Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ (Phần 03)

10/03/2025 | Lượt xem: 7

TS.Thiên Cơ

HT.Thích Thanh Từ dịch và giảng

Thế nào là chánh? Người học phải đủ con mắt lựa pháp, một ngàn bảy trăm tổ sư đều là mô phạm, nếu sai một hào ly thì vào đường tà. Kinh nói: “Chỉ đây một việc thật, còn hai thì chẳng chân.”

Kinh Pháp Hoa nói: Chỉ đây một việc thật, còn hai thì chẳng chân. Đối với pháp tu, chúng ta phải hiểu thấu đáo, thấy đúng lý, hiểu biết chân chánh rồi thì mới biết muôn pháp Phật nói không có hai.

Thế nào là miên mật? Lông mày cùng hư không kết chặt, mũi kim găm chẳng lủng, nước rưới chẳng ướt, chẳng cho một tí kẽ hở. Nếu có một tí kẽ hở thì ma cảnh theo kẽ hở chui vào. Cổ đức nói: “Một phút chẳng hiện có, giống như người chết.”

Chúng ta tu phải miên mật, ngồi thiền phải luôn tỉnh sáng, nhìn từng niệm không lơi lỏng. Mỗi niệm dấy lên đều thấy, đều buông, đó mới đúng.

Thế nào là dung hoát? Thế giới rộng một trượng thì gương xưa (cổ kính) rộng một trượng, gương xưa rộng một trượng thì lò lửa rộng một trượng, quyết định không cố chấp ở một chỗ. Nắm chặt đầu rắn chết, cũng không kẹt ở hai đầu, mênh mông lênh láng. Cổ đức nói: “Tròn đồng thái hư, không thiếu không dư.” Thật đến chỗ dung hoát thì trong không thấy có thân tâm, ngoài không thấy có thế giới, mới được lối vào.

Khi tu chúng ta thường nghĩ tâm ở trong thân này, không ai dám nói tâm mình trùm cả thái hư. Nếu tâm suy nghĩ duyên với cảnh mình chú ý, cảnh to tâm duyên theo to, cảnh nhỏ tâm duyên theo nhỏ. Thí dụ khi ngồi thiền nhớ mũi kim thì tâm duyên theo mũi kim, nhớ ngọn núi thì tâm duyên theo ngọn núi, to hay nhỏ tùy tâm duyên cảnh. Khi tâm không duyên cảnh, không nghĩ ngợi, không bóng hình nào, mà hằng tri hằng giác thì tâm đó dung hoát, rộng lớn như hư không, thênh thang mênh mông, trùm khắp thái hư.

Bốn thứ này chẳng phải có thứ lớp trước sau, cần phải đồng hành.

Khẩn mà không chánh thì uổng dụng công. Chánh mà không khẩn thì không thể vào. Đã vào cần phải miên mật mới được tương ưng. Đã tương ưng phải dung hoát mới làm hóa cảnh.

Bốn điều thiết yếu cần phải nhớ là chánh, khẩn, miên mật và dung hoát. Chánh là phải biết đúng, biết đúng rồi phải khẩn thiết tu, tu thì phải miên mật, miên mật rồi thấy tâm mình trùm khắp là dung hoát.

Hạ thủ công phu tu thiền không được có một mảy niệm khác. Đi đứng ngồi nằm luôn luôn đề khởi câu thoại đầu đã tham. Phát khởi nghi tình, hẳn phải giải quyết cái ấy cho xong xuôi. Nếu có một mảy may niệm khác, người xưa gọi đó là tạp độc nhập tâm, đâu những hại thân mạng, mà nó hại cả tuệ mạng. Người học không thể không cẩn thận.

Từ tu thoại đầu suy ra những pháp môn khác. Tu thoại đầu thì đi đứng nằm ngồi luôn đề câu thoại đầu, không khởi niệm khác. Tu niệm Phật thì chỉ một câu niệm Phật. Tu phản quan biết vọng, nhìn thấy niệm khởi liền buông, không xao lãng. Muốn giải thoát phải ngay niệm khởi dẹp thật sạch mới không bị nghiệp dẫn lôi đi trong sanh tử.

Tôi nói niệm khác không phải chỉ pháp thế gian, trừ ngoài câu thoại đầu tâm đang tham cứu, tất cả việc tốt trong Phật pháp đều gọi là niệm khác. Lại, không những việc trong Phật pháp, mà ở trên tâm thể sanh thủ, xả, chấp, buông đều là niệm khác.

Khi chúng ta chuyên một pháp tu rồi thì không cho những niệm khác xen vào. Niệm khác không phải chỉ là niệm xấu quấy thế gian, mà khởi nghĩ những chuyện trong Phật pháp ngoài câu thoại đầu, câu niệm Phật hay cái biết vọng, đều gọi là niệm khác. Tâm thể sanh ra thủ, xả, chấp, buông cũng là niệm khác. Chỉ một niệm tu, không một niệm nào khác, đó mới đúng.

Khi chúng ta ngồi thiền tâm thanh tịnh đôi phần, tự nhớ những câu kinh bài kệ trước kia không hiểu, nay bỗng dưng hiểu ra thấy hay quá, ngồi suy luận riết đến hết giờ thiền. Như vậy cũng tốt mà cũng có hại. Tốt là hiểu đạo lý sâu rộng hơn, nhưng hại là mất thời giờ tu, tâm loạn động không còn thanh tịnh. Cho nên khi tọa thiền niệm vừa khởi dù hay, biết nó là động liền bỏ, đừng có tiếc. Phải khéo tu như vậy thì kết quả mới đầy đủ.

Hạ thủ công phu tu thiền đối với tất cả sự vật trên đời, nào là đáng yêu đáng ghét đáng mừng đáng buồn, các thứ tình cảm suy nghĩ thảy đều dẹp hết. Chỉ còn cái chánh giác của ta, chẳng đoái hoài những việc khác. Lại, cốt yếu làm một người vô dụng, mặc tình người đến bắt bẻ ta, ta chỉ làm kẻ vô tri vô lý; mặc tình người đến cười chê ta, ta cũng chỉ làm kẻ vô tri vô lý. Ta cốt soi xét cái chánh giác chính mình, không dám biếng trễ để qua thời giờ.

Khi tu muốn không xao lãng phải chuyên trong niệm chánh giác. Ai khen ai chê đều không quan tâm, chỉ giữ chánh niệm mới thực hiện được bản hoài của mình. Nếu khi tu mà nghe ai nói điều gì, chúng ta tìm cách lý luận rồi suy ngẫm để cho hơn, cho thắng, nên mọi thị phi đều mắc kẹt. Vì vậy những chuyện đáng yêu, đáng ghét, đáng mừng, đáng buồn, các thứ tình cảm suy nghĩ thảy đều dẹp hết, tất cả đều buông. Lý luận suy ngẫm cũng là hay, nhưng đối với thiền thì mất thời giờ vô ích. Lời dạy đây rất chí thiết, chúng ta cần phải nhớ.

Hạ thủ công phu tu thiền, khi thực hành đa số người nói: “Thực hành không tiến.” Chính chỗ thực hành không tiến này, lại gắng thực hành. Như người không biết đường phải cố gắng tìm đường. Không thể nói: “Tìm đường không được, nên bỏ việc tìm đường.” Nếu tìm đường đã được, quý ở chỗ phải đi, đi thẳng đến nhà mới thôi. Không nên ở trên đường dừng nghỉ không đi, thì trọn không có ngày đến nhà.

Nếu tu không tiến chúng ta thường hay nói: Chán quá, tu lâu mà không tiến chút nào! Chán tức là không muốn tu. Tu không tiến giống như người tìm đường chưa ra, phải cố gắng tìm, không bỏ cuộc thì mục đích của mình mới thành công.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ cái tâm lanh lợi, tâm lanh lợi là thứ thuốc kỵ. Người phạm chút ít thuốc kỵ này, thì dù có chân dược hiện tiền cũng không thể cứu được. Nếu thật là người tham thiền thì có mắt như mù, có tai như điếc, khi tâm niệm vừa khởi in như đụng vào núi bạc vách sắt. Người được vậy thì công phu mới được tương ưng.

Chúng ta tu phải dè dặt tâm lanh lợi. Tâm lanh lợi là tâm suy nghĩ tính toán hay khéo của mình. Ở ngoài tính không ra, vô ngồi thiền một chút, nghĩ ra hay quá, phải suy nghĩ cho đến nơi đến chốn. Vậy cái lanh lợi đưa mình tới chỗ loạn tưởng mất thời giờ. Vì thế khi có tâm lanh lợi phải buông, phải xả hết, vì nó là thứ thuốc kỵ, nếu phạm phải dù diệu dược trị cũng không được. Nếu thật là người tham thiền thì mắt thấy như mù, tai nghe như điếc, nghe gì cũng mặc không lạm bàn, thấy gì trước mắt cũng không cần suy nghĩ. Được vậy công phu mới có phần tương ưng.

Hạ thủ công phu tu thiền chẳng sợ sai lầm, mà chỉ sợ không biết sai lầm. Mặc dù hành ở chỗ sai lầm, nếu có một niệm biết sai lầm, bèn là nền tảng thành Phật thành tổ, là con đường ra khỏi sanh tử, là món đồ sắc bén phá lưới ma. Phật Thích-ca trong pháp ngoại đạo mỗi mỗi đều chứng qua, chỉ không chịu ngồi trong hang ổ ấy. Dùng bốn chữ “biết sai liền bỏ” là từ phàm phu tiến đến quả vị Phật. Ý này đâu riêng trong pháp xuất thế, ở trong pháp thế gian nếu có chỗ sai lầm, chỉ cần dùng một câu “biết sai liền bỏ” là được thành người tốt đẹp ở thế gian.

Nếu kẻ cố ôm cứng chỗ sai lầm cho là phải, không chịu biết sai, dù có Phật sống hiện ở trước, cũng không thể nào cứu được người ấy.

Chúng ta khi mới tu không làm sao tránh khỏi những sai lầm, biết sai liền bỏ là chúng ta tiến.

Ngày xưa tôi tu trải qua bao nhiêu năm, gặp bao nhiêu trở ngại, đó là những sai lầm tôi phải buông, phải xả, mới vượt lên được. Như đức Phật Thích-ca khi đi tu, không biết đâu là đúng, đâu là sai nên gặp thầy nào đều học, kết quả tới chỗ cuối cùng, ngài thấy chưa đúng sở nguyện của mình, nên bỏ đi nơi khác. Đến học chỗ khác, kết quả cũng không đúng sở nguyện, nên lại bỏ đi. Ngài tu khổ hạnh đến thân thể kiệt quệ, biết là sai nên thực hành thiền dưới cội bồ-đề. Như vậy tối thiểu Phật cũng ba lần sai, nhưng biết sai liền bỏ, tìm cách khác.

Ngày nay cũng thế, chúng ta tu để thành Phật, chứ không phải để trở thành quỷ thần. Nếu khi tu có vị quỷ thần lại nói câu thần chú này hay lắm, tụng thần chú này trị bệnh gì cũng hết, có thích không? Người không biết tưởng câu thần chú cứu được đời, thôi đi ra cứu đời. Như vậy có đúng sở nguyện tu thành Phật không? Đó là lạc vào đường quỷ thần. Cho nên người tu phải có một lập trường vững chắc.

Đức Phật do chứng kiến cảnh sanh già bệnh chết, ngài đặt câu hỏi: “Trước khi có mặt trên đời này, ta là gì, ta là ai? Sau khi chết, ta sẽ đi về đâu? Muốn dứt hết mầm sanh tử, ta phải làm sao?” Rồi ngài học với các vị tiên, nhưng ba câu hỏi tiêu chuẩn đó chưa giải đáp được, tu khổ hạnh cũng không giải đáp được. Cho nên ngài bỏ hết những sai lầm đó, đến ngồi thiền bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ-đề chứng được Tam minh.

Từ canh một tới canh hai ngài chứng Túc mạng minh, nhớ được vô số kiếp về trước, biết mình trước đã từng làm gì, tên gì, ở đâu v.v..., đó là trả lời được câu thứ nhất “Ta là ai?” Từ canh hai tới canh ba ngài chứng Thiên nhãn minh, thấy chúng sanh chết đây rồi theo nghiệp dẫn sanh trong lục đạo luân hồi, người thiện đi đường lành, người ác đi đường dữ, nghiệp dẫn rõ ràng như vậy, là trả lời thắc mắc “chết rồi đi về đâu?” Từ canh ba đến canh năm chứng được Lậu tận minh, ngài biết rõ ràng nguyên nhân đi vào luân hồi và nguyên nhân thoát ly sanh tử. Những gì ngài mong mỏi trông đợi đã giải quyết xong, đạt thành mục đích, ngài tuyên bố thành đạo.

Trên đời này có gì quan trọng hơn ba vấn đề nêu trên? Có mặt ở đây mà không biết từ đâu lại, khi xưa mình làm gì, tại sao người khác hạnh phúc còn mình đau khổ, người ta đẹp đẽ sáng sủa, còn mình xấu xí ngu mê v.v...? Nếu biết được nhân đời trước thì hết nghi ngờ quả đời này. Thấy những người hiện tại tạo nghiệp thiện ác, khi nhắm mắt bị nghiệp dẫn đi, mới biết chết rồi không phải là hết. Biết như thế thì trên đường tu mới không thối chuyển. Thấy rõ người làm ác sẽ bị nghiệp dẫn tới cõi ác, người làm việc lành được nghiệp dẫn tới cõi lành, cuối cùng người sạch hết nghiệp thì thoát ly sanh tử. Thấy hiểu như vậy là đúng với sở nguyện.

Giả sử có vị thần thánh nào cho ta câu thần chú trị bệnh gì cũng lành, là chưa đúng sở nguyện của người tu Phật, vì thần chú chỉ làm bớt bệnh cho người khác, chứ không cứu được mình. Càng làm thầy thuốc hay trị lành bệnh nhiều người càng dễ kẹt trong lợi danh, rồi quên tu luôn. Đó là cớ làm chúng ta đi lệch đường tu mà không hay. Khi tu phải có hướng khẳng định, biết sai liền sửa, đi đúng đường mới tới giác ngộ giải thoát.

Trong khi tu, nếu có những niệm lanh lẹ phải bỏ liền, giống người có mắt như mù, có tai như điếc, vừa khởi nghĩ như chạm vào vách bạc núi sắt trơn lỳ, không dính kẹt gì hết, đó là đúng chỗ tu hành đi tới giác ngộ.

Tại sao chúng ta phải nghiêm ngặt thấy như mù, nghe như điếc? Tu như vậy thấy như khờ, như ngốc. Hồi trước chưa tu thấy lanh lợi khôn ngoan, tu rồi coi bộ ngu khờ quá, không biết suy luận tính toán gì cả! Chúng ta phải biết tâm nghĩ suy phân biệt tính toán là những đám mây mù che mặt trăng trí tuệ, phải dẹp đám mây cho trống đi thì mặt trăng mới hiện, nếu giữ nó thì suốt đời tánh giác bị ẩn chìm. Tin theo nghĩ suy phân biệt thì quên mất cái chân thật hiện tiền của mình. Đập tan những nghĩ suy là dẹp được mây mù, mặt trăng trí tuệ sẽ sáng tỏ. Cũng thế, tất cả vọng tưởng thiện ác phải quấy đều phải buông cho hết thì tánh giác mới hiển lộ đầy đủ sáng ngời.

Tu là sửa, mà ở đây tu bằng cách bỏ hết những niệm lăng xăng để tánh giác hiển lộ thì có tu sửa gì đâu, cho nên trong kinh thường nói tu mà không tu. Lại nói chứng mà không chứng, vì tánh giác sẵn có thì không có gì để chứng. Như mặt trăng sẵn có mà bị mây mù che, nếu mây tan thì mặt trăng hiển lộ. Được cái đã có sẵn là không có gì để được. Hiểu tường tận mới thấy chỗ thâm sâu của Phật pháp. Cái có sẵn mà quên, rồi chạy theo những cái dối trá tạm bợ, lôi dẫn mình chạy ngược chạy xuôi năm này tháng nọ, điên đảo vô cùng. Càng thông minh lanh lẹ càng lao trong dòng nghiệp thức, nó dẫn mình chạy không biết tới đâu là cùng. Muốn dừng dòng nghiệp thức, chúng ta phải buông tất cả suy nghĩ tính toán, sống như ngu như ngơ thì mới trở lại được cái chân thật. Cái gì cần biết đều biết, đó là chỗ đặc biệt.

Hạ thủ công phu tu thiền không nên tránh chỗ ồn tìm chỗ vắng, lim dim nhắm mắt, ngồi trong hang quỷ cho là kế sanh sống. Người xưa nói: “Ngồi dưới núi tối, chìm trong nước chết thì cứu được việc gì?” Chỉ cần ngay trong cảnh duyên thực hành kỳ được, mới là chỗ đắc lực. Một câu thoại đầu để trên trán, đi đứng nằm ngồi, mặc y, ăn cơm, tiếp người đợi khách, cần yếu thấu suốt được chỗ tột cùng của một câu thoại đầu. Một sáng, khi rửa mặt rờ nhằm chót mũi, mới biết lâu nay nó rất gần, thế là được tỉnh lực. Thật được thế rồi, mới hoàn toàn không uổng phí công phu.

Tu thiền không phải lựa chỗ thật vắng, thật yên, ngồi một hồi rồi ngủ quên không hay gì cả, đó là đi trong nước chết. Còn ngồi trong phòng, nghe tiếng xe chạy, tiếng nói chuyện mà không dính, đó là tỉnh là sáng. Tu cốt giữ tâm hằng tỉnh hằng giác, nếu mê là che khuất tâm tỉnh giác, nên nói đi vào hang quỷ.

Khi ngồi thiền thiu thiu ngủ liền bị đánh cái chát làm giật mình, xử sự có vẻ khắc nghiệt tàn nhẫn. Người không biết nói tu hành mà sao dữ dằn quá, không thương người chút nào, từ bi là để người ngủ ngon, sao lại đánh? Nhưng đánh đó mới thật từ bi, vì ngồi để tu mà ngủ thì thôi còn gì. Suốt đời nói tu mà không tu, không tiến được bước nào. Tu phải tỉnh mới giác, mê làm sao giác được? Vì thế vừa mê là phải đánh cho tỉnh, gọi đó là gậy từ bi cảnh tỉnh người. Những người chưa mê chung quanh nghe đánh cái chát cũng giật mình tỉnh luôn, giúp một người mà giúp luôn cả nhiều người. Tu là phải như vậy, nhắc nhở chúng ta luôn luôn tỉnh giác không cho mê. Đó là ý nghĩa tu thiền.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ nhận thức thần làm Phật sự. Hoặc nhướng mày nheo mắt, lắc đầu xoay mặt cho là có ít nhiều kỳ đặc. Nếu bám vào thức thần để làm việc, chắc chắn sẽ rơi vào ngoại đạo không nghi. Quả là chạy trên đường lạc lầm, rất đáng tiếc vậy!

Thức thần là thức phân biệt hiểu biết, cho đó là gốc của sự tu, là sai lầm. Phải nhận được tâm rõ ràng thường biết (liễu liễu thường tri), mà không niệm phân biệt. Còn khi tu thấy tâm sáng suốt, nhớ chuyện rất đúng rất hay, đó là thức thần, chưa phải liễu liễu thường tri.

Hạ thủ công phu tu thiền chỉ tại dụng tâm trên một công án, không nên trên tất cả công án giải hội. Nếu giải được trọn là giải hội, không phải là ngộ. Kinh Pháp Hoa nói: “Pháp ấy không phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay đến được.”

Tâm thể bất sanh bất diệt không phải trên hiểu biết, trên suy nghĩ phân biệt. Trong kinh Pháp Hoa Phật nói: Pháp ấy không phải chỗ suy nghĩ phân biệt hay đến được. Kinh đã nói rõ, chúng ta phải biết dừng suy nghĩ tính toán, đừng lầm lẫn.

Kinh Viên Giác nói: “Lấy suy nghĩ làm tâm, xét lường cảnh giới Viên giác của Như Lai, như đem lửa đom đóm đốt núi Tu-di, trọn không thể được.”

Suy nghĩ phán đoán như lửa đom đóm, muốn tìm cho ra tánh viên giác thì không bao giờ tìm được. Phải buông xả hết tâm suy nghĩ phân biệt thì tánh viên giác hiện tiền.

Ngài Động Sơn nói: “Nghĩ đem tâm ý học huyền tông (thiền tông), giống hệt đi hướng tây mà mặt hướng đông.”

Nếu đem tâm ý phân biệt để học thiền giống như người muốn tới hướng tây mà xoay mặt về đông, đi là sai lầm.

Phàm người đào bới công án, cần phải dưới da có máu, biết hổ thẹn mới được.

Nếu tu công án hay tu đến chỗ chân thật, không nên dính kẹt ngoài da, phải thâm nhập thấu suốt ở trong mới thành công.

Hạ thủ công phu tu thiền rất sợ rơi vào Không. Song thoại đầu hiện tiền làm sao Không được?

Đây chỉ sợ rơi vào Không, mà chẳng được Không, huống là được thoại đầu hiện tiền?

Chúng ta tu biết niệm khởi liền buông, khi buông niệm thành Không, có thật thành Không chăng? Nếu Không thì cái gì biết niệm khởi? Cái thấy không còn niệm khởi gọi là Không được chăng? Chúng ta cứ ngỡ nhìn chỗ niệm khởi, có thì nói có, lặng thì nói không, Không là không chỗ niệm khởi, chứ không phải thật không.

Thí dụ tôi ngồi trong thất, tôi là chủ, khách tới một người, hai người, rồi năm bảy người tôi đều thấy đều tiếp, chừng khách ra hết, tôi biết khách ra hết. Vậy trong nhà còn chủ không? Nếu không có chủ làm sao phân biệt khách vào ra, phân biệt được khách tức là có chủ. Nếu không có tâm thường trực sáng suốt, làm sao thấy niệm khởi, nếu không thấy niệm khởi, làm sao buông?

Hiện giờ chúng ta đang sống với chủ hay với khách? Khách này tới nhận là thân quen, khách khác tới cũng thân quen, cả ngày mình là khách chứ không còn là chủ nữa.

Tâm rất tế nhị, nhìn thấy niệm vừa dấy lên, biết là niệm liền buông, buông rồi niệm lặng mình biết. Cái thấy trước khi niệm khởi và cái thấy sau khi niệm lặng, đó là cái gì? Cái thấy đâu phải là niệm. Niệm khởi, niệm lặng là khách, còn cái thấy niệm khởi niệm lặng đâu phải là khách. Người chủ ngồi trong nhà, khách đến biết khách đến, khách về biết khách về, thế là ông chủ hiện tiền.

Chúng ta đâu có người nào không có chủ. Thế mà hiện giờ chúng ta đều sống với khách, quên ông chủ. Khách là kẻ tạo nghiệp dẫn mình đi trong lục đạo luân hồi, còn ông chủ đưa chúng ta tới giải thoát sanh tử. Tu thì đòi giải thoát sanh tử, mà sống thì sống với những kẻ tạo nghiệp luân hồi, đúng là muốn đi về tây mà hướng mặt về đông, thật đáng thương!

Cho nên Phật thương tất cả chúng sanh, không phải thương vì nghèo đói, mà vì không biết được manh mối lôi kéo chúng ta trôi lăn trong luân hồi sanh tử, không biết bao giờ được tự tại giải thoát. Khách mà nhận là chủ, chạy theo khách thì không phải điên đảo, không phải mê muội là gì. Thế mà ai cũng thấy mình sáng suốt, thông minh! Dù được sanh cõi trời sung sướng, nhưng hết phước rồi năm tướng suy hiện ra cũng phải rơi xuống.

Ở đời này, người nghèo khổ vì lo ăn lo mặc, người giàu có dư dả cũng có cái khổ của họ, không có ai mê muội mà được thảnh thơi tự tại, chỉ có người thức tỉnh. Cho nên Phật dạy chúng ta muốn thoát ly sanh tử là ngay đời này không bị những tâm điên đảo dẫn dắt mình, mà phải sống với ông chủ thật của mình.

Khi ngồi thiền niệm lặng hết, lúc đó là không niệm chứ không phải không có cái thấy không niệm. Niệm là khách, thấy không niệm là chủ, là mình. Khi không nghĩ gì tưởng như mất mình, đâu ngờ đó là phước, khách không làm rối loạn, ông chủ được thảnh thơi.

Đường lối tu của đạo Phật rất tế nhị thâm trầm mà người đời không biết. Suy nghĩ tính toán, khôn dại hơn thua, thế gian cho là khôn, đối với tu thiền thì chưa phải, nói thẳng là còn ngu. Phật pháp rất khó nghe, vì thường tình lấy suy nghĩ phân biệt làm tâm, còn đạo Phật nói chỗ dừng hết suy nghĩ phân biệt mới thật là tâm. Đến nơi rồi mới biết được giá trị của người tu.

B. CHỈ CHUNG MẬT TRUYỀN PHẬT PHÁP

Đức Thích-ca bỏ nhà đi học đạo, nhiều luận giả bàn rằng: “Ngài phế bỏ luân lý kỷ cương.” Họ đâu biết, chính ngài chưa từng bỏ vậy. Như sau khi thành Phật, ngài nghĩ đến độ vua cha và độ bà Ma-da, kế độ Da-du-đà-la, La-hầu-la và sau độ A-nan v.v... Đó là luân lý vua tôi cha con vợ chồng anh em đều chưa từng bỏ. Thế mà, bảo rằng ngài phế bỏ luân lý kỷ cương được sao?

Theo đạo Khổng, bỏ cha bỏ mẹ đi tu là bất hiếu, nhưng với tâm người tu thì khác, Phật đi tu không phải bỏ luân lý cương thường. Như khi tôi đi tu, phần nuôi vật chất cho cha mẹ thì giao cho em, phần lo tinh thần là trách nhiệm của tôi. Cha mẹ đâu phải sống đời, nếu khi chết mà không biết đường tu thì sau này sẽ khổ. Lo cho cha mẹ có ăn có mặc là việc của người đời. Còn lo cho cha mẹ hiểu đạo, tránh tội lỗi, biết tu hành để mai kia không rơi vào đường khổ, là trách nhiệm của người tu. Vậy người tu có bất hiếu hay không?

Đức Phật sau khi giác ngộ, về cung giáo hóa cha mẹ thân nhân. Phần vật chất ngài không lo, phần tinh thần đạo đức ngài lo đầy đủ bổn phận.

Song, muốn nói phế bỏ là căn cứ vào hàng Tỳ-kheo mà nói, chứ hàng tể quan cư sĩ đều không bỏ nhiệm vụ quốc gia, mà vẫn học đạo tu chân, thì đâu thể nói phế bỏ luân lý kỷ cương?

Xuất gia làm Tỳ-kheo thì mới bỏ gia đình ra đi, nếu là cư sĩ tu tại gia thì đâu có bỏ cha mẹ, đâu có bỏ trách nhiệm với đất nước. Vì vậy đâu phải người nào tu theo Phật đều bỏ hết luân lý kỷ cương.

Giả như, Phật dạy những người không sáng suốt, chỉ biết ham nuôi miệng bụng, chẳng xét đến việc trì trai giữ giới, quý người khinh vật, chặt chém các loài động vật đồng như cây cỏ, chẳng biết các loài bàng sanh đều gọi là chúng sanh, đều có Phật tánh. Dùng gấm lụa để làm đồ trang sức đẹp, không biết giết muôn mạng côn trùng để làm sáng đẹp thân bọt bèo, đáng tiếc vậy.

Chúng ta khi chưa biết đạo, chưa biết tu, chỉ làm sao ăn cho ngon, mặc cho đẹp. Tất cả loài động vật từ nhỏ đến lớn mà nghe nói ăn ngon mình đều muốn ăn cho biết. Ăn cho lắm, cuối cùng huyết áp cao, xảy ra những tai nạn như đột quỵ, tai biến... Cho nên ăn nhiều đâu có tốt. Mặc lụa là phải giết biết bao nhiêu con tằm trong ổ kén, cái đẹp của mình làm tổn hại bao nhiêu sanh mạng chúng sanh. Tưởng ăn ngon mặc đẹp được sống dai, nhưng đâu ngờ đó không phải là căn bản.

Trăm vị trân tu lấy làm ngon lành, không biết đã nấu nướng bao nhiêu sanh mạng của loài thủy tộc thú cầm, để dồn đầy lỗ ghẻ đói, tội rất lớn.

Những món trân tu mỹ vị chúng ta ăn cho ngon, nhưng nấu nướng không biết bao nhiêu sanh mạng của loài thủy tộc thú cầm, rồi dồn vào mụt ghẻ đói. Khi nào nó thiếu thì dồn vô cho đầy, thôi thì rau luộc nước tương cũng được, cần chi những trân tu mỹ vị mà tổn hại sanh mạng chúng sanh!

Bẫy chim săn thú trùm khắp núi rừng, đánh lưới giăng câu dẫy đầy biển cả, bò heo nai dê bán đầy chợ búa, cá tôm cua trạnh bày các nẻo đường, làm theo thói quen an nhiên chẳng sợ, không biết kết oán mang nợ, đền trả không cùng.

Tất cả thức ăn ngon của chúng ta đều làm thương tổn sanh mạng chúng sanh, đó là kết oán mang thù. Có con vật nào khi bị cắt cổ mà bằng lòng ưng thuận đâu, nó giãy, nó la mà cứ cắt, xong rồi tụng Đại bi cầu cho nó vãng sanh! Đây là lấy cớ để che cái tàn nhẫn của mình thôi. Nếu thương nó thì để cho nó sống, nuôi chừng nào nó chết, tụng chú cầu nguyện vãng sanh thì được. Người hiểu biết nhớ đừng lầm lẫn.

Ca hay múa giỏi, đàn nhạc thanh tao, gái yêu trai mến, lòng thích ý ưa, anh hiền hào kiệt xem nghe mê mệt, đâu biết biển dục không bờ, nó vốn cội nguồn sanh tử.

Gặp hội trúng thời tranh danh giành lợi, dặm tắt vinh hoa, đường dài phú quý, người bậc trung trở lên thảy đều mắc kẹt, không biết nó vô thường như huyễn hóa bọt nổi, lại là gốc trầm luân.

Đam mê tài sắc thì chìm trong sanh tử. Ham mê danh lợi, tranh giành quan chức thì tạo nghiệp trầm luân.

Trói buộc tình duyên, mến thương cốt nhục, khổ vui đầy tâm, niệm sanh tử cột chặt, không biết có giải thoát vậy. Vọng phân nhân ngã kết thành ân oán, không biết có bình đẳng vậy. Lại chỉ bàn việc hiện tại, họ đâu biết thân đời sau do nhân quả thiện ác, mà trải qua ngàn đời muôn kiếp chịu quả báo không cùng. Phật pháp rất rõ ràng rành rẽ đến thế, những người trái phạm như xưa tuy nhiều, song người vâng dạy tu hành cũng chẳng ít. Phật pháp làm cây cầu cho thế đạo đâu chẳng lớn sao?

Xét cho rõ mới thấy Phật pháp là cây cầu đưa chúng ta qua khỏi biển trầm luân. Tình duyên thương mến v.v... đều cột trói mình không giải thoát được. Phân biệt ân oán, ngã nhân là tâm bất bình đẳng. Những việc hiện tại do nhân quả tạo nên có thiện có ác, có nhân thì phải đền quả, luân hồi muôn kiếp khôn cùng. Ngày nay biết tu, chúng ta phải vượt thoát khỏi nó, mà chính Phật pháp là cây cầu để chúng ta qua biển khổ trầm luân, giải thoát tất cả những trói buộc.

Nho là pháp thế gian, dùng làm kỷ cương danh giáo để gìn giữ việc sanh tiền, Phật là pháp xuất thế, dùng để nuôi luyện tánh linh, mong đời sau được tiến lên. Hai bên vốn không hại nhau, ngại gì cả hai chẳng đồng còn.

Theo Trung Quốc thì Nho và Phật đồng truyền, Nho thuộc pháp thế gian, Phật là pháp xuất thế. Hai việc đều rất thiết yếu cho con người.

Có kẻ bảo: “Người học Phật đem tâm cầu tâm, ấy là lấy tâm dụng tâm, in tuồng hai tâm.” Họ không biết rằng tâm là linh minh lặng lẽ viên dung vô ngại, bao gồm muôn pháp, trùm hết mười phương, rất linh rất diệu, tâm chỉ một mà thôi, chứ không có hai. Bởi nó viên dung vô ngại, nên ngoài quán trăm vật, chỉ một tâm này, trong quán một tâm cũng chỉ một tâm này. Ngoài quán trăm vật gọi là phóng quang, trong quán một tâm gọi là phản chiếu. Hay phóng quang lại hay phản chiếu là lý do tâm này linh diệu. Mặt trăng hay soi vạn vật mà không thể soi trở lại mặt trăng, gương hay soi vạn tượng cũng không thể soi trở lại gương. Do đó hai cái sáng này đều không có linh vậy.

Tâm linh diệu phi thường, ngoài quán trăm vật, trong quán nội tâm, chỉ một tâm chứ không có hai. Quán tâm tức là nhìn lại nội tâm, những gì sanh diệt đừng lầm theo, quán trăm vật tức là nhìn ra ngoài thấy muôn vật mà không bị cột trói. Cho nên quán ra hay nhìn vào đều là một tâm linh diệu, chứ không có hai.

Tâm hay quán vạn vật, lại hay phản chiếu tâm linh chính mình. Tâm mình là nhiễm hay tịnh, là thánh hay phàm thì tâm tự biết đó, ấy tức là đem tâm quán tâm. Không phải bảo bị quán là một tâm, hay quán là một tâm. Tâm đã hay quán trăm vật bên ngoài, há lại không thể quán một tâm ở bên trong sao? Cái dụng của mắt tai, công năng là một, chứ không thể hai. Lấy một làm một đó là căn cứ trên hình tướng. Tâm hay một mà cũng hay muôn, lấy muôn làm một, đó là thần. Thế là, tâm hay quán tâm.

Sáu căn mắt tai mũi lưỡi thân ý của chúng ta, như mắt chỉ thấy sắc, tai chỉ nghe tiếng... chứ không quán ngược trở lại. Còn tâm thấy trăm vật bên ngoài gọi là phóng quang, trở lại soi chiếu bên trong gọi là phản chiếu, diệu dụng phi thường.

Tâm chân thật đầy đủ nơi mọi người. Tâm là một, nhưng tùy theo mắt tai mũi lưỡi thân mà có những dụng riêng, thấy như là khác nhưng thật ra chỉ là một cái biết thôi, biết thấy, biết nghe, biết ngửi... tùy duyên thành ra sáu.

Phàm muốn tâm được tịnh, bỏ nhiễm thì được tịnh. Cái gì hay làm thế? Tâm vậy. Gọi đó là “đem tâm quán tâm” thì được, gọi đó là “đem tâm cầu tâm” cũng được, gọi đó là “lấy tâm dụng tâm” thì không được. Nếu nói “lấy tâm quán tâm là hai tâm” thì đem tâm giác trăm vật, tức phải là trăm tâm vậy.

Muốn tâm được thanh tịnh phải bỏ những ô nhiễm. Vừa nghĩ điều gì không tốt là nhiễm, tâm biết rõ nhiễm nên bỏ, tâm đó là tịnh. Đem tâm thấy những tâm nhiễm xấu chừa bỏ, gọi là đem tâm quán tâm thì được. Đem tâm để cầu những tâm nhiễm ô dứt sạch, gọi là đem tâm cầu tâm, cũng được.

Còn lấy tâm dụng tâm thì không được. Tại sao? Vì không thể lấy tâm thật xúi giục tâm giả làm việc này việc kia, tâm thật chỉ bỏ tâm giả, tâm giả lén trồi lên thì bỏ. Nên nói lấy tâm dụng tâm thì không được.

Nếu lấy tâm quán tâm cho là hai tâm, thì lấy tâm biết sắc trần là một tâm, biết thanh trần là một tâm... tức phải là trăm thứ tâm vậy. Nhưng không phải, chỉ có một tâm mà thôi. Nếu nói mỗi tâm quán ra ngoài là một tâm, đó là sai lầm.

Luận giả bảo: “Người học Phật chỉ chú trọng hướng nội, còn nghĩa bên ngoài thì chưa được nghe.” Người học Phật chú trọng hướng nội là phải. Bởi vì người học Phật dùng chỉ dứt tâm lăng xăng, gọi là lặng lẽ; dùng quán để trừ mờ tối, gọi là tỉnh táo. Chỉ mà thường quán thì chỉ không phải vô ký. Quán mà thường chỉ thì quán không phải loạn tưởng. Định như quả đất tám gió thổi chẳng động. Tuệ như mặt trăng sáng soi khắp vạn vật không sót. Lấy tuệ làm định thì thể định trong sáng. Lấy định làm tuệ thì dụng tuệ lặng lẽ. Chỉ quán làm nhân, định tuệ làm nghiệp. Công do trước giữ giới luật, oai nghi thanh tịnh; chú trọng do hướng nội, có thể nói rất thích hợp với Nho giáo.

Người học Phật lấy Chỉ dừng tâm lăng xăng được lặng lẽ, lấy Quán trừ mờ tối được tỉnh táo. Vậy chỉ quán là định và tuệ, là hai pháp thiết yếu cho cuộc sống, không thể nào thiếu được. Trong khi tu từ định mà sanh tuệ, cũng như từ tuệ mà sanh định. Như vậy chỉ quán làm nhân, định tuệ làm nghiệp. Xoay lại hướng nội để dẹp chừa tất cả mê lầm, sai sót của mình, như vậy đạo Nho đâu có chê điều đó.

Song, thân tâm đều kiện toàn, hạnh giải được tương ưng. Bên trong tu trí quán, bên ngoài oai nghi nghiêm chỉnh. Bố-tát Yết-ma[1] là tôn trọng pháp tắc của Phật để lại. Sáu độ muôn hạnh là trang nghiêm Phật sự. Nói không sát, làm thương hại các loài bò bay máy cựa là phạm tội sát. Nói không trộm, mũi ngửi lén mùi hương của hoa dưới hồ, là phạm tội trộm. Nói chẳng dâm, cách vách nghe tiếng khua vòng xuyến khởi tâm, là phạm tội dâm. Nói chẳng tham thì một cọng rau một mũi kim cũng không dám tham. Nói chẳng sân thì các bộ phận trong thân bị cắt xẻo cũng không dám giận. Nói chẳng si là Đẳng giác Như Lai, dù còn một phần vô minh chưa phá cũng gọi là si. Nghĩa ở bên ngoài là nghiêm là mật vậy. Kẹt cứng ở chỗ khô khan đó là hàng Tiểu thừa Độc giác, không phải là môn Viên đốn Đại thừa. Sơ lược để rồi buông lung là cuồng thiền phóng dật. Trái giới luật Bồ-tát là tội tại người học, chứ Phật có tổn giảm gì?

Phương pháp Phật dạy nghiêm ngặt như thế, đây đều là từ kim khẩu của Phật truyền lại, chép rành trong kinh, văn thể rõ ràng, đâu thể nói rằng phương pháp phi nghĩa.

Người tu luôn luôn dùng Chỉ Quán nghiêm tịnh, nhưng cũng phải Bố-tát Yết-ma để giới luật được trang nghiêm. Phải giữ giới không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm v.v... Người xuất gia chẳng những giữ giới không giết người, giết chúng sanh mà còn một chút tâm muốn hại các loài cũng phạm tội sát sanh. Giữ giới không trộm mà chỉ ngửi lén mùi thơm hoa sen dưới hồ cũng phạm tội. Đây là câu chuyện trong Sa-di Luật Giải.

Có một Sa-di đi bên hồ sen, thấy sen nở hương thơm, ông thích đi quanh hồ để ngửi hương. Một vị thần hiện ra nói:

-     Sao ông trộm mùi sen của tôi?

-     Tôi đâu có làm gì mà nói là trộm?

-     Ông ngửi lén đó.

Một lát sau có hai ba người dân lội xuống hồ sen nhổ lấy ngó. Sa-di mới nói: Tôi ngửi chút hương thơm ông nói tôi trộm hương, bây giờ người ta nhổ sen sao ông không rầy? Thần nói: Những người đó như người mặc áo đen, có dính thêm năm bảy chấm mực cũng không thấy dơ, còn ông là người mặc áo trắng, dính một chút cũng thấy dơ rồi. Tôi rầy là rầy một chút dơ đó.

Như vậy những người không biết tu, làm những điều tội lỗi coi như chuyện thường, có rầy họ cũng không biết, còn người biết tu thì một mảy dấy tâm cũng là tội lỗi. Đây là nhắc người tu phải tế nhị, cẩn thận.

Nói chẳng dâm, cách vách nghe tiếng khua vòng xuyến khởi tâm là phạm tội dâm. Trong Luật có kể một Sa-di ở phòng bên, nghe phòng khách có mấy cô thiếu nữ ăn mặc sang trọng, mang vòng xuyến khua lẻng kẻng, ông khởi tâm xấu, bị thần quở phạm giới dâm. Giới luật tế nhị như vậy.

Chúng ta biết thiền định, chỉ quán rõ ràng, tu hành được định tuệ mà không giữ giới luật, là thiếu bổn phận người tu. Hiểu thấu được đạo, nắm vững đường lối tu, giữ gìn giới luật, mới là trọn vẹn.

Luận giả bảo: “Nho giáo cầu phóng tâm giống như Phật giáo nói nhập định. Nhưng, Phật giáo đến chỗ này bèn như tâm chết không chủ tể.” Câu nói này in tuồng đúng mà thật là sai. Phóng tâm là tâm chạy ngàn muôn dặm, không thắng được cái chớp nhoáng lăng xăng của nó, tìm bắt nó còn chưa chắc nắm được trong tay. Định tâm là tâm nhiếp vào một cảnh, rồi tự lặng lẽ an ổn, dần dần tự nhiên phát tuệ sáng. Nói định tâm như chết, tức là không biết định vậy.

Phóng tâm nói theo bên Nho, còn định tâm nói theo bên Phật. Phóng tâm không phải như định tâm. Định tâm là kìm chế tâm lại, từ định rồi phát tuệ, sao nói như chết được?

Phật giáo nói Chỉ ắt gồm có Quán. Nói lặng ắt gồm có soi. Có “Không Như Lai tạng” thì một pháp chẳng lập. Có “Bất không Như Lai tạng” thì muôn pháp đầy đủ. Như chỉ có một vầng trăng mà rọi bóng trên muôn lượn sóng; muôn lượn sóng mỗi lượn có một bóng mặt trăng, mà mặt trăng chỉ có một.

Một vị nước mưa cam lồ mà cứu được muôn loài. Muôn loài, mỗi loài có một thứ nước mưa, mà trên nước mưa chỉ có một vị.

Phật giáo nói có Chỉ có Quán. Chỉ gồm có Quán, cũng như Quán gồm có Chỉ. Trong kinh lập Không Như Lai tạngBất không Như Lai tạng, tức là có cái kho Như Lai trống rỗng và có cái kho Như Lai đầy ắp. Chúng ta dẹp sạch tất cả hạt giống phiền não vô minh thì thành kho Như Lai trống không (Không Như Lai tạng). Khi nó không rồi thì có tất cả diệu dụng hiện tiền nên gọi là Bất không Như Lai tạng. Như Phật sau khi định rồi ngài chứng Tam minh Lục thông, đó là Bất không Như Lai tạng.

Ai cũng có sẵn Như Lai tạng, mà hiện giờ là Không Như Lai tạng hay Bất không Như Lai tạng? Hai chữ Không và Bất không này chúng ta không dính được chữ nào. Chúng ta có kho chứa đầy tràn trề phàm tình điên đảo, chứ không phải Như Lai tạng. Khi nào dẹp sạch tất cả phàm tình mới gọi là Không Như Lai tạng. Rồi có diệu dụng đầy đủ gọi là Bất không Như Lai tạng. Còn kho chúng ta hiện giờ chứa đầy tràn nên bị khuất lấp, cho nên có Như Lai tạng mà không biết.

Khi tâm khởi dụng thiên đường thì có dục giới, sắc giới, vô sắc giới, tột đến hoa hương đài. Khởi dụng địa ngục thì có cột đồng giường sắt. Biến thành hoa tạng thì vua quan do Bồ-tát ứng hiện, con ốc con hến con cáp là đại sĩ hóa thân, các thứ tác dụng, các thứ sự nghiệp, thảy đều từ trong tịnh định mà hiện. Bảo là tâm chết có thể được sao?

Khi tâm khởi dụng thiên đường, tức là tu Thập thiện hay tu Tứ thiền thì có các cõi Dục giới, Sắc giới hiện. Hoặc khi khởi tâm hướng về Cực lạc thì có hoa sen hiện. Khởi dụng về địa ngục, tức là tạo tội ác liền có cột đồng giường sắt.

Khi tâm biến thành hoa tạng, đây là nói về phẩm Hoa Tạng Thế Giới trong kinh Hoa Nghiêm, thì lúc đó nào là vua, quan v.v... đều là Bồ-tát ứng hiện, cho tới các con vật đều là các vị Đại sĩ hóa thân, thảy đều tương ưng với tịnh định, có diệu dụng không thể lường được.

Luận giả bảo: “Phật nói là Tánh, chính thánh nhân nói là Tâm. Phật nói là Tâm, chính thánh nhân nói là Ý. Phật nguyên không nhận được lý này, bèn nhận hiểu biết vận động, hay xem hay nghe, hay nghĩ hay động là chính lý.”

Câu nói này rất lầm. Phật giáo nói tâm tánh nguyên chỉ là một vật. Trong khoảng trời đất có một cái thanh tịnh rộng lớn lóng lặng tròn sáng, gọi là Tánh. Chỗ tánh linh thông gọi là Tâm. Tánh như thể sáng của gương, tâm như dụng chiếu soi của gương. Tuy nói có hai, kỳ thật chỉ là một vật. Không chỗ nào chẳng gồm ở trong, gọi chung là Tánh. Tánh mà linh thông bèn gọi là Tâm. Như núi sông đất cát cỏ cây ngói gạch đều có tánh. Chỉ tánh người hay linh thông tri giác, mới gọi là tâm. Núi sông đất cát cỏ cây ngói gạch chỉ gọi là tánh, không gọi là tâm. Phật sở dĩ nói tâm là cái thanh tịnh lóng lặng tròn sáng gọi nó là bản giác, là Bát-nhã, là Tỳ-lô tánh hải, là ma-ni bảo châu.

Chữ “tâm” trong nhà Phật là chỉ cái tâm chân thật bất sanh bất diệt của chính mình, tâm đó thường hằng thanh tịnh, luôn luôn sáng suốt.

Nói Ý chính là thức thần của tâm người, là gốc của sanh tử. Phật sở dĩ viên tu diệu ngộ vì quyết chuyển thức thần này trở thành trí tuệ, nên gọi chuyển phàm thành thánh. Bởi vì phàm phu cùng thánh nhân vốn đồng đủ tâm tánh này. Phàm phu mê chân theo vọng, do đó trí tuệ hóa làm thức thần. Thánh nhân phá vọng về chân, do đó thức thần chuyển thành trí tuệ.

Chúng ta tu là chuyển thức mê lầm thành trí tuệ sáng suốt. Thấy thân này quý giá, dễ thương là thức, thấy thân này huyễn hóa, nhơ nhớp là trí. Thử kiểm lại trong một ngày chúng ta sống với trí được bao nhiêu phút hay là trọn hai mươi bốn giờ sống với thức? Tu là chuyển thức thành trí, không nên mê mải sống với thức mà bị trầm luân, không thể nào giải thoát được.

Ý là cái bị Phật quở trách. Vì thế, bảo “Phật nói Tâm, chính thánh nhân nói Ý”, lời này lỗi lầm rất lớn vậy.

Ý là cái lăng xăng, là tâm vượn tâm khỉ bị Phật quở trách.

Phật trở về chân, thì hiểu biết vận động xem nghe nói động, hay xem hay nghe, hay nói hay động, thảy đều là tánh. Phàm phu theo vọng, thì hiểu biết vận động xem nghe nói động, hay xem hay nghe hay nói hay động, thảy đều là vọng. Bảo rằng: “Phật chỉ nhận được hay xem nói động chính là tánh”, đâu không phải là ngu? Cái hay xem hay nghe hay nói hay động, gọi nó chẳng phải tánh thì không được. Bảo rằng Phật nói “Tánh thanh tịnh lóng lặng tròn sáng chỉ tại xem nghe nói động mà được tên” lại có lẽ phải ư?

Phật nói ngay nơi cái thấy, xem, nghe của mình là có tánh Phật, có tâm chân thật trong đó. Nhưng xem mà theo sắc thì bị quở, thấy mà không chạy theo sắc thì Phật nói đó là tâm là tánh. Nếu nói ngay cái thấy cái nghe mà chạy theo thanh sắc là tâm tánh, hiểu như vậy là không đúng.

Phàm nói tánh là Như Lai hội một tánh vào một tông chung. Nói lý là Như Lai nói muôn lý nơi sự vật. Lý rất rộng rãi, ngang trùm pháp giới. Lý rất tinh vi, chia chẻ một mũi nhọn cũng khó chen vào. Nhị thừa phá kiến hoặc tư hoặc, tột lý vẫn còn thô. Bồ-tát phá vô minh, cùng lý rất tinh. Bậc Đẳng giác còn một phần vô minh chưa phá, thì lý còn có ngại. Vào bậc Diệu giác, về sau một chân thấu tột, muôn dặm rỗng suốt mà nói chẳng nhận được chữ lý đó là lời gì. Phàm lý có tự nhiên, an bài đã cách xa. Lý có mỗi nơi, vùa gom tức trái. Chẳng an bài mà có, chẳng vùa gom mà hợp, đây là Phật lý rất chí diệu.

Lý của nhà Phật nói là chân lý, không phải ai an bài, không phải ai sắp đặt mà nó sẵn từ thuở nào. Thấy được lý thật, đó là đạt lý.

Trí tuệ chuyển hóa làm thức thần. Tri kiến càng nhiều thì tánh linh càng mờ. Mặc người nói lý khúc chiết, ngữ ngôn vi diệu, trọn là ở trong nhà quỷ tìm kế sống, trêu đùa tinh hồn. Đâu biết dẹp hết danh ngôn, quét sạch nghĩa lý, đem tất cả cội gốc lý lẽ bình nhật, một lúc lật đổ hết sạch, mà trung gian chỉ biết huân quán Bát-nhã, lặng lẽ tỉnh táo bỗng nhiên như luồng điện chớp, hoa sen chợt nở, gọi là đại ngộ. Bởi vì câu thoại đầu của nhà thiền chánh diệu, chính không có ý vị, bỏ phân biệt được tự tại, chuyển thức thần thành Bát-nhã. Cần biết, Lục Tổ là tiều phu, không biết một chữ mà được chứng ngộ. A-nan là người đa văn tổng trì, do đa văn quét sạch, sau mới ngộ chân không, bởi có lý do vậy.

Người đời cho rằng ai lý luận giỏi là khôn ngoan, thông thái, nhưng đối với đạo thì không phải. Ai dẹp bỏ được thức lăng xăng phân biệt mới trở về cái chân thật Bát-nhã, không phải ai lý luận thông minh là đạt đạo. Như Lục Tổ không biết một chữ mà thấu được chỗ chân thật là ngộ đạo, ngài A-nan nhớ hết lời Phật dạy, mà sau buông sạch mới chứng được cái chân.

Luận rằng: “Phật chỉ nhận được nhân tâm, không nói đến đạo tâm.” Đâu biết chỗ Phật rất quở trách là nhân tâm, chỗ rất tu là đạo tâm. Có thiện không ác là đạo Phật tâm thì các ác sạch hết muôn thiện đồng về. Có tịnh không nhiễm là đạo Phật tâm thì một mảy bụi không dính, muôn đức tròn sạch. Có thể có dụng ấy là đạo Phật tâm thì lặng mà thường soi, soi mà thường lặng. Lấy không trụ tánh tướng làm tông, lấy sự lý vô ngại làm nguyên tắc, Phật toàn là giác, giác toàn là đạo. Nhân tâm gọi là thức thần, gọi là pháp nhiễm, là sáu căn vọng dụng, là tám thức thịnh hành, là cội gốc sanh tử, là hạt giống trong tam đồ. Sở dĩ Phật chuyên cần tu hành vì trừ riêng tâm này. Bảo rằng: “Phật chỉ nhận được nhân tâm”, thật là không biết Phật đó vậy.

Nhà Nho nói Phật chỉ nhận được nhân tâm mà không nói tới đạo tâm. Nhà Phật dạy người tu bỏ hết những cái xấu nhơ, được tâm thanh tịnh, đó là đạo tâm, tất cả chỗ thể dụng được tròn đầy, là cái dụng của Phật tâm v.v... Như vậy đạo Phật nhận Phật tâm chứ không chấp nhận nhân tâm như nhà Nho nói.

Phật nói không niệm là không vọng niệm, chánh niệm chẳng dẹp bỏ, trí Bát-nhã hiện còn. Ngoại đạo nói không tưởng, chánh niệm bị dẹp bỏ, không có trí Bát-nhã huân quán vậy.

Đây là đối chiếu Phật dạy và ngoại đạo dạy. Phật nói vô niệm là không vọng niệm, chứ không phải không chánh niệm, có chánh niệm là trí tuệ Bát-nhã hiện tiền. Ngoại đạo nói dẹp bỏ hết không còn gì, đó là không có trí Bát-nhã huân quán vậy.

-   Định hay sanh tuệ, tuệ cũng hay sanh định chăng?

Tuệ sanh định lại nhanh hơn định sanh tuệ. Định sanh tuệ như nước lóng đứng các vật thảy soi hình. Tuệ sanh định như ánh sáng ngọn đèn, một phen thắp lên thì tối tăm liền hết. Diệu Hỷ nói: “Người nói tĩnh lặng rồi mới ngộ, ta nói ngộ rồi mới tĩnh lặng. Khi chưa ngộ thì tâm thức lăng xăng, khi ngộ rồi mới khằn niêm một chỗ.”

Diệu Hỷ là ngài Đại Huệ, nói: Có người nói định (tĩnh lặng) rồi mới ngộ (tuệ), ngài nói ngộ rồi mới định. Tại sao? Vì khi chưa ngộ thì tâm thức lăng xăng, ngộ rồi thì tâm thức dễ khằn niêm một chỗ.

Tu có hai cách: Một là quán lại nội tâm, buông hết vọng tưởng, vọng tưởng hết là định, định rồi sau sẽ sáng lên, đó là tuệ. Hai là dùng trí tuệ Bát-nhã soi thấy thân tâm, cảnh vật đều duyên hợp hư dối, không có gì chân thật nên không dính. Thấy rõ như vậy đó là tuệ. Tâm không dính thì định nhanh hơn. Cho nên có khi chúng ta phải tu quán, có khi phải tu định, tùy theo trường hợp.

-   Vô tình là Phật chăng?

-   Vô tình là Phật.

-   Người chết lẽ ưng là Phật?

-   Nói vô tình là vô phàm tình, chẳng phải vô thánh tình.

-   Sao gọi là thánh tình? Sao gọi là phàm tình?

-   Không phân biệt phải quấy, đối trên tất cả cảnh, tất cả pháp, chẳng chấp chẳng trước, ấy gọi là thánh tình. Có phân biệt phải quấy, đối trên tất cả cảnh sanh chấp trước, ấy gọi là phàm tình. Không phàm tình, có thánh tình, có tình mà cũng vô tình vậy.

Nếu vô tình là Phật thì người chết không còn tình thức là Phật rồi. Nhà Phật nói tu là dẹp hết những tình thức, người ta lại hiểu trong đạo Phật không chấp tình. Sự thật là không chấp tình phàm, nhưng có tình thánh. Tình phàm là tình phải quấy, hơn thua, chấp trước... Tình thánh hiện ra khi buông sạch mọi phải quấy, hơn thua, chấp trước.

Hiện giờ chúng ta ai ai cũng có tình mà thuộc tình phàm. Nhắc tới nhắc lui, nói qua nói lại cũng chỉ bao nhiêu việc đó. Quở phàm chỉ thánh, bao nhiêu năm tháng rồi nghe thì nghe mà tình phàm chưa bỏ. Ngồi lại thì nói chuyện phải quấy lăng xăng, tâm không bao giờ trong sáng.

Lối giảng dạy của các thiền sư, dù ở Trung Hoa, Nhật Bản hay Việt Nam đều không khác nhau, chúng ta nên hiểu rõ để ứng dụng thực hành.



[1] Bố-tát là họp chúng tụng giới và chỉ lỗi cho những người có phạm sám hối. Yết-ma là hòa hợp chúng để tuyên bố một việc gì, nếu toàn chúng đều ưng thuận mới được làm.

Kinh - Luật - Luận

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 55809
  • Online: 11