Trí tuệ

06/06/2019 | Lượt xem: 5504

TT.Thích Tâm Hạnh - TVTL Bạch Mã

THAY LỜI TỰA

Phật pháp luôn sẵn đó, hiện bày trước mắt mỗi người. Chúng sanh do loạn động chôn vùi, vô minh che lấp cho nên bỏ sót, không nhận ra. Từ bản thể vốn vậy, thoáng chợt bất giác, mê lầm, xa khơi; từ đó phân làm hai đường mê và giác. Thông minh lanh lợi trong xao động chưa yên, phát kiến nhiều thứ độc đáo bên ngoài mà chính mình còn trong sanh diệt, luân hồi, khổ não, lúc này tạm gọi là hữu sư trí tuệ.

 

Đầy đủ nhân duyên nhờ thầy khai mở, thẳng đó tiến vào cố hương muôn thuở chính mình. Hoặc là chưa thể liền đó như vậy thì hãy buông xuống. Muôn duyên nhất thời rủ sạch, tới lui giác sáng rỗng lặng an nhiên, bất ngờ mọi thứ vỡ vụn, chân trời sáng lạn hoát toang, ngay đây khế hợp tánh thể. Bất động nhưng linh thông, sống động; đây là trong thể vốn sẵn có dụng, gọi là trí thể. Quắt thước, sinh động, phát minh, cho đến tới lui sinh hoạt làm lụng tất cả mà vẫn không tướng, vẫn chưa từng máy động bao giờ; rõ ràng trong dụng đã sẵn đủ thể, gọi là trí dụng. Thể dụng không hai, mất hút các tướng mà hay hiện bày các tướng; sự lớn lao này không thể tả hết được trừ khi chính mình sống được trong ấy. Lớn hơn tất cả mà bao hàm tất cả. Lúc này gọi là trí tuệ vô sư.

Đức Phật ra đời chỉ vì duy nhất một việc chính yếu lớn lao là chỉ bày cho chúng sanh nhận ra và sống được bằng sức sống thấy biết giác nơi chính mỗi người. Từ đó mở bày giáo pháp, lập bày phương tiện, từng bước hướng dẫn đưa người trở lại nguồn chơn tuệ giác. Sau Phật niết-bàn, nhiều đời chư vị Tổ sư trao truyền tâm ấn này soi rọi chốn nhân gian, đưa người trở về quê cũ. Khi thì phương tiện diễn bày, khi thì liền đó chỉ thẳng, có lúc bất chợt đập tan xiềng xích, xoi phủng lớp lớp mê mờ, hành giả ngay đó bất chợt hoát toang, đất trời thênh thang, tự tại tiêu dùng, mồi sáng ngọn đèn Phật Tổ, đời đời tiếp nối không dừng.

Nếu như ngay đây thấu tột trí tuệ vô sư, mới hay ra, tất cả đã tự sẵn đủ lâu rồi.

 

Trung Thu năm Mậu Tuất. DL: 2018

Kính ghi:

Tỳ kheo Thích Tâm Hạnh.


 

TRÍ TUỆ

A. DẪN NHẬP.

Đến thăm những nơi nuôi dạy trẻ em có hiểu biết không được đầy đủ, mới thấy quý khi mình may mắn có được trí tuệ đầy đủ hơn nhiều người. Trí tuệ quý báu và cần thiết là như vậy, nhưng khi vào nhà sách thấy cuốn sách tựa đề trí tuệ hơi dày, có lẽ ít người thích hơn những tập truyện tranh màu mè bắt mắt. Hoặc khi nghe nói đến đề tài trí tuệ, chúng ta cảm thấy khô khan, không hấp dẫn bằng bàn bạc chuyện thế sự đông tây. Ai cũng muốn mình thông minh, cũng đều thầm biết trí tuệ là quý báu, cần thiết. Nhưng khi bàn đến phạm trù trí tuệ thì lại ngán ngẫm, đôi khi có cảm giác hơi sợ sệt hoặc lười biếng để tâm. Đây là nghịch lý của một con người bình thường. Và nghịch lý này cũng cho thấy chúng ta hơi thiếu duyên với trí tuệ. Có tôn trọng thầy thì mới được làm thầy. Thích có trí tuệ thì việc trước tiên, ít nhất là phải gieo duyên với trí tuệ mà chưa sẵn sàng để tâm thì làm sao có được ngày mai thông tuệ, tươi sáng? Nếu mong mình là người có hiểu biết đầy đủ, thành đạt, không khổ thì chỉ có trí tuệ mới đủ công năng giúp cho chúng ta toại nguyện. Muốn thông suốt và có cái nhìn thật đầy đủ, chúng ta cùng bàn qua về chiều rộng và chiều sâu; về cội nguồn và phát tiết của trí tuệ để hướng tiến.

 

B. VAI TRÒ, GIÁ TRỊ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TRÍ TUỆ. 

I. Trí tuệ là vị thầy dẫn đường.

Chú bé lớp tám học hành chăm chỉ, ngoan ngoãn. Để khích lệ con, bố mẹ thưởng cho tiền để mua quà hoặc món ăn tùy thích. Nhưng khi có tiền, chú lại ham chơi, bỏ bê việc học tập. Bố mẹ phát hiện, không cho tiền nữa mà thay vào đó bắt chú phải làm những công việc nhọc nhằn, khổ cực trong kỷ luật. Chú cảm thấy ăn năn, hối hận và ra sức nỗ lực học hành. Sự siêng năng, cần cù rèn luyện giúp chú trở nên giỏi giang, ngoan ngoãn, được mọi người thương mến. Bố mẹ rất vui, tự hào và quyết định thưởng cho con mình một cách xứng đáng. Trẻ con thường hay lầm lỗi, chú bé một lần nữa biếng lười và chơi bời lêu lỏng. Rồi một lần nữa chú bị bố mẹ trách phạt. Chú lại quyết tâm, cố gắng siêng năng chăm chỉ vào bài vở, rèn luyện bản thân, trở thành một cậu bé giỏi giang ngoan ngoãn như ngày nào. Bố mẹ hài lòng nên khôi phục lại phần thưởng cho chú. Nhưng chú lại chủ quan, biếng lười, lêu lỏng; và rồi bố mẹ chú lại trách phạt. Câu chuyện cứ lặp đi lặp lại mãi như thế trở thành một vòng tròn loanh quanh không có hồi kết thúc. Đó là câu chuyện của một cậu bé còn non nớt, ăn chưa no, lo chưa tới; chưa có đủ trí tuệ để có thể tự chủ điều chỉnh, cân bằng giữa chuyện học và việc chơi; chưa có trí tuệ nhìn nhận mọi thứ đầy đủ để hành động như một người trưởng thành cho nên bị quanh đi lộn lại trong vòng lẩn quẩn như thế.

Nghe qua tưởng chừng như không liên quan gì đến ai. Nhưng kỳ thực cậu bé trên chính là bản thân của mỗi người chúng ta trong cuộc sống. Vòng lẩn quẩn của chú bé chính là vòng luân hồi chưa có ngày cùng của mỗi con người khi còn mê. Trong đó, chúng ta đã khoác lên mình đủ những lớp áo, bộ mặt; đã từng trải, sống qua đủ hết những mảnh đời mà không chỉ những gì chúng ta đã được thấy trong xã hội. Sự khờ dại, ngây ngô của chú bé có thể là sự trách cứ, đáng thương. Nhưng đó lại là sự khờ dại ngây ngô của chính bản thân mình từ vô lượng kiếp đến bây giờ khiến cho chúng ta chao đảo với những thăng trầm vô định.

Khi một người sống với nhân cách đạo đức tốt thì phước báu tăng trưởng, giúp họ trở nên giàu có, quyền lực, nhiều người nể trọng. Lúc giàu sang thì muốn thụ hưởng cho thỏa chí bình sinh. Đến khi tất cả mọi sự thụ hưởng trở nên chán chường rồi thì tìm điều gì đó mới lạ, hấp dẫn hơn, có khi đến độ kỳ quặc để thỏa mãn thị hiếu đến độ ngông của mình. Theo thói thường, những điều đi ngược lại với chuẩn mực đạo đức, ít ai dám làm thì lại khiến cho con người ta tò mò, hiếu kỳ, thích thú. Thời xưa, những ông vua càng ăn chơi hư đốn thì càng bạo ngược, hung tàn và hậu quả là mất ngôi. Ngày nay, có người còn ăn cả những động vật đang còn sống theo nhiều cách lạ lùng đến độ người bình thường không dám nghĩ tới, kể ra. Thế mà những vị ăn chơi đến mức này lại cho đó là đẳng cấp, thời thượng. Khi giàu sang, có tiền, có quyền lực, cái tôi bỗng chốc bị ảo tưởng như được phồng to lên và cho mình là trên hết không ai bằng; dương dương tự đắc, buộc ai cũng phải theo ý mình. Xem thường người trên, khinh khi kẻ dưới; đó là điều kiện để những tội lỗi đua nhau phát khởi, dẫn đường đưa lối đến cảnh đọa lạc, khổ đau. Nhẹ thì mất hết tất cả tài sản, danh vọng; nặng thì chìm xuống địa ngục chịu những hành hình đớn đau. Nhận ra sai lầm của mình lúc này thì cũng đã quá muộn. Khi chịu đủ thứ đau khổ rồi mới thấy hối hận, ăn năn; cho nên thường nghe nói: “Địa ngục mang đầy những tâm niệm lành”. Ăn ăn, ân hận bao giờ cũng là một con người đáng thương. Đó là cội nguồn để phát sinh các pháp lành; là tâm niệm tốt để bắt đầu lại cho một cuộc sống hiền lành mai hậu. Khi lỡ tạo ác thì phải thọ quả báo xấu ác. Chưa kịp sửa sai, ôm tâm niệm ấy để xuống địa ngục hành hình, vô cùng ăn năn hối lỗi. Khi quả báo ác kết thúc; vì ôm lòng ăn năn, hối cải đó, cộng thêm một chút phước lành còn sót lại cho nên khi tái sinh trở lại làm người thì sống có tình nghĩa, cao thượng. Nhân cách, đạo đức tốt, sẵn sàng chia sẻ với người khác dù hoàn cảnh của mình còn thiếu thốn, khó khăn. Từ đó, cội phúc dần tăng trưởng, do vậy mà trở nên giàu có. Khi cuộc sống được sung túc dồi dào thì lại tiếp tục buông thả, phóng túng, tạo ác nghiệp để rồi lại phải tiếp tục đọa lạc, khổ đau. Cứ như vậy mà trôi lăn, lặn hụp, ngoi ngóp mãi trong biển khổ sinh tử không ngày cùng.

Của cải vật chất sẽ là mục đích của những người thiếu trí tuệ. Nhưng nó chỉ là phương tiện của những người có hiểu biết, tầm nhìn. Nếu một người giàu sang mà có trí tuệ, người này biết làm những việc cần làm, biết tiêu tiền thông minh, biết cách phân chia tài sản hợp lý, trong đó có phần san sẻ cho những hoàn cảnh còn khó khăn hơn mình. Biết rõ hôm nay có được phương tiện hơn người là nhờ sống đời đạo đức, có phúc cho nên tiếp tục vun bồi. Của cải vật chất chỉ là phương tiện sống, không dính chấp vào nó vì vậy không bị những sai lầm, tạo nghiệp, khổ đau. Chỉ vì không biết như thế, không có trí tuệ dẫn đường do đó kiếp người trở nên lẩn quẩn, không lối thoát; cứ phải bị đau khổ mãi, chưa thôi.

Cho thấy, dù có đi làm từ thiện, phục vụ cộng đồng hay rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức, nhưng thiếu sự bình tâm tĩnh trí thì chỉ có phúc đức nhiều mà thiếu trí tuệ; như người mù mắt đi trong đêm đen, khó tránh khỏi rơi hầm sụp hố. Sự giàu có và quyền uy của hiện đời hay kiếp sau đều nhờ vào phúc báo của những việc tốt do mỗi người tự tạo. Tuy nhiên, tạo phúc nhiều mà không trau dồi trí tuệ thì có khi phúc ấy lại là cội nguồn, động lực và điều kiện cho con người dễ dàng rơi vào lối mòn của những tội lỗi, khổ đau. Biết thế, chúng ta cần khéo cân bằng giữa phúc đức và trí tuệ. Cụ thể, ngay khi thực hành các việc thiện trong bình tâm tĩnh trí sẽ cho chúng ta có trí tuệ, sáng ra nhiều điều; sẽ giúp cho chúng ta thấy biết một cách đúng đắn, không lỗi lầm để phải gánh chịu những quả báo xấu đáng tiếc.

Hôm nay mỗi người tạm có một mái ấm, có những điều kiện tương đối để sống an ổn là do phúc lành mình đã khéo tu tạo từ quá khứ. Chúng ta đang sống trên mỗi tảng băng phúc phần của mình nổi trôi trên biển lớn sanh tử. Nó có thể bị tan chảy bất cứ khi nào, nhấn chìm mình xuống biển nếu không khéo vun đắp. Sống trên phúc mà không biết vun bồi thêm thì có ngày sẽ bị cạn dần và vướn họa. Có phúc mà hưởng một mình không chia sẻ cho ai, buông thả phung phí, không hợp đạo đức thì phúc lành đó có ngày cũng sẽ hết. Phúc hết thì họa lai, đưa đến bao nhiêu họa ương, khổ não. Nếu người biết đủ, biết dùng sự giàu sang của mình để san sẻ cho những người khó khăn, cơ hàn, làm nhiều điều lợi ích cho xã hội thì những lúc ngồi lại một mình, hay về già gẫm lại sẽ thấy mình đã sống đời một cách xứng đáng, hân hoan, không chút ân hận, cõi lòng trở nên nhẹ nhàng, thanh thoát, an vui. Đó là dấu hiệu của một cuộc sống lành mạnh, thanh thoát; kết quả sau này sáng lạng. Mỗi kiếp sống sẽ được kế thừa năng lực sống như thế mà tăng trưởng cho đến ngày viên mãn, trở thành bậc giác ngộ, giải thoát trọn vẹn. Sống được như vậy thì khi đang giúp đỡ người khác cũng là lúc đang làm thành cho chính mình. Đó là nhờ vào sự dẫn đường chỉ lối của bậc thầy trí tuệ sáng suốt ngay nơi bản tâm mỗi người.

Đâu đó vẫn thường có quan niệm “nên sống thuận theo tự nhiên”. Cơ thể này có nhu cầu gì thì cứ đáp ứng một cách đầy đủ. Có tiền thì cứ ăn xài thoải mái, tiêu pha phung phí, mặc sức thể hiện cái tôi. Cũng có một loại hình thuận theo tự nhiên khác là người ta sao thì mình vậy, thuận theo dòng đời chứ không thèm hiểu biết hay nghĩ suy về những điều đạo đức cao thượng hơn làm gì. Nhắc đến vô thường, những mực thước đạo đức hay chân lý thì gạt qua một bên, cảm thấy phiền phức, khó chịu. Nhưng “thuận theo tự nhiên” như thế là chỉ mới biết nhìn nhận và phán đoán mọi vấn đề qua tấm thân xác thịt, những đồng tiền và đống tài sản vô tri; đã bỏ sót quá nhiều ý nghĩa cao thượng hơn trong cuộc sống, thiếu đi tầm nhìn, nhận định đúng đắn, cho đến khi con mắt trí tuệ bừng sáng mới hay ra.

“Thuận theo tự nhiên” có hai khuynh hướng: Có trí tuệ và không có trí tuệ. Nếu có trí tuệ, chúng ta sẽ khéo thuận theo tự nhiên để đạt được mục đích sống đúng chân lý, đạo đức; có tầm nhìn trước về mọi thứ để định hình tốt, khẳng định rõ ràng hướng đi cho mình. Một tu sĩ thì tùy duyên, tùy thời, tùy từng hoàn cảnh mà mỗi mỗi vun bồi cho sự nghiệp giác ngộ giải thoát. Một doanh nhân thì nắm bắt thời cơ để bay cao trên thương trường một cách chân chánh, bền vững. Một nhiếp ảnh gia sẽ biết chờ đợi và chụp lấy những khoảnh khắc vàng để có một tác phẩm độc đáo. Một người lái thuyền biết đợi gió đổi chiều mới căng buồm lên để đến đích như ý muốn... Đó là nhờ có trí tuệ để biết tùy thuận theo tự nhiên một cách chủ động, để thành tựu chí nguyện của mình; là biết cách thuận theo tự nhiên theo hướng tích cực, thành công. “Sông có khúc, người có lúc”. Người còn đang trên đường công phu tu tập thì có khi như đã giải thoát đến nơi, nhưng có lúc lại gặp vô vàn chướng duyên trở ngại. Người thế gian thì có khi mọi chuyện thuận buồm xuôi gió, nhưng có lúc lại lẩn quẩn, khốn cùng. Những lúc thất bại, bế tắc, khó khăn thì trí tuệ sẽ là vị thầy cứu mình kịp thời; sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện, tổng quát, đúng đắn hơn về mọi mặt; cho ta lối thoát. Có trí tuệ sẽ biết rằng, thành công hôm nay cũng có thể là nhân tố của sự thất bại ngày mai nếu không biết nỗ lực mà ngủ quên trên chiến thắng. Gặp lúc thất bại, không thuận duyên thì trí tuệ sẽ cho chúng ta biết rằng, bại thành, được mất... đều do chính mình gây tạo. Nếu khéo đứng vững, làm lại thì ngày mai sẽ khác hơn.

Còn sống “thuận theo tự nhiên” theo kiểu trôi theo chiều gió, nước lên bèo lên... thì thiếu trí tuệ làm đạo sư dẫn lối. Khi thuận buồm xuôi gió thì huênh hoang tự đắc, sống phóng túng buông thả. Đến khi mọi thứ vuột khỏi tầm tay, đối diện với những khó khăn, trở ngại dồn dập thì chán chường, rệu rã, than thở, trách móc, vật lộn với khối phiền não rối bời. Tự mình đã khổ, có khi làm khổ đến cả những người chung quanh; cũng bởi “thiếu thầy trí tuệ dẫn đường”.

 

II. Giá trị và tầm quan trọng của trí tuệ.

Đức Phật dạy, thiếu ăn, thiếu mặc, làm người đói rét bần cùng, tuy có đau khổ nhưng vẫn chưa được gọi là khổ. Làm thân trâu ngựa mang vác, kéo cày, bị người hành hạ đánh đập cũng chưa gọi là khổ. Thậm chí đọa vào địa ngục chịu muôn vàn cực hình cũng chưa được gọi là khổ. Vô minh không biết lối đi mới là Đại khổ. Bởi tất cả các khổ lớn triền miên, chúng sanh phải gánh chịu mãi trong sanh tử đều từ vô minh mà có.

Vô minh là không sáng suốt, mê lầm, thiếu sự dẫn dắt của trí tuệ. Thiếu trí tuệ, cuộc sống không có định hướng, từ đó gây ra biết bao lỗi lầm, sai trái để rồi đồng loạt có ra tất cả những nỗi thống khổ khác. Hai chữ “vô minh” nghe qua có vẻ như không có gì đến nỗi nghiêm trọng cho lắm, nhưng đó lại là nguồn cơn đưa đến ngục tù vô hình đáng sợ nhất. Liên tục giam cầm, hành hình chúng sanh phải chịu bao đớn đau, thống khổ cho đến khi đủ duyên được đánh thức, nhận ra. Bởi lẽ vô minh khiến cho con người không biết mình đang bị giam hãm, cầm cố bởi sự vận hành, điều khiển, đồng hóa lý trí của nó. Không còn hay biết thì làm sao nhận biết mà thoát ra được.

Ngoài ánh sáng trí tuệ, không gì có thể dẹp trừ được bóng tối vô minh. Chỉ cần thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, màn đêm vô minh từ vô lượng kiếp đến giờ bất ngờ tan biến. Mới thấy tầm quan trọng của trí tuệ đối với kiếp người là quan trọng đến mức nào. Nếu được chư Phật phù hộ cho chúng sanh, đức vua Trần Thái Tông không mong cầu gì khác, ngài chỉ khấn nguyện lên mười phương chư Phật: “Huy huệ cự ư hôn cù, Phiến từ hàng ư khổ hải” Nghĩa là: “Soi đuốc tuệ vào chốn tối tăm, rong thuyền từ vào nơi biển khổ”. Vua Trần Thái Tông, một vị vua ngộ đạo của Việt Nam đã thấu tột vai trò, tầm quan trọng và sự cần thiết của trí tuệ cho nên ngài không cầu xin gì khác, chỉ nguyện cầu chư Phật chèo thuyền từ bi vào nơi biển khổ sanh tử để soi rọi ánh sáng trí tuệ vào những chốn còn mê mờ, thiếu trí tuệ, tối tăm. Người có trí tuệ như có con mắt sáng, thấy rõ, thấu suốt cùng khắp, không bị sai lầm, khổ não. Đức Phật dạy: “Tài sản lớn nhất của đời người là trí tuệ”. Kinh Pháp Hoa đã khẳng định: “Một nhân duyên lớn đức Phật hiện ra nơi đời là để chỉ bày cho chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến”. Tức là chỉ bày cho chúng sanh nhận ra và sống bằng cái “thấy biết Phật”, trí tuệ Phật nơi mỗi người. Người tu Phật thì lấy trí tuệ làm sự nghiệp, ngoài ra không phải là bất cứ một điều gì khác. “Duy tuệ thị nghiệp”, đó là thước đo của những bậc xuất trần thượng sĩ. Nếu người tu hành không nỗ lực trau dồi học hỏi, không hạ thủ công phu quyết liệt để vun bồi, tăng trưởng trí tuệ mà lo làm bất kỳ việc gì khác thiếu liên quan thì rõ ràng đó là chưa biết cách học Phật, tu Phật đúng nghĩa. Nếu thế, không những cô phụ chính mình, thiệt thòi cho chí xuất trần của mình mà còn làm băng hoại đạo lý cao siêu mầu nhiệm. Xã hội càng văn minh, phát triển, con người càng có nhiều thứ để trang sức cho cuộc sống của mình. Nhưng người tu hành bao đời vẫn chỉ có một thứ trang sức duy nhất để trang nghiêm cho mình, tối thượng không có gì sánh kịp đó là phước đức và trí tuệ. Hình ảnh đầu tròn, áo vuông chưa đủ để làm nên một người tu hành đích thực, mà chính đức hạnh cùng trí tuệ sáng ngời mới tạo nên một bậc thượng sĩ xuất trần. Đức Phật là bậc “lưỡng túc tôn”, là bậc có phước đức và trí tuệ tròn đủ. Học Phật, tu Phật để thành Phật. Nếu đã đủ duyên hướng về đạo lý giác ngộ cao thượng, có lẽ không thể có gì khác hơn là mỗi mỗi sinh hoạt trong cuộc sống, chúng ta phải luôn luôn nhắm thẳng đến trọng tâm này để trau dồi hai yếu tố trên thì mới có ngày đạt đến viên mãn như Phật.

C. ĐỊNH NGHĨA CHUNG VỀ TRÍ TUỆ. Thấy rõ, nhận ra, hay ra.

Trí tuệ trước tiên là sự thấy biết đúng đắn về sự vật, sự việc, hiện tượng, không bị lầm lẫn bởi sự tác động của một điều gì khác khiến cho bị thiên lệch, thiếu chính xác, sai đi. Cho nên nghĩa chung ban đầu của trí tuệ tạm gọi là thấy rõ, hay ra. Muốn thấy biết đúng đắn bằng trí tuệ, không bị sai lệch thì ít nhất là không nên thấy biết, nhận định qua cảm xúcđịnh kiến (chấp trước theo một điều gì đó đã được định sẵn có tính chủ quan).

Khi chúng ta thông qua cảm xúc để đánh giá, nhận định một con người, sự vật, hiện tượng thì sự nhận định đó đã bị bóp méo, không đúng với sự thật ban đầu. Giả sử như ghét một ai đó, con người thường có xu hướng xoáy sâu vào những điều xấu của họ. Người đó có làm bất cứ điều gì tốt đến đâu, chúng ta cũng không cho là tốt. Nhưng nếu người đó làm hài lòng mình thì việc gì của họ trong mắt mình cũng đặc biệt cả. Đến cả những việc trước đây mình cho là xấu thì bây giờ cũng trở nên đúng đắn và tốt đẹp.

Mặc khác, con người thường hay có những quan niệm hay một quan điểm trước về vấn đề nào đó, và rồi khư khư cho đó là đúng đến mức cố chấp, chủ quan (định kiến). Hễ ai xúc phạm vào, làm ngược lại định kiến ấy thì liền cảm thấy khó chịu, khó chấp nhận những định nghĩa hay quan niệm khác. Đây là do chấp chặt vào những thấy biết đã được định sẵn. Do sự chấp chặt về thấy biết mà cái nhìn sáng suốt đã bị khúc xạ, bóp méo theo sự nhận định của cá nhân mình, không còn đúng đắn, thiếu trí tuệ. Ví dụ có người buổi đầu đến với đạo được nghe quý thầy dạy định nghĩa: “Phật là đấng giác ngộ hoàn toàn cho mình và mọi người” rồi khư khư ôm lấy kiến thức ấy trong đầu cho đó là Phật, không thể khác. Đến khi tu tập đã nhiều năm, được quý Thầy chỉ cho rằng “Phật là tự tánh giác ngộ sẵn đủ nơi mỗi người” thì vị này đột nhiên cảm thấy khó chịu, khó chấp nhận, thậm chí không thể chấp nhận. Mới thấy, nếu nhìn nhận mọi thứ thông qua định kiến thì trí tuệ sẽ bị hạn chế, lu mờ.

I. Thế gian.

Ở thế gian, muốn có trí tuệ để giải quyết một sự việc gì thì trước hết là không được nôn nao, vội vàng tin theo một điều gì đó. Nôn nao, tin vội đó là thông qua cảm xúc chứ chưa bình tâm để có đủ lý trí, thấy rõ, thấy ra mọi việc một cách trọn vẹn, đầy đủ. Cảm xúc do hoàn cảnh tác động mà có ra cho nên luôn luôn thay đổi. Nhưng trí tuệ thì tồn tại, không đổi thay. Nếu nhìn nhận và hành xử bằng cảm xúc thì mọi việc sẽ theo sự thay đổi của cảm xúc mà đổi thay; chưa có quyết định đúng đắn, sẽ đưa đến hối tiếc, ăn năn, ân hận, tội lỗi, khổ đau. Sự bình tâm sẽ có trí tuệ để thấy rõ vấn đề, giúp cho chúng ta nhìn nhận sự việc một cách khách quan, đúng chân lý.

Ngày nay, nhu cầu sử dụng mạng xã hội của con người càng lúc càng gia tăng. Nhiều người thường lượm lặt những thông tin trên đó để lấy làm kiến thức cho mình rồi chia sẻ, lan rộng mà ít có người tỉnh táo để nhìn nhận liệu thông tin đó có thực sự đúng đắn hay chưa. Những thông tin từ mạng xã hội có khi chưa được kiểm chứng, sàng lọc, chưa hẳn đã chính xác. Tin vào mạng xã hội một cách quá vội vàng, chưa qua nhìn nhận rõ ràng để chọn lọc như thế, vô tình tự đẩy mình vào tư thế quá lệ thuộc, quá mất mình, để trí tuệ con người bị chôn vùi một cách đáng tiếc, gây ảnh hưởng xấu khó lường cho mình và nhiều người khác.

Khi hâm mộ, thần tượng ca sĩ nào đó, quý vị trẻ thường học đòi theo một cách thái quá, đánh mất chính mình. Thấy tóc người đó nhuộm vàng mình cũng nhuộm theo. Thấy chiếc quần người kia rách gối mình cũng móc một lỗ trên chiếc quần jeans của mình. Chẳng khác nào thấy Tây Thi đau bụng nhăn mặt càng đẹp ra, Chung Nhu Diệm bắt chước nhăn theo thì mọi người trông thấy tưởng là quỷ hiện, tháo chạy trốn chết. Câu chuyện cổ tích đã xưa, hóa ra lại là câu chuyện muôn đời của những người không có chánh kiến. Bắt chước trọn vẹn từ kiểu đứng, dáng đi, lời nói và cả trong nếp nghĩ, tư duy mà thiếu sự bình tâm tĩnh trí để thấy rõ mọi điều một cách đầy đủ nhất. Là một ca sĩ hát hay, nổi tiếng thì chỉ có chất giọng thiên phú, kỹ thuật tốt chứ họ chưa hẳn là bậc minh triết cho một hướng đi đúng đắn của đời mình. Nếu biết bình tâm tĩnh trí, người ấy sẽ có trí tuệ sáng suốt để nhìn nhận, thấy ra mọi thứ một cách đầy đủ, rõ ràng, không bị nhầm lẫn, ngây dại đến ngông cuồng như thế.

Đến như việc muốn chọn một chân lý để có hướng đi cho đời mình kể cả tu tập Phật đạo, đức Phật dạy đừng vội tin bất kỳ điều gì do nhiều người nhắc đến, do lịch sử ngàn xưa để lại, do người đó là nổi tiếng, hay đó là đấng giáo chủ..., thậm chí đến cả điều đó là từ kim khẩu của ngài nói ra (Xem thêm mười điều chớ vội tin). Hãy tin những điều sau khi nghe kỹ, suy xét, tư duy, bình tâm tĩnh trí để nhận ra điều đó có lợi cho mình, cho mọi người, mang đến sự an lạc, giải thoát cho đời này, đời sau. Đức Phật dạy ba môn huệ học là Văn – Tư – Tu: Đầu tiên là nghe, học hỏi giáo lý; tiếp theo là suy nghĩ, tư duy để thông suốt, nhận ra đúng sai rõ ràng; và cuối cùng là ứng dụng thực hành công phu tu tập để đạt đến chân lý ấy.

Xưa kia, ông Hàn Dũ làm quan ở Triều đình thường dùng đủ điều để chê bai Phật pháp. Khi được Thiền sư Đại Điên khai thị, ông liền đổi ý và xin quy y. Thiền sư Đại Điên nói: “Tôi nghe người dễ tin thì điều chấp giữ của họ cũng dễ bị thay đổi (không có lập trường). Người dễ khen ngợi thì việc phỉ báng của họ cũng rất dễ phát sinh. Ông vừa nghe lời của tôi mà dễ dàng vội tin như vậy, biết đâu khi ông nghe điều khác lạ, chẳng lại cho ta là sai quấy hay sao?”

Người vội tin thì cũng vội vàng thay đổi; dễ dàng tán thán khen ngợi rồi cũng sẽ nhanh chóng đổi ý phỉ báng chê bai. Chỉ có tĩnh trí bình tâm, sau khi nhận ra vấn đề một cách thấu đáo rồi mới quyết định, thì dù có trời long đất lở cũng không dễ làm cho sự thấy biết của người này bị đổi thay. Bởi đây là sự thấy rõ, nhận ra từ trí tuệ chứ không phải vội vàng, hấp tấp đua đòi theo bên ngoài, hay do sự quyết định nhất thời qua cảm xúc; hoặc định kiến chủ quan.

II. Học đạo, tu tập.

Đối với người tu hành thì cần nhìn nhận rõ ràng, thấy đúng qua các phạm trù cơ bản: thân, tâm sanh diệt và mọi thứ chung quanh từ của cải vật chất cho đến hoàn cảnh chúng ta đang sống.

Dù có chấp nhận hay không thì cuộc đời này bản chất của nó vốn là vô thường, không bền chắc. Nay còn, mai mất, không phải là nơi chắc chắn an ổn bền lâu để chấp trước, dính kẹt vào. Có người vừa gặp ban sáng vẫn đang nói cười vui vẻ, chiều lại nghe tin đột ngột qua đời. Trong từng giây phút, những tế bào trong cơ thể mỗi người đang chết đi và được thay thế bằng những tế bào lão hóa khác. Rõ ràng quỷ dữ vô thường đang từng giây từng khắc bào mòn sự sống của con người. Khổ đau có ra vì không chấp nhận sự thật vô thường mà luôn chấp trước mọi thứ để rồi khi nó xảy đến thì hụt hẫng, bất lực, bế tắc, khủng hoảng, chơi vơi. Biết rõ, thấy rõ như thế để chúng ta biết cách vượt qua, hướng đến chân trời cao rộng. Thiền sư Minh Chánh nói:

Công danh cái thế màn sương sớm

            Phú quý kinh nhân giấc mộng dài

            Chẳng rõ xưa nay không một vật

            Công phu luống uổng một đời ai.

  Công thành danh toại đến mức che trùm cả thế gian đi nữa cũng chỉ như màn sương sớm, ánh dương lên liền tan biến, có gì còn? Giấc mộng của một đêm là giấc mộng ngắn, cuộc đời là giấc mộng dài. Dù ngắn hay dài, cũng đồng là một giấc mộng. Giàu sang đến mức mọi người nghe đến phải giựt mình, nhưng cũng chỉ như giấc mộng đêm qua. Thức giấc, tìm lại, được gì? Muôn sự muôn vật ở thế gian chưa thoát khỏi vô thường chi phối; tạm bợ, biến hoại, không chắc thật. Kiếp người rồi thoáng qua nhanh, nếu không khéo tranh thủ công phu tu tập để nhận chân mặt mày thật nơi chính mình thì sống uổng một đời trôi suông đáng tiếc!

Là người học đạo, cần nhận ra sự thực như thế để không bị đắm mình vào những cám dỗ của địa vị, danh vọng, lợi dưỡng; để thấy rõ một cách xác quyết rằng, chỉ có sự tu hành nhận ra chân lý rốt ráo tối thượng mới là mục đích tối hậu. Thấy biết như vậy mới có thể chuyên tâm, nhất ý, vững chãi đi trên con đường giác ngộ, giải thoát. Được vậy mới có được cái nhìn xuyên suốt, viên dung từ trí tuệ.

1/ Thân này. 

Bậc cổ đức nói:

            “Ngô sỡ dĩ hữu đại hoạn giả, vị ngô hữu thân. Cập ngô vô thân, hà hoạn chi hữu”. Nghĩa là: “Ta sỡ dĩ có họa lớn bởi vì ta có thân. Nếu như không thân thì họa từ đâu mà có!”

Ngược xuôi muôn nẻo kiếm kế sinh nhai cũng để nuôi dưỡng thân này. Lắm điều rắc rối cũng bởi có thân. Thân là đầu mối của tất cả những rối rắm trên đời. Có thân là có họa. Không thân thì không họa nào có cả. Vậy, bằng cách nào để được “không thân?”. Là “không có thân này mới là không thân” hay “có thân này, đang tồn tại mà vẫn là không thân”?

Nếu “không có thân” mới là “không thân” thì không lẽ phải tự sát, phải hủy diệt tấm thân này đi để được an vui, giải thoát sao? Nếu thế thì không ai chấp nhận và đức Phật cũng không cho phép. Ngài dạy, ai tự hủy hoại thân mình là phạm trọng tội sát sanh. Hơn nữa, tuy thân mất đi nhưng nghiệp vẫn còn. Tự sát là đã tạo thêm nghiệp, mang trọng tội mới; là nghiệp chồng thêm nghiệp, đau khổ lại càng thêm khổ đau.

Nếu cho rằng “có thân mà vẫn không thân” thì chưa rời thân này mà nói, là còn vướn kẹt trên thân cho nên vẫn còn bị chi phối, khổ đau. Rốt cuộc, “không thân để được không thân” cũng không phải, “có thân mà vẫn không thân” cũng không xong; vậy phải làm sao để không còn bị chi phối, hết khổ?

Không cần bàn đến nhất định là phải hoặc không có thân. Chỉ cần thấy đúng, hay ra bản chất thật của thân này là giả có, tạm có, không thật. Như bóng trăng dưới nước, nhìn thì thấy có, vớt thì không. Thấu suốt một cách sâu sắc và mạnh mẽ như vậy thì mọi thứ làm sao chạm đến “cái rỗng tuếch” như bóng trăng trong nước được. Vớt đã không được thì mọi thứ bám vào đâu để làm khổ mình? Mà rõ ràng là tấm thân này có gì chắc chắn đâu mà bảo là thật? Loay hoay liền hết kiếp người, có đó rồi mất đó. Khi đang có cũng không tìm ra được một cái gì là chính yếu chủ đạo làm nên nó, mà chỉ là duyên hợp, gom nhiều thứ tụ lại thì tạm gọi là có, tan rồi thì thôi. Hằng ngày có thể trách giận ai đó không thể nhìn được mặt nhau. Đến khi họ trong cơn nguy kệch sắp qua đời thì tự nhiên dễ dàng bỏ qua hết tất cả mọi thứ. Sự sống mong manh, thân này tạm có, không chắc thật. Đó là sự thật, ai cũng biết. Nhưng phải có trí tuệ mới dám thấy biết một cách tường tận sâu xa về sự thật này. Nếu luôn thấy biết rõ ràng, sâu xa, mạnh mẽ và dứt khoát như vậy thì không có gì quan trọng đối với mình cả. Vậy thì đâu có ai hay cái gì có thể làm cho chúng ta khổ được? Thấy rõ, nhận ra được như vậy là trí tuệ thấy; nhờ có trí tuệ mới thấu suốt được lẽ thật của cuộc đời. Hằng thấy biết rõ ràng như vậy trên mọi sinh hoạt trong cuộc sống thì mới có lúc nhân duyên chín muồi cho trí tuệ chân thật bừng sáng, hiển lộ rõ ràng, đầy đủ lực dụng cho chúng ta làm chủ cuộc sống, dứt khổ, mãi mãi an vui.

Thấy biết rõ ràng như vậy sẽ không còn phiền não bởi những chướng ngại về thân; để không chìu chuộng theo những đòi hỏi của nó thái quá khiến phải tạo nghiệp, chịu khổ. Hơn nữa, nhờ có trí tuệ thấu tột lẽ thật như thế cho nên không còn chấp thân; khéo nương vào thân này để tu tập, vun bồi phúc đức, trí tuệ, lần tiến đến giác ngộ giải thoát, dứt hẳn khổ đau.

2/ Tâm sanh diệt (những niệm tưởng nghĩ suy trong đầu).

Con người thường sống bằng suy nghĩ, không suy nghĩ thì sợ hãi, như là không còn có mình cho nên đã chấp vào những niệm tưởng suy nghĩ này cho là thật, ai đụng đến quan điểm của tôi thì không thể chấp nhận. Nhiều ý tưởng đúng trái chiều thì xảy ra tranh đấu, đưa đến khổ đau. Nhưng sự thật, bản chất thật của những nghĩ tưởng kia có cố định đúng và chắc thật như mọi người vẫn nghĩ hay không?

Vừa đang đùng đùng nổi giận thằng con, bất ngờ phát hiện người thân xa cách rất lâu từ nước ngoài về thăm nhà, chúng ta mừng rỡ và cười liền. Khi còn trẻ thấy như vậy là đúng, nhưng đến già mới nhận ra đó là sai. Những sự cố hay sự kiện vĩ đại của hôm nay, nhưng ngày sau nó chỉ còn là truyền thuyết hoặc câu chuyện cổ tích. Quan điểm đúng của lãnh thổ này chưa chắc đã là văn hóa đúng của đất nước khác... Cho thấy, những niệm tưởng suy nghĩ của mình do thói quen, địa lý, cuộc sống, xã hội, trạng thái tâm lý, sức khỏe... và rất nhiều thứ khác tác động, chi phối mà hình thành, có ra. Nhưng những thứ kia lại không cố định, vô vàn thay đổi. Bản chất của những thứ làm nên tâm sanh diệt này vô cùng mong manh, đổi thay, vô thường, sanh diệt, mâu thuẫn lẫn nhau, không nhất quán... thì thử hỏi kết quả của nó là những nghĩ suy của con người làm sao xác quyết là chắc thật được. Vậy mà con người vẫn cho là thật cho nên lắm điều rắc rối, khổ não có ra. Chỉ cần biết đúng bản chất thật của tâm sanh diệt này là không cố định, mang tính chất tương đối, không chắc thật thì mọi chuyện trên đời đối với mình đã trở nên đơn giản và nhẹ nhàng hơn rất nhiều.

“Theo tôi nghĩ vấn đề này là như vậy”, chứ đừng tiêu cực bắt buộc người khác phải suy nghĩ như mình. Đó là biết nhìn nhận khách quan. Theo tôi thấy như thế này, nhưng anh thấy khác, đó là suy nghĩ của anh, tôi tôn trọng. Đó là người biết tôn trọng chân lý. Hai “suy nghĩ đúng” không giống nhau, nhưng lại rất giống nhau bởi “nó đều là tạm bợ”, không quan trọng. Thấu suốt sự thật như thế thì đâu có gì rắc rối? Còn nếu cho nó là thật rồi cố chấp, chạy theo thì làm cho nó càng mạnh hơn, sẽ khiến cho chúng ta trở nên căng thẳng, mất năng lượng, mất định tĩnh sáng suốt, khiến cho mọi việc trở nên tồi tệ, các khổ não từ đó có ra. Thấy rõ vọng tưởng (tâm sanh diệt) là huyễn hóa không thật, chúng ta không cố chấp, không thèm theo thì sẽ bớt đi sự chi phối, khổ đau, tiến dần đến chân lý tối thượng dứt khổ, an vui. Người có trí tuệ sẽ “thấy rõ, nhận ra” được như vậy.

3. Các pháp (muôn sự, muôn vật chung quanh).

Phạm trù thứ ba đang chi phối toàn bộ cuộc sống của mọi người là muôn sự, muôn vật (các pháp). Nếu chấp cho nó là chắc thật, bền lâu thì sẽ sống nặng về vật chất, các sai lầm từ đây có ra, đưa đến nhiều đau khổ cho mình và mọi người. Người xưa nói: “Một đời ta ba đời nó”. Nghĩa là vật chất không quan trọng hơn mình. “Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn”, cũng là nhắc thức cho biết đừng nên quan trọng vào vật chất thái quá. “Bỏ của chạy lấy người”, “của đi thay người”, hay “mình còn là còn tất cả”... Đó đều là những lời nói nêu rõ bản chất thật của mọi thứ chung quanh đều huyễn hóa, tạm bợ, phù du. Tự trong sâu thẳm mỗi người ai cũng thầm biết, nhưng có không ít người chưa một lần thấy rõ, thấu suốt, biết mạnh cho nên đâu đó chúng ta vẫn còn quan trọng mọi thứ, do đó mới bị chiêu ương, vướn họa, trả giá cho những sai lầm. Chỉ cần tự mình thấu suốt, thấy rõ, nhận ra một cách tường tận, mạnh mẽ bản chất thật của các pháp (mọi thứ chung quanh) là không thật thì không có gì quan trọng với mình cả. Mọi thứ không còn đủ sức chi phối, chúng ta làm chủ thật sự thì các họa tự trừ. Vẫn sống, vẫn sinh hoạt, làm ăn, nhưng mình tự chủ, không còn bị mọi thứ bên ngoài trói buộc cho nên bớt đau khổ, được an vui. Mới hay ra, vật chất, cuộc sống này không có gì lỗi cả, lỗi là tại con người không làm chủ chính họ mà thôi. Thấy rõ một cách sâu xa như vậy là trí tuệ thấy.

III. Tóm lại. 

1/ Tóm kết chung. 

“Thấy rõ, nhận ra” xem chừng như đơn giản, nhưng nếu ai xét kỹ, hay ra thì mới cảm nhận hết giá trị của nó, mới dứt trừ được lỗi lầm, sống đời ý vị, lợi ích cho chính bản thân, mọi người và xã hội.

Như trên đã nói, cái khổ lớn nhất của đời người là do vô minh. Vô minh có ba nghĩa chính: Không sáng suốt; không nhận rõ tự tánh; và chấp thân tâm sanh diệt là thật. Đồng nghĩa, nếu sáng suốt, không còn thấy thân, tâm sanh diệt là thật thì không còn vô minh. Cũng có nghĩa, khi thấy nó là huyễn hóa không thật thì đó là nhờ vào trí tuệ mới cho chúng ta có khả năng thấy biết như vậy. Biết thế, chúng ta cần nhận rõ, thấy ra sớm hơn để không bị quá muộn và phải trả giá tan thương không đáng có.

Khi đang còn khỏe, còn tỉnh táo, thì phải mạnh mẽ thấy ra kịp thời để còn thời gian tu hành, để vượt ra khỏi biển khổ sanh tử chứ không phải chờ đợi đến lúc già yếu, suy hoại, thất bại ê chề mới nhận ra thì mọi việc đã quá muộn. Nếu tầm nhìn chỉ hạn cuộc trên thân thể vật chất này thì không thể nào nhận ra được bản chất thật của nó là huyễn hóa, không thật. Nhờ có trí tuệ mới dám thẳng thắng thấy rõ rằng: thân này, tâm sanh diệt và các pháp đều là giả, không thật. Nhờ vậy mà chúng ta không dính chấp vào mọi thứ; không bị bất cứ điều gì chi phối, che lấp trí tuệ thấy biết như thật của mình. Và thấy rõ, biết rõ như vậy là cái thấy, cái biết của trí tuệ – trí tuệ thấy.

2/ Cái thấy biết của trí tuệ ở đây như thế nào?

Giả sử khi đưa bàn tay lên thì chúng ta thấy có bàn tay. Khi hạ bàn tay xuống khuất đi rồi thì chúng ta không còn thấy có bàn tay. Nhưng “cái thấy” của chúng ta vẫn đang hiện tiền rõ ràng, không bị mất đi, không bị sự biến dịch có và không của bàn tay làm cho lưu chuyển thay đổi theo.

Có và không, còn và mất đó là bàn tay, là ví dụ cho tất cả các cảnh duyên bên ngoài. Còn cái hay thấy nơi mỗi người thì luôn thấy, hằng thấy biết, không phải đợi có cảnh duyên mới thấy biết, không phải thấy biết theo hoàn cảnh cho nên nó hằng hiện hữu, không mất. Cảnh duyên thì có sinh có diệt, cuộc đời có lúc thịnh lúc suy, thân này khi khỏe khi mạnh, kiếp sống có sanh có tử, nhưng tự tánh thấy biết nơi mỗi người thì sẵn đó, không bị biến hoại mất đi theo bất kỳ thứ gì bên ngoài. Bàn tay đưa lên đang thấy, đang tồn tại hay giấu khuất đi là ví dụ cho sự sanh diệt, còn mất của các pháp trần; mà cụ thể là sự sanh diệt của thân, của tâm sanh diệt và mọi thứ chung quanh. Đời người, muôn vật có thể sanh diệt, còn mất, có hợp có tan, nhưng cái thấy biết rõ ràng không động này vốn không sanh diệt mà luôn hằng hữu. Sự tồn tại của chúng chỉ là sự hiện hữu trong tự tánh trí tuệ vắng lặng tròn đầy của mỗi người. Đây là điều chân thật duy nhất ở trong vô thường mà luôn có năng lực vượt khỏi sự chi phối của sanh diệt vô thường trong vạn vật. Đó chính là trí tuệ đang hiển lộ rõ ràng nơi mỗi con người.

Nếu thấy rõ bản chất thật của thân này, tâm sanh diệt và muôn sự muôn vật là huyễn hóa, tạm có, không thật thì chúng ta không còn bị dính mắc, chi phối. Ngay đó không rời mọi thứ mà đã tự lìa (vì không còn bị chi phối) thì tự tánh giác sáng thấy biết hiện tiền, thấy biết mọi thứ bằng trí tuệ chân thật. Từ trí tuệ này mà sáng biết trên mọi sinh hoạt trong cuộc sống, sẽ được tự chủ, bớt khổ, an vui.

3/ Với hành giả dụng công tu tập.   

Có người hoài nghi và hỏi: Khi tọa thiền thấy vọng tưởng nhiều hơn khi đi làm các việc khác. Như vậy có phải do ngồi thiền cho nên bị vọng tưởng nhiều hơn hay không?

Ví như có người đi trong đêm đen không trăng sao hay đèn đuốc gì, chỉ thấy một màn đêm đen kịt. Bất ngờ mây tan, trăng hiện thì liền thấy mọi thứ rõ ràng dưới ánh trăng vằng vặc, không nhầm lẫn. Trước khi ánh trăng xuất hiện thì mọi thứ vẫn đang tồn tại, nhưng vì không có ánh sáng cho nên dù đang có mà không thấy, chứ không phải là không có. Và khi mây tan trăng hiện thì nhận ra vạn vật đang hiện hữu chứ không phải do ánh sáng sanh thêm ra nhiều hơn. Ánh trăng ví dụ cho trí tuệ. Không ánh trăng, trong bóng tối chỉ thấy mọi thứ cùng một màu đen, là ví dụ cho vô minh. Khi chúng ta ngồi thiền thấy vọng tưởng nhiều hơn bởi lẽ khi ngồi an định, lắng trong, ánh sáng trí tuệ hiển lộ giúp cho chúng ta thấy rõ ràng những vọng niệm đang tồn tại, không mê mờ hay nhầm lẫn, không theo. Người mê thì chấp cho đó là thật và lao theo, tạo nghiệp, thọ khổ. Chúng ta dám thấy ra, biết rõ đó là vọng tưởng, không thật, không theo, đó là có trí tuệ mới dám thấy biết như vậy; là nhờ ánh sáng trí tuệ mới thấy rõ như thế. Còn khi đi làm nhiều việc khác mà thấy ít vọng niệm hơn là do chúng ta bị vọng niệm đồng hóa. Mình đang bị chìm mất trong vọng động nên ít thấy rõ vọng tưởng hơn. Khi làm việc, đối duyên, xúc cảnh dính mắc chính là lúc đang huân những vọng niệm vào kho của tâm thức. Sống trên vọng, sinh hoạt trên vọng khiến cho vọng càng thêm mạnh và nhiều, che khuất, chôn vùi vầng trăng trí tuệ chính mình thì làm sao phát hiện ra được vọng tưởng?

Trong quá khứ do không khéo tu hành cho nên khi đối duyên xúc cảnh đã huân tập các chủng tử nghiệp thức. Hôm nay nếu chưa biết tu thì tiếp tục chạy theo, làm theo những gì nó sai sử, vô tình lại một lần nữa đồ thêm, tô thêm cho đậm nét hơn, nuôi dưỡng lớn mạnh hơn hạt giống nghiệp thức này. Thuật ngữ chuyên môn nhà Phật gọi là: “Chủng tử khởi hiện hành, hiện hành huân chủng tử”. Từ hạt giống nghiệp thức đã được huân tập từ quá khứ khởi lên, thôi thúc con người làm theo quán tính, là chạy theo lối mòn tâm thức, không tự chủ; đó là “Chủng tử khởi hiện hành.” Khi hạt giống nghiệp thức khởi vọng niệm xúi dục, con người chúng ta lao theo, làm theo, là thêm một lần nữa tô đậm và huân sâu hạt giống ấy vào trong kho của nghiệp thức (tàng thức); gọi là “hiện hành huân chủng tử”. Để rồi kiếp sau tiếp tục tái diễn cho những kiếp về sau nữa. Cứ thế tiếp diễn, xoay vòng lẩn quẩn như kiến bò miệng chén, mỗi kiếp càng thêm nặng dần chủng tử nghiệp thức, càng gia tăng sự mê mờ của vô minh, trí tuệ do đó cũng bị lu mờ và nổi khổ theo đó mà chất chồng, không có ngày thoát.

Nếu người biết rõ đường tu, ngồi thiền, có trí tuệ, thấy rõ những niệm khởi là vọng tưởng hư dối, không thật. Nó chỉ là những dòng nghiệp thức sinh diệt, không đáng phải theo thì chặt đứt được mắt xích của vòng tròn lẩn quẩn. “Chủng tử khởi hiện hành” là vọng niệm dấy lên, nhưng mình không theo thì ngay đó hiện hành liền tan chứ không huân lại vào trong kho của chủng tử nghiệp thức nữa (hiện hành không huân chủng tử). Vì vậy khi ngồi thiền thấy vọng tưởng nhiều hơn đó là do trí tuệ nên mới thấy ra. Nó là vọng tưởng, bản chất không có gì thật. Nếu theo vọng mới thành sự. Không theo thì nó sẽ yếu dần. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, mặt trăng trí tuệ chân thật nơi mình bừng sáng, tan biến đêm tối vô minh, vọng tưởng tự vắng bặt, dứt sạch khổ đau. Đó là con đường tu tiến rõ ràng, không có gì phải nghi ngờ lo sợ cả. Chưa bàn đến năng lực giác ngộ lớn lao, khi chúng ta thấy rõ tường tận một cách mạnh mẽ sâu sắc những niệm tưởng vốn nó là vọng tưởng, huyễn hóa, không thật thì đó đã là trí tuệ, là do có trí tuệ mới dám thấy biết như thế; là điều đáng mừng, không phải ai cũng dám gan dạ, đủ phúc duyên để thấy suốt tột được như vậy.

Tóm lại, mỗi một chúng ta chỉ ở một trong hai mặt: Mê hoặc giác. Còn trong vô minh, mê mờ, lầm chấp cho nên chịu các khổ não. Nhận ra bản tâm, tỏ ngộ bản tánh thì sống trong ánh sáng giác ngộ. Một khi đã nhận ra và sống bằng bản tâm chân thật rồi thì vọng niệm vốn không. Nhưng chưa được như thế, còn mê thì mọi thứ tạm thời còn. Vọng niệm có khi nhiều, có khi ít. Ngồi thiền có khi thì an định, khi thì loạn động. Công phu đôi lúc sáng rỡ, rõ ràng, nhưng có khi bị hôn trầm, loạn tưởng. Khi còn trong mê, chưa ngộ thì tất cả những hiện tượng đó nó còn tồn tại, đó là điều tất yếu, cũng là chuyện thường, không có gì phải lo ngại, băn khoăn về nó nhiều quá. Điều duy nhất chúng ta cần làm trong giai đoạn này là không theo vọng niệm; chỉ là sáng biết rõ ràng mà không phải biết về hay biết theo đuôi vọng niệm thì ngay đó liền là giác sáng, là sống về, khế hợp với tự tánh giác. Nhiều ngày như vậy, công phu thuần thục, khi sức giác này đủ lớn, căn thức khiến chúng ta mê lầm sẽ tự động bị yếu đi. Tới lúc chín muồi, công phu đủ lực, sức giác bùng vỡ thì căn thức dứt bặt, chân trời giác sáng toàn thể hiện tiền, không cần dẹp trừ mà vọng tưởng tự sạch, thân tâm toàn thể mất hút, rỗng thênh, nhảy múa nói cười vẫn không động. Tìm lấy một chút vọng cũng không có, khuấy động cũng không thể dấy động được. Bất động nhưng linh thông, sáng rỡ; diệu dụng vô ngần không thể kể hết. Đó là sự hiển lộ của trí tuệ siêu việt. Chỉ một việc làm tưởng chừng đơn giản là “sáng biết, hay ra rõ ràng”, không theo mà kết quả của nó vượt ngoài mức phàm tình hiểu biết, nghĩ tưởng. Mới thấy, lợi ích của trí tuệ “thấy rõ, hay ra”, lớn lao biết dường nào!

D. CHỦNG LOẠI CỦA TRÍ TUỆ.

Có nhiều quan niệm chia ra nhiều chủng loại trí tuệ khác nhau, nhưng chung quy chỉ có hai nhóm chính, đó là trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư.

I. TRÍ TUỆ HỮU SƯ.

Hữu sư là có thầy. Trí tuệ hữu sư là trí tuệ do thầy dạy, do học hỏi từ nhiều phương tiện bên ngoài mà có được. Thông thường mọi người dễ nhầm lẫn trí tuệ hữu sư với kiến thức. Kiến thức chỉ là thâu góp những gì có sẵn từ sách vở, người thầy, hoặc nhiều phương tiện khác. Nếu dừng ngang đây thì gọi là học mà chưa tiêu hóa. Biết tư duy, nhận định; biết tích lũy, kế thừa và phát huy; biết học lấy những gì đằng sau kiến thức muốn chỉ dạy thì mới tiêu hóa được, mới có được trí tuệ hữu sư. Người khéo học thì biết dùng kiến thức để nhận ra trí tuệ chứ không phải lấy kiến thức, tích lũy kiến thức rồi cho đó là trí tuệ.

1/ Kiến thức, Nhận thức, Trí tuệ vận dụng thực tiễn.

Hiện nay ở đời có nhiều người không đủ điều kiện để học Đại học, nhưng quý vị vẫn làm được nhiều việc thành công. Có không ít vị có học vị cao, nhưng lại không làm nên câu chuyện gì trong đời. Trên thực tế đó, nhiều người đã tự đặt ra cho mình suy nghĩ: “Có nhất thiết phải học Đại học hay không?” Đây là mệnh đề chưa có kết luận cuối cùng, nhưng lại là điều mà mọi người đang phải đối diện cho nên không thể bỏ qua.

“Nếu là một giáo sư có điều kiện, quý vị có cho con mình học Đại học hay không?” Rất nhiều người đồng chung một quan điểm: “Cứ cho học rồi hãy tính sau.” “Đi rồi mới tính sau” là người không rành rẽ lối đi, đi trong khủng hoảng. “Học rồi mới tính sau” là học mà không có định hướng, chuỗi hệ thống ISO Lo-gic ở đâu, rồi sẽ thành gì?

Giả sử việc nên học Đại học là đúng thì trong xã hội vẫn tồn tại một số người không cần học Đại học mà vẫn thành đạt; có những bác nông dân vẫn có những phát kiến đặc biệt, nhân loại đang tin dùng và được hưởng lợi từ những phát minh không bằng cấp ấy. Vì thế, mệnh đề phải học Đại học là chưa thỏa mãn, chưa đủ lớn để trở thành một vấn đề chung cho tất cả mọi người. Có học là chưa thỏa mãn. Vậy không học thì sao?

Ông Thần Đèn không học, nhưng có khả năng di dời nhà cửa một cách phi thường. Mọi người không cấm, nhưng khuyến khích ông nên học thêm ngành kiến trúc, kỹ sư để bổ túc cho việc làm của mình được tốt hơn. Khi học hiểu rồi, ông ta nhận ra việc làm của mình trước kia là quá mạo hiểm, không dám tiếp tục làm theo cách cũ nữa.

“Có học” chưa chắc đã làm nên việc lớn; “không học” thì hành động trong sự thiếu hiểu biết, nguy hiểm vô cùng. Học cũng không được, không học cũng không xong. Vậy phải làm sao? Nếu chúng ta không có được trí tuệ đặc biệt hơn, cứ ở trong việc học cùng chẳng học để kiếm tìm thì không tài nào tìm ra được phương hướng.

Học là ghi nhớ và hiểu được những vấn đề bên ngoài, đó mới chỉ là kiến thức. Sau đó tư duy, tiêu hóa những kiến thức đã được học hiểu để nhận ra nhiều điều từ nơi mình, đó chỉ mới là nhận thức hay tri thức. Kiến thứcnhận thức nó vẫn còn nằm trong đầu, chưa làm nên đồng tiền bát gạo là đúng. Người không được học nhiều mà có năng khiếu làm được một số việc đặc biệt, đó là nhờ vào trí tuệ vận dụng thực tiễn. Nếu có trí này mà thiếu kiến thứcnhận thức thì việc làm chưa thấu đáo và đầy đủ trọn vẹn. Nếu có kiến thứcnhận thức mà thiếu đi trí tuệ vận dụng thực tiễn và khả năng thích nghi thì chỉ là con chữ mà không có khả năng và bản lĩnh để làm nên điều gì đáng kể. Vậy thì tại sao chúng ta không biết vận dụng ba phạm trù này để làm thành một hướng đi? Nếu chỉ nghe qua như thế và học theo thì chỉ là học trò đang học chứ chưa thể là bậc thầy hướng dẫn được. Muốn có biện pháp thực hiện được điều này một cách đúng mức thì cần phải nhận ra nguồn trí tuệ tổng, siêu vượt trên ba phạm trù vừa nêu trên, mới biết cách vận dụng và triển khai được. Đó là trí tuệ vô sư mà chúng tôi sẽ đề cập đến ở phần sau.

Ghi nhớ, tích lũy là kiến thức. Tư duy để nhận ra là nhận thức, tri thức. Trí tuệ không phải như thế. Học một hằng đẳng thức, một phép toán là để có kiến thức giải toán. Hiểu một bài toán thì mới chỉ có được sự nhận biết để giải bài toán ấy. Khéo vận dụng những điều đã được học hiểu để giải một bài toán, từ bài toán đó giúp cho trí mình phát triển thêm; đó chỉ mới là ngang tầm của học trò rèn luyện được trí tuệ của thế gian chứ chưa có trí tuệ của một giáo sư ra toán. Muốn làm tốt điều này thì bắt buộc chúng ta phải có nguồn trí tổng vượt trên những tri thức của một học trò và giáo sư.

Như vậy, nếu đưa ba phạm trù trên để áp dụng vào giáo dục cho từng cấp học, từng độ tuổi phù hợp thì chắc rằng sẽ có những hiệu quả tích cực. Phạm trù thứ nhất là giảng dạy kiến thức để học sinh nắm bắt những kiến thức căn bản cho thật chắc chắn. Phạm trù thứ hai là khéo đào tạo cho người học có khả năng tư duy, phán đoán, nhìn nhận vấn đề để có nhận thức. Phạm trù thứ ba là tiêu dung, tiêu hóa tất cả những điều đã học hiểu và tư duy, sau đó cho bước vào cọ sát với thực tế để kích hoạt trí tuệ vận dụng thực tiễn. Ví dụ như những học sinh Tiểu học, trí não chưa phát triển đầy đủ do đó khả năng tư duy độc lập còn hạn chế. Vì vậy chúng ta giảng dạy những kiến thức căn bản, có chân trời hướng đến cho trẻ nhỏ. Tuy nhiên, cách truyền đạt kiến thức căn bản không phải là đưa ra một mệnh đề đã định sẵn và bắt buộc học sinh nhất nhất tuân theo như ra lệnh, mà phải khéo khơi gợi tính tò mò ở học sinh để chính người học tự nhận ra điều mà chúng ta muốn truyền đạt. Khi học sinh động não, tự mày mò tìm hiểu và nhận ra điều chúng ta muốn dạy thì cùng một lúc đạt được hai kết quả. Một là bản thân giáo viên đã dạy xong phần mình muốn truyền đạt cho học trò về kiến thức. Hai là tạo cho các cháu tự vận động bản thân để làm việc cùng giáo viên; đồng thời, các cháu có cảm giác “có cái của mình”, chính mình tự nhận ra điều đó. Từ đó, mỗi cháu sẽ được trưởng thành, mạnh mẽ, vững vàng, tự tin trên đôi chân của chính mình, phát triển khả năng tự lập. Ngược lại, nếu giáo viên cứ đưa sẵn ra mệnh đề đã mặc định và giảng dạy theo kiểu như ra mệnh lệnh, bắt buộc học trò nhất nhất phải tuân theo thì đầu óc các cháu sẽ trở nên tê liệt, thiếu khả năng tư duy và sẽ thụ động. Ở cấp học Trung Học Cơ Sở, chúng ta có thể đưa ra 70-80% kiến thức, 20-30% còn lại là cho tư duy, phán đoán và nhận định vấn đề. Lên cấp Trung Học Phổ Thông giảm bớt khối lượng kiến thức còn 50% và tăng dần khả năng nhận định lên 50%. Lên Đại Học, càng lúc càng tăng dần việc nhận định, phát triển tầm nhìn, bớt dần những kiến thức. Đến năm cuối cùng thì dừng hết tất cả các lý thuyết, tư duy và cho mỗi sinh viên tự đi đến bất kỳ đâu, tìm bất cứ việc gì để làm, để rút tỉa kinh nghiệm thực tiễn. Sau một năm quay lại nhà trường và trình bày những kinh nghiệm, những phát hiện nhận ra của mình trong mối tương quan giữa những kiến thức, tư duy trong nhà trường so với kinh nghiệm thực tế. Lúc này, trí tuệ vận dụng thực tiễn đã được kích hoạt, giáo sư là người giúp sinh viên hoàn bị những phần còn thiếu sót. Chúng ta vẫn thường thấy những thông báo tuyển nhân sự: “... có kinh nghiệm.”. Có kinh nghiệm còn kém xa người có trí tuệ vận dụng thực tiễn. Được giáo dục và đào tạo như thế, sau khi ra trường, mỗi sinh viên sẽ là nhân tố có tất cả những yếu tố căn bản và thiết yếu mà cuộc đời cần đến: Có bằng Đại Học; có kiến thức; có nhận thức, tư duy; có thời gian trải nghiệm, có kinh nghiệm trong công việc liên quan, có trí tuệ vận dụng thực tiễn. Có nhiều nhân tố được trang bị đầy đủ những yếu tố cần thiết tối thiểu như thế sẽ làm được nhiều điều tốt đẹp cho bản thân mỗi người và xã hội. Nếu nhắm thẳng vào ba phạm trù “Kiến thức, Nhận thức, Trí tuệ vận dụng thực tiễn” vừa nêu trên để đào tạo thì chất lượng sẽ được cải thiện rất nhiều. Ba phạm trù này là bước đệm để hình thành trí tuệ hữu sư.

2/ Trí tuệ hữu sư.

Qua quá trình học hỏi và rèn luyện bản thân, nắm vững những kiến thức căn bản cần thiết. Kế đến, biết tiêu hóa những kiến thức để có nhận thức, tri thức. Sau đó, cọ sát với thực tế để có được trí tuệ vận dụng thực tiễn. Cuối cùng, mọi thứ kiến thức, nhận thức và trí tuệ vận dụng thực tiễn như thử quên đi; có tầm nhìn cao rộng, biết nhìn nhận mọi vấn đề một cách khách quan, đầy đủ và căn bản nhất thì trí tuệ hữu sư mới được hình thành một cách đúng nghĩa; là một giáo sư đào tạo cuộc đời. Điều này mỗi người có thể tự kiểm chứng ngay bản thân mình. Ví dụ, là một giáo sư giỏi phải có nhiều năm để nghiên cứu. Kế đến, có đủ thời gian để thoát ra khỏi đề tài mình đã nghiên cứu; lòng thanh thảng, nhẹ nhàng, an nhiên, sẽ nhận ra những điểm còn sai sót và nhiều điều mới mẻ bất chợt nảy sinh mà trước đó không ngờ tới. Đó là biểu hiện của trí tuệ, là dấu hiệu để nhận biết nó. Ví như con mắt chỉ nhận thấy mọi vật mà không thể tự thấy nó. Trí tuệ là chính mình cho nên trí tuệ cũng không thể tự thấy lại được trí tuệ mà chỉ nhận biết qua biểu hiện của nó mà thôi.

Ở cấp Đại Học, sinh viên nào cũng được học đạo hàm tích phân. Nhưng thử đặt vấn đề: “Chúng ta có nhất thiết phải học đạo hàm tích phân hay không?” thì chưa chắc đã có câu trả lời ổn đáng về việc mỗi người đang làm. Nếu là phải học đạo hàm tích phân thì sau khi học xong, bước vào đời với những công việc khác nhau, không một ai dùng đạo hàm tích phân để giải quyết cho những vấn đề trong sinh hoạt cuộc sống và công việc của mình cả. Mà sự thật là hiện tại ngay đây, không ai trong chúng ta còn nhớ những kiến thức đó. Như vậy thì học để làm gì? Còn nếu như không học, bỏ đi thì hiện nay cả thế giới vẫn đang học đạo hàm tích phân, tại sao chúng ta lại bỏ? Học thì không dùng; bỏ đi, không học cũng vô lý. Vậy phải làm sao?

Cuộc đời luôn biến hóa đa chiều, luôn đổi thay và phát triển. Không có một tình huống nào xảy ra giống tình huống nào cả thì lấy đâu làm mẫu để có bài toán giải cho cuộc đời. Mọi thứ không bao giờ dừng lại, ngồi đó chờ sẵn để cho chúng ta kịp đem tất cả những kiến thức đã học vào đời rập khuôn giải quyết, nói chi là toán học đạo hàm tích phân.

Học toán là để rèn lấy trí tuệ chứ không ai học toán rồi đem nguyên công thức, đạo hàm tích phân hay bài toán mẫu ra ngoài đời để giải toán cho sinh hoạt của đời mình cả. Hôm nay chuẩn bị đi công tác xa, mỗi người đều có cách tư duy để sắp xếp chuyến đi cho mình tối ưu nhất. Cách tư duy sắp xếp tối ưu và hợp lý ấy là nhờ học toán mà cho chúng ta có được. Ngày mai xã hội con người phải được cải thiện văn minh hiện đại hơn. Mỗi người sẽ có những phát kiến khác nhau, đóng góp chung vào để đạt được tiêu chí đó. Những tư duy, phát kiến kia là do học đạo hàm tích phân, do toán học rèn luyện cho chúng ta trí tuệ để phát hiện. Như vậy, câu trả lời cho vấn đề này là “không nói là có nên học hay không nên học đạo hàm tích phân, mà phải biết cách học đạo hàm tích phân thì mới phát huy được giá trị đích thực của ngành giáo dục nhắm đến.” Cho thấy, học toán không phải để nhớ bài toán; mà nhờ sự dũa mài và kích hoạt của bài toán, đầu óc chúng ta sẽ bén nhạy và lanh lợi hơn, có được trí tuệ hữu sư để áp dụng vào từng công việc và tình huống trong đời một cách linh hoạt.

Như hiện nay thiền viện đang làm cầu qua đảo Phật. Những yếu tố căn bản cần thiết cho cây cầu như kết cấu, gia cố, thiết kế cảnh quan sao cho phù hợp với địa hình..., không phải đem nguyên bài toán đạo hàm tích phân vào để giải là biết được. Nhưng tất cả những tư duy logic để làm nên cây cầu đó lại nhờ vào trí tuệ con người được kích hoạt từ những bài toán về đạo hàm tích phân. Những phán đoán, nhìn nhận, sắp xếp mọi thứ khác trong đời cũng tương tự. Cuộc đời không bao giờ là những khuôn mẫu đứng yên, chờ đó cho chúng ta đem hết quyển sách này đến quyển sách khác rập khuôn vào để giải quyết, hành xử. Chỉ có trí tuệ mới đủ lớn để kịp thời giải quyết mọi tình huống phức tạp luôn biến đổi bất ngờ trong đời. Do đó vẫn học đạo hàm tích phân, vẫn học mọi thứ, nhưng cần biết rằng, đó không phải là tất cả để có thể mang vào giải những bài toán cuộc đời, mà học là để nhờ đó kích hoạt cho chúng ta có được trí tuệ hữu sư. Sau khi ra trường, những kiến thức đã học có thể bị quên, nhưng nguồn trí này vẫn còn để cho chúng ta có thể vận dụng vào tất cả những lãnh vực, phạm trù mình đang sống. Vì vậy, chúng ta vẫn học tập những kiến thức nhất định, nhưng phải biết cách học. Không phải học vì tấm bằng, vì con điểm, hay vì bất kỳ điều gì khác, mà học là để hình thành được trí tuệ hữu sư, nhờ đó mà có thể giải muôn vàn bài toán khó khăn khác nhau trong cuộc sống.

Có anh chàng nọ rất ham học, ham đọc sách. Tuổi gần 50 mà lúc nào cũng sống bằng sách, không cần biết gì khác. Căn phòng anh ta chất chồng lớp lớp toàn sách với sách đầy nghẹt, chỉ còn một chỗ trống vừa để nằm và cũng để đọc sách. Anh cho rằng, có kiến thức là có tất cả chứ không cần làm bất kỳ điều gì khác. Người bạn đời nhiều lần góp ý, nhắc nhở anh cần có bổn phận với gia đình, nhưng anh vẫn không chịu, vẫn bảo thủ việc đọc sách của mình với những lý lẽ cao xa rất là sách vở. Cho đến khi không còn chịu được nữa, cô này viết đơn ly dị và yêu cầu ký vào. Anh ta lại rút trong tủ ra quyển sách “Đạo Làm Vợ” và bảo cô ấy đọc cho thật kỹ. Nghe qua như là câu chuyện cổ tích, nhưng đây là chuyện thật mới đây thôi. Sách là sách, nhưng anh phải là anh. Nếu ôm trọn những kiến thức trong sách cho đó là mình thì đó là kiến thức đánh lừa nhận thức; là con chữ chứ không phải trí tuệ. Nếu không nhận định một cách rõ ràng, nghiêm túc giữa kiến thức, nhận thức và trí tuệ thì hậu quả sẽ tai hại vô cùng.

Khi đã biết học hỏi trau dồi, rèn luyện để có được trí tuệ hữu sư rồi thì có thể vận dụng, kế thừa những gì đang có để phát huy tốt hơn. Đây là TRÍ TUỆ TÁI TẠO. Những gì chưa có, nhờ vào trí tuệ hữu sư chúng ta làm mới, phát minh; đó là TRÍ TUỆ SÁNG TẠO. SÁNG TẠO và TÁI TẠO được đặt trên nền tảng trí tuệ chứ không phải học đòi, tích lũy hay chạy theo đuôi của những kiến thức và nhận thức có sẵn. Nếu không có trí tuệ, chúng ta sẽ không có những phát minh sáng kiến (sáng tạo); sẽ không có được sự kế thừa và phát huy (tái tạo); mà chỉ học theo, nuốt chửng những kiến thức đang có. Nhưng kiến thức thường là những điều đã cũ kỹ. Nếu chỉ biết học theo kiến thức, đồng nghĩa đã bằng lòng đi theo đuôi những gì sẵn có đã cũ rích thì sẽ phải bị tuột hậu, xã hội loài người không thể văn minh tiến bộ được. Mới thấy, tầm quan trọng và sự cần thiết của trị tuệ lớn lao biết dường nào.

3/ Với người học Phật để tu tập:

Không kể đến những bậc có căn tánh đặc biệt, một nghe ngàn ngộ, thẳng đó thấu tột nguồn chơn, người này tự có kế sống, mặc tình tiêu dao tự tại. Nếu chưa như thế, thông thường người học Phật phải bắt đầu bằng trí tuệ hữu sư để học hỏi, tư duy, tu tập hướng tiến đến tiêu chí cuối cùng là ngộ ra, nhận lại trí tuệ vô sư nơi chính mỗi vị. Cụ thể là học hỏi để thông hiểu lời Phật Tổ chỉ dạy; kế đến là nghiền ngẫm tư duy để nhận định, thấu rõ vấn đề; và cuối cùng ứng dụng vào công phu tu tập hành trì để nhận ra việc chính yếu mà Phật Tổ muốn chỉ bày là gì ngay nơi chính mình. Nhận ra cốt lõi này một cách rốt ráo, cùng tột, chúng ta sẽ hay ra, nhận lại và sống được bằng trí tuệ vô sư. Trí tuệ này có nhiều năng lực đặc biệt, nhưng cô đọng trong ba đặc điểm căn bản. Một là tâm mình không động, có năng lực, năng lượng tràn đầy, cho chúng ta tự tin, tự tại trong cuộc sống. Hai là trí tuệ sáng ngời và đầy đủ trọn vẹn hơn bao giờ hết. Ba là niềm an lạc nhẹ nhàng, thanh thoát, nhưng thênh thang khó tả. Ba tính chất này ngập tràn rồi thì mọi thứ trong đời mất hết lực hút. Chúng ta đang ở trong đời, nhưng cũng là đang ở trạng thái chân không, không bị lực hút của cuộc đời chi phối vì thế được tự tại, an lạc, giải thoát.

Không khí luôn tồn tại trong hư không, nhưng nếu muốn thành gió thì phải có sự đối lưu hoặc dùng quạt. Cũng thế, trí tuệ vô sư luôn sẵn nơi mỗi người, nhưng nếu không có thầy tổ chỉ bày, đánh động, kích hoạt thì chúng ta không thể ngộ ra được. Nếu nói để tự nhiên, không cần học hỏi, không tu tập và không làm bất cứ gì cả thì chúng ta sẽ không biết được mình có trí tuệ vô sư cho dù mình đang sống trên nó. Từ đó sống theo bản năng tự nhiên thì sự mê mờ của vô minh sẽ thêm lớn, không thể nhận ra được trí tuệ vô sư. Nếu bảo do tu học mà được thì lại càng không phải. Bởi học hỏi cho đến tu tập đều còn trong tướng của tạo tác sanh diệt; nếu sự tiến bộ chưa rốt ráo thì trong vi tế vẫn còn trong dòng trôi chảy nhỏ nhiệm (chơn thường lưu chú). Trong khi trí tuệ vô sư vốn tự không động, không sanh diệt, là vô sanh. Rời khái niệm để tự nhiên không họccó học, chúng ta khéo học, khéo tu thẳng tột đến trí tuệ vô sư. Tức là khi học, khi tu đều chỉ với một mục đích duy nhất hướng đến giác ngộ tự tâm; do đó chỉ xoay quanh và xoáy sâu vào trọng tâm này, không dong dài thêm thắt để quá đắm say vào con đường học vấn hoặc sở đắc khiến xa rời trí tuệ vô sư. Người dạy thì không phải dạy cho hiểu mà phải biết cách chỉ cho thấy. Người học thì phải biết dọn lòng trong sạch, nghe thẳng đến tự tánh vô sanh. Dụng công miên mật tinh cần, nhưng phải khéo léo buông xuống để được rỗng rang, suốt qua các tướng kể cả khái niệm tu tập thì mới có cơ hội bỗng dưng mất sạch, một tánh sáng khắp hiện tiền.

Ban đầu được học oai nghi phép tắc, hình thành tư cách và đời sống người tu. Đồng thời đọc học các Kinh Luận căn bản để thông suốt và nắm vững đường lối tu hành. Kết hợp dụng công tu tập, tin chắc mình có tánh Phật và có khả năng tu hành thành Phật. Kế đến học các Kinh Luận phá tướng để dẹp trừ sự dính mắc hoặc cố chấp trên sự tướng và sở đắc dù đó là những điều mình vừa học được. Nếu ban đầu chưa lập căn bản mà phá thì giống với tự nhiên ngoại đạo. Người học sẽ sống theo tự nhiên của vô minh, không biết phương pháp hướng tiến cho nên chỉ khiến cho vô minh càng thêm lớn rồi sanh tà kiến. Nhưng lập thành căn bản mà chấp vào những gì đã học, có chút sở đắc thì vẫn còn dính kẹt trên sự tướng bên ngoài, có khi là sự cố chấp trên sở đắc nhất thời có được. Người này cũng dễ sanh tà kiến bởi những tri giải chưa đầy đủ, hoặc những chứng đắc nửa chừng, chưa rốt ráo. Lập căn bản rồi kế đến là phá đi sự dính mắc chấp trước cho tướng bên ngoài là đạo và phá cả sở đắc; sau đó là chỉ tánh. Lúc này hành giả được học các bộ Kinh Luận đúng chuyên môn chỉ bày tự tánh nơi chính mỗi người. Đồng thời, tùy theo từng vị, từng căn cơ mà được hướng dẫn công phu đặc biệt; như là nhập thất, khai thị, ép để nhảy vọt... Cái ngưỡng căn bản, cần thiết, quan trọng đầu tiên hành giả tu thiền phải hướng đến là kiến tánh. Bằng vào việc học và tu một cách căn bản, nhưng vừa đủ và nhanh gọn, thẳng tắt, không dong dài; tiến thẳng đến Long Môn; dùng hết sức bình sinh, một nhảy thoát khỏi vũ môn, hóa rồng, lên trời xuống biển, ra vào tự tại. Sống ngay tự tánh chính mình vừa ngộ ra, ngay trí tuệ vô sư ấy là chân thật tu hành. Y tánh khởi tu, tùy duyên tiêu dung tập khí và nghiệp cũ, trải qua nhiều kiếp công viên quả mãn, viên thành Phật đạo.

Hơn nữa, muốn chống đỡ Tông thừa (Thiền tông) thì không gì hơn ngoài hai việc là Thuyết thông và Tông thông. Muốn cho Thuyết được thông thì chúng ta cần đọc học vừa đủ để công phu; hiểu thấu, suốt thông những điểm căn bản, cô đọng và đặc biệt mà Phật Tổ muốn chỉ dạy. Muốn Tông thông thì hành giả phải miên mật dụng công tu hành, ngộ ra và sống trọn vẹn bằng trí tuệ vô sư chính mình. Thuyết thông, Tông thông, người này có nanh vuốt hướng thượng. Hằng ngày tùy thời nhổ đinh tháo chốt; khéo léo gỡ bỏ, thình lình đập tan, xoi phủng những mê mờ, dính chấp cho người học, mở toang chân trời trí tuệ vô sư. Đây gọi là giáo hóa độ sanh.

Bắt đầu bằng trí tuệ hữu sư để học đạo, nhưng nhằm mục đích hướng về đạt đến trí tuệ vô sư. Học tu bằng hướng đi cụ thể rõ ràng một cách chuyên nghiệp như thế, sẽ không bị lạc lối, lầm đường; không vướn kẹt nửa chừng để phải sai lệch.

II. TRÍ TUỆ VÔ SƯ.

1. CỘI NGUỒN (TRÍ TUỆ NGUỒN).

Trí tuệ vô sư là trí tuệ nguồn, là cội nguồn trí tuệ, là trí tuệ sẵn có nơi mỗi người, ai ai cũng tròn đầy, sẵn đủ; nhưng tạm thời bị vô minh phiền não, các tạp niệm lăng xăng chi phối, che lấp, không hiển lộ và phát huy được. Thầy tổ là người khơi dậy, chỉ bày, đánh động để mình tự hay ra, nhận lại chứ không có khả năng cho được bất kỳ ai cả; do đó gọi là trí tuệ vô sư (không do thầy). Chúng ta có thể phát hiện và cảm nhận được trí tuệ cội nguồn này qua một vài dấu hiệu nơi mỗi người.

a: Khả năng tự hiểu.

Khi đang nghe thuyết giảng hoặc trao đổi, nói chuyện, chúng ta nghe thấy và hiểu rõ, nhưng cái cột nhà hay bàn ghế thì không hiểu gì cả. Do chúng ta có “khả năng hiểu” mà những vật dụng khác thì không có khả năng ấy. Cho thấy, trước khi hiểu biết những thứ bên ngoài, mỗi người chúng ta vốn đã sẵn có “khả năng hiểu” cho nên mới hiểu biết được. Nhưng con người thường bận hiểu theo bên ngoài mà bỏ sót “khả năng hiểu” nơi chính mình. “Khả năng hay hiểu” ấy chính là cội nguồn trí tuệ, là trí tuệ vô sư. Bỏ rơi nó chính là mọi người đang bỏ rơi, lảng quên, chôn vùi trí tuệ vô sư sẵn đủ nơi mỗi người. Đánh mất nó là đánh mất cội nguồn sống, cội nguồn để có ra năng lượng, định lực và trí tuệ giác sáng trùm khắp; là vùi lấp tất cả những tính chất đặc biệt hơn cả nhựa sống vốn có của chúng ta không phát huy được, hỏi sao không khổ? Khéo chiêm nghiệm như thế, chúng ta sẽ cảm nhận được mình đang sẵn có trí tuệ vô sư.

b: Qua khoảnh khắc vàng.

Ở bất kỳ hoàn cảnh nào, ngành nghề chuyên môn nào, con người thi thoảng bỗng dưng có những phát kiến, thình lình hay ra nhiều điều mới lạ, hoặc bất chợt cùng lúc phát minh ra một đề tài vĩ đại trong nháy mắt mà không qua tư duy... Từ chuyên môn gọi những lúc như thế là khoảnh khắc vàng, thời điểm lóe sáng. Nhìn ngọn thì biết có nguồn. Trí tuệ vô sư đã cho chúng ta những khoảnh khắc ấy. Trong đêm đen, từ xa trông thấy có ánh sáng thì biết đằng sau ánh sáng kia là một nguồn sáng. Cũng thế, có những thời điểm bất chợt sáng ra vấn đề một cách kỳ đặc, không qua cảm xúc hoặc tư duy; mới biết, trong mình sẵn có cội nguồn trí tuệ cho nên mới cho chúng ta có được khả năng như vậy. Đó là trí tuệ nguồn vốn sẵn nơi mỗi người; còn gọi là trí tuệ vô sư.

c: Qua sự phát minh của các nhà Bác học.

Archimedes đang ngâm mình trong bồn tắm thì phát minh định luật mang tên ông (lực đẩy). Ông Newton đang ngồi thư giãn dưới gốc cây táo thì phát minh định luật vận vật hấp dẫn... Những nhà Bác học này đang buông xuống hết mọi thứ để thư giãn, thả lỏng, trong khoảnh khắc chớp nhoáng tình cờ bất chợt phát minh. Cũng có nhiều vị đóng bít cửa phòng, quên cả ăn ngủ và mọi chuyện bên ngoài để chú tâm nghiên cứu thì phát minh được. Những lúc như vậy là điều kiện để trí tuệ vô sư dễ dàng phát huy, hiển lộ. Cho thấy, do có trí tuệ nguồn, trí tuệ vô sư cho nên mới cho con người có khả năng phát minh đặc biệt như thế.

2. NHÀ BÁC HỌC VÀ CÁC THIỀN SƯ KHÁC NHAU THẾ NÀO?

Như mặt trời bị mây đen dày đặc che kín, thi thoảng gặp chỗ mây mỏng mới đột ngột rực lên tia sáng rồi vụt tắt, tiếp tục bị lẩn khuất trong những đám mây đen kia. Tương tự, khi con người chú tâm cao độ hoặc buông xuống mọi thứ để được thư giãn tuyệt đối, đám mây mê mờ nơi mình sẽ có lúc vơi mỏng. Trong bất chợt, trí tuệ nguồn tiềm ẩn ấy lóe lên, kích hoạt cho chúng ta có những khoảnh khắc vàng, thời điểm lóe sáng, hay lớn hơn là một đề tài có ích cho cả nhân loại. Và nhà Bác học đã nhờ vào trí tuệ nguồn kích hoạt mà được những phát minh như thế. Đây là nhờ vào trí tuệ vô sư kích hoạt trong nhất thời phát minh. Và phát minh là phát minh những khía cạnh khác của hiện tượng bên ngoài chứ không phải sáng tỏ, rõ ràng trí tuệ nguồn vô sư ấy. Chỉ phát minh được một vài lần, sau đó vụt tắt rồi thôi, cho nên vẫn mang tính chất ăn may chứ không phải trí tuệ vô sư đã hiện tiền, còn mãi không bao giờ bị mất. Có người hỏi: “Thưa Bác học, những tư tưởng vĩ đại thường nảy sinh trong đầu óc của ngài vào lúc nào trong ngày?” Einstein nói: “Suốt cả đời, tôi chỉ may mắn có được một tư tưởng tạm dùng được là thuyết tương đối. Còn hầu hết đều là những ý tưởng tũn mũn.”

Nhà Bác học chỉ được trí tuệ nguồn vô sư kích hoạt cho nên cũng chỉ được nhất thời phát minh chứ không phải nhận ra trí tuệ vô sư. Khi phát minh là phát minh hiện tượng bên ngoài, còn nằm trong vọng động sanh diệt, chưa thoát khỏi vô minh cho nên vẫn còn bị tham, sân, si, phiền não, khổ đau chi phối.

Các bậc Thiền sư thì ngộ ra bản tâm, phát minh diệu dụng từ cội nguồn trí tuệ vô sư được phát ra một cách linh hoạt, sinh động, tự nhiên, như nhiên, không qua suy nghĩ phân biệt. Quý ngài nhận ra, thấu tột và sống trọn vẹn bằng trí tuệ vô sư cho nên có được tất cả những tính chất, tác dụng và năng lực trong ấy. Bất động mà sống động; an định mà trí tuệ sáng rỡ, trùm khắp; thanh thoát, nhẹ nhàng mà tràn đầy năng lượng, an lạc vô biên. Nhờ năng lực vĩ đại này giúp cho người sống bằng trí tuệ vô sư làm chủ được sanh tử, chấm dứt khổ đau; vọng tình, tham sân si tự sạch mà không cần mất công dụng lực đuổi dẹp.

Ai cũng có sẵn cội nguồn trí tuệ vô sư. Người bình thường chưa có cơ hội phát hiện thì còn tiềm ẩn, còn bị chôn vùi trong vô minh phiền não và vọng tình sanh diệt, tạm thời chịu khổ. Người may mắn hơn thì có những thời điểm lóe sáng, những khoảnh khắc vàng. Các nhà Bác học cũng nhờ vào trí này kích hoạt mà có được những phát minh cho nhân loại. Các hành giả tu hành muốn thành Phật đạo thì hướng tiến, thấu đạt đến trí tuệ vô sư. Chư vị thiền sư tỏ ngộ, hay ra, nhận lại và sống bằng cội nguồn trí tuệ này cho nên có được vô vàn lực dụng từ đó; dứt sạch mê mờ, lạc an sáng rỡ, tùy thời tiêu dao tự tại, không còn bị sanh tử chi phối.

3. TRÍ THỂ – TRÍ DỤNG.

Để thể nhận trí tuệ vô sư, có vô vàn phương pháp trong không phương pháp, bởi nó không trải qua một thứ bậc hay phương pháp nào cả. Việc này không xa lạ gì với những hành giả có kinh nghiệm, nhưng nó vô cùng khó khăn đối với những người chưa từng kinh qua. Tuy nhiên, tựu trung chỉ có hai con đường duy nhất để thấu đạt. Một là nhận thẳng, vừa nghe liền ngộ. Nếu chưa được như thế thì phải trải qua thứ lớp tu hành, phải khéo léo vận dụng các phương pháp một cách căn bản do thiện tri thức hướng dẫn mà không chấp trước, dính kẹt trên bất kỳ một phương pháp nào cả (không kẹt trên phương tiện). Đi bằng hướng này, hành giả sẽ cảm nhận được các thứ lớp tiến bộ có sâu có cạn khá rõ ràng. Có trí thể, trí dụng, thể dụng không hai và cuối cùng là tùy duyên tự tại không ngăn ngại.

a/ Trí thể.

Bậc cổ đức nói:

                Huyền nhai tát thủ,

                Tự khẳng thừa đương.

                Tuyệt hậu tái tô,

Khi quân bất đắc.          

Vực thẳm buông tay,

Hay ra rõ ràng.

Chết rồi sống lại,

Còn lừa được sao?

Tùy vào căn cơ từng người, vị thầy sẽ có những kinh nghiệm để hướng dẫn và khai thị khác nhau. Ở đây chúng tôi tạm thời đưa ra một phương pháp điển hình có tính phổ đồng và chung nhất. Hành giả sau khi học hiểu nắm vững đường lối dụng công tu hành; những gì buông xuống được thì không phải thật của mình; những gì không phải của mình thì trong tâm tức khắc rủ sạch, buông xuống hết. Buông thân, buông tâm, rủ xuống sạch mọi hiện tượng chung quanh, kể cả tâm niệm buông cũng không còn. Khéo léo làm sao trong tâm không còn một khái niệm, toàn thể rỗng lặng. Khi đạt đến ngưỡng tột cùng thì bất ngờ thân tâm bỗng dưng mất sạch, chỉ còn sự sáng biết tinh khôi rỗng rang, thênh thang, không động. Trong thể bất động (thể), nhưng vẫn sáng biết linh hoạt tự nhiên (dụng). Đó là trong thể vốn sẵn có dụng nên được gọi là thể. Nhưng lúc này phần dụng chưa phát huy được nhiều cho nên tạm gọi là trí thể.

Như gương soi vật, mỗi mỗi vật đến đều hiển hiện rõ ràng mà không động; không khởi phân biệt nhưng hằng sáng biết. Tuy vậy, nhưng sự sáng biết chỉ là sáng biết chứ chưa có khả năng biến hóa, linh thông; thầm thầm như vẫn còn một vật để giữ gìn, chưa thể thong dong tùy duyên tự tại vô ngại. Khi nghe pháp thì có, khi ra phố thì không. Trong thiền đường thì có, ra khỏi chốn thanh tu thì không còn rõ ràng. Nếu không vượt qua điền địa này thì vẫn còn bị các Thiền sư quở trách. Thiền sư Pháp Thành ở Hương Sơn nói: “Dù cho thuần thanh tuyệt điểm vẫn còn là chơn thường lưu chú.” Dù được vắng lặng tuyệt đối, nhưng vẫn còn sự trôi chảy nhỏ nhiệm trong tánh chơn thường kia. Như nhìn từ xa thấy thác nước trắng xóa bất động, khi tiến lại gần thì mới thấy có bụi bọt tung tóe trắng xóa đang vận hành liên tục như một dãi lụa khiến cho mắt thường không thể nhận ra. Chỗ này Hòa thượng Trường Sa Cảnh Sầm gọi là thức thần:

Học đạo chi nhân bất thức chân,

Chỉ vị tùng tiền nhận thức thần,

Vô thủy kiếp lai sinh tử bổn,

Si nhân hoán tác bổn lai nhân.

Nghĩa:

Ai người học đạo chẳng rõ chân,

Chỉ bởi từ lâu nhận thức thần.

Vô số kiếp rồi gốc sinh tử,

Kẻ si lại gọi bổn lai nhân.

Sống trọn bằng tâm thể ấy cho được liên tục, mạnh mẽ gọi là miên mật công phu. Tuy nhiên không được tự mãn, phải có tâm cần cầu tiến thêm nữa.

b/ Trí dụng.

Nếu chưa đạt được trí thể thì nhúc nhích liền là vọng động, rơi vào sanh diệt, không thể gọi là trí dụng được. Những linh hoạt tự nhiên sống động, sinh động vô vàn (dụng) mà vẫn bất động (thể) nên gọi là diệu dụng. Cho nên trong thể đã có dụng, trong dụng luôn sẵn thể. Nhưng ở phạm trù này thì lực dụng hiển bày sống động và mạnh hơn nên tạm gọi là trí dụng. Tạm phân có thể có dụng như vậy để những hành giả còn trong quá trình công phu tu tập dễ nhận biết, tránh sự sai lệch.

Một hôm, Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu cùng đại chúng đi hái trà. Bất ngờ Sư bảo ngài Huệ Tịch:

- Huệ Tịch trọn ngày hái trà, chỉ nghe tiếng con mà chẳng thấy hình con, bây giờ hãy hiện bổn hình cho ta xem!

- Huệ Tịch liền lấy cành cây trà đập vào cây trà.

Sư bảo:

- Con chỉ được cái dụng mà chẳng được cái thể của nó.

Huệ Tịch thưa:

- Chưa biết Hòa thượng thế nào?

Sư im lặng. Huệ Tịch nói:

- Hòa thượng chỉ được cái thể mà không được cái dụng của nó.

Sư bảo:

- Tha cho con hai chục gậy.

Nếu chưa tỏ ngộ bản tâm, còn xao động thì dù cho có hét, hoặc đánh, hoặc là đưa phất tử khai thị như thiền sư, vẫn là vọng động sanh diệt của phàm phu, chưa được gọi là trí dụng. Tới lui làm tất cả công việc mà tâm mình vẫn như như bất động, thì nhất cử nhất động đều là diệu dụng không thể nghĩ bàn. Đó là trong dụng sẵn đủ trí thể mới được gọi là trí dụng; là hình ảnh ngài Huệ Tịch lấy cành cây trà đập vào thân cây trà để trình lên Thầy mình.

Nếu tâm bất động mà không sáng biết rõ ràng, đó là rơi vào hang ổ vô minh. Hoặc là cố chú tâm giữ gìn làm cho không động thì vẫn còn là hành vi tạo tác, còn trong sanh diệt. Đạo lý chân thật không phải do tạo tác, không nằm trong loạn động sanh diệt; cũng càng không phải để tự nhiên rơi vào vô minh. Vốn tự không động nhưng linh thông, sống động; đó là trong thể có dụng, ngay đó trí thể hiển hiện rờ rỡ, rõ ràng; là hình ảnh Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu im lặng nhưng đã hiển bày tất cả.

Khi nghe thầy mình hỏi, ngài Huệ Tịch liền lấy cành cây trà đập vào cây trà, kể cả đang lúc cùng chúng hái trà trước khi chưa được Thiền sư Qui Sơn hỏi; tuy có hành động mà không khác với thầy mình lặng lẽ đứng im. Đấy gọi là dụng nhưng không rời thể. Thiền sư Quy Sơn Linh Hựu im lặng đến tột cùng, nhưng trong ấy sấm sét sống động vô cùng, không khác với học trò mình hái trà, lấy cành trà đập vào thân cây. Đây là trong thể có dụng. Thể dụng vốn tự không hai. Ngài Huệ Tịch không thể đập cây trà hay hoạt động mãi mà không ngồi im. Ngài Quy Sơn không thể đứng im lặng mãi mà đến lúc cũng phải tới lui sinh hoạt. Nói hay nín, động hay tịnh, đứng im lặng thinh hay tới lui sinh hoạt đều không ngoài tự tánh sáng biết, thể dụng dung thông tròn đủ. Đạt đến rồi thì thấu suốt rõ ràng. Người ngoài cuộc thì không khỏi bị Thầy trò ngài Quy Sơn làm mờ mắt. Muốn chỉ cũng khó, quý ngài đã khéo hiện bày sờ sờ ra đó, không chút dấu diếm gì, nhưng có mấy người nhận ra? Thiền sư Chân Nguyên nói:

Hiển hách phân minh thập nhị thì,    

Thử chi tự tánh nhậm thi vi.

Lục căn vận dụng chân thường kiến,

Vạn pháp tung hoành chánh biến tri.

Rờ rỡ rõ ràng suốt cả ngày,

Đây là tự tánh mặc phô bày.

Sáu căn vận dụng chân thường thấy,

Muôn pháp dọc ngang rõ ràng thay!

Đây là điểm sáng để rồi bất chợt có đôi câu đối: “Không tịch vô tung, Phật Phật tùng lai vô khả tích. Huyền vi hữu diệu, nhơn nhơn đương xứ hữu hiện tiền.” Nghĩa là: “Rỗng lặng chân không, chư Phật xưa nay không thể thấy. Sâu mầu diệu hữu, mọi người trước mắt đang hiện tiền.”. Chỗ chân thật sâu xa kia, chư Phật cũng không thể nhìn thấy được. Bởi toàn thấy là biết; toàn biết là giác, toàn giác là sáng; vốn tự sáng biết rành rẽ rõ ràng mà hằng như thế, rỗng rang không động thì còn có cái gì khác để nói là thấy cùng không thấy? Nếu còn có chỗ để thấy biết giữ gìn thì cái ấy đã thuộc về đối tượng bên ngoài bị thấy biết rồi, không phải là trí tuệ chân thật. Tuy không thể tìm thấy, nhưng không phải là không thấy biết gì mà mọi người ai ai cũng đang hiện hữu rõ ràng trước mắt, đang biết đi, đứng, nói, cười..., chỉ là khéo nhận lại thôi.

c/ Thể dụng không hai.

Có vị Đại đức đến hỏi Thiền sư Hoài Nhượng ở Nam Nhạc:

- Như gương đúc tượng, sau khi tượng thành không biết cái sáng của gương đi về chỗ nào?

Sư bảo:

- Như Đại đức tướng mạo lúc trẻ thơ hiện giờ ở đâu?

- Tại sao sau khi thành tượng không chiếu soi?

- Tuy không chiếu soi, nhưng dối y một điểm cũng chẳng được.

Khi gương còn là gương trên đài, mọi cảnh vật đều được soi chiếu rõ ràng qua tánh sáng của gương. Cảnh tĩnh thì hiện hình trầm mặc, cảnh động tung bay trước gió thì hiện cảnh sinh động, lung linh. Gương không có tâm soi chiếu cảnh, cảnh cũng không có ý để dấu vết gì trong gương. Tùy vào cảnh thế nào đều được hiển hiện trước tánh sáng của gương một cách trung thực thế ấy. Cảnh đến thì được soi chiếu hiện bày rõ ràng, cảnh qua rồi thì thôi. Nhưng khi tấm gương đã được đập vụn để đúc tượng thì tánh sáng đó đi đâu? Thiền sư Nam Nhạc Hoài Nhượng ví dụ, như bây giờ lớn rồi thì thân thể hồi nhỏ không còn nữa, nhưng tự tánh biết vẫn đang sáng biết đây, không mất đi đâu cả. Vị Đại đức này vẫn chưa thông suốt nên hỏi tiếp: Tại sao sau khi đúc thành tượng rồi thì không còn chiếu soi?” Ngài Hoài Nhượng nói: “Tuy không chiếu soi, nhưng dối y một điểm cũng chẳng được.” Tự tánh sáng biết nơi mình bặt hết dấu vết, không có tướng chiếu soi, như là không còn gì cả, nhưng mỗi mỗi đều sáng biết rõ ràng, trùm khắp không một vết mê lầm; một vết nhỏ cũng không làm mờ mắt được.

Ngay biết là giác sáng. Ngay tánh sáng ấy vốn tự không động. Không phải làm cho được định; vốn nó tự tịnh, tự định mà không có tướng của định. Không còn thấy có tâm chơn để gìn giữ. Mất hết các tướng, bặt hết dấu vết; bình thường như là tầm thường mà vẫn sáng rỡ, rạng ngời một cách phi thường. Không phải làm gì đó cho được an định, mà trong ấy muốn động cũng không được. Vào Phật vào ma mà không có các tướng ra, vào, ma, Phật. Linh hoạt, tùy duyên, tự tại không ngăn ngại.

Ví dụ khi chúng tôi đang nói cũng là lúc chúng tôi đang nghe. Trên một con người, vừa nói mà cũng lại là vừa đang nghe. Nói và nghe cùng một lúc, vậy thì ai nói và ai nghe? Khi được hỏi là “ai” mà chúng ta đi tìm thử là ai nói, ai nghe là đã bị lầm. Bởi lẽ trong một con người không thể tồn tại hai thực thể. Chính khi khởi tâm tìm là tâm bị phân hai, là bị rối rắm và không tỏ rõ. Có thể chúng ta thử cùng một lúc làm nhiều động tác khác nhau. Vừa nói, vừa nghe, tay trái gãi trên đầu, tay phải gãi dưới chân. Nếu chúng ta đi tìm ai nói, ai nghe thì tay quên gãi, là bị ngưng trệ và lúng túng. Hoặc giả sử chú tâm để làm tất cả các động tác cùng một lúc và biết hết tất cả thì lại càng bị căng thẳng hơn, không phải là sức sống chân thật này. Thử không thèm suy nghĩ gì cả. Không thèm chú tâm, cũng không lơ đễnh và không mặc kệ. Cứ để tâm rỗng suốt tự nhiên mà sáng biết rõ ràng thì nói, nghe, gãi trên đầu, gãi dưới chân một cách lưu thông, bình thường; mỗi mỗi động tác rành rẽ rõ ràng, không có cái gì ngăn ngại cái gì cả. Không thèm khởi biết mà tự nó rõ biết một cách tự nhiên, thông suốt. Toàn biết là giác, toàn giác là sáng, giác sáng trùm khắp mà không cần khởi tâm phân biệt hiểu biết về nó như thế nào; thì còn ai khác ngoài trí tuệ chân thật chính mình mà còn đi hỏi? Nói, nghe, gãi và không gãi là ví dụ cho mọi sinh hoạt hằng ngày. Đi, đứng, nói, nín, động dụng..., tùy duyên làm tất cả các công việc một cách bình thường mà linh hoạt; tự nhiên như nhiên mà linh thông, sống động, tự tại vô cùng. Trong đây nếu còn nói thể, nói dụng; còn chút mảy may là chơn là vọng để sống về, giữ gìn thì liền bị ngưng trệ, không thể rỗng rang suốt tột được.

d/ Vào ra tự tại.

Cư sĩ Cát Đàm làm Tri phủ, tự là Khiêm Vấn hiệu Tín Trai. Thuở nhỏ ông thi đậu cao, lại thích nghiên cứu về Thiền. Ban đầu ông đến yết kiến Thiền sư Toàn hiệu Vô Am, cầu chỗ nương tựa...

Một hôm nhân nhắc lại câu “Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải vật”, ông bỗng nhiên sáng tỏ bèn làm tụng:

Phi tâm phi Phật diệc phi vật,             

Ngũ phụng lâu tiền sơn đột ngột.        

Diễm dương ảnh lý đảo phiên thân,       

Dã hồ khiêu nhập kim mao quật.         

Phi tâm phi Phật cũng phi vật,

Trước lầu ngũ phụng núi vút cao.

Trong bóng mặt trời thân lộn nhào,

Chồn hoang nhảy vào hang sư tử.

Thiền sư Vô Am chấp nhận và bảo viết tụng trình Thiền sư Phật Hải, ngài Phật Hải đáp:

Việc này chẳng phải trên giấy bút có thể ghi được. Cư sĩ hãy qua đây, sẽ có chỗ nghe nhận.

Ông đến Hổ Khưu, ngài Phật Hải đón tiếp và bảo:

-       Chỗ thấy của Cư sĩ chỉ có thể vào cảnh giới Phật, cảnh giới ma còn chưa vào được.

Ông càng lễ bái không ngớt, Thiền sư Phật Hải nghiêm sắc mặt bảo:

-       Sao chẳng nói sư tử nhảy vào hang chồn hoang?

Ông liền lãnh hội thấu suốt.

Dù là chơn tâm Phật tánh, đến trong ấy cũng phải bặt dứt, mất hút không còn dấu vết thì mới thật sự tự tại, tùy thời dùng được. Một khơi liền nhảy; là sư tử, là chồn hoang đều im hơi bặt tiếng. Muốn hiện chồn hoang liền hiện, muốn ứng sư tử liền gầm, nhưng mặt mày xưa nay chưa từng thay đổi. Mọi việc hằng ngày sinh hoạt tới lui rất đỗi bình dị, bình thường, mất hút tâm cảnh, nhưng tùy duyên hiển hiện một cách phi thường không ngăn ngại. Lắm lúc cần chồn thì hiện chồn, cần sư tử liền hiện sư tử. Có lúc gặp người lên cao thì mình xuống đất. Gặp người hạ thấp thì mình cao vót chất ngất trời xanh. Cũng có khi người kia lên tận chín tầng trời xanh thì mình cùng lên với họ; khi lặn sâu dưới đáy biển ngàn tầm thì cũng theo họ đi cùng. Đến lúc cái lên đã cùng, cái xuống cũng tận, họ sẽ phải dừng, lúc này ta dạy họ. Đi hoài cũng phải mỏi chân. Dừng lại một nơi an ổn để dạy người thì chưa sạch hết dấu vết nơi chốn. Người chưa thấu đạt thì có lên, có xuống cho nên sẽ có lúc kiệt lực và phải tự động dừng. Người suốt thông điền địa này rồi thì tự tại vô ngại; vẫn xuống vẫn lên cùng họ, nhưng không có tướng lên xuống, máy động bao giờ cho nên nói là lên trời xuống biển mà nào có khác gì với bất động an nhiên. Khi họ dừng rồi thì chỉ bày, khơi gợi, khéo đánh động cho họ trở về trong chân trời tự tánh vô tướng chân thật nơi chính mỗi người. Đó là truyền pháp độ sanh.

Thiền sư Đạo Khoan ở Đại Ninh, Hồng Châu nói: ““Diệu quyết của Thiếu Lâm, gia phong của cổ Phật, ứng dụng tùy cơ, co duỗi tự tại. Như nắm tay làm bàn tay, có lúc xòe, có lúc nắm; tợ nước thành bọt, nổi tan không cố định, động tĩnh đều hiển rõ, nói nín toàn bày, muôn dụng tự nhiên, chẳng nhọc tâm lực. Đến trong đây gọi là thuận nước thả thuyền. Hãy nói, nghịch gió gay chèo, thì ai là tay giỏi?” Im lặng giây lâu, Sư nói: “Đùa sóng phải là người đùa sóng.” Bèn hét một hét, nói: “Trân trọng!”

Người hay sạch hết bóng dáng là Phật là ma mà tùy thời vào Phật vào ma một cách tự tại thì nói gì là thuận nước, gì là nghịch gió? Lúc này thuận nước thả thuyền hay nghịch gió gay chèo chỉ là bình thường như thường, nào có tướng gì để bàn nói? Bặt hết các tướng mà có đại năng lực tùy hiện các tướng một cách tự tại vô ngại nhưng vẫn không tướng mạo gì. Có tướng không tướng đồng thời sạch sành sanh, vốn tự bình thường mà sống động phi thường thì mới cảm nhận phần nào trong muôn một, mới thấy được Thiền sư Duyên Quán ở Lương Sơn nói: “Dấy mòi mà không phải sóng.” Thầy Tri viên hỏi: “Chợt khi đầm nghiêng nước đổ thì thế nào?” Sư bước xuống giường thiền nắm đứng và quát: “Chớ nói ướt góc ca sa của lão tăng”. Tạm nêu bày chút ít để hành giả nhất thời có thể cảm nhận được phần nào. Suốt tột rõ ràng sẽ tự dùng được, cần gì phải hiểu!

Từ ý nghĩa sâu xa đặc biệt này, đôi câu đối được ra đời tại Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã: “Tịch tịch viện trung, tàng thanh chúng nhất hoài viên diệu. Đình đình môn ngoại, đối nhân gian vạn ứng huyền cơ.” Nghĩa là: “Vắng bặt trong đây, ẩn thanh chúng một lòng viên diệu. Vòi vọi ngoài ấy, đối nhân gian muôn ứng huyền cơ.”. Vắng bặt không tướng hình, nhưng có cơ liền ứng hiện cơ huyền. Đó là trong thể sẵn có dụng nên gọi là trí thể. Khi trong đây rỗng rang, sáng rỡ, không động thì nhất cử nhất động, làm bất cứ gì cũng đều là huyền cơ. Đây là trong dụng sẵn đủ trí thể cho nên gọi là trí dụng. Thể dụng không hai, ẩn hiện tùy thời mà mất hút các tướng có và không, trong và ngoài, tùy duyên vào ra tự tại không ngăn ngại.

Đã thế tại sao còn nói trong đây, ngoài ấy? Nếu không nói được trong ngoài thì rõ ràng vẫn còn thấy có tự tánh để giữ gìn, còn bị trong ngoài ngăn lối. Còn bất kỳ một điều gì không nói được là còn bị điều ấy làm ngăn ngại, tâm chưa suốt khắp. Nếu đã một vật cũng không dù đó là tâm hay tánh mà vẫn rạng ngời không một vết mê thì tùy thời nói trong nói ngoài, có gì ngăn ngại? Khi không duyên gì, thì chư Phật cũng không thể thấy. Lúc cần ứng hiện, thì tùy thời hiện rồng hiện rắn, đến cả mọi thứ thế giới hà sa để đưa người học trở về nhận lại trí tánh thanh tịnh nơi chính họ. Sức sống thiền tăng chỉ có thế thôi! Không nhiều, không ít.

e/ Tóm kết.

Ngộ thì thẳng đó liền ngộ, không qua thứ lớp từ từ. Tuy nhiên, do căn cơ không đồng cho nên khi ngộ cũng có sâu cạn khác nhau. Mà trên thực tế thì có nhiều hành giả cũng từng phải trải qua nhiều phen ngộ, sống cho thuần mới phát huy năng lực, diệu dụng mới được tròn đầy. Do đó chúng tôi tạm tóm lược một vài đặc điểm căn bản để hành giả chiêm nghiệm lại công phu của mình trong lúc tiến tu.

Ban đầu từ sai biệt sanh diệt loạn động của phàm phu, phát tâm quy hướng Phật đạo, học hỏi, dụng công tu tập để trở về nhận lại tự tánh bình đẳng nơi chính mình. Lúc này quý ngài chỉ dạy: “Tức tâm tức Phật”. Tin ngay bản tâm không sanh không diệt nơi chính mình là Phật, mình có khả năng tu hành thành Phật.

Khi sáng ra và sống được bằng tự tánh bình đẳng rồi thì vốn tự không động, tâm Phật hiện tiền. Tuy nhiên lúc này như gương còn ở trên đài, trong lặng chiếu soi nhưng vẫn thầm thầm như còn có vật để giữ gìn cho nên đâu đó còn chút ngăn ngại, chưa thể linh hoạt tự tại, diệu dụng chưa phát huy nhiều. Lúc này quý ngài sẽ dạy: “Phi tâm phi Phật”. Không luôn cái thầm thầm nắm giữ trong hông ngực thì thể dụng mới dung thông và linh hoạt hơn.

Nhưng ngang đây vẫn chưa phát huy hết lực dụng cho nên chưa được tự tại. Lúc bình thường, trên mọi việc vừa sức của mình cho phép dụng công được, có sống được với thể tròn đầy thì trên mọi sinh hoạt như thế, nó luôn hiển hiện rõ ràng, không mất. Nhưng khi bộn bề công việc ở trong điều kiện không thuận lợi, có tính áp lực cao hơn thì lại không thực sự được dung thông. Mới biết ngang đây còn ngầm thấy có tự tánh riêng để giữ gìn, để sống; có công việc riêng để làm cho nên chưa khỏi ngăn ngại. Để hành giả tiến thêm, quý ngài dạy: “Phi vật”. Tất cả vật dù là chân tâm, Phật tánh; dù là không tâm, không Phật nhưng in tuồng một vật; dù là Phật pháp hay phi Phật pháp đều phải nhất thời bặt tăm, sạch hết dấu vết. Nói liền nghe, nhìn liền thấy mà linh thông phát kiến phi thường.

Cho dù thấy tâm cảnh là một thì vẫn chưa rời tướng dù đó là vô tướng. Nếu bảo tâm cảnh nhất như, là một, như vậy mình có thấy biết thì cây tre tự nó cũng phải thấy biết. Nếu thế thì cây tre cũng phải tu hành thành Phật được. Nhưng trên thực tế thì không có điều đó. Cho nên các Thiền sư nói: “Trúc biếc xanh xanh thảy đều pháp thân. Nếu bảo trúc là pháp thân (là một với mình) thì hôm qua chú Sa di ăn măng rừng là ăn pháp thân rồi sao?” Nếu cho rằng có một tự tánh sáng biết vô tướng bất động đang thấy biết cây tre; do thấy biết rõ ràng mà không khởi phân biệt nên tâm và cảnh như như. Nếu thế thì một đằng bảo là không khởi phân biệt, mà đằng này đã nói ‘có một cái tâm không phân biệt’ và ‘có cây tre’ để ‘đang thấy biết’ là đã có phân hai rồi. Mà còn là hai thì chưa rời sanh diệt, còn vọng động, sanh tử khổ đau. Không phải một, cũng chẳng phải khác; tâm và cảnh đều mất hút đi, tùy duyên hiện bày tự tại; ngay đó có thiếu gì đâu mà phải luận bàn dong dài là tâm, là cảnh, là một, là khác! Cho nên các Thiền sư nói: “Tâm, Phật, chúng sanh; bình đẳng vốn không sai khác.” Bình đẳng bởi các tướng đều mất hút. Không sai khác bởi hay tùy thời nói tâm, nói Phật, thị hiện chúng sanh mà tự tánh kia không có tướng mấy động hiển hiện là gì cả. Người đến đây rồi thì tự thọ dụng, tha thọ dụng đầy đủ; mới có phần thong dong tự tại không ngăn ngại, tùy thời sử dụng, thiếu gì!

III. SỰ KHÁC NHAU GIỮA TRÍ TUỆ HỮU SƯ VÀ TRÍ TUỆ VÔ SƯ.

1/ Một thể nhưng do biến dạng nên thành hai loại. 

Như cùng một hơi thở nơi mỗi người, nhưng khi hít vào thì cảm nhận hơi thở lạnh, lúc thở ra thì lại thấy ấm hơn. Ấm hay lạnh chỉ là hai trạng thái trong một hơi thở. Như sóng và nước tuy có khác, nhưng tánh ướt chỉ có một. Hay úp ngữa một bàn tay. Khi úp thì không phải ngữa, khi ngữa thì chẳng phải là bàn tay úp. Úp ngữa tuy khác, nhưng nằm trên một bàn tay.

Trong một con người không thể đồng thời tồn tại hai thực thể. Trí tuệ cũng vậy, không phải có hai loại trí tuệ hữu sư và vô sư song song cùng tồn tại một lúc. Bản thân trí tuệ chỉ có một như chỉ có một con người, nhưng do bị biến đổi tâm thái cho nên có ra trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư.

Nếu tâm còn loạn động thì học hỏi, hiểu biết hay làm bất cứ gì cũng thuộc về trí tuệ hữu sư. Bởi còn trong vòng học hỏi từ bên ngoài. Dù có chiêm nghiệm tự nhận biết cũng là nhận biết câu chuyện hoặc những hiện tượng bên ngoài để tích góp, gom vào cho nên gọi là trí tuệ hữu sư.

Nếu chuyên tâm thiền định, khéo điều phục được tâm kia; tâm tự vắng lặng mà rờ rỡ sáng biết rõ ràng thì không cần có tướng nghĩ suy hiểu biết mà tâm ấy vẫn thấu suốt biết hết tất cả một cách linh thông, không thể nghĩ bàn đến được. Đây là khám phá và nhận lại chính mình, không phải bên ngoài. Một khi bản tâm đã được hiển lộ thì không còn có tướng trong ngoài, do đó biết hết mọi thứ một cách thông tuệ siêu việt, nhưng vẫn không rời tự tánh thấy biết chân thật này. Lúc này gọi là trí tuệ vô sư.

2/ Động và không động. 

Trí tuệ hữu sư và trí tuệ vô sư có vô vàn những khác nhau không thể kể hết. Chúng tôi chỉ nêu ra một vài điểm nổi bậc để quý vị tạm nhận diện và biết qua.

Trí tuệ hữu sư thì có niệm, có ý tưởng hiện thành tướng logic, còn loạn động, sanh diệt. Do đó càng sống và làm việc, con người càng bị mất năng lượng, mờ tối đi. Đồng thời, nó có giới hạn, cùng một lúc không thể làm nhiều việc. Nếu có cố để làm nhiều thứ cùng một lúc thì đầu óc sẽ tự tụt mất dữ liệu, cố ép khởi nghĩ tiếp để làm thì sẽ bị mắc ói... Những đặc tính hữu hạn như vậy là do trí tuệ hữu sư chưa thoát khỏi sự chi phối của mê mờ, còn trong hạn lượng của các tướng niệm khởi diệt, còn bị sanh tử, khổ đau.

Trong khi trí tuệ vô sư thì không niệm, không động mà linh thông. Cùng lúc biết đủ tất cả một cách rất logic mà không có tướng của nghĩ suy, không sanh diệt. Chính vì không có tướng động mà suốt thông linh hoạt một cách đầy đủ tự nhiên cho nên càng sống càng được tăng thêm năng lực chứ không bị tổn giảm. Tính chất của trí tuệ vô sư là an định, giác sáng, lạc an vô hạn vô biên, không còn bị các khổ chi phối, tiến đến dứt sạch đại khổ sanh tử.

3/ Con người thường dừng lại ở trí tuệ hữu sư và bậc giác ngộ trí tuệ vô sư thì có gì khác?

Nhìn chung, bao nhiêu nỗi khổ, niềm đau và bất an trong lòng đều do sự sinh diệt tiếp nối liên tục và dao động của tư tưởng. Chính sự dao động này đã che mờ trí tuệ tiềm ẩn vĩ đại trong mỗi chúng ta. Cho nên, nếu người chỉ đạt được trí tuệ hữu sư thì còn trong dao động của sanh diệt, không thể nào không khổ được. Nếu khéo tu tập Thiền định nhận ra trí tuệ vô sư thì mới đạt được tâm bình thường đúng nghĩa, mới giúp cho con người thoát khỏi mọi ràng buộc khổ đau trong tư tưởng, và là nền tảng để đi đến trí tuệ cao minh. Khi lặng lại thì chúng ta thấy biết đầy đủ, nhận ra mọi vấn đề được mạch lạc, logic, rõ ràng hơn. Cho thấy, nếu không nhờ vào thiền định thì không thể có toàn trí, vô sư trí hay còn gọi là Phật trí. Là con người ít nhiều đều bị chi phối, lệ thuộc bởi những tư tưởng còn hạn chế rất nhiều. Sự hạn chế này biểu hiện qua nhiều phương thức khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ qua sáu phương thức trong Thiền Đạo Tu Tập, chúng tôi sẽ nêu ra và chú giải cụ thể dưới đây:

  1. a.    Phương thức tư tưởng con người có tính tích lũy.

Kiến thức con người đạt được bằng một tiến trình tích tụ và tích lũy dần dần. Nhờ vào sự tích lũy này mà tài năng phát triển, có thể viết sách, diễn đạt những tư tưởng phức tạp, hay những ý niệm mới, phát minh sáng tạo... Đây là một tiến trình kiến tạo và gia tăng hàn gắn với những mảnh kiến thức mới, thâu hoạch vào khối kiến thức cũ mà bản chất của nó là hữu hạn, cục bộ, hạn chế và ước định. Nó không bao giờ có điểm tận cùng; giống như hứng từng giọt nước mưa trên mái nhà tranh, dù suốt cả đời cũng chẳng là bao so với biển cả. Nhà Bác học Newton nói “Dù những phát minh của con người đến đâu đi nữa thì đối với những gì mình chưa biết như giọt nước so với biển cả mà thôi”.

b. Phương thức tư duy của con người có tính hữu hạn. 

Thông thường chúng ta có thể tư duy một đối tượng trong cùng một thời điểm, hoặc rất ít người trong cùng thời điểm có thể giải quyết vài vấn đề. Tuy nhiên con người không thể có sự chú tâm và giải quyết nhiều sự kiện trong cùng một lúc. Khi ta xem phim thì không thể đọc báo, và vừa như thế lại không thể trả lời câu hỏi, rồi nghiên cứu một bài toán chưa giải quyết xong… Nếu chú tâm để nhận biết và giải quyết nhiều vấn đề cùng một lúc thì chỉ thêm căng thẳng, không thể duy trì tồn tại lâu dài. Đó cũng là tính hữu hạn của những người chỉ có trí tuệ hữu sư. Trong khi đó trí tuệ vô sư thì vô hạn. Hành giả tu tập thể nghiệm được rồi thì càng sống bằng trí tuệ vô sư, năng lực càng được mạnh thêm, sáng ra. Đức Phật đạt được trí tuệ vô sư trọn vẹn cho nên đạt được nhất thiết chủng trí, biết suốt tất cả mà không qua tư duy học hỏi như phàm phu. Những thấy biết của ngài được ghi chép lại trong Kinh sách đã hơn hai nghìn năm trăm năm, nhưng cho tới bây giờ khoa học mới khám phá ra được. Khoa học càng văn minh tiến bộ, càng phát minh thì lại càng thấy ra những gì đức Phật đã nói là đúng.

c. Phương thức tư tưởng con người có tính mâu thuẫn. 

Tình cảm và lý trí là hai thành phần chính trong tâm trí của con người, nhưng nó lại xung đột và tỷ lệ nghịch với nhau. Khi chúng ta miệt mài cố giải quyết một vấn đề triết lý hay toán học, lúc này các quan năng lý trí được lên cao độ thì tình cảm sẽ nhỏ nhiệm và nhu nhược. Trái lại, chúng ta đang rất đau khổ hay quá mừng vui, tình cảm lên cao độ thì lý trí hầu như trở nên yếu ớt, thấp hèn. Thế nên chúng ta chưa bao giờ nghe một nhà khoa học nào soạn thảo được một định lý, hay một khám phá mới mẻ đang khi cãi nhau, hoặc đang lúc giữa bữa tiệc hát ca ồn ào náo nhiệt.

Đạt được Trí tuệ Vô sư thì tình cảm biến thành từ bi và lý trí trở lại nguồn cội của nó là trí tuệ vô sư.

Khi sống bằng trí tuệ vô sư thì lòng mình lớn rộng, thương cho chúng sanh mê mờ, vì không nhận được trí tuệ này mà phải chịu những đau thương không đáng có. Bằng vào trí tuệ vô sư không động và thương cho sự mê mờ của chúng sanh thì mới được gọi là từ bi. Từ bi chỉ đúng nghĩa khi và chỉ khi đã thấu đạt trí tuệ cội nguồn chân thật này. Nếu rời trí tuệ thì dù tình thương có rộng lớn bao la đến đâu cũng còn nằm trong phạm trù của ái, cũng chỉ được gọi là bác ái mà thôi. Trí tuệ vô sư là vô tướng, không sanh diệt cho nên lớn rộng không thể tính kể hết. Chỉ có trí giác không động mà lớn rộng vô biên này mới có được lòng từ bi lớn rộng đúng như nghĩa của nó. Trí tuệ càng lớn rộng thì lòng từ bi càng quảng đại. Do đó, trí tuệ và từ bi không những không mâu thuẫn mà chúng còn tồn tại đồng thời và tỷ lệ thuận với nhau. Khác với tình cảm và lý trí hữu sư luôn xung đột và tỷ lệ nghịch.

Trong sách “Những Trí Tuệ Siêu Việt Thế Giới” có câu hỏi: “Danh nhân có phải lúc nào cũng tuyệt vời?” Nhà Bác học Einstein trả lời: “Không! Chỉ có con người điên mới tin những câu tán tụng như thế. Tôi không điên”.

d. Phương thức tư tưởng và giác quan con người có tính trái ngược nhau. 

Nhìn vào bức tường trong căn phòng, đôi mắt cho ta biết là bề mặt thẳng đứng, bằng phẳng, vững vàng và yên lặng. Sờ vào nó ta cảm giác chắc, lạnh và đặc… Nhưng khi nhớ lại những kiến thức vật lý, hóa học cho ta nhận biết rằng, bức tường đó gồm nhiều hợp chất và thành phần khác nhau, hàm chứa vô số phân tử, nguyên tử, điện tử… tất cả đang không ngừng chuyển động bằng những tốc độ khó tin trong vô số quỹ đạo của chúng mà tạm hình thành, có ra. Thế là, cảm quan và tâm thức cho chúng ta biết những tình tiết trái ngược nhau trong cùng một sự vật. Với con mắt thì thấy bức tường đang thẳng đứng, bất động. Nhưng với tri thức hiểu biết thì bức tường là những chuyển động không ngừng của các nguyên tử, phân tử, lượng tử... Như vậy, bức tường là đang chuyển động hay bất động? Chúng ta nên chấp nhận theo cái thấy nào? Bức tường đang tĩnh là đúng, hay đang động mới là đúng? Theo quan điểm của con mắt nhìn thấy và nhớ lại những gì đã đọc học thì mới nói bức tường trước mắt mình là đang tĩnh hoặc đang động mới là đúng. Nhưng nếu nhắm mắt lại và trí không nhớ gì, lúc này chỉ theo quan điểm của mũi, của lưỡi… thì động và tĩnh cả hai đều sai! Một tiêu chuẩn như vậy thì cả đúng và sai đều vô nghĩa. Vì thế, sự tìm kiếm chân lý tuyệt đối bằng ý thức hệ qua các giác quan với những luận điệu nối tiếp đến vô cùng, vô bờ và có khi là cả thất vọng.

Tâm thức nhân loại (trí tuệ hữu sư) không kết nối được sự chia cách cảnh giới “liễu tri gián tiếp” và “chứng tri trực tiếp”. Do đó, chúng ta có thể hiểu cơ cấu nguyên tử của sự vật, nhưng lại không thể tự thấy và thể nghiệm trực tiếp chúng được.

e. Phương thức tư tưởng con người không phát huy hết những gì vốn có. 

Thành phần chính yếu năng lực hay tài năng tinh thần của chúng ta không bao giờ được sử dụng trọn vẹn, ngay cả thành phần năng lực nhỏ nhoi mà tâm thức trung bình của con người rút ra cũng thường bị phân tán, lãng phí vì dao động. Nếu như học được cách tập trung, nhờ đó sẽ sử dụng được trọn vẹn năng lực tinh thần của mình.

Một tâm thức vĩ đại thì không chậm chạp hay đờ đẫn, cũng không suy nhược hay bất nhất. Những người được xem là sâu sắc vững vàng thường có khả năng tập trung cao. Song, người ta cũng vẫn thường phí cả đời vào những việc nhỏ nhoi, đeo đuổi những vụn vặt vô ích; trong khi cái kho tàng vô tận sẵn có (trí tuệ vô sư) vẫn chưa sử dụng đến. Theo khoa học, ý thức con người chỉ tồn tại trên vỏ não, còn khối não bên trong vẫn chưa phát huy hết được. Nhà Phật gọi năng lực tiềm tàng trong chúng sanh là Phật tánh hay trí tuệ vô sư sẵn có, nhưng phải do công năng tu tập thiền định mới phát khởi được.

f. Phương thức tư tưởng của con người có tính chấp thực. 

Đây là điểm quan trọng có xu hướng bẩm sinh của tâm thức con người, luôn chấp vạn hữu là thực có, hiển nhiên, có tính chuyên đoán, cố định thâm căn. Ngày nay khoa học vẫn chưa tìm ra chất cơ bản để cấu tạo nên vũ trụ vạn hữu mà chỉ thấy được vạn vật do nhiều nguyên tử, phân tử, lượng tử... xoay quanh nhau tụ lại mà thành. Trong khi đó triết lý Phật giáo Thiền tông đã nói các pháp (muôn sự muôn vật) đều không có thực thể hay chủ tể (không có một cái gì là chủ để làm nên); tất cả chỉ là duyên hợp giả có cho nên thật tướng của muôn pháp là hư ảo, không thật. Và điều này đã được khẳng định từ hơn mấy ngàn năm trước. Thế nhưng, xu thế chung con người vẫn chưa thoát khỏi mê lầm chấp thực này.

Bằng sáu phương thức tư tưởng trên đây, con người không thể đạt được toàn trí. Bởi lẽ chúng có tính phù trầm, di động và biến dịch, tuôn chảy như dòng sông, ngoằn ngoèo, đầy gềnh thác. Đồng thời muốn phát huy được nó, con người lại phải tác động trên phương diện hoạt động. Trong khi đó ý thức siêu việt (trí tuệ cội nguồn, trí toàn thể, trí tuệ vô sư) không cần phải thăng trầm, biến dịch, vì nó bao trùm vạn pháp, nhận biết toàn thể; cũng không cần phải biến dịch hình tướng hay điều chỉnh bởi những tác nhân, vì tất cả vô lượng hình tướng và khả năng thể hiện trong lòng vô hạn ý thức tối thượng (phân biệt mà không phải ý), luôn luôn đồng thời hiện hành viên mãn tương tức, tương nhập. Nếu chỉ dừng lại ở trí tuệ hữu sư mà chưa thấu đạt trí tuệ vô sư thì con người không tài nào thoát ra được những hạn hẹp của ý thức, bởi năng lực không đủ lớn để tự vượt thoát. Một vài đặc điểm tiêu biểu như thế cho thấy sự hạn hữu của trí tuệ hữu sư. Đạt được trí tuệ vô sư sẽ giúp cho con người xé toang, thiêu rụi những hạn hữu ấy, đạt đến toàn thể, rộng lớn, vô hạn. Mới biết, giá trị vô hạn của trí tuệ vô sư và sự hạn hữu của trí tuệ hữu sư cách xa nhau lớn lao là như thế nào.

IV. ĐỂ ĐẠT ĐƯỢC TRÍ TUỆ VÔ SƯ.

1/ Rời hai nhóm cực đoan: tạo tác, cố chấp, kềm giữ và vô minh, lờ mờ, không rõ ràng.

Gọi là trí tuệ vô sư bởi nó sẵn có nơi mỗi người, không thể do ai ban cho mà được. Nhưng hiện đang bị những mê mờ và loạn động che lấp khiến nó không thể phát huy. Để nhận lại, chỉ có thực hành thiền định đúng pháp là cách tối ưu nhất. Đúng pháp là không phương pháp; không phương pháp cũng là một phương pháp. Không phải do tu hành, cũng chẳng phải không tu hành. Vị thầy có khả năng khai thị như thế để người học có thể nhận chân và sống được bằng trí tuệ vô sư. Đó gọi là tu thiền, là thực hành thiền định đúng pháp. Cụ thể, do trí tuệ vô sư vốn đã sẵn đủ nơi mỗi người, không do tạo tác, không do làm ra, vì vậy không phải do tu hành mà đạt được. Bởi nếu do tu hành hay làm bất cứ gì thì đều rơi vào tạo tác. Nhưng nếu để yên tự nhiên không tu hành, không làm gì cả thì bị vô minh phiền não ngập tràn, không thể hiển lộ. Rời tu hành là rời tạo tác; rời để tự nhiên là rời vô minh; rời hai nhóm cực đoan tạo tác, cố chấp, kềm giữ và vô minh, lờ mờ, không rõ ràng, ngay đó là chân thật tu hành. Bậc thầy sáng mắt ngộ tâm sẽ biết cách vận dụng để chỉ bày cho hành giả ngộ nhập.

2/ Buông xuống, rủ sạch và an nhiên, giác sáng.

Phật pháp không nhiều, nhưng do tâm bệnh của chúng sanh mà Phật pháp có nhiều phương thuốc để điều trị. Đó là ở bình diện đối trị. Tuy nhiên, nếu hành giả đã đi vào hạ thủ công phu tu tập một cách thiết thực thì tựu trung chỉ có hai việc; đó là buông xuống, rủ xuống và an nhiên mà giác sáng rõ ràng.

a. Buông xuống, rủ sạch (có tính chất trước mắt).

Cụ thể, việc trước tiên là buông xuống, rủ sạch các duyên, không dính chấp vào bất cứ gì để trần lao phiền não không lớn mạnh, tràn bờ, che lấp, chôn vùi, khiến trí tuệ vô sư không phát huy được. Một buông tất cả thảy đều buông. Khéo léo buông rủ xuống ngoại cảnh, thân tâm và mọi cảm giác vi tế đang tồn tại. Buông đến tột cùng sẽ được rỗng suốt; rỗng suốt sẽ có lúc vỡ vụn, tan tành. Trong khoảng thình lình như trong đêm đen bước hụt chân xuống hố sâu, bất chợt vỡ toang mất sạch không còn gì, một tánh sáng ngời hiển lộ, tự mình thấy biết rõ ràng mà không phải trên thân hay ngoài thân. Đi, đứng, nói, cười, tung tăng vẫn không hề có tướng động.

Nếu chưa vỡ tung như thế thì phương pháp buông xuống này sẽ là công phu trước mắt khiến cho vọng tình, vô minh, phiền não ngày một vơi bớt. Nói là trước mắt bởi đây là việc làm cần thiết, nhưng mang tính hỗ trợ, tạm thời. Bởi không phải chỉ do làm việc này mà được ngộ đạo. Nhưng nếu không tu tập như vậy thì cũng không thể giúp cho chúng ta tiến đạo được. Đây là phương pháp hỗ trợ cho công phu giác sáng mang tính chất lâu dài.

b. An nhiên, Giác sáng (có tính chất lâu dài).

Nói là lâu dài bởi nó là phương thức chính, có tính chất trọng tâm, căn cơ, bền vững, lâu dài. Công phu tu tập này thẳng đến tự tánh, khi thời tiết nhân duyên chín muồi, trí tuệ vô sư hiện tiền, hiển lộ.

Cụ thể, song song với công phu tu tập tọa thiền, trong mọi sinh hoạt hằng ngày, trên mọi hoàn cảnh, bất kỳ lúc nào hành giả cũng phải luôn luôn an nhiên, tỉnh giác, giác sáng rõ ràng. Nếu an nhiên mà không giác sáng thì dễ rơi vào hôn trầm, vô ký. Nếu tỉnh giác, giác sáng mà thiếu sự an nhiên thì khi dụng công dễ bị căng thẳng, mất ngủ. Muốn công phu khế hợp để dễ tiến đạo mà không bị trở ngại, hành giả lưu ý ba phương diện. Một là buông xuống, rủ sạch. Đây là bước đệm hỗ trợ cho công phu chính được đắc lực. Hai là an nhiên. Và ba là tỉnh giác, giác sáng. Hai bước sau này là công phu chính, thẳng đến tự tánh giác sáng mỗi người. Nếu người bình thường thì ứng dụng ba phương diện trên theo tuần tự có trước có sau. Người lanh lợi có công phu đắc lực thì trong một tâm đã hiện bày đủ kết quả của ba tính chất trên cho nên không bị thiên lệch, công phu không bị trở ngại. Cứ như thế theo thời gian, một mặt nhờ vào công phu buông xả cho nên vọng niệm, trần lao phiền não thưa thớt đến mức yếu ớt. Mặt khác, nhờ công phu thiền định và hằng ngày luôn luôn giác sáng do đó sức giác tự lớn mạnh, căn thức mê mờ bị suy yếu đến tận cùng. Khi thời tiết nhân duyên chín muồi, bất ngờ trong cùng khoảnh khắc chớp nhoáng, sức giác vụt sáng, căn thức vụt tan, mặt trời trí tuệ vô sư hiển lộ rõ ràng. Thân tâm mất sạch, sáng rỡ, thênh thang; đi, đứng, nói, cười, làm lụng công việc một cách linh thông, nhưng không hề thấy có tướng động. Tất cả các tướng vận hành hoạt động đều không ra ngoài tự tánh thênh thang bất động này, cho nên sống động mà không động; bất động nhưng vẫn sinh động, hoạt bác, quắt thước vô cùng.

E. KẾT LUẬN.

Điểm đặc trưng để nhận ra con người khác với vạn vật là có nhận thức, hiểu biết và xa hơn là trí tuệ. Ai cũng có trí tuệ. Nếu do học hỏi, tích lũy kiến thức, kinh nghiệm và nhận thức..., tức là do từ bên ngoài mà được, đó là trí tuệ hữu sư. Nhưng cội nguồn của những hiểu biết cho đến phát minh đều từ trí tuệ nguồn, trí tuệ vô sư. Nếu không có trí tuệ nguồn thì trí tuệ hữu sư không tồn tại. Cho nên, trí tuệ hữu sư là sự biến đổi trên bề nổi, là sự phảng phất tỏa ra từ trí tuệ nguồn vô sư. Người chưa nhận ra trí tuệ vô sư thì còn trong loạn động sanh diệt, chỉ thừa hưởng phần nào sự biến dạng của trí tuệ nguồn này. Nếu khéo nhận lại và sống bằng trí tuệ vô sư thì sự biến dạng kia không còn, sẽ trở lại đúng bản chất trí tuệ gốc nơi mỗi người, hết thảy diệu dụng đều từ trong đây mà được phát huy và ứng ra rất kịp thời, suốt thông, phong phú. Không kể đến những bậc xuất trần một nghe ngàn ngộ. Còn lại, để đạt được và sống trọn vẹn bằng trí tuệ vô sư thì cần phải có thời gian thực hành thiền tập. Hiện tại ngay đây, muôn duyên rủ xuống, buông sạch; rỗng rang, trí sáng, lạc an; tức thời tự mình cảm nhận được phần nào giá trị của trí tuệ vô sư trong muôn một.

 

 

 

 

Các bài đã đăng

Thiền với tuổi trẻ

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Tin mới

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 88935
  • Online: 33