc đất đều là thiền cơ.” Không phải trong khi ngồi kiết già mới gọi là dụng công tu hành.

b. Lão dụng tâm khó dễ

+ Lão dụng tâm khó – Đầu sào trăm thước không thể tiến bước

Thế nào là lão dụng tâm khó? Lão dụng tâm đến giai đoạn chân nghi hiện tiền, có giác có chiếu vẫn thuộc sanh tử, không giác không chiếu lại rơi vào không vong, đến cảnh giới này thật là khó. Đa số người đến chỗ này vượt qua không khỏi, đứng trên đầu sào trăm thước không có cách nào tiến bước. Có một số người nhân đến cảnh giới này, trong định phát chút ít tuệ hiểu sơ lược một ít công án của cổ nhân, liền bỏ hết nghi tình, tự cho là đại triệt đại ngộ, ngâm thi vịnh phú, nhướng mày chớp mắt, xưng là thiện tri thức, thật không biết mình đã rơi vào bè đảng của ma. Lại có người hiểu lầm ý nghĩa câu của Đạt-ma lão nhân nói: “Ngoài dứt các duyên, trong tâm không xao động, tâm như vách tường có thể vào đạo” và câu của Lục Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa”, bèn cho ngồi như cây như đá là hay tuyệt. Hạng người này cho Hóa thành là Bảo sở, nhận xứ người cho là quê hương, thật là chỗ Bà tử đốt am và mắng “Các ngươi là người chết”.

+ Lão dụng tâm dễ - Cứ miên mật đi!

Thế nào là lão dụng tâm dễ? Đến lúc này chỉ cần không tự mãn, không bỏ nửa chừng, thầm thầm kín kín dụng công, trong thầm kín lại thầm kín, trong vi tế lại vi tế, khi thời tiết đến đáy thùng tự bể (đại ngộ). Nếu không tự bể, nhờ thiện hữu tri thức nhổ đinh rút chốt cho.

Đại sĩ Hàn Sơn có bài tụng: Chót vót trên đảnh núi, Bốn phía không mé bờ.

Ngồi tịnh chả ai biết,

Suối lạnh vầng trăng soi. Trong suối vốn không trăng, Trời xanh trăng xa thẳm.

Ngâm một bài ca này,

Trong ca thiền chẳng có.

Hai câu đầu nói cái chân thường bày hiện, không thuộc một cái gì, sáng chiếu khắp đại địa không một mảy chướng ngại. Bốn câu kế nói chân như diệu thể phàm phu hẳn không thể biết, ba đời chư Phật cũng tìm không được chỗ nơi của ta, nên nói: “chả ai biết”; ba câu “Suối lạnh vầng trăng soi v.v...” là Lão nhân dùng phương tiện ví dụ cảnh giới ấy. Hai câu rốt sau, sợ người nhận lầm ngón tay là mặt trăng, nên đặc biệt cảnh giác chúng ta “phàm có nói năng không phải là thiền”.

III- KẾT LUẬN

Chính tôi mới nói ở trên cũng là gỡ rối chỉ đường mà thôi. Phàm có nói năng đều không phải thật nghĩa. Cổ đức tiếp độ người, nếu không đánh thì nạt, đâu có vẽ bày lăng xăng vầy. Chẳng qua người nay không thể sánh với người xưa, miễn cưỡng dùng tay chỉ mặt trăng. Chư vị đồng tham thiền! Cứu cánh ngón tay là gì? Mặt trăng là gì? Hãy tham đi!

Giảng:

A. DẪN LỜI DẠY

Chư vị hằng ngày đến thỉnh tôi chỉ dạy khiến tôi rất hổ thẹn. Chư vị ngày ngày nhọc nhằn cuốc đất, bửa củi, gánh gạch, làm việc quên cả sớm chiều mà vẫn không quên tâm niệm cầu giải thoát. Hạt giống thiết tha vì đạo ấy khiến mọi người đều cảm động. Hư Vân này hổ thẹn không đạo không đức, nói không đến đâu lấy gì chỉ dạy, chỉ lượm lặt những lời dạy của cổ nhân để đáp lại lời khẩn cầu của chư vị mà thôi.

Đây là lời nói khiêm nhường của hòa thượng Hư Vân. Thấy tất cả thính chúng tha thiết cầu đạo, ngài tự nói rất hổ thẹn vì mình không đạo không đức, nói không đến đâu, nhưng vì mọi người thỉnh cầu nên ngài tạm dẫn lời cổ nhân để đền đáp lại.

Hòa thượng Hư Vân tu về thiền thoại đầu, ở đây chúng ta đọc qua, phần nào dễ thì nhận hiểu mà tu, còn phần nào nghiêng về thoại đầu thì chúng ta chỉ nghe qua cho biết.

B. PHƯƠNG PHÁP NHẬP MÔN DỤNG CÔNG

Phương pháp dụng công tu hành rất nhiều, hiện tại chỉ tóm lược chỉ bày.

I- ĐIỀU KIỆN QUYẾT ĐỊNH TRƯỚC KHI TU TẬP

1. Tin sâu nhân quả

Không luận người nào, nếu muốn dụng công tu tập trước cần phải tin sâu nhân quả. Nếu không tin nhân quả, thực hành càn bướng, không những tu hành chẳng thành công mà tam đồ cũng khó tránh. Cổ đức nói: “Muốn biết nhân đời trước hãy xem sự lãnh thọ của đời này, muốn biết quả đời sau hãy nhìn sự gây tạo hiện tại.” Lại nói: “Giả sử đã tạo nghiệp trăm ngàn kiếp vẫn không mất, khi nhân duyên hội ngộ quả báo trở lại tự chịu.”

Phàm tu theo pháp môn nào của đạo Phật cũng phải có những điều kiện quyết định trước khi tu tập thì sự tu mới thành công. Điều kiện đầu tiên là tin sâu nhân quả.

Cổ đức nói: Muốn biết nhân đời trước hãy xem sự lãnh thọ của đời này. Chúng ta đừng coi bói, coi đồng bóng để hỏi đời trước mình ở đâu, làm gì; cứ nhìn quả đang hưởng thì tự biết. Vì trước gieo nhân, ngày nay mới hưởng quả. Quả tốt hay xấu là biết ngày xưa mình lành hay dữ. Nếu quả hiện tại được mọi người quý mến, muốn gì được nấy không có gì trở ngại thì biết đời trước đã gieo nhiều phước duyên lành. Còn làm gì cũng thất bại, gặp ai họ cũng muốn rầy la mắng nhiếc thì biết trước đã tạo nhân không tốt, nên ngày nay phải chịu quả không tốt. Hiểu như vậy rồi không cần hỏi, không cần suy luận, tự giải quyết không có nghi ngờ.

Đó là nói về nhân đời trước, còn quả đời sau thì sao? Muốn biết quả đời sau hãy nhìn sự gây tạo hiện tại. Không cần hỏi đời sau chết rồi về đâu, sẽ được khổ hay vui; nhìn hành động hiện tại đang làm lành hay dữ mà biết quả đời sau sẽ khổ hay vui. Hiện tại tạo nhân lành cứu người cứu vật, làm lợi ích chúng sanh, nhất định nhắm mắt sẽ đi đường lành, không có gì phải lo. Còn gian tham cướp giật, giết hại mạng chúng sanh, tạo những điều đau khổ cho người, chắc chắn đời sau sẽ được Diêm chúa mời dự tiệc. Đó là lý nhân quả của đạo Phật.

Lại nói: Giả sử đã tạo nghiệp trăm ngàn kiếp vẫn không mất, khi nhân duyên hội ngộ quả báo trở lại tự chịu. Nghiệp tạo nhiều đời mình đã quên mất, nhưng khi gặp đủ nhân duyên tụ hội thì cũng phải trả quả báo. Ví dụ thuở nhỏ chúng ta làm gì xấu với ai khiến cho người giận ghét, lớn lên mỗi người đi mỗi phương bất thần gặp lại, chắc chắn người đó không có cảm tình với mình. Lâu nay đi đâu mất thì quên, nay gặp lại tự nhiên sực nhớ liền. Còn trước đây chúng ta làm những điều tốt đẹp với ai, một thời gian dài cách xa không gặp, nay bỗng dưng gặp lại liền có cảm tình, họ quý mến mình. Đó là do nhân trước mình đã gây tạo, nên chiêu cảm ra như vậy.

Có người nói, không biết tại sao tôi không quen với người đó mà gặp thấy rất thân thiện, họ giúp đỡ đủ thứ. Việc này không có gì lạ. Vì hồi xưa mình đã tạo nhân lành với họ, nên bây giờ gặp lại họ đối xử tốt với mình. Có nhiều người cũng trách, tôi trước giờ chưa làm phiền lụy với người đó, tại sao gặp tôi họ ghét như oán thù? Đời này không tạo nhưng quá khứ đã tạo rồi, do quá khứ tạo nên gặp nhau oán hờn liền hiện lại, gây ra những chuyện không vui không tốt. Không có gì là ngẫu nhiên, tất cả đều do nhân mình gây dẫn đến quả mình chịu chứ không có gì lạ.

Kinh Lăng-nghiêm nói: “Nhân địa không ngay, quả báo cong vạy.” Cho nên gieo nhân lành kết quả lành, gieo nhân ác gặt quả ác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu là đạo lý tất nhiên vậy.

Kinh Lăng-nghiêm nói: “Nhân địa không ngay, quả báo cong vạy.” Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, nhân nào quả nấy không sai chạy, không có gì làm cho nó biến đổi. Nhưng cũng có trường hợp do duyên biến đổi, trồng dưa mà không ra dưa, trồng đậu mà không có đậu. Chỗ này tế nhị hơn một chút. Nếu trồng dưa trồng đậu mà bị côn trùng kiến chuột phá thì dưa đậu sẽ hư không ra trái. Hoặc như ngày nay người ta trồng cây bình bát tháp nhánh mãng cầu, gốc thì bình bát mà trái là mãng cầu. Vì vậy nhân tuy đã tạo ra không mất, song tùy theo duyên mà có chuyển biến.

Giả sử ngày xưa mình gây nhân làm khổ cho người mười phần, ngày nay nhờ biết tu thiện nên gặp lại chỉ trả năm hoặc ba phần thôi, vì biết chuyển biến nên không trả trọn vẹn. Hoặc khi xưa chúng ta gây nhân mười, ngày nay không biết tu, lại làm thêm việc xấu ác, nên khi gặp lại phải trả đến mười lăm, hai mươi. Ví dụ xưa mình nói người đó một câu chỉ đủ giận, nay bất thần gặp lại mặt mình hầm hầm muốn làm dữ với họ, thì chắc chắn sẽ đưa đến chửi mắng đánh đập nhau. Nhân trước không lớn nhưng vì hiện tại làm cho xấu thêm, nên đưa đến kết quả nặng. Gây nhân xấu mà biết tu thì chuyển bớt, còn gây nhân đã xấu lại không biết tu thì xấu ác càng tăng thêm.

Nói đến nhân quả tôi xin thuật hai câu chuyện xưa để chứng minh.

a. Chuyện vua Lưu-ly giết dòng họ Thích

Trước đức Phật Thích-ca ra đời, trong thành

Ca-tỳ-la-vệ có một làng chài lưới, trong làng có cái hồ to. Khi ấy trời hạn nước cạn, bao nhiêu cá trong ao bị người làng bắt ăn hết, sau cùng còn lại một con cá thật to cũng bị người làm thịt luôn. Trong làng chỉ có một đứa bé lâu nay không ăn thịt cá, hôm ấy đến thấy con cá to lấy cây gõ trên đầu nó ba cái rồi đi.

Sau này khi đức Thích-ca ra đời, vua Ba-tư-nặc rất kính tin Phật pháp, cưới con gái dòng họ Thích làm vợ, sanh được một thái tử đặt tên Lưu-ly. Lúc thơ ấu, Lưu-ly ở bên ngoại tại thành Ca-tỳ-la-vệ học, một hôm nhân giỡn chơi trèo lên tòa của Phật ngồi, bị người họ Thích rầy mắng kéo lôi xuống, nên ôm lòng uất hận. Đến khi Lưu-ly lên làm vua, xuất đại binh đánh thành Ca-tỳ-la-vệ, bắt hết dân cư trong thành giết sạch, chính khi ấy đức Thích-ca nhức đầu ba ngày.

Các vị đệ tử lớn của Phật cầu xin Phật tìm cách giải cứu dòng họ Thích. Phật nói: “Định nghiệp khó chuyển.” Tôn giả Mục-liên dùng sức thần thông lấy bình bát đến thâu năm trăm người dòng Thích-ca đem để trên không trung; khi giặc qua, ngài đem xuống thả ra, không ngờ khi trút bát thấy tất cả đều biến thành máu. Các đệ tử lớn đến thưa hỏi Phật, Phật đem việc xưa dân trong làng ăn cá thuật lại: Con cá lớn ngày xưa là vua Lưu-ly hiện nay, quân đội của vua Lưu-ly đều là những con cá nhỏ trong hồ. Dân cư trong thành Ca-tỳ-la-vệ bị giết đều là người ăn cá ngày xưa. Thân Phật chính là đứa bé gõ đầu cá ba cái ngày xưa, nên hiện tại bị quả báo nhức đầu ba ngày. Vì định nghiệp khó tránh nên năm trăm người dòng họ Thích tuy được tôn giả Mục-liên cứu thoát, cũng không bảo tồn được tánh mạng. Sau này vua Lưu-ly bị đọa địa ngục. Oan oan tương báo không biết bao giờ hết được. Nhân quả thật đáng sợ vậy.

Vua Lưu-ly tiền thân là con cá lớn, sau giết dòng họ Thích để trả thù xưa. Giết dòng họ Thích rồi sau sẽ bị dòng họ Thích giết lại, cứ như vậy mà oan oan tương báo không có ngày cùng. Cho nên nếu chúng ta có làm gì xấu ác với ai, bị họ trả lại bằng cách mắng chửi đánh đập mình thì thôi bỏ đi, đừng oán giận. Không oán thù nữa, trả nợ một lần là hết. Nếu còn tăng oán thù thì trả đến bao giờ mới hết! Người biết nhân quả phải nên dè dặt.

b. Chuyện ngài Bá Trượng độ hồ ly

Lão nhân Bá Trượng một hôm vào nhà giảng, giảng xong các thính giả ra hết, chỉ còn lại một ông già không lui đi. Ngài Bá Trượng hỏi:

-  Ông còn muốn hỏi gì?

Ông ấy thưa:

-  Con là Dã hồ tinh không phải là người, đời trước con vốn làm Đường đầu ở đây, nhân có người học, hỏi con: “Bậc đại tu hành lại rơi vào luật nhân quả chăng?” Con đáp: “Không rơi nhân quả.” Do đó con bị đọa lạc làm dã hồ tinh đã năm trăm năm, không có cách nào thoát thân, mong Hòa thượng từ bi chỉ dạy cho!

Ngài Bá Trượng bảo:

-   Ngươi hỏi lại ta.

Ông ấy bèn hỏi:

-   Bạch Hòa thượng! Bậc đại tu hành lại rơi vào nhân quả chăng?

Tổ Bá Trượng đáp:

-   Không lầm nhân quả.

Ông già nghe câu này liền đại ngộ. Ông lễ tạ thưa:

-   Nay nương lời đáp thay của Hòa thượng khiến con siêu thoát thân dã hồ. Con ở hang sau núi, mong Hòa thượng lấy lễ tống táng theo nhà sư cho con.

Hôm sau, tổ Bá Trượng lại hang sau núi, lấy gậy bới ra có xác con hồ tinh, bèn dùng lễ theo nhà sư mà an táng.

Chúng ta nghe hai câu chuyện xưa này càng biết rõ nhân quả đáng sợ, tuy thành Phật vẫn khó khỏi quả báo nhức đầu. Sự báo ứng một mảy may không sai lạc, định nghiệp thật khó trốn tránh. Chúng ta gắng cẩn thận, gắng dè dặt chớ có gây nhân.

Ông tăng dã hồ này khi người hỏi bậc đại tu hành có rơi vào nhân quả không, ông đáp không rơi vào nhân quả thì ông bị đọa làm dã hồ tinh. Sau ông đem câu này hỏi tổ Bá Trượng, Tổ đáp không lầm nhân quả, ông liền thoát khỏi kiếp dã hồ tinh. Hai câu đáp này khác nhau chỗ nào? Bởi trước ông đáp sai cho nên phải đọa. Những bậc đại tu hành, lớn nhất là Phật mà khi thành Phật rồi vẫn còn phải trả quả, nào là kim thương, mã mạch cho tới bị đau đầu ba hôm. Ngài Mục-kiền-liên đã chứng thánh quả, tuy có thần thông cũng tránh không khỏi, bị người đánh nhừ tử đến chết. Nhân quả nếu đời này chưa trả thì đời sau hoặc nhiều đời sau nữa cũng phải trả. Dù cho những bậc chỉ còn thọ thân lần chót là chứng quả Phật hoặc chứng A-la-hán, quả báo còn sót lại bao nhiêu vẫn phải trả hết. Quả báo Phật vẫn phải trả, A-la-hán cũng không khỏi, mà ông nói không rơi vào nhân quả là sai lầm, cho nên phải bị tội đọa.

Đến khi ông đem câu này hỏi tổ Bá Trượng, Tổ đáp không lầm nhân quả, ông liền thoát kiếp dã hồ. Bởi nói không rơi tức là không bị rơi mắc ở trong nhân quả, còn nói không lầm nhân quả là thấy nhân quả rõ ràng không lầm lẫn.

Người đời có khi nói không nhân không quả, nhưng đối với người tu Phật thì nhân quả không mất. Gieo nhân thì phải chịu quả, nhân quả không bao giờ mất, chỉ là chuyển được ít hay nhiều mà thôi, đó là lẽ thật. Nghe câu chuyện này chúng ta phải rất cẩn thận, đối với lý nhân quả không nên xem thường. Đã không dám xem thường thì chắc chắn không can đảm để tạo nhân ác, mà còn luôn luôn tạo nhân lành. Đó là người biết tu, hiểu nhân quả và tu theo nhân quả.

2. Nghiêm trì giới luật

Dụng công tu hành trước nhất phải trì giới. Giới là cội gốc quả vô thượng Bồ-đề, nhân giới sanh định, nhân định phát tuệ, nếu không trì giới mà tu hành thì không thể được. Trong kinh Lăng-nghiêm dạy rõ bốn món thanh tịnh, dạy chúng ta rằng: “Không trì giới mà tu chánh định không thể thoát khỏi trần lao, dù hiện tiền có nhiều trí tuệ, nhiều thiền định cũng rơi vào tà ma ngoại đạo.” Đó nên biết, trì giới là trọng yếu, người trì giới long thiên ủng hộ, ma ngoại kính sợ. Người phá giới, bọn quỷ gọi là giặc lớn, nó quét dấu chân của người ấy.

Ngày xưa tại nước Kế-tân, gần bên đất già-lam có một con độc long thường khi ra nhiễu hại dân chúng địa phương. Có năm trăm vị A-la-hán nhóm họp một chỗ dùng sức thiền định đuổi nó đi, rốt cuộc không hiệu quả gì cả. Sau có một vị tăng, không cần nhập thiền định chỉ đến gần con độc long nói một câu: “Hiền thiện! Hãy tránh xa chỗ này đi.” Con độc long liền đi mất. Các vị A-la-hán hỏi vị tăng ấy: “Ông dùng thần thông gì đuổi được con độc long?” Vị tăng đáp: “Tôi không dùng sức thiền định, chỉ do cẩn thận đối với giới, gìn giữ giới khinh cũng như giới trọng.” Chúng ta tưởng tượng sức thiền định của năm trăm vị La-hán mà không bằng một vị tăng nghiêm trì giới luật.

Giới luật là bước đầu, là nền tảng của người tu. Tu mà không giữ giới luật chỉ mong có thần thông, dù có cũng không đủ khả năng giúp cho ai được giải thoát.

Hoặc có người bảo: “Lục Tổ nói tâm bình đâu cần trì giới, hạnh thẳng nào dụng tham thiền.” Tôi xin hỏi ông: Tâm ông đã bình, hạnh ông đã thẳng chưa? Giả sử có người con gái đẹp lõa thể đến ôm ông, ông có thể không động tâm chăng? Có người vô lý mạ nhục đánh đập ông, ông có thể không sanh tâm sân hận chăng? Ông đã đạt được chỗ không phân biệt oán thân, thương ghét, nhân ngã, phải quấy chưa? Cẩn thận khi làm được mới nói những lời to ấy, nếu làm không được mà nói chỉ là nói suông.

Chúng ta ngày nay có bệnh, chỉ đem lời cổ nhân dạy ra nói một cách tự nhiên. Nhưng không biết rằng cổ nhân nói là khi các ngài sống được, còn mình nói mà chưa sống được. Tâm của các ngài hoàn toàn thanh tịnh, chửi bới không động tâm, gặp sắc đẹp không quyến luyến. Còn mình bây giờ còn đủ tật, đủ bệnh mà cứ nói như Tổ. Đó là đạo đức ở ngoài môi chứ không phải đạo đức thật, hoàn toàn không có giá trị. Người tu phải có thật đức, chăm chỉ chuyên cần tu hành đến nơi đến chốn, đừng lo nói điều mà chúng ta chưa đến được.

3. Tín tâm kiên cố

Có ý dụng công tu tập trước cần phải có lòng tin bền chặt. Lòng tin là đầu của đạo, là mẹ các công đức. Bất luận làm việc gì không có lòng tin thì làm không xong. Chúng ta cốt liễu thoát sanh tử, điều cần thiết phải có lòng tin bền chặt. Phật nói: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước không thể chứng được.” Phật lại dạy các thứ pháp môn để đối trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng ta nên tin lời Phật nói không hư dối, tin chúng sanh đều có khả năng thành Phật. Sở dĩ chúng ta chưa được thành Phật, đều do chưa triệt để dụng công đúng như pháp mà thôi.

Tín tâm kiên cố tức là lòng tin chắc thật, nhưng lòng tin này có hai mặt. Một là tin ở bên ngoài. Như người tu Tịnh độ thì lòng tin đặt ở đức Phật A-di-đà, ở cõi Cực lạc. Tin chắc rằng có cõi Cực lạc, có đức Phật A-di-đà sẽ đón tiếp mình. Tin rồi thiết tha niệm Phật thì niệm Phật mới được nhất tâm bất loạn. Tuy niềm tin này là tin ở bên ngoài, nhưng chí thành tin tha thiết thì sự tu cũng có kết quả.

Hai là tin ở bên trong. Như người tu thiền lòng tin đặt ở chính mình, tức là tin khẳng định bên trong tâm mình sẵn có Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật nói: Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng chấp trước không thể chứng được? Có nhưng không thấy, vì vọng tưởng che đậy, nên có mà như không có. Ngày nay tu, tin chắc chắn rằng nếu dẹp sạch đám mây mù vọng tưởng thì Phật sẽ hiện ra. Mỗi ngày đi đứng nằm ngồi, làm công kia việc nọ... vẫn luôn nhớ phá dẹp vọng tưởng đừng để phủ che Phật thật của mình.

Từ sáng đến chiều chúng ta có chừng bao nhiêu vọng tưởng? Nếu vừa khởi nghĩ liền ghi sổ thì tới chiều chắc đầy cuốn sổ. Nhiều thôi là nhiều, hết nghĩ cái này thì nghĩ sang cái kia, hết nghĩ cái hay thì nghĩ tới cái dở, nghĩ thương, nghĩ ghét v.v... đủ thứ nghĩ. Không bao giờ vắng lặng năm ba phút, cứ nghĩ liên tục liên tục. Đó là những đám mây che khuất Phật của mình. Nếu chúng ta ngồi yên một giờ không nghĩ gì hết thì lúc đó Phật hiện ra. Tuy không thấy xẹt hào quang mà đó chính là Phật thật, đừng nghĩ thành Phật phải có hào quang mới được.

Đức Phật tu hành được giác ngộ giải thoát sanh tử, đó chính là mục tiêu mà ngài đi tu. Khi còn là thái tử, chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết của con người, ngài xét thấy ai có mặt trên cõi đời này cũng đều phải chịu quy luật đó, vậy làm sao để thoát ra khỏi? Câu hỏi ấy khiến ngài phải đi tu, để tìm con đường ra khỏi sanh tử. Như vậy, muốn giải thoát sanh tử thì trước tiên phải giác ngộ, có giác ngộ mới giải thoát được.

Phật giác ngộ thấy rõ thân này vô thường tạm bợ hư dối, còn mình thì thấy thân này là thật. Hai cái thấy đó, một tối một sáng, một mê một tỉnh. Giả dối tưởng thật, là mê, là tối. Giả dối biết giả dối là tỉnh là sáng. Tâm cũng vậy, chúng ta luôn cho tâm nghĩ suy phải quấy, hơn thua là tâm mình, cho nên mình nghĩ cái gì thì muốn mọi người cũng phải thuận theo ý của mình. Thuận thì vui, chống đối thì giận. Như vậy cái thấy của mình và cái thấy của Phật khác nhau nhiều ít? Khác hoàn toàn. Một bên trắng, một bên đen.

Trong kinh, Phật nói: “Phật pháp khó nghe.” Tại sao? Vì nói ngược với mình Phải chi Phật nói giống mình thì dễ nghe, còn Phật nói ngược với mình hết cho nên khó nghe. Người nghe được phải là người can đảm lắm! Bởi vì chúng ta thấy thân là thật, tâm suy nghĩ là thật, bây giờ nghe Phật nói nó là giả, thấy thân thật đó là sai lầm. Xét thấy như vậy mới đúng sự thật. Có ai gan dạ dám xét không, hay là với người này người kia mình luôn vỗ ngực xưng ta? Ta thế này, ta thế nọ... không ai dám nói là đồ giả hết. Biết là giả, mặc tình ai chửi cũng được, mắng cũng được, không có sao hết. Có gì đâu mà phải né tránh.

Phật dạy chúng ta tu là để thấy đúng như thật, chừng nào thấy được như thật thì chừng đó không còn lầm nữa. Chúng ta đều sẵn có tánh Phật, mà vì vọng tưởng chấp trước nên không thấy. Lỗi tại chúng ta vọng tưởng nên không thấy Phật. Như vậy, muốn thấy Phật dễ như trở bàn tay, dừng vọng tưởng thì thấy Phật liền. Không có pháp nào khác, chỉ là dừng vọng tưởng thôi. Khó hay dễ? Hết sức dễ. Ai cho mình thấy Phật? Chính là mình. Mình chứa chấp vọng tưởng thì bây giờ loại bỏ vọng tưởng cũng phải là mình. Dám bỏ vọng tưởng thì thấy Phật, là giải thoát sanh tử.

Sở dĩ chúng ta phải luân hồi sanh tử là vì nghiệp. Trong ba nghiệp, thân miệng ý thì ý là gốc dẫn đi trong lục đạo. Ý lành dẫn đi cõi trời, người, a-tu-la; ý dữ thì đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Nhưng tâm ý nghĩ lành dữ, tốt xấu, hơn thua... đó, với cái nhìn của Phật, nó chỉ là một mớ vọng tưởng mà thôi. Như vậy, nhân tạo nghiệp là do tâm vọng tưởng, dừng tâm vọng tưởng là thấy Phật.

Tâm vọng tưởng dấy khởi liên tục làm sao mà dừng? Trong Pháp Bảo Đàn, Lục Tổ bảo thượng tọa Minh: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, chính ngay lúc đó cái gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh?” Bản lai diện mục là cái thật của chính mình, dừng nghĩ thiện dừng nghĩ ác thì bản lai diện mục hiện tiền. Khi chúng ta ngồi yên không có vọng tưởng nhưng tai nghe, mắt thấy, mũi ngửi, thân xúc chạm... đều biết rõ ràng, cái biết đó không có hình bóng, không bị sanh diệt vô thường chi phối. Gần gũi và thiết thực vô cùng mà chúng ta không biết.

Nếu tin mình có tánh Phật, hay là có sẵn ông chủ thì những thứ phụ chúng ta bỏ đi, để sống với ông chủ của mình. Chừng nào gạn lọc hết những thứ xấu ra, để tâm chân thật hiện tiền, chừng đó là tu thành công. Thành công này không phải cầu ở ai, mà chính chúng ta phải có đủ lòng tin chắc chắn cái thật nơi mình. Cái thật đó không lúc nào vắng thiếu, mà tại vì mình thích phủ che. Ai cũng nói muốn tu cho mau thành Phật, nhưng khi khởi nghĩ cái gì hay hay thì bỏ không được. Nhớ cái hay còn bỏ không được, huống là nhớ những việc bị người lường gạt của cải v.v... Bởi không làm chủ được tâm mình, nên cái gì có sức mạnh lôi kéo liền chạy theo ngay, vì vậy mà chúng ta luôn luôn bị bất an. Lục Tổ nói: “Tâm bình đâu cần trì giới, hạnh thẳng nào dụng tham thiền.” Tâm bình lặng rồi thì tham thiền trì giới đều đầy đủ, còn tâm chưa bình hạnh chưa thẳng thì cái gì cũng thiếu. Cho nên nếu biết rồi thì chúng ta phải tin khẳng định mình có tánh Phật, không phải ở đâu đem đến cho mình, như vậy việc tu mới có kết quả.

Ví như chúng ta tin đậu nành làm đậu hũ được, nếu ta không ra công nấu đậu hũ thì đậu nành tự nó không thể biến thành đậu hũ. Nếu chúng ta đi nấu đậu hũ mà để thạch cao không đúng lượng, đậu hũ cũng không thể thành. Nếu ta nấu đúng pháp, để thạch cao đúng lượng quyết định sẽ thành đậu hũ. Người tu hành cũng như thế, không dụng công tu tập cố nhiên không thành Phật, dụng công không đúng pháp Phật cũng không thể thành. Nếu người tu tập đúng pháp, không lui không hối, quyết định người này sẽ thành Phật. Cho nên, chúng ta phải tin sâu chính mình xưa nay là Phật; lại tin sâu y giáo pháp Phật dạy tu hành quyết định thành Phật. Thiền sư Vĩnh Gia nói: “Chứng thật tướng không nhân pháp, sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ, nếu dùng lời vọng dối chúng sanh, tự chuốc địa ngục (Bạt Thiệt) trần sa kiếp.” Ngài Vĩnh Gia vì lòng từ bi, cốt định chắc lòng tin cho người đời sau, nên phát lời thệ rộng lớn như vậy.

Làm đậu hũ mà chưa đúng thì không có đậu hũ. Đó là ví dụ của ngài. Đoạn cuối ngài dẫn lời của thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác trong Chứng Đạo Ca: Chứng thật tướng không nhân pháp, sát-na diệt hết nghiệp A-tỳ, nếu dùng lời vọng dối chúng sanh, tự chuốc địa ngục trần sa kiếp. Người chứng được thật tướng rồi thì không còn thấy có người có vật, có pháp; chỉ trong chớp mắt liền diệt sạch hết nghiệp A-tỳ. Tại sao lạ vậy? Bởi không có nhân có pháp, còn gì đối đãi mà vào địa ngục. Người xưa tu được kết quả rồi, các ngài nói khẳng định cho chúng ta tin, ai khéo tu nhận chân được lẽ thật thì sẽ ra khỏi luân hồi sanh tử, không chút nghi ngờ. Ngài thề, nếu dùng lời này để dối gạt chúng sanh thì sẽ đọa địa ngục số kiếp như cát bụi. Đó là để nói lên lòng tin quyết định của các ngài.

4. Quyết định pháp môn tu hành

Lòng tin đã đủ, lại nên chọn một pháp môn để tu trì, cần phải không được sớm Tần chiều Sở. Bất luận niệm Phật cũng tốt, trì chú cũng tốt, tham thiền cũng tốt, điều cần thiết là nhận định một pháp môn thẳng đó tiến tu hằng không lui sụt. Ngày nay chưa thành công, ngày mai vẫn tiến hành như thế; năm nay chưa thành công, năm tới vẫn tiến hành như thế; đời này chưa thành công, đời sau vẫn tiến hành như thế. Quy Sơn lão nhân nói: “Đời đời nếu không lui sụt, quả Phật quyết định có ngày.” Có một số người làm mà không chú ý quyết định, ngày nay nghe vị thiện tri thức này nói niệm Phật hay, liền niệm Phật được vài ngày; ngày mai nghe vị thiện tri thức kia nói tham thiền hay, lại tham thiền vài ngày, sang đông tìm tây, một đời kiếm tìm đến chết mà không được một chút kết quả, rất uổng thay!

Bây giờ chúng ta có bệnh nghe ai nói pháp gì hay thì ứng dụng tu liền, ít bữa nghe người khác nói pháp kia hay hơn lại bỏ pháp này qua tu pháp kia, cho nên tu suốt đời mà không tới đâu. Với cái nhìn của hòa thượng Hư Vân, tu niệm Phật, tham thiền, trì chú... pháp nào cũng tốt, nhưng quyết định tu theo pháp nào thì đi tới mãi, không vì lý do gì mà dừng. Ngài dẫn lời của tổ Quy Sơn: Đời đời nếu không lui sụt, quả Phật quyết định có ngày. Chúng ta cứ tiến tu một pháp cho tới cuối cùng, đời này chưa rồi thì đời sau tu tiếp nữa, trên đường tu sẽ kết được quả Phật không nghi. Như vậy, trên đường tu nếu chúng ta muốn tu theo một pháp môn nào thì cũng phải tin nhân quả, nghiêm trì giới luật, tín tâm kiên cố. Có đủ những điều kiện đó rồi quyết định tu cho đến cùng, đừng có sớm Tần chiều Sở không tốt.

II- PHƯƠNG PHÁP THAM THIỀN

Pháp môn dụng công tuy nhiều mà chư Phật, tổ sư đều cho tham thiền là vô thượng diệu môn. Trên hội Lăng-nghiêm Phật dạy Bồ-tát Văn-thù chọn môn viên thông, ngài Văn-thù chọn môn nhĩ căn viên thông của Bồ-tát Quán Thế Âm là bậc nhất hơn cả. Chúng ta cần “Phản văn văn tự tánh” chính là tham thiền. Trong thiền đường này cũng nên giảng một pháp tham thiền.

Phản văn văn tự tánh là xoay cái nghe trở lại tánh nghe của mình. Chỗ này nhiều người hiểu lầm, nghe nói xoay cái nghe trở lại rồi cứ ngồi lắng nghe trong hông trong ngực của mình, nghe như vậy không khéo lâu ngày thành thổ huyết.

Sáu căn của chúng ta, một là chạy theo sáu trần, hai là dừng lại không theo sáu trần. Chạy theo sáu trần thì quên thấy nghe mà chỉ nhớ cảnh bên ngoài, còn dừng lại là nhớ mình đang thấy đang nghe thì lơ là cảnh ở ngoài. Nhớ lại mình gọi là xoay, là phản, bởi vì chúng ta quen phóng ra mà không chịu nhớ mình, vì vậy nói xoay lại tức là nhớ lại mình, chứ không phải nhìn ngó vô trong. Chúng ta phải hiểu chỗ đó cho rõ để đừng lầm.

Pháp môn tham thiền có nhiều cách, hòa thượng Hư Vân chuyên tu thiền thoại đầu, ở đây chúng ta không áp dụng thoại đầu, nên những chỗ nói về thoại đầu tôi chỉ đọc sơ qua thôi.

1. Tọa thiền nên biết

Bình thường nhật dụng đều là hành đạo, như vậy chỗ nào không phải là đạo tràng, cần gì thiết lập thiền đường, cũng không phải tọa thiền mới là thiền. Nói thiền đường, nói tọa thiền chẳng qua vì chúng ta là chúng sanh trong thời mạt pháp chướng sâu tuệ cạn mà tạm thiết lập.

Tham thiền không phải đợi ngồi, có thiền đường mới tu được, mà đi đứng nằm ngồi đều tu. Nhưng vì người thời mạt pháp trí tuệ cạn, nghiệp chướng nhiều, nên buộc lòng phải dùng phương tiện ngồi để kìm chế cho sự tu dễ tiến.

Tọa thiền cần hiểu rõ cách điều dưỡng thân tâm. Nếu không khéo điều, hại nhỏ là sanh bệnh, hại to là bị ma, thật đáng tiếc vậy. Trong thiền đường đi kinh hành hoặc tọa thiền, chỗ dụng ý chính là điều thân tâm. Phương pháp điều thân tâm rất nhiều, nay chọn lọc những điều cần yếu lược nói:

Khi ngồi kiết già phải theo thứ tự, giữ tự nhiên và ngồi ngay thẳng. Không được để ý ễnh lưng thẳng lên, nếu ễnh thẳng lưng hơi nóng xông lên tụ lại lâu ngày, con mắt sanh nhiều ghèn, miệng hôi, đầu nóng, không muốn ăn uống, quá lắm đến thổ huyết. Lại không được để lưng cong đầu cúi nhiều, nếu vậy dễ sanh hôn trầm. Như biết khi hôn trầm tới, mở mắt to ra, ễnh lưng một cái và động nhẹ nhẹ hai bên hông, hôn trầm tự nhiên tiêu diệt.

Ngồi ễnh thẳng quá con mắt sanh ghèn, miệng hôi hám, đầu nóng ran, không muốn ăn uống, lần lần đi tới thổ huyết; còn ngồi cong lưng ngó xuống dễ sanh hôn trầm. Tự mình điều chỉnh cho mình, nếu hơi buồn ngủ thì mở mắt to ra, ễnh lưng một chút rồi nghiêng qua nghiêng lại, tự nhiên hôn trầm lặng.

Nếu dụng công cấp bách quá, khi nghe trong lòng bứt rứt nên bỏ hết mọi việc và xả luôn cả dụng công, dừng nghỉ độ năm mười phút, dần dần thư thái, nhiên hậu đề khởi dụng công. Nếu không như vậy, dồn chứa lâu ngày biến thành tánh nóng nảy dễ sân, thậm chí phát cuồng bị ma.

Có nhiều Phật tử nói, sao hồi xưa ít nóng bây giờ tu thiền nóng quá, người nào nói động một chút là nổi sân liền, càng tu càng sân, như vậy là sao? Lỗi tại chỗ này, do mình không khéo, dụng công cấp bách, ép ngặt quá khiến cho bứt rứt bực bội. Khi nghe bứt rứt bực bội thì phải xả, để thư thái một hồi rồi hãy ngồi lại. Nếu cứ dồn chứa những thứ nóng bức đó, lâu ngày thành ra nóng nảy dễ nổi sân.

Tọa thiền khi có chút thọ dụng, cảnh giới phát hiện rất nhiều nói không thể hết, chỉ ta không chấp trước cảnh giới ấy thì nó không làm ngại ta được. Thông thường nói: “Thấy quái ta không quái, quái tự mất.” Trông thấy yêu ma quỷ quái đến nhiễu hại ta, ta không cần quan tâm đến nó, cũng không sợ nó hại. Chính thấy đức Phật Thích-ca đến rờ đầu thọ ký, ta cũng không quan tâm đến, chẳng nên sanh vui mừng. Kinh Lăng-nghiêm nói: “Không khởi tâm cho mình chứng thánh, là cảnh giới lành, khởi tâm cho mình chứng thánh, tức lạc quần tà.”

Nếu khi chúng ta dụng công tu có được những cảnh thọ dụng, như thấy tâm mình lặng lẽ, khoan khoái v.v... Hoặc bất thần thấy Phật tới xoa đầu, lúc đó mừng khoe tứ tung, tưởng mình sắp chứng quả thì sẽ lạc đường tà. Cho nên khi thấy như vậy đừng mừng mà phải bình tĩnh, nếu thấy ma quỷ tới dọa hù mình cũng không màng, không sợ, vì biết đó chỉ là bóng dáng hư dối không thật. Có người ngồi thiền thấy ma rồi sợ ma bắt. Ma chỉ là cái bóng, làm sao nó bắt mình được? Thông thường hay nói, ma bắt coi mặt người ta, thấy kẻ hèn nhát thì ma mới phá, còn người tinh tấn chân thật thì nó không dám phá. Ma bắt là do chúng ta thấy ma thì hoảng hốt sợ hãi sanh ra cuồng loạn, rồi nói ngồi thiền bị ma bắt nên điên. Gốc ma bắt là do mình quá sợ, chứ nó đâu có bắt được mình. Thấy ma biết là bóng không sợ, tâm an nhiên định tỉnh thì ma tự biến mất. Thấy ma không sợ, thấy Phật cũng không mừng. Tâm đang yên mà dấy mừng quá, tức là bất thường nên dễ sanh bệnh. Quá mừng quá sợ đều là hại. Tóm lại, trong khi tu phải bình tĩnh, thấy tốt không mừng thấy xấu không sợ, thản nhiên tự tại thì không gì động tới mình được.

2. Hạ thủ công phu - biết chủ khách

Hạ thủ công phu thế nào ư? Trên hội Lăng-nghiêm ngài Kiều-trần-như nói hai chữ “Khách trần”, chính là chỗ sơ tâm chúng ta hạ thủ công phu vậy. Ngài nói: “Ví như người hành khách dừng nghỉ nơi quán trọ, hoặc ngủ hoặc ăn, ăn ngủ xong gói hành lý ra đi, đi không trở về nghỉ lại. Nếu thật người chủ thì không đi đâu. Như thế suy xét, không ở lại gọi là Khách, ở lại gọi là Chủ. Bởi không ở lại nên nghĩa là khách. Lại như buổi sáng trời tạnh, mặt trời vượt lên, ánh sáng soi qua các kẽ hở, soi rõ các vi trần trong hư không, vi trần dao động, hư không yên lặng. Yên lặng là Không, dao động là nghĩa Trần.” Khách và trần dụ vọng tưởng, chủ và hư không dụ tự tánh. Người chủ thì thường ở, không phải như khách hoặc đi hoặc đến, đó là dụ tự tánh thường trụ vốn không theo vọng tưởng chợt sanh chợt diệt. Nên nói: “Chỉ tự vô tâm với vạn vật, ngại gì vạn vật thường nhiễu loạn.” Tính chất vi trần tự dao động vẫn không làm ngại được cái yên lặng của hư không. Dụ vọng tưởng tánh nó sanh diệt vẫn không làm ngại được tự tánh như như bất động. Nên nói: “Một tâm không sanh, muôn pháp chẳng lỗi lầm.”

Ngài dẫn hai ví dụ trong kinh Lăng-nghiêm về nghĩa khách trần. Ví dụ chủ và khách là hình ảnh thô, ví dụ bụi và hư không là hình ảnh tế. Trường hợp thứ nhất, chủ và khách. Khách đến rồi đi, còn chủ thì không đi. Cho nên nói, nếu thật người chủ thì không đi đâu. Cũng vậy, vọng tưởng sanh diệt đến đi là khách, cái thấy biết vọng tưởng thì không sanh diệt, không có đến đi, đó là chủ. Trường hợp thứ hai, hư không và bụi. Nhìn theo ánh sáng mặt trời ở ngoài rọi vào, chúng ta thấy có bụi lăng xăng. Bụi thì lăng xăng chuyển động, còn hư không thì vẫn lặng yên. Tâm nghĩ hơn thua phải quấy của chúng ta thì luôn lăng xăng chuyển động, còn cái biết được những suy nghĩ phải quấy đó thì bất động và luôn hiện bày.

Đoạn này rất thiết yếu, nên tôi nhắc lại một lần nữa. Như khi chúng ta ngồi thiền vọng tưởng lên thấy vọng tưởng lên, vọng tưởng lặng biết vọng tưởng lặng, thì lúc đó là ai thấy ai biết? Vọng tưởng là hư dối, biết nó liền lặng, đó là khách; thấy biết vọng tưởng mà không theo, đó là chủ. Không theo khách tức là chủ hiện tiền. Cái chân thật đó đã sẵn rồi, chỉ đừng chạy theo vọng tưởng thì cái thật hiện tiền thôi.

Như hư không và bụi, bụi thì động còn hư không thì lặng yên. Khi chúng ta nổi giận có biết mình nổi giận không? Chúng ta thường nói, hồi nãy tôi giận quá, bây giờ hết giận rồi! Tức là lúc cơn giận dấy lên mình có biết, nó lặng xuống mình cũng có biết. Cơn giận dấy động rồi lặng mất, vì nó là cái hư dối không thật. Biết cơn giận đang nổi lên và lặng hết, cái biết đó thường hằng. Khi chúng ta ngồi thiền, niệm khởi biết niệm khởi, niệm lặng biết niệm lặng. Niệm khởi niệm lặng biết rõ ràng buông xả không theo, cái thấy biết rõ ràng đó lặng lẽ thanh tịnh không sanh không diệt.

Tâm chân thật hiện tiền không sanh không diệt mà chúng ta bỏ quên, cứ chạy theo vọng tưởng hư dối rồi bị nó lôi, cho nên ngài dẫn hai ví dụ này để cho thấy rõ.

Nếu chúng ta nhận thân sanh diệt làm thân mình, lấy tâm sống với hơn thua, phải quấy, tốt xấu, thiện ác... làm tâm mình thì chúng ta sẽ đi mãi trong luân hồi sanh tử không sao thoát ra được, đó là lẽ thật không nghi ngờ. Vì vậy trong khi tu phải biết cho rõ ràng, không để lầm nhận thì việc tu mới có kết quả.

Trong đây chữ Khách so phần thô, chữ Trần so phần tế. Người mới phát tâm trước nhận rõ Chủ và Khách, tự không bị nó kéo lôi; tiến lên nhận rõ ràng Không và Trần, vọng tưởng không thể làm chướng ngại. Nên nói: “Biết được, không phải oán.” Người hay xét kỹ lãnh hội được chỗ này, sự dụng công tu hành rất chóng tiến.

Nếu chúng ta thấy biết được cái thật đó rồi thì không có gì ngăn ngại được mình, sự tu hành rất dễ dàng. Bởi vì vừa dấy niệm liền biết là vọng tưởng không theo, không cần dụng công đè nén mà vọng tưởng tự lặng. Vọng tưởng lặng biết mình đang sống với cái thật của mình. Tâm chân thật luôn luôn có mặt mà mình bỏ quên, nhận ra được đó là giải thoát sanh tử. Vì vọng tưởng là nhân tạo nghiệp dẫn mình đi trong sanh tử, còn tâm chân thật thì không tạo nghiệp sanh tử. Giải thoát sanh tử là ai? Là Phật. Như vậy kiếm Phật không khó, tìm Phật không xa, bởi lâu nay chúng ta nhận lầm nên tìm hoài kiếm hoài mà không thấy.

3. Thoại đầu cùng nghi tình

Thời xưa Tổ sư chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật. Như cách an tâm của tổ Đạt-ma, lối bàn kiến tánh của Lục Tổ, chỉ cần thẳng đó thừa nhận là xong, không có khán thoại đầu. Đến các tổ sư sau này thấy tâm người không bằng cổ nhân, không thể tử tâm như khối đất, mà luôn tráo trở lăng xăng, mọi người chỉ đếm của báu cho kẻ khác mà lầm nhận là của mình. Bởi thế nên các ngài riêng lập môn đình (cảnh riêng) và mỗi vị chỉ ra một phương pháp, do đó mới dạy người học khán thoại đầu.

Gốc của tu thiền là phản quan lại để thấy được bản tánh của mình, hay là thừa nhận mình có bản tánh, nhận được là xong việc. Còn thoại đầu chỉ mới có sau này, chứ xưa kia thì chưa có.

Thoại đầu rất nhiều, như: “Muôn pháp về một, một về chỗ nào?” hay “Trước khi cha mẹ chưa sanh, thế nào là mặt thật của ta?” v.v... nhưng phổ thông hơn cả là câu “Niệm Phật là gì?”

Thế nào là thoại đầu? Thoại là lời nói, trước lời nói là đầu. Như niệm A-di-đà Phật là thoại, trước khi chưa niệm là thoại đầu. Nên nói thoại đầu là cái mé chưa sanh một niệm. Một niệm vừa sanh đã thành thoại vĩ (đuôi lời nói). Cái mé chưa sanh một niệm đó gọi là “không sanh”; không loạn động, không mê muội, không đắm nơi tịnh, không rơi vào không, gọi là “không diệt”. Luôn luôn chăm chú trở lại chiếu soi cái “không sanh không diệt” ấy, gọi là “khán thoại đầu” hoặc “chiếu cố thoại đầu”.

Như vậy thoại đầu là tìm đến trước lời nói, bởi khi mình khởi nghĩ mới có lời nói, vậy trước khi khởi nghĩ thì là cái gì? Là cái thật của mình. Nếu một niệm vừa sanh đã thành thoại vĩ, đặt câu hỏi rồi đọc hoài câu hỏi đó, gọi là khán thoại vĩ. Bởi cốt làm sao giúp cho người học nhận ra cái thật và trở về với cái thật đó, vì vậy mà các ngài dạy khán thoại đầu.

Khán thoại đầu trước cần phải khởi nghi tình, đó là chỗ nương nhờ của pháp khán thoại đầu. Sao gọi là nghi tình? Như hỏi niệm Phật là gì? Người người đều biết chính mình niệm, nhưng là miệng niệm hay tâm niệm? Nếu thật miệng niệm, khi ngủ mê vẫn có miệng sao không niệm? Nếu thật tâm niệm, tâm hình dáng thế nào, lại không có chỗ nơi sờ mó? Nhân chỗ không rõ này, trên chữ “gì” phát khởi niệm nghi nhẹ nhàng tế nhị, không cho thô, càng tế càng tốt. Tùy thời tùy chỗ chăm chú chiếu cố quyết chí nơi niệm nghi này, giống như dòng nước không có chỗ đoạn, không sanh hai niệm. Nếu niệm nghi còn thì không cần để ý đến nó, niệm nghi nếu mất lại nhẹ nhàng đề khởi lên. Khi mới dụng tâm thì trong tịnh, trong động so sánh rất đắc lực. Nhưng cốt không sanh tâm phân biệt, không quan tâm đến đắc lực hay không đắc lực, không chú ý trong động hay trong tịnh, ta chỉ nhất tâm nhất ý dụng công là tốt.

Bốn chữ Niệm Phật là gì, rất quan trọng tại chữ “gì”, ngoài ra ba chữ kia chẳng qua là để nói cho to mà thôi. Như “mặc áo, ăn cơm là gì?”, “đại tiểu tiện là gì?”, “phá vô minh là gì?”, “hay hiểu biết là gì?”, bất luận đi đứng ngồi nằm, một khi đề chữ “gì” lên là dễ phát niệm nghi, không cần suy nghĩ xét nét để ý mới có.

Cho nên chữ “gì” trong câu thoại đầu thực tại là một diệu pháp của tham thiền. Nhưng không phải đem một chữ “gì”, hoặc bốn chữ “niệm Phật là gì?” coi như danh hiệu Phật mà niệm. Cũng không phải suy nghĩ xét nét câu “niệm Phật là gì?” mà cho là nghi tình. Có một số người đem bốn chữ “niệm Phật là gì?” ra niệm suốt ngày không dừng miệng, như thế chi bằng niệm A-di-đà Phật công đức còn hơn. Có một số người nghĩ quanh tính quẩn, tìm đông kiếm tây cho đó là nghi tình, đâu biết rằng càng nghĩ càng tính vọng tưởng càng nhiều, giống như người muốn lên lại bị rơi xuống, cần phải biết vậy.

Người sơ tâm phát niệm nghi rất thô, chợt dứt chợt nối, chợt chín chợt sống, đều không được nghi tình, chỉ gọi là Tưởng. Lần lần thu nhiếp được tâm cuồng loạn, niệm đầu cũng kìm giữ được chút ít, mới gọi là Tham. Lại tiến dần dần công phu thuần thục không nghi mà tự nghi, không biết mình đang ngồi ở chỗ nào, cũng không biết có thân tâm thế giới, chỉ riêng niệm nghi hiện tiền không gián đoạn, đó gọi là nghi tình. Thực tế mà nói, lúc đầu chưa kể là dụng công chỉ đả phá vọng tưởng, đến khi chân nghi hiện tiền mới là giai đoạn chân chánh dụng công. Giai đoạn này như qua cửa ải lớn rất dễ vào đường tẽ.

Giai đoạn này rất thanh tịnh và vô hạn khinh an, nếu mất một ít giác chiếu bèn rơi vào trạng thái mê muội nhẹ nhàng. Nếu khi ấy có bậc sáng suốt ở bên, một phen nhìn qua liền biết người ấy đang mắc tại cảnh giới này, lấy một hương bản đập xuống, lập tức đầy trời mây mù tan hết, rất nhiều người nhân đây được ngộ đạo.

Chính khi rất thanh tịnh rỗng rang ấy, nếu nghi tình không còn bèn rơi vào vô ký, ngồi như cây như đá, hoặc gọi hòn đá ngâm nước lạnh. Đến khi đó cần phải đề khởi, đề khởi tức là giác chiếu (giác là không mê, tức là tuệ; chiếu là không loạn, tức là định). Chăm chú một niệm ấy, lặng lẽ chiếu soi, như như không động, sáng sủa không mê, rành rõ thường biết, như lạnh nóng rút hơi, một mạch liên tục không dứt.

Dụng công đến chỗ này cần có con mắt Kim cang không đề khởi thêm, nếu đề khởi thì đã đầu lại thêm đầu. Xưa có vị tăng hỏi Triệu Châu lão nhân rằng: “Một vật khi không đem đến làm thế nào?” Triệu Châu đáp: “Buông hết đi!” Tăng thưa: “Một vật không đem đến, buông hết cái gì?” Triệu Châu bảo: “Buông không xuống thì gánh lên!” Chính là nói giai đoạn này vậy. Trong cảnh sáng sủa mát mẻ này như người uống nước lạnh nóng tự biết, không phải nói năng có thể đến được. Người đến chỗ này tự nhiên sáng suốt, người chưa đến được có nói cũng vô ích. Nên nói: “Trên đường gặp kiếm khách nên trình kiếm, không phải nhà thơ chớ tặng thơ.”

Phần này ngài nói rộng về lối tu khán thoại đầu, ở đây chúng ta không có áp dụng lối tu này, nên tôi chỉ đọc lược qua.

4. Chiếu cố thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh

Hoặc có người hỏi: “Câu phản văn văn tự tánh của Bồ-tát Quán Thế Âm sao được gọi là tham thiền?” Tôi mới nói, chiếu cố thoại đầu chính là dạy ông luôn luôn chăm chú một niệm hồi quang phản chiếu cái “không sanh không diệt” (thoại đầu). Phản văn văn tự tánh cũng là dạy ông luôn luôn chăm chú một niệm phản văn văn tự tánh.

Chiếu cố thoại đầu cùng phản văn văn tự tánh, hai cái đó khác chỗ nào? Ở đây ngài đối chiếu người tu thoại đầu, gọi là chiếu cố thoại đầu, và người tu phản văn văn tự tánh, tức xoay lại nghe tánh giác của mình. Chữ chiếu cố tức là Hồi. Như vậy chúng ta thấy, “chiếu cố thoại đầu” của thiền và “phản văn văn tự tánh” của kinh dường như hai nhưng không phải là hai, vì đều quay trở về tự tánh của chính mình.

Hồi chính là Phản, “không sanh không diệt” là Tự tánh. Văn là Chiếu, tuy lúc xuôi dòng theo thanh theo sắc, nghe không ra ngoài tiếng, thấy không vượt khỏi sắc, phân biệt rõ ràng; nhưng khi ngược dòng trở lại quán tự tánh không chạy theo thanh sắc, chính là một cái tinh minh, Văn và Chiếu đâu phải hai thứ. Chúng ta cần biết, nói rằng “Chiếu cố thoại đầu”, “Phản văn tự tánh” tuyệt đối không phải dùng mắt xem, dùng tai nghe. Nếu dùng mắt xem hoặc dùng tai nghe, ấy là đã chạy theo thanh sắc, bị vật chuyển gọi là xuôi dòng. Nếu chăm chú trong một niệm “không sanh không diệt”, không đuổi theo thanh sắc, gọi là ngược dòng. Ấy là “Chiếu cố thoại đầu”, cũng là “Phản văn tự tánh”.

Chỗ này ngài giải thích rất rõ, chúng ta quán xét lại sẽ thấy không có hai đường. Bởi vì tu thiền thoại đầu, dùng từ gọi là Chiếu cố thoại đầu, tức là quay lại xem xét tột cùng câu nói, chỗ nghi của mình. Tột cùng chỗ nghi là chưa có dấy niệm, chưa có khởi nghĩ, gọi đó là tự tánh. Phản văn văn tự tánh trong kinh Lăng-nghiêm nói, là xoay cái nghe trở lại tự tánh. Tự tánh này chính là tánh tinh minh trong sáng của mình, cũng gọi là Phật tánh. Bởi vì lâu nay cái nghe cái thấy của chúng ta quen chạy theo bên ngoài, gọi là xuôi dòng. Mắt chạy theo sắc, tai chạy theo tiếng, mũi chạy theo mùi v.v... Bây giờ chúng ta không cho nó chạy ra ngoài mà quay lại tự tánh. Chiếu cố hoặc phản văn lại tự tánh của mình, gọi là ngược dòng. Xuôi dòng là đi trong luân hồi sanh tử, ngược dòng là trở lại tánh giác của mình, tức được giác ngộ. Cho nên tuy hai phương pháp tu thấy như khác nhau, nhưng kết quả thì không có hai.

Chúng ta hiểu rồi thì khi đọc kinh sách hoặc nghe những từ ngữ đó chúng ta không lầm lẫn. Chiếu cố thoại đầu là quay lại nhìn thẳng chỗ chưa khởi niệm, gọi là chỗ đầu của câu nói, đầu của niệm khởi. Phản văn tự tánh tức là xoay cái nghe cái thấy không chạy theo âm thanh cảnh sắc bên ngoài, mà trở về ngay chỗ chưa dấy niệm, gọi đó là tự tánh.

5. Tâm thiết tha vì sanh tử cùng phát tâm lâu dài

Tham thiền rất cần tâm thiết tha vì sanh tử và phát tâm lâu dài. Nếu đối với sự sanh tử không thiết tha thì nghi tình không phát, công phu khó đạt. Nếu không phát tâm lâu dài, một nóng mười lạnh thì công phu cũng không thành phiến. Chỉ cần có tâm thiết tha lâu dài thì chân nghi mới phát. Khi chân nghi phát thì trần lao phiền não không dứt cũng tự dứt. Khi thời tiết nhân duyên đến tự nhiên nước tụ thành ngòi.

Chỗ này ngài dạy chúng ta tu phải có tâm thiết tha vì sanh tử và phát tâm lâu dài. Tại sao phải thiết tha vì sanh tử? Bởi vì tất cả chúng ta có mặt trên cõi đời này sống nhiều lắm là một trăm tuổi, nhưng số đó chỉ có một phần trăm hay một phần ngàn, còn lại thì chừng bảy tám mươi tuổi hoặc vài mươi tuổi thôi. Chết là cái dành sẵn chực chờ không riêng ai hết, không có người nào ngoại lệ. Như vậy mà cả đời chúng ta chỉ lo cho cái sống. Làm sao cho được khỏe mạnh, an vui, no ấm, sống được đầy đủ tiện nghi v.v... Cứ cắm đầu lo cho sự sống, tới chừng ngã đùng ra chết mới hoảng hốt, lúc đó giật mình trở tay không kịp. Cho nên người thông minh sáng suốt, trong khi lo cho sự sống phải nghĩ ngày mai mình sẽ chết. Cái chết nó đã lên án rồi, nó không tha thứ đâu! Khi còn đang sống phải dành một ít thời gian, một giờ hai giờ mỗi ngày để tu tập, cố gắng làm chủ mình, để khi duyên hết còn gượng thấy được lối đi của mình. Nếu không thì khi nhắm mắt hoảng hốt không biết đi đâu, đó là cái khổ của người tu mà chưa thật biết tu.

Tuy nhiên, nếu có tâm thiết tha vì sanh tử không vẫn chưa đủ, mà còn phải phát tâm lâu dài mới được. Nếu hôm nay thấy người láng giềng chết, giật mình về tu rút, tu được một tuần hai tuần, rồi thả rề bê tha trở lại thì không được, cho nên phải phát tâm lâu dài. Lo cho sự sống suốt cả cuộc đời thì lo cho sự tu ít ra cũng được năm ba chục năm, chứ lo chừng một năm hai năm làm sao tu xong. Người biết tu phải nghĩ kế lâu dài, lo sao cho sự tu của mình càng ngày càng tăng tiến, để khi hết duyên ra khỏi thân này liền có hướng đi sáng sủa tốt đẹp, không đến nỗi phải lo sợ.

Tôi xin thuật lại một việc cũ chính mắt tôi thấy cho các ông nghe. Lúc trước, đời Thanh khoảng năm Canh Tý (1900), Liên quân tám nước vào kinh đô, tôi theo chân vua Quang Tự và Từ Hy thái hậu chạy giặc. Giữa đường gặp một đoạn phải chạy bộ về Thiểm Tây, mỗi ngày chạy mấy mươi cây số, luôn mấy ngày không có cơm. Trên đường gặp một ông già đem dâng vua Quang Tự một miếng khoai rừng, ăn xong vua hỏi người ấy: “Thứ gì ăn ngon lắm vậy?” Các ông thử tưởng, Hoàng đế ngày thường rất kiểu cách, rất oai phong, đâu từng đi bộ hơn mấy bước, chưa từng đói quá nửa bụng, chưa từng ăn hết một miếng khoai rừng. Đến lúc này, kiểu cách chẳng có, oai phong không còn, lội bộ cũng được, bụng đói cũng chịu, ăn rễ rau cũng ngon. Vì sao mà ông bỏ hết được? Vì Liên quân đuổi bắt ông, ông nhất tâm chạy chết. Đến sau được nghị hòa, ông ngự giá về kinh, kiểu cách lại khởi, oai phong lại hiện, đi bộ không nổi, bụng đói không được, cái gì không ngon thì nuốt không trôi. Sở dĩ thế, tại khi này ông buông không hết, vì Liên quân không còn đuổi bắt ông, ông không có tâm chạy chết. Giả sử ông thường đem cái tâm chạy chết ấy mà tu hành thì thế nào không thành công; đáng tiếc ông không có tâm lâu dài, gặp thuận cảnh thái độ cũ lại bộc khởi.

Xét lại chúng ta có giống ông vua này không? Chắc cũng như vậy. Gặp việc bất trắc thì hoảng hốt, khổ gì chịu cũng nổi, cái gì ăn cũng được, đến lúc trở lại bình thường thì khác liền. Lúc khổ nạn niệm Phật ăn chay, hết khổ nạn rồi thì quên niệm Phật, thôi ăn chay. Bệnh chung của mọi người là vậy, không có tâm lâu dài bền bỉ. Chúng ta tu phải nghĩ tới việc lâu dài, chứ đừng đợi gặp lúc khủng hoảng mới làm, lúc dễ dàng thì bỏ phế.

Các vị đồng tham thiền! Bọn quỷ vô thường luôn luôn theo đuổi sanh mạng chúng ta, không bao giờ chúng chịu “nghị hòa”. Chúng ta cần phải phát tâm thiết tha lâu dài để giải thoát vòng sanh tử. Tổ Cao Phong Diệu nói: “Người tham thiền cần yếu khắc định ngày thành công, giống như người rơi xuống giếng sâu ngàn trượng từ sáng đến chiều, từ chiều đến sáng muôn ngàn tư tưởng chỉ chăm chăm một việc mong ra khỏi giếng, trọn không có niệm thứ hai. Người thực hành được như vậy, hoặc ba ngày, năm ngày, bảy ngày, nếu không triệt ngộ, Cao Phong ngày nay phạm tội đại vọng ngữ hằng đọa trong địa ngục Bạt Thiệt.” Lão nhân Cao Phong vì lòng đại bi thiết tha sợ e chúng ta không phát tâm tha thiết lâu dài, nên phát lời thề nặng này để bảo chứng cho chúng ta.

Ngài Cao Phong Diệu nói, nếu chúng ta tu tha thiết không có một niệm sơ hở hay một niệm dấy động nào, trong một ngày, hai ngày cho tới bảy ngày mà không triệt ngộ thì ngài phạm tội đại vọng ngữ, đọa vào địa ngục Bạt Thiệt. Ngài thề mạnh như vậy.

Thời gian ngài đặt ra cho chúng ta rất ngắn, chỉ cần dành ra bảy ngày tu thôi. Mình sống mấy mươi năm mà bỏ ra chỉ bảy ngày, có tiếc không? Như người rớt xuống giếng sâu ngàn trượng, trong tâm họ chỉ trông có người thả dây xuống cứu, không có ý nghĩ nào khác. Người tu cũng phải như vậy. Tất cả chúng ta đều đã mang bản án tử hình sẵn rồi, phải cố gắng mà vượt thoát ra. Ngài không nói một đời hay một năm, mà chỉ nói có bảy ngày. Nếu bảy ngày tha thiết vận dụng công phu tu, không có một niệm khác thì sẽ được ra khỏi sanh tử. Điều này đâu riêng ngài Cao Phong mà ở các kinh cũng có nói. Như trong kinh Di-đà, Phật dạy người niệm Phật từ một ngày cho đến bảy ngày nhất tâm bất loạn sẽ được sanh về Cực lạc. Kinh A-hàm thì dạy, người tu quán Tứ niệm xứ từ một ngày đến bảy ngày không dời niệm không đổi niệm, nhất định chứng từ quả thứ ba đến quả thứ tư, tức từ A-na-hàm đến A-la-hán.

Như vậy từ kinh điển của Nguyên thủy, Đại thừa cho đến Thiền tông đều kỳ hạn thời gian gói gọn là bảy ngày. Chúng ta đọc thuộc lòng nhưng lại không dám dành ra bảy ngày ứng dụng tu triệt để, mà cứ lơ là chỉ tu cho có chừng thôi. Nếu khi ứng dụng pháp môn nào cũng đều tha thiết đem hết tâm lực ra mà tu, đừng để ý nghĩ thứ hai chen vào thì nhất định chúng ta sẽ ra khỏi sanh tử. Người đời nhịn đói bảy ngày được, còn mình hy sinh niệm Phật, chuyên tâm hướng về chỗ thanh tịnh giải thoát, đâu phải là việc khó làm. Nhưng rất tiếc chúng ta có bệnh chưa can đảm, chưa quyết tâm làm. Bảo thi làm Phật có bảy ngày mà không chịu thi, bảo chăm chỉ đi học để thi đỗ cử nhân, tiến sĩ thì chắc không ai nỡ bỏ qua. Đó là sự yếu đuối của chúng ta.

6. Dụng công có hai thứ khó và dễ

Người dụng công có hai thứ khó và dễ:

1- Sơ dụng tâm khó dễ

2- Lão dụng tâm khó dễ

Sơ dụng tâmLão dụng tâm là những từ chuyên môn. Sơ dụng tâm là chỉ cho người mới bắt đầu tu tập, còn Lão dụng tâm là chỉ cho người tu lâu công phu đã thuần thục. Trong đây, người mới bắt đầu tu hay người tu lâu dài rồi, cũng đều gặp hai thứ khó và dễ.

a. Sơ dụng tâm khó dễ

+ Sơ dụng tâm khó - Tâm trộm không chết

Cái thông bệnh của người sơ dụng tâm là vọng tưởng, tập khí buông không hết, vô minh, cao mạn, tật đố, chướng ngại, tham, sân, si, ái, lười biếng, ăn ngon, phải quấy, nhân ngã đầy dẫy trong bụng, làm sao tương ưng với đạo?

Sơ dụng tâm khó là chỉ cho những người tầm thường. Người mới tập tu, tâm vọng tưởng và tập khí còn rất nhiều không biết bao nhiêu mà kể, cho nên buông không được. Lại thêm nào là vô minh, cao mạn, tật đố, tham sân si ái, lười biếng, ăn ngon, phải quấy, nhân ngã... đầy bụng. Vì vậy dụng tâm tu thật là khó.

Hoặc có người là công tử hay ca sĩ xuất gia tập khí không quên, một chút khổ nhọc chịu không nổi, một miếng không ngon nuốt chẳng vô, làm sao dụng công tu hành? Người này không chịu tưởng nhớ đức Bổn sư Thích-ca là hạng nào đi xuất gia mà chịu khó khổ được như vậy? Hoặc có người biết chút ít văn tự bèn tầm chương trích cú đem những lời nói của cổ nhân ra phân tích, rồi cho mình là hiểu hoàn toàn sanh đại ngã mạn; nhưng đến khi bệnh nặng thì rên xiết suốt ngày, hoặc đến lúc sắp lâm chung thì tay co chân rút, bình sanh chỗ hiểu biết không thực hành được một điểm, đến khi hấp hối ăn năn sao kịp!

Những người giàu có đi tu cũng khó dụng công tu hành. Ngài dẫn câu chuyện đức Phật từ một vị thái tử ở hoàng cung mà đi tu, chịu đựng cực nhọc, ăn uống khổ hạnh vô cùng. Phật là hạng người gì mà ngài còn xả bỏ được, còn chúng ta ngày nay được chút khá giả hoặc học một ít văn chương cho là hay, rồi bám vào đó mà cao mạn không chịu cố gắng tu hành. Ngày nay còn sống, lý luận rất thông, bàn nói rất giỏi, nhưng đến khi gần chết thì không làm chủ được chút nào. Đó là do tu chưa có nền tảng vững chắc, nên không đủ sức chống cự lúc lâm chung.

Hoặc người có chút đạo tâm lại không hiểu rõ chỗ hạ thủ công phu. Có người sợ vọng tưởng cố trừ mà trừ không được, trọn ngày buồn rầu bực tức tự hận nghiệp chướng nặng nề, nhân đó thối thất đạo tâm. Hoặc có người quyết cùng vọng tưởng chiến đấu, chăm bẳm chống tay tức khí, ưỡn ngực trừng mắt giống vẻ mặt hầm hầm của tên giám sát, quyết cùng vọng tưởng một còn một mất; họ đâu biết như vậy, vọng tưởng đã đuổi không được, trở lại mang bệnh thổ huyết, phát cuồng.

Chúng ta phải hiểu và nhớ những lời nhắc nhở này. Có người mới tập tu ngồi lại thấy vọng tưởng ở trong tuôn ra hết cái này tới cái kia liên tục, thấy riết rồi chán sợ, nghĩ mình tu không biết tới chừng nào mới hết vọng tưởng, vậy tu làm chi? Rồi buồn bực thối tâm hết muốn tu. Hoặc có người can đảm cương quyết chết sống với vọng tưởng. Ngồi chăm bẳm kìm cho thật vững, nhìn cho thật sâu. Kìm giữ quá mức, hơi nóng xông lên đầu, đọng ở ngực, lâu ngày sanh ra bệnh thổ huyết. Hai cách này đều là chướng, là bệnh.

Tôi thường khuyên các vị tu, vọng tưởng không có gì đáng sợ, chỉ cần nhìn ra mặt thật của nó là hư dối, vừa khởi liền mất, có gì thật đâu mà phải sợ. Biết rồi không cần chống cự, không phải buông dẹp, chỉ không theo nó thì nó tự tan. Thấy rõ được bản chất không thật của nó đó là trí tuệ, tu tập như vậy vừa nhẹ nhàng vừa không bệnh. Cho nên phải khéo biết cách tu, nếu không khéo sanh bệnh rồi đổ thừa tại tu mà thành bệnh.

Hoặc có người sợ rơi vào không, đâu ngờ trước đã sanh ra quỷ; không vẫn là không chẳng động, ngộ lại ngộ chẳng đến. Hoặc có người khởi tâm cầu ngộ, ngờ đâu cầu ngộ đạo mong thành Phật đều là đại vọng tưởng; cát không phải là cơm, cầu đến bao nhiêu năm quyết định cũng không ngộ.

Có người sợ bỏ hết vọng tưởng sẽ trở thành không ngơ, nên không chịu bỏ. Ngài nói, sợ rơi vào không, đâu ngờ trước đã sanh ra quỷ. Vì mình nuôi dưỡng những nghĩ tưởng, chính nghĩ tưởng đó là quỷ quái. Không vẫn là không chẳng động, ngộ lại ngộ chẳng đến. Không ấy vốn thản nhiên chẳng động, mà mình không chịu ngộ được cái không đó.

Hoặc có người ngồi tu cứ trông cho ngộ, trông cho mau đắc quả, mà không biết rằng càng trông thì càng mất. Đây cũng là chướng, là bệnh. Cho nên khi tu đừng để tâm mong thành Phật, cũng không cầu được ngộ, mà chỉ cần buông vọng tưởng cho tâm thảnh thơi, kết quả sẽ tự đến.

Hoặc có người chợt được yên tịnh một vài cây hương bèn sanh vui mừng, ấy chỉ là con rùa đen mù tìm bộng cây, ngẫu nhiên đụng nhằm chẳng phải là công phu thật, ma vui mừng sớm đã nhập vào tâm vậy. Hoặc có người trong chỗ yên tịnh biết được thanh tịnh rất thích, trong chỗ động thì mất thanh tịnh, nhân đó tránh chỗ ồn náo tìm chỗ yên tịnh, ấy là đã sớm làm quyến thuộc của hai thứ ma vương động tịnh. Các người như vậy thật rất là nhiều. Kẻ sơ dụng tâm không thấu rõ đường lối tu tập thật là khó.

Lúc ngồi thiền vừa yên tịnh được chừng vài cây hương tưởng mình đạt đạo rồi, nhưng sự thật đó chỉ là cái bất thần chợt được, mình còn phải bao nhiêu thời gian công phu nữa mới xong, chứ không phải tới đây là đủ. Vừa yên một chút tưởng rằng đạt đạo, đó là sai lầm.

Chỗ này ngài dạy để chúng ta có kinh nghiệm trong sự tu. Như có người nhân ở trong thất hay ở chỗ tịnh được yên, không muốn ra ngoài sợ tiếp xúc với người này người kia bị động. Ngài nói ưa tịnh sợ động cũng thuộc về ma vương; làm sao ở trong cảnh động hay tịnh mà vẫn an nhiên, đó mới là thứ thiệt, còn sợ cái này tìm cái kia là chưa thật. Cho nên kẻ sơ tâm, tức là người mới tập tu thiền mà không thấu rõ đường lối tu tập thì thật là khó.

Có giác mà không chiếu thì tán loạn không thể “đến nhà”. Có chiếu mà không giác lại ngồi “chết chìm trong nước chết”.

Như vậy giác và chiếu khác nhau chỗ nào? Có giác mà không chiếu thì tán loạn, không thể đến nhà. Nếu cứ nhớ mình đang biết, đang thấy rõ những thứ đó là hư ảo không thật... đó là có giác mà không chiếu. Không chiếu tức là không quay lại nhìn thẳng vào nội tâm, mà cứ lo chạy ra ngoài để giác quán, nên bị tán loạn không thể đến nhà. Còn có chiếu mà không giác, lại ngồi chết chìm trong nước chết. Cứ quay lại mình mà không nhận ra được cái chân thật nơi mình, tức là có chiếu mà không giác, đó là chết chìm trong nước đọng.

+ Sơ dụng tâm dễ - Buông xuống chỉ để một niệm

Dụng công tuy nói khó, nhưng hiểu rõ đường lối lại rất dễ. Tại sao sơ dụng tâm là dễ? Không có gì khéo, buông hết liền được. Buông hết cái gì? Buông hết tất cả vô minh phiền não. Làm sao buông hết được? Chúng ta coi thân này như chết vậy. Ông thử chửi thây chết bao nhiêu câu, nó cũng không phát giận, đánh mấy gậy nó cũng không chống cự, lúc sống ưa phá vô minh bây giờ cũng không phá, lúc sống ưa danh lợi khi này cũng không màng, lúc sống nhiều thứ tập nhiễm khi này không có, cái gì cũng không phân biệt, cái gì cũng bỏ hết. Chư vị đồng tham thiền! Chúng ta mang xác thân này một phen hơi thở ra không trở lại bèn thành thây chết. Chúng ta sở dĩ buông không hết, chỉ do xem thân này là trọng, sanh nhân ngã phải quấy thương ghét thủ xả. Nếu nhận định thân này như thây chết, không quý trọng nó, không chấp nó là ngã thì có cái gì buông không hết?

Ngài dạy người mới tu thiền dụng tâm dễ là phải thấy thân này như thây chết, nhưng có ai dám thấy vậy không? Chúng ta chỉ thấy sống chứ không thấy chết. Thấy sống chưa đủ, mà còn thấy khôn thấy dại, tranh nhân tranh ngã, phải quấy đủ thứ không buông xả được. Nếu thấy như thây chết thì ai chửi cũng không nhúc nhích, đánh cũng không cục cựa, làm gì cũng không động thì tu có gì là khó. Chúng ta đừng tưởng chuyện này mình không có phần. Ai có gan tu cũng có thể làm được.

Như tôi thường nói, người ta nói mình con chó, mình có thành con chó đâu mà sao lại giận? Giận người ta làm chi cho khổ. Vậy mà cứ giận! Nghe nói trâu chó liền cho là lời mắng chửi, rồi ăn thua đủ, phiền não cả ngày không bỏ. Lời nói bậy rỗng không vô nghĩa mà bám vào đó để phiền khổ, như vậy chúng ta có sáng suốt không? Không sáng suốt chút nào. Thử kiểm lại xem, có ai dám can đảm nghe nói những lời đó mà vẫn dửng dưng, bình thản chẳng thay đổi nét mặt không? Chắc là chưa dám! Chúng ta luôn sống trong huyễn hoặc hư dối, không thấy được lẽ thật mà cứ lo tự mãn, quả là không sáng suốt.

Ví dụ đầu năm gặp ai nói, năm nay cầu cho gia đình anh chị nghèo mạt rệp, nghe bực bội liền. Nếu chúc năm mới cầu cho gia đình anh chị thăng quan phát tài thì vui liền. Phải không? Nói thăng quan phát tài hay nghèo mạt rệp cũng chỉ là lời nói suông, đâu phải do người ta nói mà thành có. Tại sao nghe câu này thì buồn giận, nghe lời kia thì vui cười! Chúng ta luôn sống trong sự giả dối nên thường bị lừa đảo. Người ghét thì họ nói những lời nặng nề cho mình bực bội khổ sở, kẻ muốn gạt gẫm thì họ nói những điều hay hay cho mình mừng nghe theo. Nếu nghe cầu chúc nghèo giàu gì đều hiểu đó là chuyện bình thường, tùy phước tùy duyên biết đâu mà lường, không mừng không sợ thì không ai lừa dối được. Người thế gian ai cũng nói mình khôn mình sáng, mà gặp việc thì không sáng không khôn. Mâu thuẫn vô cùng! Cho nên người học đạo phải chuộng lẽ thật, sống với lẽ thật. Biết rõ điều gì không quan trọng, lời nói nào hư dối vô nghĩa không có giá trị thì bỏ qua hết. Như vậy gặp việc mới bình an, tu hành dễ được kết quả.

Tu không phải khó mà khó là vì chúng ta mê lầm, nuôi dưỡng theo những ảo giác. Mong người khen, mong chức lớn, được giàu sang. Sợ già, sợ bệnh, sợ chết... Nhưng những việc này chúng ta có mong muốn được không, có tránh được không mà sợ? Cho nên phải cẩn thận nhìn đúng sự thật, đừng theo ảo tưởng để một đời phải chìm trong đau khổ. Nếu chúng ta nhận đúng lẽ thật, biết rõ rồi thì sự tu hành không có gì khó.

Chỉ cần buông được hết, trong hai mươi bốn giờ đi đứng ngồi nằm, động tịnh rảnh rang bận rộn, toàn thân trong ngoài chỉ là một niệm nghi, bình thản không dứt niệm nghi, không chen niệm nào khác. Một câu thoại đầu như nương Ỷ Thiên trường kiếm, ma đến ma chết, Phật đến Phật chết, không sợ vọng tưởng thì có cái gì phá hại ta được? Có cái gì phân động phân tịnh, có cái gì chấp hữu chấp không? Như quả thật sợ vọng tưởng, ấy là chồng thêm một lớp vọng tưởng. Biết mình thanh tịnh thế là đã không thanh tịnh. Sợ rơi vào không, chính đã rớt trong có. Tưởng thành Phật, đã vào đường ma. Nên nói: “Bửa củi gánh nước đâu không phải diệu đạo, cày ruộng cuốc đất đều là thiền cơ.” Không phải trong khi ngồi kiết già mới gọi là dụng công tu hành.

Ngài nói về khán thoại đầu, nếu chúng ta tu biết vọng tưởng thì cần rõ niệm nào cũng là vọng tưởng, đừng để cho mình dính kẹt. Còn người niệm Phật, đi đứng nằm ngồi hằng nhớ niệm Phật, không có một niệm khác. Chúng ta tu mà được như vậy thì việc tu rất dễ.

b. Lão dụng tâm khó dễ

+ Lão dụng tâm khó - Đầu sào trăm thước không thể tiến bước

Thế nào là lão dụng tâm khó? Lão dụng tâm đến giai đoạn chân nghi hiện tiền, có giác có chiếu vẫn thuộc sanh tử, không giác không chiếu lại rơi vào không vong, đến cảnh giới này thật là khó. Đa số người đến chỗ này vượt qua không khỏi, đứng trên đầu sào trăm thước không có cách nào tiến bước. Có một số người nhân đến cảnh giới này, trong định phát chút ít tuệ hiểu sơ lược một ít công án của cổ nhân, liền bỏ hết nghi tình, tự cho là đại triệt đại ngộ, ngâm thơ vịnh phú, nhướng mày chớp mắt, xưng là thiện tri thức, thật không biết mình đã rơi vào bè đảng của ma. Lại có người hiểu lầm ý nghĩa câu của Đạt-ma lão nhân nói: “Ngoài dứt các duyên, trong tâm không xao động, tâm như vách tường có thể vào đạo” và câu của Lục Tổ nói: “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, chính khi ấy cái gì là bản lai diện mục của Thượng tọa”, bèn cho ngồi như cây như đá là hay tuyệt. Hạng người này cho Hóa thành là Bảo sở, nhận xứ người cho là quê hương, thật là chỗ Bà tử đốt am và mắng “Các ngươi là người chết”.

Lão dụng tâm khó là tại sao? Vì tới chỗ cứu cánh khó vượt qua. Như trong mười mục chăn trâu, còn trâu thì người chăn nhìn thấy trâu nằm hay đi đứng, nhưng đến khi trâu hết thằng chăn không còn thì lúc đó làm sao? Đây là giai đoạn rất khó, dễ bị mắc kẹt chết chìm, phải biết để vượt qua chứ không nên dừng ở đó. Đây là chỗ khó của lão dụng tâm.

+ Lão dụng tâm dễ - Cứ miên mật đi!

Thế nào là lão dụng tâm dễ? Đến lúc này chỉ cần không tự mãn, không bỏ nửa chừng, thầm thầm kín kín dụng công, trong thầm kín lại thầm kín, trong vi tế lại vi tế, khi thời tiết đến đáy thùng tự bể (đại ngộ). Nếu không tự bể, nhờ thiện hữu tri thức nhổ đinh rút chốt cho.

Đại sĩ Hàn Sơn có bài tụng: Chót vót trên đảnh núi, Bốn phía không mé bờ.

Ngồi tịnh chả ai biết,

Suối lạnh vầng trăng soi. Trong suối vốn không trăng, Trời xanh trăng xa thẳm. Ngâm một bài ca này,

Trong ca thiền chẳng có.

Hai câu đầu nói cái chân thường bày hiện, không thuộc một cái gì, sáng chiếu khắp đại địa không một mảy chướng ngại. Bốn câu kế nói chân như diệu thể phàm phu hẳn không thể biết, ba đời chư Phật cũng tìm không được chỗ nơi của ta, nên nói: “chả ai biết”; ba câu “Suối lạnh vầng trăng soi v.v...” là Lão nhân dùng phương tiện ví dụ cảnh giới ấy. Hai câu rốt sau, sợ người nhận lầm ngón tay là mặt trăng, nên đặc biệt cảnh giác chúng ta “phàm có nói năng không phải là thiền”.

Bài kệ của Hàn Sơn diễn tả chỗ đến của người tu.

Hai câu đầu: Chót vót trên đảnh núi, bốn phía không mé bờ. Đến chỗ tột cùng thì không còn ranh vức, không có gì ngăn trở nữa. Bốn câu sau: Ngồi tịnh chả ai biết, suối lạnh vầng trăng soi. Trong suối vốn không trăng, trời xanh trăng xa thẳm. Chỗ chúng ta đến hoàn toàn thanh tịnh, chỗ đó Phật cũng không biết huống nữa là ai. Cảnh thanh tịnh như vầng trăng soi sáng suối lạnh.

Trăng không phải từ trong suối mà có, ngẩng nhìn bầu trời trong, thấy vầng trăng xa thẳm. Cho nên Ngâm một bài ca này, trong ca thiền chẳng có. Ngâm lên bài ca, trong lời ca ngâm hay trong lời nói không có thiền, vì còn có nói năng thì không phải là thiền.

Đó là chỗ dễ của lão dụng tâm.

III- KẾT LUẬN

Chính tôi mới nói ở trên cũng là gỡ rối chỉ đường mà thôi. Phàm có nói năng đều không phải thật nghĩa. Cổ đức tiếp độ người, nếu không đánh thì nạt, đâu có vẽ bày lăng xăng vầy. Chẳng qua người nay không thể sánh với người xưa, miễn cưỡng dùng tay chỉ mặt trăng. Chư vị đồng tham thiền! Cứu cánh ngón tay là gì? Mặt trăng là gì? Hãy tham đi!

Ngày nay giảng đông giảng tây đủ thứ, chẳng qua cũng là phương tiện dùng ngón tay chỉ mặt trăng mà thôi, còn cái thật đó là của mỗi người tự thấy tự biết, chứ không ai chỉ ra được hết.

 

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 00492
  • Online: 15