Tự ngắm lại vầng trăng mình
13/09/2019 | Lượt xem: 5630
ĐĐ.Thích Tâm Hạnh
Trong    Thiền sử Nhật Bản có một vị thiền sư ni hiệu là Ryonen, có nghĩa là   “sự  thể hiện trong sáng”. Trước khi qua đời, vị này có để lại bài kệ:
Sáu mươi sáu lần đôi mắt này nhìn thu thay đổi
Tôi nói đến vầng trăng đã đủ rồi.
Xin đừng hỏi nữa,
Hãy lắng nghe âm điệu của thông ngàn và bách hương khi không gió lộng.
Hôm   nay là ngày rằm Trung Thu, lẽ ra phải nói về trăng, nhưng trăng thì  quý  Thầy đã nói qua hai kỳ rồi, coi như tạm gọi là đủ. Xin đừng hỏi  nữa!
Hôm  nay quý Thầy sẽ không nói về trăng nữa, mà muốn cho mỗi vị  thực sự tự  ngắm lại vầng trăng của chính mình, để thấy rằng mỗi vị đều  đang tuyên  thuyết diệu pháp. Vầng trăng và tất cả cảnh vật cũng đang  tuyên thuyết  diệu pháp cho chúng ta nghe. Cả hai vốn tự cảm ứng, giao  xen, bàng bạc  đạo lý khắp tất cả chỗ. Trong bất cứ lúc nào, ở bất cứ  nơi đâu, chúng ta  và tất cả cảnh vật cũng đều đang thuyết pháp, cho nên  gọi là “Pháp luân  thường chuyển”.
Nhưng nói trăng nói cuội gì cũng  không ngoài mục  đích là nói đến đạo lý để được giải khổ, giải thoát, an  vui. Bởi vì khi  đến với đạo, hầu hết chúng ta đều có chung một tâm  nguyện là muốn hết  khổ và an vui. Muốn vậy, chúng ta cần phải có phương  pháp để giải khổ,  mà Phật pháp chính là dược liệu tối ưu giúp cho quý  vị có thể dẹp phá  phiền não và đạt đến an lạc giải thoát. Vì muốn chánh  pháp còn mãi ở nơi  đời để giải khổ cho tất cả chúng sanh cho nên hằng  đêm quý Thầy vẫn  thường phục nguyện câu “Pháp luân thường chuyển”, tức  là nguyện cho bánh  xe chánh pháp xoay chuyển liên tục mọi lúc mọi nơi  không dừng nghỉ,  không gián đoạn. Muốn cho bánh xe chánh pháp chuyển  một cách liên tục  thì chúng ta cần có một cái nhìn về “pháp luân thường  chuyển” như thế  nào.
Quý vị thấy hiện nay có rất nhiều pháp hội  đang giảng pháp và  chúng ta cũng đi nghe pháp rất nhiều. Nhưng khi đang  ở trong pháp hội,  đang nghe pháp thì có Phật pháp, còn khi ra đường,  về nhà thì có Phật  pháp không? Khi có khi quên, phải không? Trong đây  có vị nào không bao  giờ quên? Vậy thì kẽ hở đó ở chỗ nào? Là tại vì  chúng ta chưa được  chuyên tâm, chưa được tỉnh giác một cách liên tục.
I/ CHUYÊN TÂM, PHẢN TỈNH, LUÔN TỈNH GIÁC
Quý   Thầy xin kể quý vị nghe một câu chuyện có thật: Có hai vợ chồng nhà nọ   học hỏi và thấm nhuần Phật pháp. Một hôm bà vợ bất giác mắng chửi ông   chồng xối xả nhưng ông vẫn ngồi điềm nhiên, bình tĩnh, không nói gì.  Đến  khi bà vợ cạn lời, im lặng, ông chồng hỏi: “Vậy nãy giờ bà nói đã  hết  chưa?”. Bà vợ trả lời: “Hết rồi”. Ông chồng nói tiếp: “Cảm ơn bà,  nãy  giờ nhờ bà mà công phu tu tập của tôi được thành tựu”. Bà vợ nghe  xong  vừa cảm thấy sợ vừa tức tối vô cùng. Bởi vì ông chồng không chịu  nói cho  bà biết là ông đang tu, để bà đã xúc phạm đến người đang công  phu như  vậy. Từ đó về sau, bà không bao giờ dám bất giác để nói nặng  với chồng  mình nữa. Quý vị thấy, người vợ chửi mắng, nhưng người chồng  lại thấy  như là người vợ đang thuyết pháp cho mình nghe và tu tập được.  Cũng nhờ  vào hạnh tu của người chồng mà bà vợ thức tỉnh về sau không  dám bất giác  xúc phạm đến người khác. Đó là ông chồng cũng đang thuyết  pháp cho bà  vợ nghe.
Như vậy, hằng ngày đâu phải thiếu những người  thuyết pháp  cho mình nghe, chỉ là chúng ta chưa chịu nghe pháp. Có thể ở  đây mình  nghe rất nhiều mà về nhà quên, không chịu nghe pháp, thành ra  không được  liên tục.
Vào thời Đức Phật, có vị Sa-di Hiền Trí mới  bảy tuổi đã  chứng A-la-hán. Nhân duyên chứng A-la-hán của Ngài rất đặc  biệt. Lúc  Ngài lên 7 tuổi thì cha mẹ cho xuất gia với Tôn giả  Xá-lợi-phất. Khi  xuất gia, gia đình phát tâm cúng dường liên tiếp trong  7 ngày đầu. Trong  7 ngày đó vì không phải đi khất thực nên Ngài  Xá-lợi-phất dạy cho Sa-di  Hiền Trí các đề mục thiền quán về các thể  trược trong thân này. Qua đến  ngày thứ tám, gia đình hết cúng dường nên  Sa-di Hiền Trí phải theo Thầy  mình đi khất thực. Trên đường đi, Ngài  thấy người ta đang vét mương để  dẫn nước vào ruộng. Ngài hỏi Tôn giả  Xá-lợi-phất: “Thưa Thầy, người ta  đang làm gì vậy?”. Ngài Xá-lợi-phất  trả lời: “Người ta đang vét mương để  dẫn nước vào làm ruộng”. Sa-di  Hiền Trí liền nghĩ: “Nước là vật vô tri  vô giác mà người ta còn có thể  hướng dẫn sử dụng theo ý của mình để làm  việc lợi ích. Vậy tại sao mình  có tâm, có tri giác, có hiểu biết mà  không thể hướng dẫn tâm mình đi  theo con đường đến A-la-hán được?”. Đi  tiếp một đoạn, Sa-di Hiền Trí  lại nhìn thấy một người đang chuốt những  mũi tên, bèn hỏi Ngài  Xá-lợi-phất: “Họ đang làm gì vậy?”. Ngài  Xá-lợi-phất đáp: “Họ đang  chuốt những mũi tên cho ngay thẳng để bắn”.  Ngài cũng nghĩ: “Tên cũng  là vật vô tri mà người ta còn có thể uốn nắn  khiến cho nó có thể ngay  thẳng theo ý mình. Còn mình là người có lý trí,  có hiểu biết, tại sao  mình không thể uốn nắn tâm mình cho ngay thẳng,  đúng đắn để đi đến con  đường Niết Bàn?”. Đó là lần thứ hai. Đi một đoạn  nữa, Ngài lại thấy một  người đang đẽo bánh xe (ngày xưa, người ta làm  bánh xe bằng gỗ cho nên  đẽo tròn để đẩy), Ngài lại hỏi: “Bạch Thầy,  người ta đang làm gì  vậy?”. Tôn giả Xá-lợi-phất đáp: “Đó là người ta  đang đẽo những thanh gỗ  làm bánh xe để dùng vào việc chuyên chở”. Ngài  cũng nghĩ: “Gỗ là vật  vô tri, vô giác mà người ta vẫn có thể đẽo nó  thành bánh xe để sử dụng  theo ý mình. Còn mình có tri, có giác, có hiểu  biết, tại sao mình không  đẽo gọt những điều xấu xa, những điều hư dối  trong tâm mình để tâm ý  trở thành lợi ích chân thực trên con đường giải  thoát?”. Ba lần đánh  động sâu như vậy nên Ngài trao bát lại cho Tôn giả  Xá-lợi-phất và thưa:  “Xin Thầy cho phép con được về trước, con có vấn đề  cần giải quyết”.  Tức là ngay trong ngày hôm đó, Ngài muốn dứt khoát  phải giải quyết xong  quả vị A-la-hán của mình. Về đến nơi, Sa-di Hiền  Trí vào phòng mình  ngồi thiền quán và quyết tâm quán xét cho tột cùng.  Việc này cảm đến  trời Đế Thích, Ngài sai bốn vị thiên vương xuống trấn  giữ bốn góc vườn,  không để chim chóc và người lai vãng làm động đến công  phu của Sa-di  Hiền Trí. Chính trời Đế Thích đứng trấn ngay cửa giữa,  đồng thời dùng  thần lực làm mặt trời sáng hoài giống như vẫn đang còn  trưa, cho nên  Tôn giả Xá-lợi-phất thong thả đi về. Trong khi đó, Đức  Phật quán xét  thấy được tâm trạng và công phu của Sa-di Hiền Trí, nếu  Tôn giả  Xá-lợi-phất khất thực trở về, mở cửa phòng mà Sa-di Hiền Trí vẫn  chưa  chứng quả A-la-hán thì sẽ làm trở ngại công phu. Do đó khi Tôn giả   Xá-lợi-phất về thì Đức Phật ra đón ở cửa trước, chặn lại và hỏi rất   nhiều câu để cho Sa-di Hiền Trí trong kia có thời gian thành tựu đạo   quả. Quả nhiên, ngay sau đó, Sa-di Hiền Trí đắc quả A-la-hán. Khi đó,   Đức Phật để cho Ngài Xá-lợi-phất đem phần cơm khất thực vào cho Sa-di   Hiền Trí. Sau khi dùng cơm xong, thu xếp gọn gàng, trời Đế Thích thu   thần lực lại thì mặt trời liền lặn và tối. Đại chúng thấy sự việc lạ rất   ngạc nhiên và bàn tán. Đức Phật biết nên Ngài đến giải thích nguyên   nhân của sự việc hôm nay là do Sa-di Hiền Trí.
Qua đó, quý vị thấy,   Sa-di Hiền Trí mới bảy tuổi, nhưng khi ra đường thấy những sự việc người   ta làm thì những việc đó đánh động sâu vào tâm Ngài, từ đó Ngài quyết   tâm hạ thủ công phu để thành tựu. Như vậy, những công việc xem ra rất   tầm thường, nhưng đối với Ngài, nó lại có thể biến thành pháp thoại   khiến cho Ngài giác ngộ và chứng quả. Còn đối với chính những người đang   làm việc đó hoặc những người nhìn thấy rất nhiều, nhưng xem thường cho   qua thì những việc đó cũng trở thành tầm thường. Tại sao như vậy? Giả  sử  trên đường đi, nếu Sa-di Hiền Trí thả tâm buông lung và nghĩ ngợi  lung  tung, không chú tâm vào đề mục thiền quán Thầy mình chỉ dạy thì  liệu  Ngài có thành tựu được sự giác ngộ không? Như vậy, cùng một hoàn  cảnh  đó, nếu chúng ta buông lung tâm niệm, sống theo phàm tình thì ngay  đó  Phật pháp đang vắng bóng. Còn nếu chúng ta chánh niệm, chuyên chú,  tỉnh  giác thì nó lại trở thành một cảnh giới giác ngộ, trở thành Phật  pháp  đối với mình. Ngay đó, bánh xe chánh pháp đang xoay chuyển đều,  không  thiếu vắng. Vấn đề còn lại ở đây là chúng ta có chịu chánh niệm,  chuyên  tâm và tỉnh giác để nghe thấy vạn vật tuyên thuyết diệu pháp hay  chưa mà  thôi.
Một hôm ngài Dịch Thượng ngồi thiền mãn giờ thì có một hồi chuông xả thiền ngân vang đến.
Khi xuất định, Sư gọi thị giả đến hỏi:
- Sáng nay ai thỉnh chuông vậy?
Thị giả thưa:
- Đó là một Sa-di vừa mới đến tham học.
Sư bảo thị giả gọi vị Sa-di ấy đến.
Khi Sa-di đến, Sư hỏi:
- Sáng sớm hôm nay, con dụng tâm như thế nào để thỉnh chuông?.
Sa-di ngạc nhiên, trả lời:
- Bạch Thầy, con không có dụng tâm gì, chỉ là thỉnh chuông là thỉnh chuông vậy thôi.
Thiền sư Dịch Thượng bảo:
-   Con chẳng thấy sao? Khi con thỉnh chuông, nhất định trong tâm con có   niệm đến một chút gì, vì hôm nay ta nghe tiếng chuông của con âm thanh   rất trong sáng. Chỉ người có chánh tâm thành ý mới phát ra tiếng chuông   này.
Sa-di nghe vậy, suy nghĩ một lúc rồi thưa:
- Bạch Thầy, thực   ra con cũng không có ý niệm gì đặc biệt. Chỉ là trước kia khi chưa đi   tham học, Thầy con thường răn nhắc, khi thỉnh chuông phải tưởng đến   chuông tức là Phật, phải thật chí thành trai giới, kính chuông cũng như   kính Phật, dùng tâm thiền như lúc nhập định và dùng tâm lễ bái để thỉnh   chuông.
Quý vị thấy, khi mình thỉnh chuông phải coi chuông như  Phật,  nếu mình thấy Phật trước mặt mình thì có dám động niệm không? Quý  vị  thấy đi gần Hòa thượng Ân sư là chúng ta đã thanh tịnh rồi, huống  nữa là  mình gần Phật thì rất chánh niệm. Sở dĩ mình buông lung nhiều là  do tâm  khinh suất của mình chứ nếu thận trọng hơn một chút thì tu dễ  tiến.
Ngài  nói “dùng tâm thiền như lúc nhập định và dùng tâm lễ bái  để thỉnh  chuông” nghĩa là tâm rất chí thành không một niệm khác. Nếu  không phải  là người chí tâm thành ý thì không thể phát ra được tiếng  chuông này. Và  nếu không phải là người có tâm đang thiền như Thiền sư  Dịch Thượng thì  cũng không thể nhận được tiếng chuông thiền vị ấy. Mới  thấy, Phật pháp  luôn sẵn quanh ta, nhưng chúng ta có biết vận dụng đúng  mức hay chưa?
Nghe xong, Thiền sư Dịch Thượng rất hài lòng và ân cần nhắc thêm:
- Sau này, khi xử lý các việc, con cũng đừng nên quên một điều là đều giữ gìn cái tâm thiền đã thỉnh chuông sáng nay.
Từ   đó về sau, Sa-di luôn giữ thói quen như vậy, luôn luôn cung kính, kính   cẩn, chẳng những khi thỉnh chuông mà khi làm bất cứ một việc gì, hễ  vừa  động một chút niệm, Ngài liền nhớ lời khai thị của Thiền sư Dịch  Thượng  và vị Thầy thế độ của mình nên luôn giữ cái tâm thiền thỉnh  chuông đó.  Sau này chú Sa-di đó trở thành một vị thiền sư là ngài Sâm  Điền Ngộ Do.
Nhìn  lại, chúng ta thường khinh suất, ít chú tâm, chứ  còn nếu kính cẩn, thận  trọng và chú tâm giống như trường hợp trên thì  trên đường tu rất dễ  thành tựu. Ví dụ, quý vị nghe Hòa thượng dạy “biết  là chân tâm”. Nếu lúc  nào quý vị cũng biết chỉ là biết, cứ liên tục  như vậy một thời gian sẽ  có một sức mạnh tỉnh giác cao, đó chính là vốn  liếng cần thiết để khi  mình gặp những nghịch cảnh thì có thể vượt qua  một cách dễ dàng. Pháp  không phải thiếu mà cái thiếu ở đây là sự chuyên  cần, chuyên chú, chuyên  tâm. Cũng giống như trong Kinh, Đức Phật dạy:  “Chế tâm nhất xứ, vô sự  bất biện”, có nghĩa là chú tâm vào một chỗ thì  không có việc gì là không  thành tựu cả. Nếu chúng ta chú trọng việc tu  hành và thực hành công phu  một cách miên mật như ngài Sâm Điền Ngộ Do  thì ngày thành tựu của chúng  ta không phải là lâu lắm. Thực hành được  như vậy thì trong mọi lúc, mọi  nơi Phật pháp không bao giờ thiếu vắng.  Đó chính là bánh xe chánh pháp  đang xoay chuyển một cách liên tục,  không gián đoạn nơi mỗi người. Đó là  mức độ bình thường, quý vị nghe  nhiều rồi, giờ chỉ là nhắc lại để nhớ  kỹ hơn.
II/ TÂM THỂ HIỆN BÀY TẤT CẢ CHỖ
Bây  giờ sang cấp độ thứ  hai rốt ráo hơn một chút. Ở tại Long Môn, nơi  Thiền sư Phật Nhãn đang  giáo hóa có làm một cái cối xay bằng đá, dùng  sức nước để xay bột. Quý  vị biết cái cối xay ngày xưa các Ngài làm thế  này: Đào đất xuống, bên  trên gác một tấm ván ngang qua, giống như là  dòng suối gác ván ngang qua  để làm cầu vậy. Trên tấm ván đó các Ngài để  một cối xay bằng đá, có một  cái trục từ trên cối xay này xuyên qua ván  đó xuống dưới lỗ hổng. Phía  dưới đẽo một bánh xe tròn bằng gỗ gắn  ngang ở dưới. Sau đó, cho dòng  nước chảy mạnh xuống thì nước sẽ đẩy làm  cho bánh xe này quay. Ngài  Hoàng Long Trung Đạo giả lúc mới đến chùa  Long Môn, Sư rảo bước ngang  sang cái cối xay bằng đá dùng sức nước đó,  thấy có tấm bảng nhỏ ghi bốn  chữ: “Pháp luân thường chuyển”, có nghĩa  là bánh xe chánh pháp vẫn đang  xoay chuyển liên tục, thì hoát nhiên  tỉnh ngộ, vỗ tay nói hai câu kệ:
“Chuyển đại pháp luân
Trước mắt trùm khắp”.
Có người hỏi: “Thế nào là nước đẩy cối quay?”. Sư bèn lấy tay vẽ một hình tròn.
Theo   quý vị, ngài Trung Đạo giả đã thấy cái gì mà tỉnh ngộ và nói “chuyển   đại pháp luân, trước mắt trùm khắp”. Có phải là Ngài thấy tấm bảng ghi   bốn chữ “pháp luân thường chuyển” không?
Đây là một điểm rất đặc   biệt, nếu quý vị thấy được chỗ này thì sẽ thấy lúc nào các vật chung   quanh cũng đang thuyết pháp cho mình nghe và lúc nào mình cũng đang   thuyết pháp hết. Chỗ này quý vị không cần hiểu mà phải khéo nhận thì   đúng hơn, cho nên đừng nghĩ là đã học hay chưa học, nghe gì trả lời nấy.
    1/ CHỈ RA TÁNH THẤY BIẾT
Thông   thường, khi đưa cái tay lên, hỏi “Thấy không?” thì quý vị có thấy   không? “Có thấy”. Nếu chưa biết thì khi bỏ tay xuống, hỏi “Thấy không?”   thì quý vị nói là “Không thấy”, phải không? Như vậy, đưa tay lên, hỏi   thấy không thì nói là có thấy, để tay xuống hỏi có thấy không thì nói là   không thấy. Vậy tại sao thấy, tại sao không thấy? Đáp là khi có cái  tay  thì thấy mà không còn cái tay nữa thì không thấy, đúng không? Tiếp  tục,  đưa tay lên hỏi “Có cái tay không?” thì quý vị nói “Có cái tay”,  để tay  xuống hỏi “Có cái tay không?” thì nói “Không có cái tay”.
Cùng  một  động tác là đưa tay lên, mà hỏi thấy không thì quý vị đáp là thấy,  hỏi  về tay thì đáp là có tay. Vậy là cái tay với cái thấy đang bị lẫn  lộn,  quý vị đã đồng hóa cái tay này với cái thấy nơi chính mình, đó là  mình  đã quên mình mà theo cảnh bên ngoài rồi. Đây là cái thấy của phàm  phu.  Bởi vì khi đưa tay lên, quý vị đáp là có thấy, nhưng khi hạ xuống,  nếu  thực sự không thấy thì ai đang thấy biết không có cái tay mà nói  “không  thấy” đó? Nếu thực sự không thấy thì chắc chắn quý vị không trả  lời được  là “không thấy”. Khi đặt tay xuống mà nói là không thấy thì rõ  ràng là  mình đã bỏ quên ngay cái đang thấy nơi chính mình mà thấy theo  cái tay,  thấy theo cảnh bên ngoài rồi.
    1.a/ Không có cái tay, không cảnh để lựa ra và nhận lại tánh thấy biết.
Bây   giờ, bằng cái thấy biết quý vị đang thấy đây, không cần theo cái tay   này nữa, ngay khi đưa cái tay lên, quý vị có thấy không?
- Thấy.
- Thấy là chỉ thấy thôi, bình thường, lắng tâm mà thấy, khi để cái tay này xuống quý vị có còn thấy không?
-   Cũng đang thấy biết rõ ràng mà không động. Như vậy, ngay đây, không   nhìn theo nó thì đang lặng mà rỗng suốt, thấy biết rõ ràng, không động.   Đây chính là tánh thấy biết vẫn hằng hữu nơi chính mình, chưa bao giờ   thiếu vắng. 
    1.b/ Khi có cái tay, có cảnh để lựa ra và nhận lại tánh thấy biết.
Cũng vậy, vẫn chỉ bằng một cái quý vị đang thấy biết trong lặng đó, quý thầy đưa cái tay này lên lại, quý vị có thấy không?
- Thấy.
- Thấy mà có động hay không?
- Vốn tự rỗng suốt - rõ ràng mà không động, đúng không?
    1.c/ Tánh thấy biết vốn tự không tịch, vượt ngoài có - không.
Như   vậy, khi có cái tay quý vị cũng biết, khi không tay quý vị cũng biết.   Cảnh này có còn, có mất, có có, có không, nhưng cái thấy của mình vượt   ngoài có không, còn mất. Ngay đây, cái thấy vốn tự rỗng suốt, rõ ràng,   không động. Tâm không thì cảnh tịch, cái tay này là không tịch (rỗng   lặng).
    1.d/ Không trong - không ngoài, hiện bày khắp tất cả chỗ.
Bằng   cái thấy này, quý vị nhìn lại cái tay này, nó ở trong hay ở ngoài quý   vị? Khi thấy mà chưa có một niệm phân biệt thì có bóng dáng của cái tay   này trong tâm quý vị không? Không, như vậy thì không phải ở trong.  Nhưng  quý vị có đang thấy không? Đang thấy thì không phải ở ngoài. Nếu  nói  trong ngoài là nói theo cái tay này rồi. Ngay khi thấy mà đang lặng  đó  thì cái tay này không in dấu trong tâm cho nên nó không phải ở  trong,  nhưng mà mình vẫn đang thấy cho nên nó không phải ở ngoài. Không  phải ở  trong, không phải ở ngoài, không phải có, không phải không mà  cái tay là  một sự hiện hữu trong tự tánh chánh định mỗi người. Ngay  đây, chúng ta  đang thấy biết vượt cả trong ngoài, có không, năng sở đối  đãi hai bên.  Cái tay là cái tay. Tâm cảnh nhất như, cho nên nhìn cái  gì cũng là Phật  pháp hết. Phật pháp bàng bạc khắp tất cả nơi.
Trở  lại câu chuyện ngài  Trung Đạo giả, khi nhìn thấy tấm bảng đó, Ngài đã  thấy cái gì mà ngộ  đạo? Như quý vị nhìn cái tay này, không phải có,  không phải không, không  phải trong, không phải ngoài thì mình vốn là  trong lặng mà đang thấy  đây. Ngài vừa thoạt nhìn tấm bảng thì tỏ suốt  tánh thấy biết chính mình  vốn tự rỗng sáng, không động và đang hiện  tiền khắp tất cả nơi. Ngay đó,  Phật pháp bàng bạc trùm khắp không thiếu  vắng. Đó chính là bánh xe  chánh pháp đang xoay chuyển đều không xen  hở. Cho nên Ngài mới nói kệ  là: “Chuyển đại pháp luân, trước mắt trùm  khắp”. Tức là Phật pháp ngay  tất cả mọi nơi, khéo thể nhận thì cái gì  cũng đang nói pháp cho chúng ta  nghe hết. Không chỉ riêng Ngài nhìn  thấy tấm bảng kia mà bây giờ quý vị  đang thấy mọi thứ chung quanh đây,  nếu khéo thể nhận thì cái gì cũng là  chánh pháp đang bủa khắp, đại pháp  luân đang chuyển trước mắt mình rõ  ràng.
Nhìn lại, ngày xưa, ngài  Trung Đạo giả nhìn tấm bảng mà có  tỉnh, bây giờ quý vị thấy quý Thầy  đưa cái tay này lên là giống hay  khác? Nếu nói khác thì cái thấy của  mình đã theo cái tay này rồi. Tấm  bảng và cái tay có khác, còn cái thấy  biết hiện tiền đây thì không khác.  Cho nên ngày xưa là tấm bảng, bây  giờ đưa cái tay này, cái thấy biết  rỗng suốt kia vốn tự không đổi khác.  Bây giờ không đưa tay nữa mà đưa  cái ly này lên, quý vị có thấy khác  không? Cũng không khác. Hay không  đưa ly mà vẽ vòng tròn, quý vị có  thấy khác không? Cũng vậy. Cho nên có  người hỏi: “Thế nào là nước đẩy  cối quay?” thì Ngài vẽ cái vòng tròn như  vậy. Dù là thấy tấm bảng, thấy  đưa cái tay, đưa cái ly, hay là vẽ vòng  tròn, nhưng nó vẫn không ra  ngoài cái thấy biết rõ ràng không động đang  hiện tiền đây. Bằng cái  thấy biết đó để sống, để thấy tất cả thì lúc nào  tâm thể cũng đang hiện  bày khắp tất cả chỗ, và đó là Phật pháp đang  hiển lộ. Nếu chúng ta  khéo nhận và sống được như vậy thì trong mọi sinh  hoạt hằng ngày, cảnh  nào cũng đang tuyên thuyết diệu pháp cho chúng ta  nghe hết.
    2/ HOÀN CẢNH NÀO CŨNG ĐƯA CHÚNG TA VÀO ĐẠO
Có  một vị  Thiền sư nói trong một bộ luận như thế này: “Cho đến tường,  vách, ngói,  gạch, không có gì chẳng biết thuyết pháp. Nên Linh Vân thấy  hoa đào nở  mà ngộ đạo, Huyền Sa bảo yến hót là bàn sâu thực tướng, thế  thì cả quả  đất đều là cửa ngộ, cái gì chẳng phải là đạo lý này”.
Chính  vì vậy mà  trong bộ Sơn Am Tạp Lục của Thiền sư Vô Uẩn Thứ Trung đời  nhà Minh có  chép một câu chuyện của thị giả Miễn. Thị giả Miễn là cháu  trong dòng họ  của Thiền sư Vô Uẩn Thứ Trung, khi ngài Vô Uẩn gạn hỏi  nguyên do ngộ  nhập thì thị giả Miễn kể lại như sau: “Miễn này có một  lần ở nơi Ngọc  Kỷ, ngồi ở trên bàn kinh chỗ rừng chiên đàn, tình cờ  thấy Tạng chủ Khuê  đang cùng với một vị tăng bàn luận Phật pháp. Vị  Tăng đó hỏi: “Thế nào  là việc hướng thượng?” Tạng chủ Khuê nắm hai tay  lại để lên đầu rồi sau  đó chắp tay lại, nói “Tố rô, tố rô”. Tạng chủ  Khuê đang nói với vị Tăng ở  đằng kia, nhưng thị giả Miễn ngồi trên bàn ở  đằng này mà được chỗ hoan  hỷ (có nghĩa là được chỗ tỉnh sáng) liền vội  vàng đi đến Mông Đường (là  nhà nghỉ của những vị chức sự sau khi nghỉ  việc) để thuật lại với Thủ  tọa Đạt nghe. Thủ tọa Đạt cười và bảo “Ông  lại đến chăng?”. Từ đó trong  lòng tôi tự giác biết rõ ràng”.
Sau khi  ngài Vô Uẩn Thứ Trung được  nghe thị giả Miễn kể lại như vậy, Ngài đến  gặp Tạng chủ Khuê để thuật  lại và hỏi nhân duyên đó như thế nào thì  Tạng chủ Khuê đỏ mặt không dám  đáp lại. Lúc đó Thiền sư Vô Uẩn thong  thả hỏi lại lần nữa thì Tạng chủ  Khuê mới nói: “Lúc đó tôi làm dáng vẻ  ấy là để đùa với vị Tăng đó thôi,  chứ thực tình không biết thế nào”.
Ngài  Vô Uẩn đã thuật lại câu  chuyện trên và có lời bình: “Mới tin việc này  chẳng ở trên lời nói, đến  như gió động, bụi dấy, chim lượn, mây bay,  thảy đều là chỗ đẩy người  vào, nhưng tự là ngay mặt lầm qua. Hãy xem  Tạng chủ Khuê đùa với vị tăng  mà thị giả Miễn được chỗ hoan hỷ. Chính  như trong hội Đức Phật có ông  Sa-di nhỏ lấy trái banh da đùa giỡn chọi  trên đầu vị Tỳ-kheo già mà vị  Tỳ-kheo già nhân đó chứng được tứ quả  A-la-hán thì việc cũng có thể y  cứ”.
Quý vị nhìn lại, Tạng chủ Khuê  chỉ có ý đùa với vị Tăng đó thôi  chứ không phải là thuyết pháp gì hết  nhưng thị giả Miễn lại tỏ ngộ. Rồi  ông Sa-di nhỏ nghịch, lấy trái banh  da chọi lên đầu vị Tỳ-kheo già nhưng  Thầy Tỳ-kheo già lại chứng tứ quả.  Đó là do tâm quý Ngài chuyên nhất,  lúc nào cũng chỉ một việc tham  thiền thôi cho nên khi thuần thục, nhân  duyên chín muồi, gặp duyên liền  hay ra, sáng tỏ đạo lý. Mới thấy, chính  hành động đùa giỡn của Tạng  chủ Khuê cũng đã thuyết pháp cho thị giả  Miễn, rồi chính trái banh da  cũng thuyết pháp cho thầy Tỳ-kheo già. Cho  nên nếu tâm ta chuyên nhất  và dụng công một cách miên mật thì cảnh nào  cũng là cảnh đưa chúng ta  vào đạo hết. Vì vậy mà ngài Vô Uẩn nói: “Đến  như gió động, bụi dấy,  chim lượn, mây bay thảy đều là chỗ đẩy người vào  nhưng mà ngay mặt lầm  qua”, có nghĩa là trong tất cả các cảnh hằng ngày,  bụi dấy, chim lượn,  mây bay… tất cả đều đẩy mình vào cửa đạo, nhưng tại  chúng ta không khéo  nhận nên bị lầm qua đi. Tức là hằng ngày ngay trên  các cảnh duyên, đạo  vốn sẵn đủ, nhưng mình không tự biết, không khéo  nhận lại nên chúng ta  theo duyên bên ngoài mà bỏ quên mất chính mình,  thì đó gọi là bỏ sót,  lầm qua. Cụ thể khi quý vị đang nghe đây, nhưng  quý vị duyên theo tiếng  mà nghe hoặc phóng tâm mà nghe thì mình đã bỏ  sót tánh hiện hữu của  mình đang rõ đây. Cho nên ngài Tăng Triệu nói:  “Đau xót thay cái mê  hoặc của tình người đã lâu lắm rồi, mắt đối diện  với cái chân thật mà  không ai hay biết”. Ngài nói rất là đau đớn, vì  chuyện này là sẵn trước  mắt, nhưng vì cái mê lầm của con người đã lâu  lắm rồi cho nên mắt đối  diện với cái chân thật mà không ai hay biết.  Điều này do sự mê lầm  nhiều đời của mình lấp đi chứ thực ra cũng không  ai muốn mê, nhưng vì  bị vùi lấp sâu quá nên vừa giác một chặp thì lại  quên đi. Cho nên mình  thấy rõ hằng ngày các cảnh đã bày đủ rồi, nhưng mà  chúng ta không khéo  nhận để lầm qua rồi luống chịu cái khổ rỗng trong  sanh tử.
III/ VÔ TÌNH THUYẾT PHÁP
Thiền sư Động Sơn Lương Giới là vị tổ khai sáng tông Tào Động. Quý vị biết nguyên nhân ngộ nhập của Ngài rất đặc biệt.
Khi ngài Động Sơn đến ngài Quy Sơn Linh Hựu để tham vấn, Ngài hỏi:
- Được nghe Quốc sư Huệ Trung nói “Vô tình thuyết pháp”, con chưa hiểu thấu chỗ vi diệu ấy.
Ngài Quy Sơn nói:
- Ta trong ấy cũng có, chỉ là ít gặp được người kia.
Sư thưa:
- Con chưa hiểu, xin Thầy chỉ bày.
Ngài Quy Sơn dựng cây phất tử lên, hỏi:
- Hội chăng?
Sư thưa:
- Chẳng hội, thỉnh Hòa thượng nói.
Ngài Quy Sơn nói:
- Miệng do cha mẹ sanh, trọn không thể vì ngươi nói.
(Từ   nãy đến giờ đã nói qua chỗ này rồi, nhưng nói cũng chỉ để quý vị khéo   tự nhận lại thôi chứ không thể nào nói tột đến chỗ đó được).
Sư thưa:
- Lại có người cùng Thầy đồng thời mộ đạo chăng?
Ngài Quy Sơn bảo:
-   Ở Lễ Lăng, tại huyện Du, trong các thất đá nối nhau có một đạo nhân  Vân  Nham, nếu hay vạch cỏ xem gió ắt vị ấy là người ngươi kính trọng.  Tức  là ngươi có duyên với vị đó, nên đến rồi vị đó sẽ khéo chỉ cho  ngươi.
Ngài Động Sơn từ giã ngài Quy Sơn và thẳng đến chỗ ngài Vân Nham. Khi đến Vân Nham, Sư hỏi:
- Vô tình thuyết pháp, người nào được nghe?
Ngài Vân Nham bảo:
- Vô tình thuyết pháp, vô tình được nghe.
Sư hỏi:
- Hòa thượng lại nghe chăng?
Ngài Vân Nham nói:
- Nếu ta nghe thì ngươi đâu thể được nghe ta thuyết pháp.
Sư thưa:
- Con vì sao chẳng nghe?
Ngài Vân Nham dựng cây phất tử lên, hỏi:
- Lại nghe chăng?
Sư thưa:
- Chẳng nghe.
Ngài Vân Nham bảo:
- Ta thuyết pháp mà ngươi còn chẳng nghe, huống nữa là vô tình thuyết pháp.
Sư hỏi tiếp:
- Vô tình thuyết pháp gồm những kinh điển gì?
Ngài Vân Nham nói:
- Đâu không thấy trong Kinh Di Đà nói: “Nước, chim, cây rừng, thảy đều niệm Phật, niệm Pháp”.
Ngay câu nói đó, Sư liền tỉnh ngộ và nói bài kệ:
Cũng rất kỳ, cũng rất kỳ
Vô tình thuyết pháp chẳng nghĩ nghì
Nếu lấy tai nghe trọn khó hội
Phải đem mắt thấy mới liễu tri.
Khi   chúng ta nghe nói “vô tình thuyết pháp”, quý vị dùng tai để lắng nghe   cây cối nói pháp gì đó, pho tượng nói pháp gì đó thì có phải là quý vị   nghe theo tiếng không? Lắng tai để nghe nói một điều gì đó có nghĩa là   đợi có tiếng mới nghe mà quên mất cái đang biết nghe đây. Đó là lầm.  Còn  nếu chúng ta không rời bản vị của chính mình, có nghĩa là đang ở  trong  cái đang thấy nghe đây mà không cần duyên theo tiếng, ngay đó  mình nghe  suốt một cách lặng lẽ, rõ ràng. Ngay đó, hoa lá, cỏ cây, chim  chóc cũng  đang tuyên thuyết một bài pháp vi diệu cho chúng ta nghe.  Pháp này dùng  tai hay dùng mắt gì cũng nghe được hết. Nghe được “vô  tình thuyết pháp”,  không phải đợi có tiếng mới nghe, không phải là cái  nghe theo tiếng như  cái nghe sanh diệt bình thường của bao nhiêu người  khác. Mà ở đây, tự  tánh vốn lặng lẽ, hằng nghe một cách rõ ràng, không  bao giờ thiếu vắng.  Quý vị nếu thấu suốt chỗ này thì dùng mắt hay dùng  tai gì cũng nghe được  hết. Đó là chỗ “vô tình thuyết pháp” mà ngài Động  Sơn Lương Giới đã  sáng được. Quý vị rõ cái đó thì cỏ cây, hoa lá gì  cũng đang thuyết pháp  cho mình nghe, nói chi là đến con người. Mình  nghe được như vậy thì dù  cho là ở đây hay ra đường, về nhà chúng ta đều  luôn nghe pháp.
Quý vị  còn nhớ giai thoại cây bách của Ngài Triệu  Châu. Có một vị Tăng đến  Ngài Triệu Châu, hỏi: “Thế nào là ý Tổ sư từ  Ấn Độ sang?”. Ngài Triệu  Châu nói: “Cây bách trước sân”. Sau này, có vị  Tăng đem giai thoại đó  đến hỏi ngài Diệp Huyện Quy Tỉnh. Ngài bảo:
- Ta chẳng tiếc nói với ngươi, mà ngươi có tin không?
Tăng thưa:
- Lời nói của Hòa thượng là quý trọng, con đâu dám chẳng tin.
Sư bảo:
- Ngươi lại nghe giọt mưa rơi trước thềm chăng?
Vị Tăng ngay đó hoát nhiên thốt ra tiếng: “Chao!”.
Sư hỏi:
- Ngươi thấy đạo lý gì?.
Vị Tăng ấy đáp bằng một bài tụng:
Giọt mưa trước thềm,
Rành rẽ, rõ ràng.
Đập nát càn khôn,
Liền đó tâm dứt.
Sư vui vẻ.
Quý   vị thấy, chỉ một cây bách trước sân của Ngài Triệu Châu, nhưng từ xưa   đến giờ vẫn còn thuyết pháp. Cho đến giọt mưa kia cũng thuyết pháp cho   vị Tăng ngộ đạo. Nếu chúng ta khéo nhận thì cảnh nào cũng là cảnh đưa   chúng ta vào đạo, cảnh nào cũng đang diễn bày Phật pháp chân thật hết.
Có một vị Tăng đến hỏi Thiền sư Duy Chánh:
- Thầy nhân danh là Thiền sư, vì sao không nói thiền?
Sư nói:
- Ngày đêm nhờ vạn tượng diễn bày hết rồi, ngôn ngữ có gián đoạn mà pháp này thì vô tận, nên gọi là tạo hóa vô tận tạng.
Ngay   trong sinh hoạt hằng ngày, mọi cảnh vật đã diễn bày Phật pháp một cách   đầy đủ và rõ ràng hết rồi, pháp ấy vốn thênh thang trùm khắp mà ngôn  ngữ  thì có giới hạn không thể nói đến được. Chỉ là chúng ta có khéo  nhận  lại hay không mà thôi.
Đọc giai thoại trên, có vị đã cảm hứng thành bài thơ thế này:
“Tiếng mưa đọng lại ai ơi,
Và dòng sông hát thay lời chúng ta.
Nghiêng vai chạm ánh trăng già,
Vỡ tan đại mộng nên ta không lời”.
Một   lúc nào đó thảnh thơi, quý vị ngồi lắng lại không cần khởi một niệm gì   hết, nhìn mưa rơi thì sẽ thấy rõ. Quý vị chỉ cần không một niệm, lắng   lại mà nhìn, nhớ là đừng nhìn theo giọt mưa, thì tự nhiên giọt mưa sẽ   lắng đọng lại, từng giọt, từng giọt rất rõ ràng, rành rẽ. Lúc ấy không   gian như lắng đọng lại, tâm mình bỗng dưng rỗng suốt, lặng trong, thênh   thang, không động. Ngay đó, giọt mưa đang tuyên thuyết diệu pháp cho   chúng ta nghe. Và tất cả cảnh vật chung quanh cũng lắng xuống, ngay đó   đừng thêm nữa thì tánh đang là đó. Điểm chính yếu là chạm ánh trăng già   thì đại mộng sinh tử liền tan vỡ. Trong ấy, ánh trăng thanh bàng bạc  vốn  tự tròn trịa, đầy đủ. Vạn tượng đã diễn bày đầy đủ, không cần nói  thêm  gì nữa. Nếu cần nói thì nói có được không? Được. Nếu nói không  được thì  đã kẹt trên chuyện có nói và không nói rồi. Cần nói thì nói,  cần nín thì  nín, trong ấy tự nó vốn không có gì ngăn ngại. Toàn một thể  kia, có tay  hay không tay vẫn là một thể. Chỗ này cũng vậy, thể ấy vốn  lìa cả nói  nín, tùy thời nói nín nào có vướng kẹt gì! Đến trong đó rồi  thì nói cũng  được, nín cũng được, đâu cần gắng gượng dựng lập một cái  gì cố định!
IV/ ÁNH TRĂNG TÂM BÀNG BẠC KHẮP NƠI
Khi vua Lý Nhân Tông vào núi hỏi Thiền Lão thiền sư:
- Hằng ngày, Hòa thượng làm gì?
Sư đáp:
Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác,
Trăng trong mây bạc hiện toàn chân.
Nào   là trúc biếc, hoa vàng, trăng trong, mây bạc…, tất cả những thứ đó đều   hiện rõ tánh chân của mình, tánh chân đang bàng bạc trên tất cả cảnh  đó.  Bây giờ, quý vị kinh nghiệm lại nơi mình, sống như thế nào, làm sao  thì  rõ được tánh chân đang hiển hiện? Chỗ này không phải chỉ lúc ngồi  thiền  mà là chỗ hằng ngày mình làm gì thôi. Giờ quý Thầy chỉ sơ qua,  khi đi  kinh hành, thay vì mình chú tâm, bây giờ không cần chú tâm, mà  cũng  không phải buông lung. Tại vì tâm đó không phải giữ mà được, không  phải  buông lung mà có. Khi đi, trên tất cả cảnh, quý vị đừng trụ vào  cảnh nào  hết. Nhìn hết nhưng đừng để tâm vào bất cứ cảnh gì, nhìn suốt  qua cảnh,  đi bình thường. Rồi bên trong quên luôn cả chỗ ngộ, sở chứng  của mình.  Hoặc là một điều Phật pháp gì đó mình cũng đừng nhớ đến. Lúc  đó quý vị  vẫn bình thường, vẫn trong lặng nhìn suốt qua tất cả mà không  trụ vào  một cái gì hết. Ngay đó, tâm mình liền hiển hiện sáng suốt rõ  ràng và  thênh thang lắm. Khi đó, tuy đang đi mà nhẹ tênh, không động.  Lúc bấy  giờ không cần sanh tâm trụ hay giữ gì nữa. Miễn là không bất  giác, không  một vết mê mờ và không niệm là tốt. Cảnh và tâm không cần  biện biệt  phân hai mà tự nó rỗng suốt rõ ràng không ngăn ngại, ngay đó  tự là như  như, sáng rỡ. Tâm cảnh nhất như thì tâm thể hiện bày trên tất  cả chỗ.  Lúc này, trúc biếc, hoa vàng, trăng trong, mây bạc…, cảnh nào  cũng là  cảnh đang tuyên thuyết diệu pháp âm. Cho nên bà Bàng Long Uẩn  mới nói:  “Dễ, dễ, trên đầu trăm cỏ ý Tổ sư”. Chỉ cần ngoài nhìn suốt  qua tất cả  mà không dừng trụ, trong không giữ một điều gì, ngay đó,  “trên đầu trăm  cỏ ý Tổ sư” chứ không phải là đi tìm một cái gì đó ở đâu  đâu nữa. Đây là  chỗ các bậc cổ đức nói:
Thanh thanh thúy trúc tổng thị pháp thân.
Uất uất hoàng hoa vô phi Bát Nhã.
Nghĩa là:
Xanh xanh trúc biếc thảy đều pháp thân,
Rợp rợp hoa vàng toàn bày Bát Nhã.
Có   một vị Tăng đem câu này đến hỏi ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ: Kính bạch   Thượng sĩ, “xanh xanh trúc biếc thảy là pháp thân” phải chăng?
Ngài Tuệ Trung Thượng Sĩ nói: Hôm qua Sa-di ăn măng bờ suối, nào khác ngày nay pháp thân của ông?
Nếu   nhận trên cảnh cho trúc biếc là pháp thân thì hôm qua ông Sa-di ăn  măng  bên bờ suối, như vậy là đã ăn pháp thân của ông rồi. Vậy thì làm  sao  hiểu?
Nãy giờ quý vị đã nghe qua và cũng phần nào nhận được.  Nhưng  ngang đây thì mình cũng cần chín chắn lại một chút, nếu không thì  sẽ lầm  nhận cảnh bên ngoài cho là mình.
Giờ quý Thầy sẽ trích dẫn một giai thoại để quý vị nhận rõ ràng hơn, không lầm cho cảnh là mình.
Thiền   sư Tam Bình Nghĩa Trung ban đầu đến tham vấn ngài Thạch Củng Huệ Tạng.   Trước kia ngài Thạch Củng là một vị thợ săn, sau gặp Mã Tổ được khai  thị  và ngộ đạo. Từ đó về sau, Ngài thường dùng cung tên ngày xưa săn  bắn để  khai thị cho người học. Khi ngài Tam Bình đến, ngài Thạch Củng  giương  cung bảo:
- Xem một mũi tên của ta đây.
Ngài Tam Bình vạch ngực ra nói:
- Đây là mũi tên giết người, còn mũi tên cứu người thì làm sao?
Ngài Thạch Củng gảy dây cung ba cái, ngài Tam Bình Nghĩa Trung liền làm lễ. Ngài Thạch Củng bảo:
- Ba mươi năm một phen giương cung, một hai mũi tên chỉ bắn được nửa người. 
Sau đó ngài Tam Bình đến tham vấn ngài Đại Điên thuật lại việc trên. Ngài Đại Điên nói:
- Đã là mũi tên cứu người (mũi tên sống) thì làm sao lại nhằm trên dây cung mà biện?
Ngay đó Sư mờ mịt không đáp được.
Quý   vị thấy bắn được nửa người chưa? Quả tang ngài Tam Bình mới nhận được   nửa người thôi, còn nửa người còn lại chưa biết. Đến đây ngài Đại Điên   dẹp bỏ dây cung thì ngài Tam Bình liền mờ mịt, chứng tỏ ngài Tam Bình  đã  nhằm trên dây cung mà nhận. Vì vậy mà ngài Thạch Củng bảo “chỉ bắn  được  nửa người thôi”. Nếu quý vị thấu rõ nửa người còn lại, nghĩa là  ngay  đây quý vị thấy rõ ai là người vừa được cứu sống lại thì chúng ta  sẽ  thấy rõ cung tên của ngài Thạch Củng đang thuyết pháp. Ngày xưa dùng  để  bắn giết thú mà ngày nay dùng để thuyết pháp cứu sống người cho  muôn đời  không bao giờ chết nữa. Còn nếu nhằm trên dây cung mà biện thì  chưa  khỏi nhận cảnh làm mình nên bị cung tên của ngài Thạch Củng bắn  mù mắt.
Quý  vị biết Pháp sư Chứng Ngộ, hiệu là Viên Trí khi đến  Thiền sư Thử Am  Nguyên, Ngài Chứng Ngộ dẫn hai câu tâm đắc nhất trong  bài kệ “Ngủ lại  nơi Đông Lâm” của ông Tô Đông Pha để trình với Thiền sư  Thử Am Nguyên:
Sắc núi vốn là thân thanh tịnh
Tướng khe đâu chẳng lưỡi rộng dài.
Thân   thanh tịnh là chỉ cho Phật, mà tướng lưỡi rộng dài cũng chỉ cho Phật.   Có nghĩa là cảnh sắc núi rừng, tiếng suối khe chảy thảy đều là Đức Phật   đang tuyên diệu pháp âm, cảnh núi hay tiếng khe gì cũng đều đang nói   pháp cho chúng ta nghe hết. Ngài Thử Am Nguyên gạn lại thì Ngài Chứng   Ngộ liền nghi, biết rằng Ngài chưa tột nên khuyến khích dụng công thêm.   Suốt đêm Sư không ngủ, cho đến khi chuông sáng vừa điểm thì trừ sạch  hết  những điều tích chứa thầm kín trong lòng, bèn nhân bài kệ trước nói   thêm một bài kệ nữa:
Cư sĩ Đông Pha quá lắm lời,
Trong cổng thanh sắc khéo thấu thân.
Khe nếu là thinh, non là sắc,
Không non, không nước khiến người sầu.
Tức   là ông Đông Pha nói khe cũng là Phật mà sắc núi cũng là Phật, cái gì   cũng thuyết pháp, như thế là bày biện quá nhiều lời khiến cho người khác   dễ nhận lầm trên những tướng ấy mà cho là Phật. Nếu thực sự khe, suối,   núi rừng là Phật thì khi không có khe, không có suối, không có núi  rừng  thì Phật ở đâu? Đây là Ngài Chứng Ngộ đã tỏ Phật thật và thốt lên  một  chút xíu lầm của mình khiến ông suốt đêm không ngủ được. Khi hay ra  thì  nó quá gần gũi và đơn giản vô cùng, chỉ là theo lời theo cảnh bị  lầm và  không khéo thể nhận thôi.
Qua đó chúng ta thấy, nếu như nhận  trên  tiếng suối chảy, trên cảnh sắc của núi rừng mà cho đó là Phật pháp  chân  thật, cho đó thảy đều là pháp thân thì khi không có khe suối,  không thấy  cảnh núi rừng thì Phật pháp không còn nữa hay sao? Cái theo  cảnh mà có,  cảnh hết thì không, nó sanh diệt theo cảnh trần nên không  phải là Phật  pháp chân thật. Nếu không khéo, chúng ta chỉ nhận lầm trên  cảnh mà chưa  tột chỗ tâm cảnh nhất như rồi cho là đã rốt ráo, không  cầu tiến nữa thì  sẽ giết mất đời mình.
Chuyện cung tên, chuyện khe  suối hãy để qua một  bên, không bàn nữa, trả lại hết cho người xưa đi.  Ngay đây, quý vị khéo  nhận lại một lần nữa cho sâu hơn để mình rõ được  nửa người còn lại.
Bây giờ xin hỏi quý vị, hiện ngay đây, bánh xe chánh pháp có đang chuyển không?
- Dĩ nhiên là có.
- Ai đang nói? Ai đang nghe?
Nếu   chỉ thấy quý Thầy đang nói và quý vị đang nghe, có nghĩa là quý vị chỉ   nhận trên tướng này, đó là nhận trên cái sanh diệt đổi thay này rồi,   phải không? Cũng là quý thầy đang nói đây, quý vị nghe thì cứ bình   thường mà nghe, ở nguyên bản vị của mình mà nghe, không cần khởi tâm để ý   quý Thầy đang nói gì, đừng nghe theo tiếng. Quý vị cứ lắng lại, bình   thường ngay bản vị của mình mà nghe. Lúc này thấy thế nào? Quý vị có   nghe không? Mình vẫn đang nghe, nhưng rỗng lặng, không cần khởi niệm thì   bản tánh vốn tự nó biết suốt một cách rõ ràng mà không động, chứ không   phải là mình cần để ý mới nghe. Lâu nay mình quen để ý cho nên nghe   trong phạm vi nhỏ, nghe trong cái phân tích của vọng động. Bây giờ quý   vị không cần để ý, trả lại nguyên trạng thái ban đầu, nghe một cách bình   thường thì vốn là tự biết suốt mà không hề động, chứ không phải là   không biết gì đâu mà sợ. Ngay đây, quý Thầy đang nói, quý vị đang nghe,   cả hai đều rỗng lặng, rõ ràng, tỏ suốt thì đạo vốn tự cảm ứng, giao xen   không thể nghĩ bàn.
Quý vị vẫn đang lắng lại mà nghe, quý Thầy vẫn  cứ  nói. Nhưng xin hỏi quý vị, khi quý Thầy đang nói thì quý Thầy có  nghe  không? Nếu được hỏi đến: “Đang nói có nghe hay không?” mà mình  sanh tâm  để ý “có nghe thấy cái gì không?” thì đã rơi vào sanh diệt,  chia cái nói  và nghe thành hai, liền bị ngăn ngại. Trong đây đâu phải  có hai con  người, có một con người đang nói và có một con người đang  nghe đâu?  Chúng ta cứ lắng lại bình thường thì nói vốn tự suốt nghe,  rỗng suốt  không hề ngăn ngại, lúc nào cũng sẵn vậy, đâu có cái gì làm  ngăn trệ cái  gì đâu mà phải phân chia? Mới biết rằng, tánh mình tự  thông, nhưng con  người lại bỏ quên, lao ra ngoài cho nên mới bị hạn  cuộc trong cái phân  biệt ngăn trệ nhỏ nhoi đó. Bây giờ quý vị không cần  duyên theo mà lắng  lại thì vốn tự là suốt. Nếu khéo nghe như vậy thì  không những nghe đây  mà các cảnh xung quanh cũng đang hiện bày một cách  rõ ràng, đang hiện  hữu trong tự tánh chánh định của mỗi người. Đạo  ngay đây bàng bạc, suốt  khắp tất cả chỗ.
Trong pháp hội này thì tất  cả đều đang chuyển pháp  luân, nhưng khi ra đường, về nhà sinh hoạt thì  có ai chuyển pháp luân  cho mình nghe không? Ở bất cứ lúc nào, trong bất  kỳ hoàn cảnh nào cũng  đều có người chuyển pháp luân cho mình nghe hết.  Nhưng có khi nào mình  nghe pháp mà lại nổi sân không? Khi nào nghe mà  nổi sân thì biết là  không phải nghe pháp rồi, phải không? Cho nên cần  phải chuyển cái nhìn  lại thì mới thấy lúc nào cũng có người nói pháp  cho mình nghe hết. Không  có người thì có cảnh nói cho mình nghe. Chỉ  cần chuyển một cái nhìn thì  lúc nào Phật pháp chân thật cũng đang hiển  hiện trước mắt chúng ta.  Chuyển như thế nào?
Ngày xưa chưa biết,  nhìn cái gì thì nhìn theo  cảnh sắc bên ngoài, nhìn theo vật và dính  trên vật, bỏ quên mình, đó là  mê chưa biết. Giờ biết rồi thì sao? Có  phải là khi nhìn một cái gì, mình  không cần theo cái đó mà ngược cái đó  để trở lại mình không? Nếu ngược  cái thấy trở lại, nghĩa là quay trở  lại mình thì lại thừa ra một cái  phân biệt ở giữa nữa rồi. Tại vì quý  vị thấy kia là cảnh, đây là mình,  bây giờ trái với nó, quay lại mình  thì thừa cái phân biệt sanh diệt ở  giữa, hóa ra lại thành thêm một cái  nữa, thay vì ngày xưa mình dính chỉ  có một cái. Chỗ này rất tế nhị,  trên vật đã hiện bày tự tâm, nhưng nếu  mình gá vào vật, nhìn theo vật,  dính trên vật thì đó là bỏ sót tự tâm,  tức là chỉ biết vật mà quên  mình. Khi quý vị tiếp duyên xúc cảnh, nghe  thì bình thường mà nghe,  đừng duyên theo tiếng, mình bình thường thì đâu  có phân biệt kia là  tiếng, đây là mình? Và thấy thì cứ bình thường mà  thấy, đừng thấy theo  cảnh vật bên ngoài. Có nghĩa là lặng lại, lắng  xuống, ở nguyên bản vị  của mình giống như là cọp tựa núi vậy. Ngay đó,  tánh tự thấy nghe,  không cần khởi mà hằng thấy biết. Tánh tự thấy nghe  thì vốn là tự biết  suốt, rõ ràng, không động. Sống được như vậy lâu ngày  thuần thục sẽ có  lực. Lực giác sáng này sẽ giúp cho mình có một năng  lực lớn vượt qua  được những cảnh khác. Đây chính là trí làm chủ sanh tử,  trí phá sanh  tử. Lúc này sẽ thấy rõ, đối trước muôn vật tự nhiên mình  riêng thoát,  giống như là nước đổ xuống đá, giống như sắt vụt hư không  vậy. Nước đổ  xuống đá thì nước với đá là một hay là hai, không phải một  nhưng cũng  không rời nhau, sắt với hư không cũng không phải là một mà  cũng không  phải rời nhau. Ngay đó tự nhiên riêng thoát trên tất cả cảnh.  Khéo nhận  và sống miên mật như vậy thì bản tính mình đang hiện bày  thênh thang,  khắp tất cả chỗ, trùm khắp chưa thiếu vắng bao giờ. Trong  bất cứ lúc  nào, ở bất cứ nơi đâu ánh sáng giác ngộ cũng sáng ngời, cũng  bàng bạc  khắp tất cả chỗ và cảnh vật nào, hoàn cảnh nào cũng đang tuyên  thuyết  diệu pháp cho chúng ta nghe. Đó chính là nghĩa rốt ráo của “pháp  luân  thường chuyển”. Ngay đây, quý vị đã nhận rõ hết chưa?
V/ MỖI NGƯỜI HÃY TỰ NGẮM VẦNG TRĂNG MÌNH
Từ   khi bắt đầu cho đến giờ quý Thầy đã nói cho quý vị hiểu hết rồi, nhận   biết hết rồi. Bây giờ đến đây quý Thầy không giải thích nữa mà quý vị   phải khéo nhận lại. Nếu quý vị nào khéo nhận thì liền hết nghi ngờ, tự   biết rõ ràng, an ổn và tự thọ dụng.
Quý Thầy xin dẫn một câu chuyện   để quý vị khéo nhận lại và kết thúc. Đây là một trong những mẩu chuyện   với lời bình rất thú vị, được một nhà sư nào đó kể lại.
Vào thời kỳ   quân chủ xa xưa, có một vị quân sư tài đức vẹn toàn, không những giỏi về   binh thư mà còn kiêm luôn cả tướng số, không những sắc sảo cả nội  chính  mà còn mưu lược cả lân bang. Ông có công giúp vua đánh đuổi ngoại  xâm,  giữ yên bờ cõi, mở trường quốc giáo dạy học cho người từ trong  triều  chính cho đến thứ dân, làm cho trên thuận dưới hòa, nhân dân sống  trong  cảnh ấm no, hạnh phúc. Dưới vị quân sư này có một danh tướng tài  ba,  bách chiến bách thắng, mà cũng là một đệ tử có tài, thường hay  giúp ông  trong những lúc cần thiết, thay thế ông trong những lúc vắng  mặt. Một  hôm ông quân sư bảo vị danh tướng tài ba: “Quân vương nói ta  đã già rồi,  cần phải chọn người thay thế. Ngoài ngươi ra, thực ta chẳng  thấy có ai  xứng đáng, vì vậy ta sẽ trao lại cho ngươi. Nhưng trước khi  làm việc  này, ngươi phải tìm đến lão ăn xin lượm rác ở ngoài thành để  học hỏi.  Nếu như ngươi không học được ở ông ăn xin lượm rác dù chỉ là  một điều  nhỏ thì thà đất nước này không có quân sư còn hơn. Bởi lẽ ta  thấy ngoài  ông ra không còn ai nữa, và ta thấy rằng ông không phải là  một người tầm  thường”.
Quý vị biết, là một danh tướng trẻ, có tài,  lại thích trau  chuốt cùng với lòng tự hào cao cả, bây giờ lại được thầy  mình là một vị  quân sư xem xét dạy bảo để chuẩn bị kế ngôi thì vừa  mừng, vừa ngại, lại  vừa lo vì đang ở trên ngôi vị cao mà bây giờ phải  hạ mình đi học nơi  người ăn xin thì khó quá. Là một việc bình thường mà  thấy còn khó hơn  cầm quân ra chiến trận đối diện với sống chết. Còn  nếu không đi học nơi  người ăn xin thì ngôi vị quân sư không thành tựu,  tại vị Thầy chưa bao  giờ nói hai lời. Trong một đêm khắc khoải nằm suy  nghĩ, trong vinh là  nhục hay trong nhục là vinh? Cuối cùng, anh quyết  định khăn gói lên  đường giả dạng một thường dân, gặp ông già bần cùng,  hỏi:
- Xin ông cho phép con được hỏi thăm.
Ông già nói:
- Cứ tự nhiên.
Anh hỏi:
- Con có thể gọi ông là gì cho phải?
Ông già nói:
- Gọi ta là gì cũng phải.
Ngay   đó, anh đỏ mặt. Không lẽ gọi ông này là vua sao? Nhưng rồi lắng lại,  vì  có gọi là cục phân chắc ông cũng không nói gì. Cho nên anh nói:
- Thế con xin gọi ông là ông lão vậy. Chẳng hay nhà ông lão ở đâu?
Ông lão trả lời:
- Đầu câu hỏi ấy.
Anh hỏi tiếp:
- Còn thân thuộc của ông thì sao?
Ông già nói:
- Ai ở trong đó?
Anh chàng cười ha hả, cảm thấy lời lẽ hết sức ngộ nghĩnh và khôi hài, hỏi tiếp:
- Ông có sự nghiệp gì để dìu dắt kẻ hậu lai hay không?
Ông   già im lặng, chỉ thẳng đống rác trước mặt. Ngay đó, anh ta trầm ngâm   một hồi rồi tự nhủ: “Thì ra chỉ là một người hốt rác không công, đói   bụng đụng ai xin nấy, thế mà chẳng đói ngày nào. Đúng với lời đồn đại   không khác. Không hiểu Thầy mình nghĩ sao lại bắt buộc ta phải học một   điều mà trẻ con cũng làm được, không cần ai dạy cũng biết, hà huống là   một danh tướng tài năng. Thật lãng phí thời gian và sự nghiệp vĩ đại của   một vị quân sư. Còn không học được thì không xong, đành phải xin vậy”.   Nghĩ vậy, anh ta nói:
- Ông có thể cho con theo cùng không?
Ông già nói:
- Tốt.
Nói   rồi, học trò cầm xẻng, ông lão xách giỏ đi. Cứ như thường lệ, thấy rác   thì lượm. Bất ngờ, hai người gặp phải xác thối của một con chồn chết.   Anh chàng xúc một cái thật mạnh thì cán xẻng gãy rời ra khỏi lưỡi. Ớn  cả  người, trong khi anh ta chống gậy chưa biết phải làm sao thì ông già   điềm nhiên lấy tay hốt một cái gọn gàng rồi đem đi. Anh này ném xẻng   xuống, bỏ về, không cần thưa hỏi gì hết, trong lòng rất tâm đắc vì có   vấn đề để nói với Thầy mình: “Ta có đủ lý do để chứng minh lão này không   những là kẻ bần cùng, dốt nát mà lại hết sức bẩn thỉu. Ở nơi ông không   có gì đáng học cả”.
Khi về gặp vị quân sư già đôn hậu, bình dị mà   đĩnh đạc, uy nghi. Cậu học trò kính phục và cẩn trọng kể lại câu chuyện   từ đầu đến cuối. Vừa kể xong, anh định nói lời bình thì ông Thầy bảo:   “Một danh tướng bách chiến bách thắng mà hôm nay chỉ cần xác thối của   một con chồn cũng đủ chặn đứng bàn chân”. Quý vị nghe rất là chua xót,   phải không? Cậu học trò vừa đau đớn, vừa uất ức, tức tối, định đổ thừa   cho ông lão nhưng trong lòng lắng lại thì nghe tiếng gọi quân sư từ đâu   đó, cho nên bắt đầu cuộc hành trình lần thứ hai đến gặp ông lão để học   hỏi tiếp.
Một buổi sáng mai trên đường phố có đủ hết những thứ bẩn   thỉu. Cậu học trò nhìn lại phía sau vẫn là ông lão ăn xin ấy dùng tay   lượm hết và mang đi. Vừa đối diện thì gợi trong lòng anh một điều gì đó,   anh liền hỏi:
- Thưa ông, động cơ nào giúp ông làm được một việc mà chẳng màng đến sạch nhơ?
Ông lão trừng mắt nhìn, chỉ thẳng vào đống rác trước mặt và bảo:
- Hãy hỏi thử đống rác xem!
Chẳng   hiểu sao, cậu học trò lắc đầu lia lịa, với tính chất rất là khinh bỉ,   rồi bỏ đi với một niềm tin chắc chắn hơn, phen này có đủ lời lẽ để  khẳng  định rằng: “Lão ăn xin không những bần cùng, dốt nát, bẩn thỉu mà  còn  quá ngu si”. Trở về diện kiến với Thầy mình, với lời lẽ lanh lợi,  cậu  học trò dồn dập kể lại những gì mắt thấy tai nghe cũng như cả lời  hỏi  đáp. Khi kể xong, vừa lấy hơi cuối cùng định trút lời bình thì vị  quân  sư già thâm trầm, điềm tĩnh bảo: “Hôm qua, xác thối của một con  chồn  hoang cũng có thể chặn đứng bàn chân của một danh tướng tài ba,  lỗi lạc.  Hôm nay, một đống rác cũng có thể làm Thầy cả vị ấy”.
Kể ngang đó, nhà sư dừng bút để lại đằng sau câu chuyện một điều gì đó. Quý vị thử tìm hiểu qua một số lời bình thú vị dưới đây:
Có   một ký giả viết: “Cốt tủy của câu chuyện mà nhà sư muốn nói là ‘Chớ  xem  thường việc nhỏ, vì việc nhỏ nó phản ánh bản chất thật của một con   người’. Mặt khác, câu chuyện không có niên đại lịch sử, nhân vật con   người địa thế chẳng có tuổi tên, chứng tỏ câu chuyện trên do nhà sư đặt   ra để phản ánh một mặt nào đó của cuộc sống, mà thực tế cuộc sống có lẽ   cũng không oan uổng lắm”.
Dưới đây là lời bình của nhà văn Nguyễn Thức, nhà phê bình văn học:
“Việc   lớn thường có danh to. Muốn được danh to cần lập nghĩa rộng. Thế nên,   cậu học trò chẳng màng gian nguy xông pha trận mạc, tích cực nghiên cứu   giúp thầy làm lợi ích quần sanh. Khi danh càng to nghĩa càng lớn. Danh   nghĩa to lớn sâu dày nên nó bao phủ ‘cái tôi’ thật ấm cúng. Đến lúc  gặp  phải việc nhỏ, mà việc nhỏ thường vô danh, vì vô danh nên dường như  vô  nghĩa, do vô danh vô nghĩa nên cái tôi có mặt thật lạnh lẽo cô đơn,  nào  khác chi con cá kình ở ngoài biển cả: dù hắn có tung tăng vẫy vùng  đến  mấy có lúc nào được ráo khô”.
Cuối cùng là lời của một đạo nhân vô danh như sau:
“Thầy   trò quân sư khéo học hỏi nơi đống rác; các nhà thức giả thì giỏi phân   tích lớn nhỏ, danh nghĩa, ngã nhân, duy chỉ “tội nghiệp” cho phong thái   cử chỉ của lão già ăn xin, có ai nhìn đến!”
Quý vị thấy, ngày nay   hình ảnh của lão ăn xin có lẽ không còn lạ lắm đối với Tông môn chúng   ta. Song mà toàn bộ câu chuyện như âm vang của một tiếng chuông nho nhỏ,   thức tỉnh hành giả chúng ta một điều gì đó phía sau dấu chấm hỏi. Điều   đó là gì? Nếu quý vị nào rõ được điều này thì mọi vật chung quanh đều   đang chuyển pháp luân, đều đang nói pháp cho quý vị nghe và lúc nào quý   vị cũng là người đang tuyên thuyết bài pháp vi diệu. Nếu chưa nhận ra   thì Phật pháp vẫn còn đó. Chỉ cần chuyên tâm hơn nữa để công phu tu  hành  thì có ngày chúng ta sẽ nhận ra và tỏ suốt tất cả.
Các bài mới
- Trói buộc và giải thoát - 23/12/2016
- Chúng ta tọa thiền như thế nào - 13/11/2016
- Chúng ta sợ gì nhất - 24/06/2016
- Sức mạnh nào cho chúng ta - 23/05/2016
- Thưa hỏi Thiền ( Phần 2) - 18/01/2016
Các bài đã đăng
- Thưa hỏi Thiền ( Phần 1) - 18/01/2016
- Kho báu nhà mình - 05/11/2015
- Để có một tinh thần tích cực đúng nghĩa - 02/11/2015
- Kiến Phật liễu sanh tử - 30/07/2015
- Dụng Tâm TuThiền - 06/07/2015
Pháp Thoại
Video giới thiệu
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 7
- 8
- 9
- 10
- 11
- 12
- 13
- 14
- 15
- 16
- 17
- 18
- 19
- 20
- 21
- 22
- 23
- 24
- 25
- 26
- 27
- 28
- 29
- 30
- 31
- 32
- 33
- 34
- 35
Tìm kiếm
Tin mới
Đọc nhiều
Ảnh đẹp
Lịch
Thống kê truy cập
- Lượt truy cập: 36944
- Online: 21
 
                
 
                              
                              
                              
                              
                              
                
				             
                              
             
             
             
             
            