Vua Trần Nhân Tông với Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử

23/11/2022 | Lượt xem: 11122

I - ÔNG VUA CÓ TÂM PHẬT      

Nghiên cứu đạo Phật Việt Nam chúng ta thấy rất rõ, thời Trần nổi bật những ông vua Phật tử đáng kính. Vua Trần Thái Tông, nhìn với cặp mắt nhà Thiền có thể nói Ngài là ông vua Thiền sư. Tuy ngồi trên ngai vàng nhưng Ngài hiểu thiền rất sâu, tâm thiền rất sáng và sống thiền rất đắc lực. Qua tác phẩm Khóa Hư Lục và giây phút rời  bỏ cuộc đời của Ngài đã nêu rõ điều đó.

Vua TrầnThánh Tông cũng thế, Thánh Đăng Lục ghi rõ cho thấy, sức sống thiền của Ngài thật là vững vàng, đến mé bờ sinh tử vẫn có sức tự chủ và sáng suốt mà một vị xuất gia bình thường khó theo kịp.

Riêng vua Trần Nhân Tông, quả là một ông vua Phật của Việt Nam đúng với sự tôn xưng từ trước tới nay. Ngài có duyên sâu với Phật từ thuở nhỏ.
Sinh ra, thân sắc vàng như sắc Phật. Lớn lên, năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường lại cho em là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có khả năng gánh vác việc lớn. Trong khi đó lịch sử để lại biết bao trang sử đau lòng, chỉ vì ngôi vị này mà cốt nhục tương tàn. Hạt giống Phật đã ngầm chứa sẵn trong Ngài mà biểu lộ ra như thế.
Rồi một hôm, Ngài lại vượt thành tìm về Yên Tử tu hành. Điều này đâu có ai dạy Ngài. Nếu không phải chủng tử Phật ngầm chứa trong Ngài nó thúc đẩy, thì cái gì khiến làm như thế? Với cái nhìn của nhà Phật, đều có nhân duyên chứ không phải ngẫu nhiên.Việc này lại trùng hợp với Đức Phật, khi làm Thái Tử Tất Đạt Đa cũng vượt thành xuất gia tìm đạo. Song với vua Trần Nhân Tông, lúc ấy vua cha cho người tìm gọi về, Ngài đành phải về. Thiền sư Chân Nguyên đã thuật lại trong Thiền Tông Bản Hạnh:
Đêm ấy thái tử thoát ra tu hành
Tìm về Yên Tử một mình,
Đến Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày.
Giả tướng lệ người thế hay,
Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng.
Tăng tự thấy tướng lạ lùng,
Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn.
Hoàng Hậu liền tâu Minh Quân,
Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.
Tìm đòi Thái tử chớ chầy,
Bắt em thay trị liền tay tức thì..
Thuở ấy Thái tử lại về,
Vua cha nhượng vì cho trị muôn dân.
Rồi tuy ở địa vị cao sang, quyền quý mà ăn chay, sống đạm bạc không thụ hưởng đến nổi thân ốm gầy, vua cha phải gọi lại than: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác sự nghiệp của Tổ tiên?”
Một duyên lành với Ngài nữa là, được vua cha cho theo học với Thượng Sĩ Tuệ Trung, một bậc Thiền Sư Cư Sĩ phi thường. Nhân đây Ngài hiểu sâu về thiền. Trong lời tựa sách Tuệ Trung Ngữ Lục, Ngài có thuật lại đoạn hỏi đáp với Thượng Sĩ, Ngài hỏi: “Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?”. Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình đó là việc bổn phận, chẳng từ nơi nào khác mà được”. 
Ngài nhận sâu ý chỉ này. Có thể nói, một câu đáp này tóm thâu trọn cốt tủy của Thiền và gồm suốt giáo lý một đời của Đức Phật. Chư Phật, chư Tổ nói pháp đều vì con người, người nghe pháp phải vượt qua ngôn ngữ văn tự chết mà soi sáng lại nơi mình, chuyển những lời kinh khô khan đó vào cuộc sống hiện thực đây, đó mới là Phật pháp sống. Bởi vậy, Thiền tông chủ trương “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, khiến người không chết chìm trong đám rừng chữ nghĩa vô tri ấy. Vua Trần Nhân Tông đã được Thượng sĩ khơi đúng mạch nguồn Phật pháp đó, và Ngài tiếp nhận đúng lúc, lấy đó làm cửa mở vào Thiền.
II. CON ĐƯỜNG XUẤT THẾ:
Sau hai lần lãnh đạo dân quân Đại Việt đánh thắng giặc Mông, năm 1293 Ngài nhường ngôi cho Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng và chuẩn bị con đường xuất thế cho mình. Bước đầu Ngài ở Vũ Lâm như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại: “Bấy giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp,Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền. Chỉ cho môt phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng :
Chân rùa bóc đỏ mọng,
Yên ngựa nướng vàng thơm. 
Sơn Tăng giữ giới sạch,
Cùng ngồi chẳng cùng ăn.
        ( Hồng thấp bác quy cước,
Hoàng hương chá mã yên.
Sơn Tăng trì tịnh giới,
Đồng tọa bất đồng san ).
                   ( Trích Toàn Tập Trần Nhân Tông )
Lúc này vua đã ăn chay, giữ tịnh giới, chuẩn bị cho bước xuất gia sắp tới.
Đến tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am, và theo Thánh Đăng Lục thì qua tháng 10 năm ấy vua mới thực sự lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Tông Bản Hạnh ghi:
“Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,
Quyết lên Yên Tử  tu chùa Hoa Yên.
Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,
Đưa vua tu đạo thoát duyên phàm trần.
Đến chùa Long Động mới phân,
Tất trừ phiền não ái ân phát nguyền.
Nhân Tông khắn khắn lòng tin,
Thành tâm trai giới bước lên chiền già.
Cung tần thể nữ trở ra,
Người về phối thất, kẻ ra Kinh kỳ.
Mặc ai ra chợ về quê,
Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng”.
Tức là lúc này quần thần, quyến thuộc  tiễn đưa Nhân Tông vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, đến chùa Long Động mới chia tay. Với cung nữ, Ngài cho tự do về quê lập gia đình hoặc làm gì tùy ý, dứt khoát buông xả hết không coi là của mình. Đây mới thật sự cắt đứt ân ái, xuất gia hành đạo. Do đó có câu chuyện suối Giải Oan và làng Nường, làng Mụ.
          Rày trẫm đầu Phật xuất gia,
      Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.
Chị hầu, bà mụ, cung phi,
Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.
Lòng vua thấy vậy thương thay,
Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.
Cho nên tích để lưu truyền :
Làng Nàng, Làng Mụ, phúc duyên đã chầy”.
                               ( Thiền Tông Bản Hạnh )
III. TU HÀNH Ở YÊN TỬ:
Vào Yên Tử Ngài quyết tâm sống đời xuất gia giải thoát, từ bỏ những hưởng thụ của thế gian, thực hành 12 hạnh Đầu-đà, tức sống khổ hạnh, đạm bạc, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu-đà. Tên Trúc Lâm này cũng là hiệu của Quốc Sư Trúc Lâm-Viên Chứng, một bậc Thiền Tổ của Yên Tử đã khai thị cho vua Trần Thái Tông “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”. (Lời tựa Thiền Tông Chỉ Nam).
Một ông vua anh minh, tiếng tăm vang dội, lại sống cuộc đời đạm bạc đến mức tối đa nơi rừng núi, thì phải biết lòng mộ đạo của Ngài rất chân thành. Trong bài Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, một bản văn bằng chữ Nôm, Ngài đã bộc lộ: 
     Công danh chẳng trọng,
Phú quý chẳng màng.
Tần Hán xưa kia,
Xem đà nhèn hạ.
Yên bề phận khó,
Kiếm chốn dưỡng thân.
Khuất tịch non cao,
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỷ
Làm bạn cùng ta.
Vắng vẻ ngàn kia
Thân lòng hỷ xả.
   Rồi
             Dốc chí tu hành,
             Giấy sồi vó vá
   Và
           Thân này chẳng quản,
           Bữa đói, bữa no.
Ngài sẵn sàng từ bỏ công danh phú quý, sống ẩn mình nơi vắng vẻ, buông bỏ tình chấp nơi thân tâm, ăn mặc đơn sơ, đói no chẳng quản, tức quên NGÃ mà hành đạo. Do đó mới có được cái vui đến chỗ thành đạo, chứng ngộ thật sự, nếm được pháp vị rõ ràng, không phải chỉ tu trên hình thức, hoặc kiến giải suông trên chữ nghĩa, lý luận. Quả là một HÀNH GIẢ đúng nghĩa!
 Niềm lòng vằng vặc
 Giác tính quang quang 
 Chẳng còn bỉ thử
 Tranh nhân chấp ngã.
IV. PHÁT MINH TRÍ TUỆ VÔ SƯ:
Chính bằng công phu chân thật hành Thiền, ngài đã thể nhập chân Thiền, mở sáng “trí tuệ vô sư”, thế gian khó bì kịp. Trong bài Xuân Vãn, Ngài đã bày tỏ:
Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.
Như kim khám phá Đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
         ***              
   Thuở bé đâu từng rõ sắc không,
Xuân về rộn rã nức trong lòng.
Chúa xuân nay bị ta khám phá,
Ngồi lặng nhìn xem rụng cánh hồng.
Lúc chưa hiểu đạo, còn bị ngoại cảnh chi phối, nên mỗi độ xuân về lòng Ngài cũng bị động theo cảnh xuân, không làm chủ được. Nhưng bây giờ, Ngài đã nhận ra Chúa xuân tức là ông chủ chân thật muôn đời, hay nói theo nhà Thiền là “Bộ mặt thật xưa nay” của chính mình, là con người bất sinh bất diệt từ vô thủy. Giờ đây Ngài có thể giải đáp chính xác cho câu hỏi: “Cái gì là ta?”, không còn nghi ngờ, cuộc sống bây giờ mới thật sự có chủ. Điều này chứng tỏ Ngài xuất gia là thực tu, thực ngộ, xứng đáng là bậc Thiên Nhân Sư, thầy của trời người.
V. SÁNG LẬP THIỀN PHÁI TRÚC LÂM :
Bằng sự chứng ngộ Thiền lý sâu xa, Ngài dùng ánh sáng chân thật đó, dung hợp ba dòng thiền đã có trước đó thành dòng Thiền Trúc Lâm, mở ra phong trào học Phật mới.
Lấy tông chỉ Thiền Tông “Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Nhân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật” làm chủ đạo, Ngài linh động kết hợp giảng kinh thuyết pháp, giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển những lời kinh chết trong sách vỡ thành những bài kinh sống nơi người, chứng minh cho Tâm Thiền sáng ngời không có gì sai khác. Kinh đâu có lỗi gì? Lỗi do người chấp kinh. Thiền đâu có gì sai khác? Sai do người phân biệt. Kinh từ miệng Phật nói, Thiền là tâm Phật vốn chẳng phải là hai! Chính tinh thần đó, các thiền viện của hệ Trúc Lâm do Hòa thượng Thiền sư Thầy chúng tôi đang hướng dẫn, vẫn đang ứng dụng. 
Bởi người tu Thiền đã sáng tâm thì đọc kinh sẽ hiểu rõ ý nghĩa sâu xa ngoài câu lời, do đó càng giảng linh động sáng tạo, giúp người nghe dễ thâm nhập hơn. Bởi vậy, Thiền sư Pháp Loa giảng nhiều lần kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh thuộc giáo lý viên đốn cao siêu, mà người đến nghe rất đông, cũng nói lên trình độ của người học Phật thời đó rất cao. Như pháp hội giảng kinh năm 1322 tại chùa Báo Ân có trên 1000 người đi nghe. Buổi giảng nào ít người cũng có khoảng năm, sáu trăm người.
Xét kỹ, tông chỉ Thiền tông rất thực tế và gần gũi với con người, lấy “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”, nhằm đánh thức mỗi người tự sống vươn lên. Vì tâm mình mà mình không biết, vậy lo biết cái gì ở đâu xa ? Thành Phật là thành ngay trong tâm tánh mình đây thôi, không phải thành ở trên núi cao, trên cõi trời xa xôi, chỉ cần mình xoay lại chính mình, thì ngay đó là bờ mé :“Hồi đầu thị ngạn”.Đó là lấy con người làm gốc, là tôn trọng con người, nâng cao giá trị con người, cũng là lý bình đẳng với tất cả, vậy sao không khai thác ?
Đúng là thiền tông chỉ thẳng “Ngay đây, lúc này, người này thôi”, rất hiện thực không có gì xa xôi, mập mờ hẹn lại kiếp nào khác. Như lời khai thị của Trúc Lâm Điều Ngự trong buổi đại tham ngày 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ 1306 tại liêu Kỳ Lân :“Ngày tháng dễ trôi qua, mạng người không chờ đợi, sao cam ăn cháo, ăn cơm mà không rõ việc bát, việc muỗng ?” .
Nghĩa là mình sống hằng ngày cầm muỗng, cầm thìa, ăn cơm, ăn cháo nhưng tại sao lại không biết cái gì đang hiện hữu trong đó ? Chỉ lo nhớ bát, đũa, cơm, cháo mà quên mất nguồn sống phát ra những việc đó ! Thiền tông nhắc nhở đánh thức người mê khiến tỉnh ngộ trở lại chỗ này ! Chính đó là mạch sống của Phật pháp. Cho nên dù trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, nhưng ý Thiền vẫn không mất, vì còn có con người, còn có tâm thì còn có Thiền ! Kinh sách, ngữ lục có thể đốt cháy hư hoại, nhưng cái này làm sao đốt ? Làm sao hoại ? Đây cũng chính là linh hồn của Yên Tử vậy. Bằng chứng là những tác phẩm tinh yếu về Thiền của Trúc Lâm Điều Ngự như : Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ ngày nay không còn, song tinh thần Thiền của Ngài vẫn còn đây, sức sống này vẫn đang trỗi dậy !
“Yên Tử non cao          Trúc Lâm Diều Ngư
 Chư Tổ Mồi Đèn        Nối đuốc 
 Truyền Tâm An        Lập Tông Phong
 
VI. DÒNG TRUYỀN YÊN TỬ :
1. Đối với Thiền phái Trúc Lâm thì Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông là đệ nhất Tổ, nhưng tính theo hệ thống truyền thừa củaYên Tử phải kể từ Thiền sư Hiện Quang là Tổ ban đầu. Sư là người khai sơn chùa Vân Yên, sau đổi thành Hoa Yên như ngày nay. Vốn là đệ tử của Thiền sư Thường Chiếu, dòng Vô Ngôn Thông, nhưng tỏ ngộ nơi Thiền sư Trí Thông chùa Thánh Quả.
2. Thiền sư Viên Chứng, cũng gọi là Quốc Sư Trúc Lâm, người đã từng đón tiếp vua Trần Thái Tông tìm lên Yên Tử năm 1236.
3. Quốc sư Đại Đăng, người đã tiếp nhận thêm dòng thiền Lâm Tế từ Thiền sư Thiên Phong người Trung Hoa tại Kinh đô Thăng Long và là thầy của vua Trần Thánh Tông .
4. Thiền sư Tiêu Dao, là thầy của Thượng Sĩ Tuệ Trung, cũng gọi Đại Sư Phúc Đường, vì Sư ở Tinh Xá Phúc Đường mà Thượng Sĩ Tuệ Trung có bài thơ tựa “Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền Sư”.
5. Thiền sư Huệ Tuệ, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang cho là Sư vốn làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới pháp cho vua Trần Nhân Tông khi vua xuất gia.
6. Trúc Lâm Đại Đầu đà-Trần Nhân Tông, theo hệ thống truyền thừa của Yên Tử, Ngài thuộc hàng thứ 6, nhưng là người khai sáng ra dòng Thiền Trúc Lâm của Đại Việt nên là Sơ Tổ.
Theo sách Đại Nam Thiền  Uyển Truyền Đăng Tập Lục của Hòa Thượng Phúc Điền, hệ thống truyền thừa  của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được tiếp nối qua các vị sau :
7. Tổ Sư Pháp Loa.
8. Tổ Sư Huyền Quang .
9. Quốc Sư An Tâm.
10. Quốc Sư Phù Vân.  ( Hiệu Tĩnh Lự )  
11. Quốc Sư Vô Trước.
12. Quốc Sư Quốc Nhất.
13. Tổ Sư Viên Minh.
14. Tổ Sư Đạo Huệ.
15. Tổ Sư Viên Ngộ.
16. Quốc Sư Tổng Trì.
17. Quốc Sư Khuê Thám.
18. Quốc Sư Sơn Đằng.
19. Đại Sư Hương Sơn.
20. Quốc Sư Trí Dung.
21. Tổ Sư Tuệ Quang.
22. Tổ Sư Chân Trú.
23. Đại Sư Vô Phiền.
Danh sách này được Thiền sư Tuệ Nhãn lược dẫn trong phần đầu của bia ký tháp Giao Quang thờ Thiền sư Tính Đường hiệu Tuệ Cự ngay bên phải cổng Chùa Lân-Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử :“Núi Yên Tử từ Sơ Tổ Hiện Quang đến Trúc Lâm Viên Chứng trải qua tới Trần triều Tam Tổ, lần lượt tiếp nối nhau, danh chép truyền đăng phần nhiều khó nêu ra hết. Trong lý ẩn hiện đến Tổ Sư Tuệ Quang trung hưng rộng lớn, Phật pháp thịnh hành, danh lam thánh  cảnh, Tuệ Nguyệt sáng mãi, Tuệ Đăng chiếu khắp cho đến Tuệ Cự…”
Trong đây ghi rõ Thiền sư Hiện Quang là Sơ Tổ của Yên Tử, Quốc Sư Trúc Lâm hiệu Viên Chứng rõ ràng, Tổ Sư Tuệ Quang trung hưng Yên Tử, Thiền sư Tuệ Nguyệt thầy của Thiền sư Chân Nguyên tiếp sáng luôn và Thiền sư Tuệ Đăng tức Ngài Chân Nguyên hiện còn tháp đá tôn thờ ở sau nhà Tổ của Thiền viện làm cho dòng Thiền chiếu khắp. 
Cứ theo danh sách này, sau Tổ Sư Huyền Quang có tới 8 vị  Quốc Sư, thì biết rằng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử vẫn được truyền thừa luôn chớ không phải chìm mất. Về đời thứ ba Thiền Phái Trúc Lâm, ngoài Tam Tổ Huyền Quang, theo bia tháp Viên Thông thờ Tổ Sư Pháp Loa ở Thanh Mai, phần cuối có kể ra hai vị tiếp nối đời thứ ba là Tông Huyền và Kim Sơn, nguyên văn : “Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Trụ Trì Tông Huyền, Kim Sơn tấu tuyên”.
Tuy nhiên danh sách tên tuổi là phần biểu hiện bên ngoài, chính “tâm thiền” mới là mạch sống thật. Dù ẩn, dù hiện, dù thăng dù trầm hễ còn có người tỏ sáng được tâm Thiền, là còn tiếp nối được mạch sống  Tổ Tông.
VI. CHỨNG NGỘ THIỀN LÝ, LÀM CHỦ SINH TỬ :
Đối với đạo Phật nói chung, và Thiền tông nói riêng, luôn nhấn mạnh phải hiểu và hành tương ứng, nên có câu : “ Hạnh giải tương ưng danh vi viết Tổ” . Vậy “Tổ” không phải ở cái tên, ở danh xưng, mà phải thực sự tỏ hiểu và chứng nghiệm chân Thiền ngay nội tâm mình. Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà đã hội đủ hai điều đó. Về trí tuệ tỏ hiểu Thiền tông của Ngài rất sâu. Như đoạn Tăng hỏi :
- Khi muôn dặm mưa tạnh thì thế nào ?
Ngài đáp :
- Mưa tầm tã.
Hỏi :
- Khi muôn dặm mây che kín thì thế nào ?
Đáp :
- Trăng vằng vặc.
Đã là “Muôn dặm mưa tạnh” tức trời trong không vết mây che thì sao ông còn động niệm khởi hỏi ? Đó tức là mưa tầm tã rồi chứ gì . Còn “Muôn dặm mây che kín”, thì sao ông còn có thể biết hỏi được đây ? Vậy là nó vẫn sáng tỏ rõ ràng, ông lại chẳng ngộ ! Nên Ngài đáp : “Trăng vằng vặc”. Đây là Ngài ứng dụng theo tinh thần Lục Tổ dạy về 36 phép đối rất là tuyệt diệu . Lục Tổ dạy : “ Nếu có người hỏi nghĩa với ông, hỏi Có thì đem Không đáp, hỏi Không thì đem Có đáp, hỏi Phàm thì đem Thánh đáp, hỏi Thánh thì đem Phàm đáp, hai đường làm nhân cho nhau, sanh nghĩa trung đạo”. Thì ở đây hỏi mưa tạnh, Ngài đáp “ mưa tầm tã” ; hỏi mây che kín, Ngài đáp “ trăng vằng vặc”, nếu không phải bậc đã sáng tâm khó nói được quá khéo như vậy. Chính hiện nay nhiều người nghiên cứu về Ngài cũng chưa hiểu hết được Ngài, đôi khi lại hiểu theo thức tình suy tư của mình thành nghiêng lệch. Bởi đối với nhà Thiền : “Thấy  thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai” và “Ông vừa cúi đầu trầm ngâm là đã đi xa ngoài ba ngàn dặm rồi”.Sử Thiền sư Pháp Loa kể lại, một hôm Sư trình cả ba bài tụng cho Điều Ngự, đều bị Ngài gạt bỏ hết. Sư thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống, chợt đại ngộ. Đến đây đem trình Điều Ngự mới được ấn chứng. 
Chúng ta nên nhớ, trước đó Sư đã qua hai lần tỏ sáng : một lần nhân đọc kinh Hải Nhãn ( có thể kinh Lăng Nghiêm ) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn thí dụ khách trần mà có tỉnh ; lần khác, lúc Điều Ngự thượng đường, Sư ra thưa hỏi liền được tỉnh. Vậy mà đến lúc trình kệ này vẫn chưa được ấn chứng. Vì có ý làm kệ trình ra kiến giải thế này thế nọ, cũng là cái vay mượn từ bên ngoài, chưa phải của báu nhà mình. Cho nên Điều Ngự dạy phải quay lại tự tham cứu, đến khi thấy bông đèn tàn rụng mới chợt đại ngộ, không qua ý thức suy nghĩ. Cũng cho thấy, trí tuệ của Điều Ngự là siêu việt như thế nào, và cách huấn luyện để tìm người kế thừa của Ngài quả là rất kỹ. Đúng như lời Cổ Đức nói : “Nguồn sâu thì dòng dài”, do đó mà mạch sống ấy đến ngày nay vẫn truyền bất tuyệt.     
Rồi đến khi sắp tịch, tức đến lúc cận kề bờ sinh tử, càng cho thấy sức sống thiền nơi Ngài quá vững chãi : 
“Giữa đêm mồng 1 tháng 11 năm 1308, Ngài hỏi Bảo Sát :
- Hiện giờ là giờ gì?
Bảo Sát bạch :
- Giờ Tý.
Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói :
- Đến giờ ta đi.
Bảo Sát hỏi :
- Tôn đức đi đâu ?
Ngài nói kệ đáp :
 Tất cả pháp chẳng sinh
Tất cả pháp chẳng diệt.
Nếu hay hiểu như thế
Chư Phật thường hiện tiền
Nào có đến đi gì.
          ***
(Nhất thiết pháp bất sinh
Nhất thiết pháp bất diệt
Nhược năng như thị giải
Chư Phật thường hiện tiền.
Hà khứ lai chi hữu dã).
Bảo Sát hỏi :
- Chỉ như khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào ?
Ngài liền nhằm ngay miệng Bảo Sát tát cho một cái, bảo :
- Chớ nói mớ.
Nói xong, Ngài nằm nghiêng bên phải như sư tử, lặng lẽ mà tịch”.
Như vậy, với Ngài không thấy có chết, có sống, sống chết chỉ là cái hình hài giả tạm này thôi, còn chính Ngài chưa từng có sống chết, đến đi. Chỗ này con mắt phàm tình thế gian làm sao thấy được, hiểu được ? Nếu Ngài không có thực tu, thực chứng, thực hành công phu sâu thì khó được như vậy.
Lại nguyên là một vị hoàng đế tiếng tăm vang lừng như thế, mà khi tịch sẵn sàng tịch nơi vắng vẻ với vị thị giả bên cạnh và di chúc hoả thiêu ngay, không đợi người đến làm lễ to cho nổi tiếng, không vì danh. Tuy nhiên nhân quả vẫn theo nhau, khi vua Anh Tông thỉnh xá lợi về kinh “ lúc làm lễ sắp đưa linh cửu về chôn ở lăng Quy Đức, giờ đã đến mà quan liêu, dân chúng đứng chật khắp cung điện. Tể tướng cầm roi xua đuổi, rốt cuộc không thể mở đường. Vua cho gọi Chi hầu chánh chưởng Trịnh Trọng Tử đến bảo :
- Linh cữu sắp đưa đi mà dân chúng đầy nghẽn như thế thì làm thế nào ? Trọng Tử lập tức đến đền Thiên Trì gọi quân Hải Khẩu và Hổ Dực ( quân của Trọng Tử trông coi ) đến ngồi la liệt trong thềm, sai hát mấy câu Khúc Long Ngâm. Mọi người ngạc nhiên kéo nhau đến xem, cung điện mới giản người, bèn rước về lăng Quy Đức”. ( Trích Toàn Tập Trần Nhân Tông ).
Cho thấy lòng người quá mến mộ Ngài. Quả lành không cầu mà tự đến !
VII. TÓM KẾT :
Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông, một con người quá nổi bật ở nhiều mặt, một nhân cách quá sáng ngời : Nói về lãnh đạo, là một nhà lãnh đạo tài ba, về chính trị là một nhà chính trị xuất chúng, về văn hóa là nhà văn hóa lớn, về tôn giáo là nhà tôn giáo tuyệt vời….Do đó, để nhận định về Ngài, chúng ta khó có thể nhận định toàn vẹn được, nếu đứng trên một chủ kiến, một khía cạnh. Và hơn thế nữa, Ngài lại là hành giả trong pháp xuất thế, một bậc Tổ sư của nhà Thiền thì càng không thể lấy theo ý thức tư duy bình thường mà hiểu được Ngài, phải là người trong cuộc với nhau mới thấu hiểu được nhau, như kinh Pháp Hoa nói :“Chỉ Phật với Phật mới biết”.
Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường cần được tôn trọng và phải tôn trọng.
Phật giáo nói chung, con đường Thiền nói riêng, là con đường luôn sáng tạo, phù hợp với tinh thần phát triển ở các thời đại. Câu nói nổi tiếng trong nhà Thiền là “Thấy bằng thầy là kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy mới kham nhận truyền trao”, không cho đứng dừng một chỗ hay chặn đứng bước tiến của người.
Tóm lại, Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông là bậc tôn kính đối với tất cả con cháu chúng ta, và tinh thần của Ngài cần được phát huy đúng mức, nhắc nhỡ cho con em chúng ta và con cháu mai sau phải luôn nhớ cội nguồn, phải biết trân quí, giữ gìn gia sản quí báu của Tổ tiên, chính đó là nền tảng xây dựng đất nước vững bền. 
     

Vua TrầnThánh Tông cũng thế, Thánh Đăng Lục ghi rõ cho thấy, sức sống thiền của Ngài thật là vững vàng, đến mé bờ sinh tử vẫn có sức tự chủ và sáng suốt mà một vị xuất gia bình thường khó theo kịp.

Riêng vua Trần Nhân Tông, quả là một ông vua Phật của Việt Nam đúng với sự tôn xưng từ trước tới nay. Ngài có duyên sâu với Phật từ thuở nhỏ.

Sinh ra, thân sắc vàng như sắc Phật. Lớn lên, năm 16 tuổi, được vua cha lập làm Hoàng thái tử, Ngài hai lần cố xin nhường lại cho em là Đức Việp, nhưng vua Thánh Tông không cho, vì thấy Ngài có khả năng gánh vác việc lớn. Trong khi đó lịch sử để lại biết bao trang sử đau lòng, chỉ vì ngôi vị này mà cốt nhục tương tàn. Hạt giống Phật đã ngầm chứa sẵn trong Ngài mà biểu lộ ra như thế.

Rồi một hôm, Ngài lại vượt thành tìm về Yên Tử tu hành. Điều này đâu có ai dạy Ngài. Nếu không phải chủng tử Phật ngầm chứa trong Ngài nó thúc đẩy, thì cái gì khiến làm như thế? Với cái nhìn của nhà Phật, đều có nhân duyên chứ không phải ngẫu nhiên.Việc này lại trùng hợp với Đức Phật, khi làm Thái Tử Tất Đạt Đa cũng vượt thành xuất gia tìm đạo. Song với vua Trần Nhân Tông, lúc ấy vua cha cho người tìm gọi về, Ngài đành phải về. Thiền sư Chân Nguyên đã thuật lại trong Thiền Tông Bản Hạnh:

Đêm ấy thái tử thoát ra tu hành

Tìm về Yên Tử một mình,

Đến Đông Cứu sơn, thiên minh rạng ngày.

Giả tướng lệ người thế hay,

Vào nằm trong tháp một giây đỗ dùng.

Tăng tự thấy tướng lạ lùng,

Làm bữa cơm thết cúng dàng cho ăn.

Hoàng Hậu liền tâu Minh Quân,

Rao bảo thiên hạ quần thần đông tây.

Tìm đòi Thái tử chớ chầy,

Bắt em thay trị liền tay tức thì..

Thuở ấy Thái tử lại về,

Vua cha nhượng vì cho trị muôn dân.


Rồi tuy ở địa vị cao sang, quyền quý mà ăn chay, sống đạm bạc không thụ hưởng đến nổi thân ốm gầy, vua cha phải gọi lại than: “Nay ta đã già, chỉ trông cậy một mình con, con lại làm như thế, làm sao gánh vác sự nghiệp của Tổ tiên?”

Một duyên lành với Ngài nữa là, được vua cha cho theo học với Thượng Sĩ Tuệ Trung, một bậc Thiền Sư Cư Sĩ phi thường. Nhân đây Ngài hiểu sâu về thiền. Trong lời tựa sách Tuệ Trung Ngữ Lục, Ngài có thuật lại đoạn hỏi đáp với Thượng Sĩ, Ngài hỏi: “Thế nào là tông chỉ của việc bổn phận?”. Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình đó là việc bổn phận, chẳng từ nơi nào khác mà được”. 

Ngài nhận sâu ý chỉ này. Có thể nói, một câu đáp này tóm thâu trọn cốt tủy của Thiền và gồm suốt giáo lý một đời của Đức Phật. Chư Phật, chư Tổ nói pháp đều vì con người, người nghe pháp phải vượt qua ngôn ngữ văn tự chết mà soi sáng lại nơi mình, chuyển những lời kinh khô khan đó vào cuộc sống hiện thực đây, đó mới là Phật pháp sống. Bởi vậy, Thiền tông chủ trương “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự”, khiến người không chết chìm trong đám rừng chữ nghĩa vô tri ấy. Vua Trần Nhân Tông đã được Thượng sĩ khơi đúng mạch nguồn Phật pháp đó, và Ngài tiếp nhận đúng lúc, lấy đó làm cửa mở vào Thiền.


II. CON ĐƯỜNG XUẤT THẾ:

Sau hai lần lãnh đạo dân quân Đại Việt đánh thắng giặc Mông, năm 1293 Ngài nhường ngôi cho Anh Tông, lên làm Thái Thượng Hoàng và chuẩn bị con đường xuất thế cho mình. Bước đầu Ngài ở Vũ Lâm như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư ghi lại: “Bấy giờ Thượng hoàng ngự đi Vũ Lâm dạo chơi hang đá. Cửa núi đá hẹp,Thượng hoàng đi chiếc thuyền nhỏ, Thái hậu Tuyên Từ ở đằng đuôi thuyền, gọi Văn Túc Vương lên đằng mũi thuyền. Chỉ cho môt phu chèo thuyền mà thôi. Kịp đến khi Thượng hoàng xuất gia, khi Thượng hoàng sắp ra đi, bèn mời Đạo Tải vào điện Dưỡng Đức, cung Thánh Từ ban cho ngồi ăn đồ biển, làm thơ rằng :

Chân rùa bóc đỏ mọng,

Yên ngựa nướng vàng thơm. 

Sơn Tăng giữ giới sạch,

Cùng ngồi chẳng cùng ăn.

        ( Hồng thấp bác quy cước,

Hoàng hương chá mã yên.

Sơn Tăng trì tịnh giới,

Đồng tọa bất đồng san ).

                   ( Trích Toàn Tập Trần Nhân Tông )

Lúc này vua đã ăn chay, giữ tịnh giới, chuẩn bị cho bước xuất gia sắp tới.

Đến tháng 7 năm 1299, Ngài cho xây dựng một am thiền trên núi Yên Tử gọi là Ngự Dược Am, và theo Thánh Đăng Lục thì qua tháng 10 năm ấy vua mới thực sự lên núi Yên Tử xuất gia tu hành, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thiền Tông Bản Hạnh ghi:


“Kỷ Hợi Nhân Tông ra ngoài,

Quyết lên Yên Tử  tu chùa Hoa Yên.

Quần thần nghĩa sĩ dưới trên,

Đưa vua tu đạo thoát duyên phàm trần.

Đến chùa Long Động mới phân,

Tất trừ phiền não ái ân phát nguyền.

Nhân Tông khắn khắn lòng tin,

Thành tâm trai giới bước lên chiền già.

Cung tần thể nữ trở ra,

Người về phối thất, kẻ ra Kinh kỳ.

Mặc ai ra chợ về quê,

Canh nông buôn bán làm chi mặc lòng”.


Tức là lúc này quần thần, quyến thuộc  tiễn đưa Nhân Tông vào núi Yên Tử xuất gia tu hành, đến chùa Long Động mới chia tay. Với cung nữ, Ngài cho tự do về quê lập gia đình hoặc làm gì tùy ý, dứt khoát buông xả hết không coi là của mình. Đây mới thật sự cắt đứt ân ái, xuất gia hành đạo. Do đó có câu chuyện suối Giải Oan và làng Nường, làng Mụ.


Rày trẫm đầu Phật xuất gia,

Trăm đường rũ hết lòng hòa tiếc chi.

Chị hầu, bà mụ, cung phi,

Mộ đạo chẳng về cảm đức ở đây.

Lòng vua thấy vậy thương thay,

Phán rằng cho ở một nơi lâm tuyền.

Cho nên tích để lưu truyền :

Làng Nàng, Làng Mụ, phúc duyên đã chầy”.

                               ( Thiền Tông Bản Hạnh )

 

III. TU HÀNH Ở YÊN TỬ:

Vào Yên Tử Ngài quyết tâm sống đời xuất gia giải thoát, từ bỏ những hưởng thụ của thế gian, thực hành 12 hạnh Đầu-đà, tức sống khổ hạnh, đạm bạc, lấy hiệu là Hương Vân Đại Đầu-đà, sau đổi là Trúc Lâm Đầu-đà. Tên Trúc Lâm này cũng là hiệu của Quốc Sư Trúc Lâm-Viên Chứng, một bậc Thiền Tổ của Yên Tử đã khai thị cho vua Trần Thái Tông “Trong núi vốn không có Phật, Phật ở trong tâm ta. Tâm lặng mà biết đó chính là tâm Phật. Nếu bệ hạ giác ngộ được tâm ấy thì tức khắc thành Phật ngay tại chỗ, không cần đi tìm cực khổ ở bên ngoài”. (Lời tựa Thiền Tông Chỉ Nam).

Một ông vua anh minh, tiếng tăm vang dội, lại sống cuộc đời đạm bạc đến mức tối đa nơi rừng núi, thì phải biết lòng mộ đạo của Ngài rất chân thành. Trong bài Đắc Thú Lâm Tuyền Thành Đạo Ca, một bản văn bằng chữ Nôm, Ngài đã bộc lộ: 

Công danh chẳng trọng,

Phú quý chẳng màng.

Tần Hán xưa kia,

Xem đà nhèn hạ.

Yên bề phận khó,

Kiếm chốn dưỡng thân.

Khuất tịch non cao,

Náu mình sơn dã

Vượn mừng hủ hỷ

Làm bạn cùng ta.

Vắng vẻ ngàn kia

Thân lòng hỷ xả.

   Rồi

             Dốc chí tu hành,

             Giấy sồi vó vá

   Và

           Thân này chẳng quản,

           Bữa đói, bữa no.


Ngài sẵn sàng từ bỏ công danh phú quý, sống ẩn mình nơi vắng vẻ, buông bỏ tình chấp nơi thân tâm, ăn mặc đơn sơ, đói no chẳng quản, tức quên NGÃ mà hành đạo. Do đó mới có được cái vui đến chỗ thành đạo, chứng ngộ thật sự, nếm được pháp vị rõ ràng, không phải chỉ tu trên hình thức, hoặc kiến giải suông trên chữ nghĩa, lý luận. Quả là một HÀNH GIẢ đúng nghĩa!


 Niềm lòng vằng vặc

 Giác tính quang quang 

 Chẳng còn bỉ thử

 Tranh nhân chấp ngã.


IV. PHÁT MINH TRÍ TUỆ VÔ SƯ:

Chính bằng công phu chân thật hành Thiền, ngài đã thể nhập chân Thiền, mở sáng “trí tuệ vô sư”, thế gian khó bì kịp. Trong bài Xuân Vãn, Ngài đã bày tỏ:


Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,

Nhất xuân tâm sự bách hoa trung.

Như kim khám phá Đông hoàng diện,

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.


         ***              

Thuở bé đâu từng rõ sắc không,

Xuân về rộn rã nức trong lòng.

Chúa xuân nay bị ta khám phá,

Ngồi lặng nhìn xem rụng cánh hồng.

Lúc chưa hiểu đạo, còn bị ngoại cảnh chi phối, nên mỗi độ xuân về lòng Ngài cũng bị động theo cảnh xuân, không làm chủ được. Nhưng bây giờ, Ngài đã nhận ra Chúa xuân tức là ông chủ chân thật muôn đời, hay nói theo nhà Thiền là “Bộ mặt thật xưa nay” của chính mình, là con người bất sinh bất diệt từ vô thủy. Giờ đây Ngài có thể giải đáp chính xác cho câu hỏi: “Cái gì là ta?”, không còn nghi ngờ, cuộc sống bây giờ mới thật sự có chủ. Điều này chứng tỏ Ngài xuất gia là thực tu, thực ngộ, xứng đáng là bậc Thiên Nhân Sư, thầy của trời người.


V.SÁNG LẬP THIỀN PHÁI TRÚC LÂM :

Bằng sự chứng ngộ Thiền lý sâu xa, Ngài dùng ánh sáng chân thật đó, dung hợp ba dòng thiền đã có trước đó thành dòng Thiền Trúc Lâm, mở ra phong trào học Phật mới.

Lấy tông chỉ Thiền Tông “Giáo Ngoại Biệt Truyền, Bất Lập Văn Tự, Trực Chỉ Nhân Tâm, Kiến Tánh Thành Phật” làm chủ đạo, Ngài linh động kết hợp giảng kinh thuyết pháp, giúp cho người học Phật hiểu sâu kinh điển, chuyển những lời kinh chết trong sách vỡ thành những bài kinh sống nơi người, chứng minh cho Tâm Thiền sáng ngời không có gì sai khác. Kinh đâu có lỗi gì? Lỗi do người chấp kinh. Thiền đâu có gì sai khác? Sai do người phân biệt. Kinh từ miệng Phật nói, Thiền là tâm Phật vốn chẳng phải là hai! Chính tinh thần đó, các thiền viện của hệ Trúc Lâm do Hòa thượng Thiền sư Thầy chúng tôi đang hướng dẫn, vẫn đang ứng dụng. 

Bởi người tu Thiền đã sáng tâm thì đọc kinh sẽ hiểu rõ ý nghĩa sâu xa ngoài câu lời, do đó càng giảng linh động sáng tạo, giúp người nghe dễ thâm nhập hơn. Bởi vậy, Thiền sư Pháp Loa giảng nhiều lần kinh Hoa Nghiêm, bộ kinh thuộc giáo lý viên đốn cao siêu, mà người đến nghe rất đông, cũng nói lên trình độ của người học Phật thời đó rất cao. Như pháp hội giảng kinh năm 1322 tại chùa Báo Ân có trên 1000 người đi nghe. Buổi giảng nào ít người cũng có khoảng năm, sáu trăm người.

Xét kỹ, tông chỉ Thiền tông rất thực tế và gần gũi với con người, lấy “Chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”, nhằm đánh thức mỗi người tự sống vươn lên. Vì tâm mình mà mình không biết, vậy lo biết cái gì ở đâu xa ? Thành Phật là thành ngay trong tâm tánh mình đây thôi, không phải thành ở trên núi cao, trên cõi trời xa xôi, chỉ cần mình xoay lại chính mình, thì ngay đó là bờ mé :“Hồi đầu thị ngạn”.Đó là lấy con người làm gốc, là tôn trọng con người, nâng cao giá trị con người, cũng là lý bình đẳng với tất cả, vậy sao không khai thác ?

Đúng là thiền tông chỉ thẳng “Ngay đây, lúc này, người này thôi”, rất hiện thực không có gì xa xôi, mập mờ hẹn lại kiếp nào khác. Như lời khai thị của Trúc Lâm Điều Ngự trong buổi đại tham ngày 9 tháng giêng nhuận năm Bính Ngọ 1306 tại liêu Kỳ Lân :“Ngày tháng dễ trôi qua, mạng người không chờ đợi, sao cam ăn cháo, ăn cơm mà không rõ việc bát, việc muỗng ?” .

Nghĩa là mình sống hằng ngày cầm muỗng, cầm thìa, ăn cơm, ăn cháo nhưng tại sao lại không biết cái gì đang hiện hữu trong đó ? Chỉ lo nhớ bát, đũa, cơm, cháo mà quên mất nguồn sống phát ra những việc đó ! Thiền tông nhắc nhở đánh thức người mê khiến tỉnh ngộ trở lại chỗ này ! Chính đó là mạch sống của Phật pháp. Cho nên dù trải qua bao cuộc thăng trầm của lịch sử, nhưng ý Thiền vẫn không mất, vì còn có con người, còn có tâm thì còn có Thiền ! Kinh sách, ngữ lục có thể đốt cháy hư hoại, nhưng cái này làm sao đốt ? Làm sao hoại ? Đây cũng chính là linh hồn của Yên Tử vậy. Bằng chứng là những tác phẩm tinh yếu về Thiền của Trúc Lâm Điều Ngự như : Thiền Lâm Thiết Chủy Ngữ Lục, Thạch Thất Mỵ Ngữ ngày nay không còn, song tinh thần Thiền của Ngài vẫn còn đây, sức sống này vẫn đang trỗi dậy !


“Yên Tử non cao          Trúc Lâm Diều Ngư

 Chư Tổ Mồi Đèn        Nối đuốc 

 Truyền Tâm An        Lập Tông Phong


VI. DÒNG TRUYỀN YÊN TỬ :

1. Đối với Thiền phái Trúc Lâm thì Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông là đệ nhất Tổ, nhưng tính theo hệ thống truyền thừa của Yên Tử phải kể từ Thiền sư Hiện Quang là Tổ ban đầu. Sư là người khai sơn chùa Vân Yên, sau đổi thành Hoa Yên như ngày nay. Vốn là đệ tử của Thiền sư Thường Chiếu, dòng Vô Ngôn Thông, nhưng tỏ ngộ nơi Thiền sư Trí Thông chùa Thánh Quả.

2. Thiền sư Viên Chứng, cũng gọi là Quốc Sư Trúc Lâm, người đã từng đón tiếp vua Trần Thái Tông tìm lên Yên Tử năm 1236.

3. Quốc sư Đại Đăng, người đã tiếp nhận thêm dòng thiền Lâm Tế từ Thiền sư Thiên Phong người Trung Hoa tại Kinh đô Thăng Long và là thầy của vua Trần Thánh Tông .

4. Thiền sư Tiêu Dao, là thầy của Thượng Sĩ Tuệ Trung, cũng gọi Đại Sư Phúc Đường, vì Sư ở Tinh Xá Phúc Đường mà Thượng Sĩ Tuệ Trung có bài thơ tựa “Thượng Phúc Đường Tiêu Dao Thiền Sư”.

5. Thiền sư Huệ Tuệ, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang cho là Sư vốn làm Hòa thượng Đường đầu truyền giới pháp cho vua Trần Nhân Tông khi vua xuất gia.

6. Trúc Lâm Đại Đầu đà-Trần Nhân Tông, theo hệ thống truyền thừa của Yên Tử, Ngài thuộc hàng thứ 6, nhưng là người khai sáng ra dòng Thiền Trúc Lâm của Đại Việt nên là Sơ Tổ.

Theo sách Đại Nam Thiền  Uyển Truyền Đăng Tập Lục của Hòa Thượng Phúc Điền, hệ thống truyền thừa  của Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử được tiếp nối qua các vị sau :

7. Tổ Sư Pháp Loa.

8. Tổ Sư Huyền Quang .

9. Quốc Sư An Tâm.

10. Quốc Sư Phù Vân.  ( Hiệu Tĩnh Lự )  

11. Quốc Sư Vô Trước.

12. Quốc Sư Quốc Nhất.

13. Tổ Sư Viên Minh.

14. Tổ Sư Đạo Huệ.

15. Tổ Sư Viên Ngộ.

16. Quốc Sư Tổng Trì.

17. Quốc Sư Khuê Thám.

18. Quốc Sư Sơn Đằng.

19.Đại Sư Hương Sơn.

20. Quốc Sư Trí Dung.

21. Tổ Sư Tuệ Quang.

22. Tổ Sư Chân Trú.

23. Đại Sư Vô Phiền.

Danh sách này được Thiền sư Tuệ Nhãn lược dẫn trong phần đầu của bia ký tháp Giao Quang thờ Thiền sư Tính Đường hiệu Tuệ Cự ngay bên phải cổng Chùa Lân-Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử :“Núi Yên Tử từ Sơ Tổ Hiện Quang đến Trúc Lâm Viên Chứng trải qua tới Trần triều Tam Tổ, lần lượt tiếp nối nhau, danh chép truyền đăng phần nhiều khó nêu ra hết. Trong lý ẩn hiện đến Tổ Sư Tuệ Quang trung hưng rộng lớn, Phật pháp thịnh hành, danh lam thánh  cảnh, Tuệ Nguyệt sáng mãi, Tuệ Đăng chiếu khắp cho đến Tuệ Cự…”

Trong đây ghi rõ Thiền sư Hiện Quang là Sơ Tổ của Yên Tử, Quốc Sư Trúc Lâm hiệu Viên Chứng rõ ràng, Tổ Sư Tuệ Quang trung hưng Yên Tử, Thiền sư Tuệ Nguyệt thầy của Thiền sư Chân Nguyên tiếp sáng luôn và Thiền sư Tuệ Đăng tức Ngài Chân Nguyên hiện còn tháp đá tôn thờ ở sau nhà Tổ của Thiền viện làm cho dòng Thiền chiếu khắp. 

Cứ theo danh sách này, sau Tổ Sư Huyền Quang có tới 8 vị  Quốc Sư, thì biết rằng dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử vẫn được truyền thừa luôn chớ không phải chìm mất. Về đời thứ ba Thiền Phái Trúc Lâm, ngoài Tam Tổ Huyền Quang, theo bia tháp Viên Thông thờ Tổ Sư Pháp Loa ở Thanh Mai, phần cuối có kể ra hai vị tiếp nối đời thứ ba là Tông Huyền và Kim Sơn, nguyên văn : “Trúc Lâm Đệ Tam Đại Tự Pháp Trụ Trì Tông Huyền, Kim Sơn tấu tuyên”.

Tuy nhiên danh sách tên tuổi là phần biểu hiện bên ngoài, chính “tâm thiền” mới là mạch sống thật. Dù ẩn, dù hiện, dù thăng dù trầm hễ còn có người tỏ sáng được tâm Thiền, là còn tiếp nối được mạch sống  Tổ Tông.

VI. CHỨNG NGỘ THIỀN LÝ, LÀM CHỦ SINH TỬ :

Đối với đạo Phật nói chung, và Thiền tông nói riêng, luôn nhấn mạnh phải hiểu và hành tương ứng, nên có câu : “ Hạnh giải tương ưng danh vi viết Tổ” . Vậy “Tổ” không phải ở cái tên, ở danh xưng, mà phải thực sự tỏ hiểu và chứng nghiệm chân Thiền ngay nội tâm mình. Đệ nhất Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà đã hội đủ hai điều đó. Về trí tuệ tỏ hiểu Thiền tông của Ngài rất sâu. Như đoạn Tăng hỏi :

- Khi muôn dặm mưa tạnh thì thế nào ?

Ngài đáp :

- Mưa tầm tã.

Hỏi :

- Khi muôn dặm mây che kín thì thế nào ?

Đáp :

- Trăng vằng vặc.

Đã là “Muôn dặm mưa tạnh” tức trời trong không vết mây che thì sao ông còn động niệm khởi hỏi ? Đó tức là mưa tầm tã rồi chứ gì . Còn “Muôn dặm mây che kín”, thì sao ông còn có thể biết hỏi được đây ? Vậy là nó vẫn sáng tỏ rõ ràng, ông lại chẳng ngộ ! Nên Ngài đáp : “Trăng vằng vặc”. Đây là Ngài ứng dụng theo tinh thần Lục Tổ dạy về 36 phép đối rất là tuyệt diệu . Lục Tổ dạy : “ Nếu có người hỏi nghĩa với ông, hỏi Có thì đem Không đáp, hỏi Không thì đem Có đáp, hỏi Phàm thì đem Thánh đáp, hỏi Thánh thì đem Phàm đáp, hai đường làm nhân cho nhau, sanh nghĩa trung đạo”. Thì ở đây hỏi mưa tạnh, Ngài đáp “ mưa tầm tã” ; hỏi mây che kín, Ngài đáp “ trăng vằng vặc”, nếu không phải bậc đã sáng tâm khó nói được quá khéo như vậy. Chính hiện nay nhiều người nghiên cứu về Ngài cũng chưa hiểu hết được Ngài, đôi khi lại hiểu theo thức tình suy tư của mình thành nghiêng lệch. Bởi đối với nhà Thiền : “Thấy  thì thẳng đó liền thấy, suy nghĩ liền sai” và “Ông vừa cúi đầu trầm ngâm là đã đi xa ngoài ba ngàn dặm rồi”.Sử Thiền sư Pháp Loa kể lại, một hôm Sư trình cả ba bài tụng cho Điều Ngự, đều bị Ngài gạt bỏ hết. Sư thưa thỉnh mấy phen, Điều Ngự dạy phải tự tham. Sư vào phòng đầu óc nặng trĩu, thức đến quá nửa đêm, trông thấy bông đèn tàn rụng xuống, chợt đại ngộ. Đến đây đem trình Điều Ngự mới được ấn chứng. 

Chúng ta nên nhớ, trước đó Sư đã qua hai lần tỏ sáng : một lần nhân đọc kinh Hải Nhãn ( có thể kinh Lăng Nghiêm ) đến bảy chỗ hỏi tâm và đoạn thí dụ khách trần mà có tỉnh ; lần khác, lúc Điều Ngự thượng đường, Sư ra thưa hỏi liền được tỉnh. Vậy mà đến lúc trình kệ này vẫn chưa được ấn chứng. Vì có ý làm kệ trình ra kiến giải thế này thế nọ, cũng là cái vay mượn từ bên ngoài, chưa phải của báu nhà mình. Cho nên Điều Ngự dạy phải quay lại tự tham cứu, đến khi thấy bông đèn tàn rụng mới chợt đại ngộ, không qua ý thức suy nghĩ. Cũng cho thấy, trí tuệ của Điều Ngự là siêu việt như thế nào, và cách huấn luyện để tìm người kế thừa của Ngài quả là rất kỹ. Đúng như lời Cổ Đức nói : “Nguồn sâu thì dòng dài”, do đó mà mạch sống ấy đến ngày nay vẫn truyền bất tuyệt.     

Rồi đến khi sắp tịch, tức đến lúc cận kề bờ sinh tử, càng cho thấy sức sống thiền nơi Ngài quá vững chãi : 

“Giữa đêm mồng 1 tháng 11 năm 1308, Ngài hỏi Bảo Sát :

- Hiện giờ là giờ gì?

Bảo Sát bạch :

- Giờ Tý.

Ngài lấy tay vén màn cửa sổ nhìn xem, nói :

- Đến giờ ta đi.

Bảo Sát hỏi :

- Tôn đức đi đâu ?

Ngài nói kệ đáp :

 Tất cả pháp chẳng sinh

Tất cả pháp chẳng diệt.

Nếu hay hiểu như thế

Chư Phật thường hiện tiền

Nào có đến đi gì.

          ***

(Nhất thiết pháp bất sinh

Nhất thiết pháp bất diệt

Nhược năng như thị giải

Chư Phật thường hiện tiền.

Hà khứ lai chi hữu dã).

Bảo Sát hỏi :

- Chỉ như khi chẳng sinh chẳng diệt là thế nào ?

Ngài liền nhằm ngay miệng Bảo Sát tát cho một cái, bảo :

- Chớ nói mớ.

Nói xong, Ngài nằm nghiêng bên phải như sư tử, lặng lẽ mà tịch”.

Như vậy, với Ngài không thấy có chết, có sống, sống chết chỉ là cái hình hài giả tạm này thôi, còn chính Ngài chưa từng có sống chết, đến đi. Chỗ này con mắt phàm tình thế gian làm sao thấy được, hiểu được ? Nếu Ngài không có thực tu, thực chứng, thực hành công phu sâu thì khó được như vậy.

Lại nguyên là một vị hoàng đế tiếng tăm vang lừng như thế, mà khi tịch sẵn sàng tịch nơi vắng vẻ với vị thị giả bên cạnh và di chúc hoả thiêu ngay, không đợi người đến làm lễ to cho nổi tiếng, không vì danh. Tuy nhiên nhân quả vẫn theo nhau, khi vua Anh Tông thỉnh xá lợi về kinh “ lúc làm lễ sắp đưa linh cửu về chôn ở lăng Quy Đức, giờ đã đến mà quan liêu, dân chúng đứng chật khắp cung điện. Tể tướng cầm roi xua đuổi, rốt cuộc không thể mở đường. Vua cho gọi Chi hầu chánh chưởng Trịnh Trọng Tử đến bảo :

- Linh cữu sắp đưa đi mà dân chúng đầy nghẽn như thế thì làm thế nào ? Trọng Tử lập tức đến đền Thiên Trì gọi quân Hải Khẩu và Hổ Dực ( quân của Trọng Tử trông coi ) đến ngồi la liệt trong thềm, sai hát mấy câu Khúc Long Ngâm. Mọi người ngạc nhiên kéo nhau đến xem, cung điện mới giản người, bèn rước về lăng Quy Đức”. ( Trích Toàn Tập Trần Nhân Tông ).

Cho thấy lòng người quá mến mộ Ngài. Quả lành không cầu mà tự đến !


VII. TÓM KẾT :

Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông, một con người quá nổi bật ở nhiều mặt, một nhân cách quá sáng ngời : Nói về lãnh đạo, là một nhà lãnh đạo tài ba, về chính trị là một nhà chính trị xuất chúng, về văn hóa là nhà văn hóa lớn, về tôn giáo là nhà tôn giáo tuyệt vời….Do đó, để nhận định về Ngài, chúng ta khó có thể nhận định toàn vẹn được, nếu đứng trên một chủ kiến, một khía cạnh. Và hơn thế nữa, Ngài lại là hành giả trong pháp xuất thế, một bậc Tổ sư của nhà Thiền thì càng không thể lấy theo ý thức tư duy bình thường mà hiểu được Ngài, phải là người trong cuộc với nhau mới thấu hiểu được nhau, như kinh Pháp Hoa nói :“Chỉ Phật với Phật mới biết”.

Yên Tử được gắn liền với tên tuổi của Ngài, với dòng Thiền do Ngài mở lối, là một đại nhân duyên không phải tầm thường cần được tôn trọng và phải tôn trọng.

Phật giáo nói chung, con đường Thiền nói riêng, là con đường luôn sáng tạo, phù hợp với tinh thần phát triển ở các thời đại. Câu nói nổi tiếng trong nhà Thiền là “Thấy bằng thầy là kém thầy nửa đức, thấy vượt hơn thầy mới kham nhận truyền trao”, không cho đứng dừng một chỗ hay chặn đứng bước tiến của người.

Tóm lại, Trúc Lâm Điều Ngự-Trần Nhân Tông là bậc tôn kính đối với tất cả con cháu chúng ta, và tinh thần của Ngài cần được phát huy đúng mức, nhắc nhỡ cho con em chúng ta và con cháu mai sau phải luôn nhớ cội nguồn, phải biết trân quí, giữ gìn gia sản quí báu của Tổ tiên, chính đó là nền tảng xây dựng đất nước vững bền. 

TT.Thích Thông Phương



 

Giới thiệu

adv3

Video giới thiệu

Tập:
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 7
  • 8
  • 9
  • 10
  • 11
  • 12
  • 13
  • 14
  • 15
  • 16
  • 17
  • 18
  • 19
  • 20
  • 21
  • 22
  • 23
  • 24
  • 25
  • 26
  • 27
  • 28
  • 29
  • 30
  • 31
  • 32
  • 33
  • 34
  • 35

Tìm kiếm

Đọc nhiều

Ảnh đẹp

Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp
Ảnh đẹp

Lịch

Thống kê truy cập

  • Lượt truy cập: 96160
  • Online: 9